
- 1 -
A.ĐT VN Đ:
Thể dục thể thao là một bộ phận của nền văn hóa chung là một sự tổng hợp
những thành tựu xã hội trong sự nghiệp sáng tạo và sử dụng những biện pháp
chuyên môn để điều khiển sự phát triển thể chất con người một cách có chủ định,
nhằm nâng cao sức khỏe, kéo dài tuổi thọ. Thể dục thể thao ra đời và phát triển
theo sự phát triển của xã hội loài người.
Thể dục thể thao là ngành mang tính khoa học nghệ thuật, là một bộ phận tất
yếu của nền văn hóa nghệ thuật, là một bộ phận không thể thiếu trong nền văn hóa
của mỗi dân tộc, cũng như nền văn hóa của nhân loại. Thể dục thể thao không
ngừng nâng cao sức khỏe, phục vụ sản xuất, bảo vệ tổ quốc, càng góp phần xây
dựng cuộc sống lành mạnh, mang lại nét đẹp cho thẩm mỹ và cho nhân loại.
Các hoạt động thể dục thể thao không những là hình thức duy trì nâng cao
phẩm chất năng lực, giữ gìn sức khỏe mà còn là niềm say mê, niềm tự hào và cổ vũ
to lớn cho nhân dân lao động. Trong giai đoạn kinh tế của đất nước đang trên đà
phát triển, thể thao là một bộ phận không thể tách rời của công cuộc đổi mới, nên
nó được phát triển mạnh mẽ, được giao lưu cọ sát với nền thể thao của nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới, không ngừng kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những
thành tựu khoa học kỹ thuật của nền thể thao nhân loại.
Nhờ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước mà ngành thể dục thể thao nói chung
và nền kinh tế nói riêng đã đạt được thành tích đáng khích lệ trong các kỳ tranh tài
trên đấu trường quốc tế. Mặc dù những thành tích đó còn khiêm tốn nhưng cũng là
một tín hiệu đáng mừng và khẳng định được bước phát triển của nền thể thao nước
nhà.
Điền kinh ở nước ta có quá trình phát triển lâu đời, nó được nhân dân ta tập
luyện để tăng cường sức khỏe, tham gia lao động sản xuất và chống ngoại xâm.
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục sức khỏe cho nhân dân, thực
hiện theo lời Bác Hồ “ Dân cường thì nước thịnh ”. Với phương châm “ Khỏe để
xây dựng và bảo vệ tổ quốc ”, vì thế môn điền kinh đã trở thành nội dung chính
trong các trường phổ thông về giáo dục thể chất, nâng cao tinh thần cho học sinh và
là tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho các tầng lớp nhân dân, từ đó phát hiện và bồi
dưỡng nhân tài.
Trong những năm gần đây giáo dục thể chất trong nhà trường ở cấp THCS
đã và ngày càng được chú trọng hơn rất nhiều, các câu lạc bộ thể dục thể thao,
ngoại khóa trong trường học ngày càng được phát triển nhằm tạo ra sân chơi lành
mạnh nên được các em cũng nhưng các bậc phụ huynh hưởng ứng. Chính vì vậy
mà thể chất được cải thiện lên rất nhiều.
Chương trình giáo dục thể chất trong nhà trường THCS hiện nay là điền
kinh. Mỗi một nội dung học tập có tác động làm cho sự thay đổi khác nhau đến
từng bộ phận cơ thể học sinh. Từ đó dẫn đến sự thay đổi hay nói đúng hơn là sự
phát triển các tố chất thể lực cho học sinh. Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy, trang
thiết bị và điều kiện sân bãi phục vụ cho việc giảng dạy và học tập chưa đáp ứng tốt
nhu cầu nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong nhà trường. Do đó công tác

- 2 -
tham gia thi đấu các môn thể thao nói chung và điền kinh nói riêng, thành tích đạt
được rất khiêm tốn.
Hiện nay ngành giáo dục và đào tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong hoạt động
học tập nhằm phù hợp với xu thế của thời đại. Đồng thời tiếp tục thực hiện “ Năm
học thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới quản lí tài chính và triển khai
phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực ” và “ Năm học đổi
mới công tác quản lí và nâng cao chất lượng giáo dục”. Vấn đề này đã đặt ra yêu
cầu cấp thiết đối với giáo viên giảng dạy môn Thể dục cấp THCS là chất lượng bộ
môn ngày càng được nâng cao. Nhận thức được điều đó tôi mạnh dạn đưa ra một số
sáng kiến nhỏ trong việc nâng cao thành tích nhảy cao kiểu bước qua cho học sinh
nam khối lớp 8 cấp Trung Học Cơ Sở, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn thể
dục trong nhà trường THCS.
Muốn giải quyết các vấn đề nêu trên để nâng cao thành tích và áp dụng các
bài tập bổ trợ vào thực tế giảng dạy môn Điền kinh và nội dung nhảy cao là hết sức
quan trọng, rất có giá trị và cần thiết trong giai đoạn hiện nay đó là một công việc
hết sức khó khăn. Với tầm quan trọng trên tôi đã chọn đề tài: “ Một số bài tập bổ
trợ nhằm nâng cao thành tích nhảy cao kiểu bước qua cho học sinh nam khối 8
Trường THCS Trần Quang Khải – Ninh Hòa – Khánh Hòa ”.
B. GII QUYT VN Đ:
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
1. Kỹ thuật nhảy cao kiểu "Bước qua":
Kỹ thuật nhảy cao gồm 4 giai đoạn: Chạy đà – Giậm nhảy – Trên không –
Rơi xuống đất.
a.Kỹ thuật chạy đà:
- Kỹ thuật chạy đà 5 – 7 – 9 – 11 bước tùy theo mức xà cao hay thấp và khả
năng của mỗi người.
- Các bước đà chia làm hai phần : Một số bước đà đầu và ba bước đà cuối.
- Ở những bước đà đầu cần chạy tăng tốc độ và chuẩn bị cho thực hiện các
bước đà cuối được thuận lợi.
+ Bước thứ nhất : Bước chân giậm nhảy ra trước nhanh hơn các bước trước
đó và đặt gót bàn chân chạm đất.
+ Bước thứ hai : Bước chân lăng ra trước và bước dài nhất trong ba bước đà
cuối. Chân chạm đất phía trước bằng gót bàn chân, sau đó hơi miết cổ chân xuống
đất. Việc duy trì tốc độ đạt được lúc này rất quan trọng, vì vậy cần giữ thân cho
thẳng , không được ngả vai ra sau trước khi kết thúc thời kỳ chống đỡ.
+ Bước thứ ba : Đây là bước đà đưa chân giậm nhảy vào điểm (hoặc khu
vực) giậm nhảy và có độ dài ngắn nhất trong ba bước đà cuối. Bước này cần đưa rất
nhanh vùng hông và chân giậm ra trước chạm đất bằng gót bàn chân, sao cho trọng
tâm cơ thể cách xa phía sau gót chân giậm nhảy. Chân lúc này thẳng từ gót đến
hông, thân trên hơi ngả ra sau, hai tay co ở phía sau để chuẩn bị phối hợp khi giậm

- 3 -
nhảy. Cần chú ý: Không phải thân trên chủ động ngả ra sau, mà chủ yếu do đưa
nhanh vùng hông và chân giậm nhảy ra trước tạo nên.
b. Kỹ thuật giậm nhảy:
- Đây là giai đoạn quan trọng nhất trong nhảy cao. Giậm nhảy cần mạnh,
nhanh, phối hợp ăn nhịp giữa chân và tay, giữa chạy đà và giậm nhảy.
- Theo luật thi nhảy cao, vận động viên phải nhảy từ mức xà nhất định đến cao
nhất theo khả năng của mình. Mức xà càng cao, điểm giậm nhảy càng cần nhích xa
xà hơn, do đó vận động viên phải biết điều chỉnh đà cho hợp lý.
- Chạy đà – giậm nhảy tốt, nhưng nếu đỉnh cao đạt được không trùng với đỉnh
cao của xà ngang củng dễ làm rơi xà. Ví dụ một học sinh nhảy ba lần đều đạt được
độ cao như nhau, nhưng lần một do điểm giậm nhảy xa quá, đỉnh cao đạt được ở
phía ngoài xa, lúc rơi xuống làm rơi xà. Lần nhảy hai, giậm nhảy gần xà quá, đỉnh
cao đạt được phía trong xà, nên cũng làm rơi xà. Lần nhảy ba, giậm nhảy ở điểm
giậm nhảy hợp lý, đỉnh cao đạt được trùng với đỉnh cao của xà, nên đã qua được xà.
- Góc độ giậm nhảy hợp lý kiểu “ Bước qua” đối với học sinh THCS khoảng
900, góc độ bay khoảng 70-800.
c. Kỹ thuật trên không:
- Sau giậm nhảy, khi chuẩn bị qua xà cần gập thân ra trước, không được để
thân thẳng đứng hoặc ngả ra sau, vì như vậy sẽ bị “tụt mông”, nghĩa là không nâng
được mông lên cao, dễ làm rơi xà.
- Chân đá lăng và tay cùng bên qua xà trước. Khi chân lăng qua xà cần duỗi
thẳng và thực hiện động tác hết sức khéo léo để không làm rơi xà.
- Khi chân giậm nhảy chuẩn bị qua xà cần đá thẳng chận mạnh lên cao phối
hợp với tay cùng bên khéo léo không để vướng xà.
- Ở giai đoạn trên không có nhiều kiểu nhảy cao khác nhau căn cứ vào đường
đi của trọng tâm cơ thể trong không gian. Trọng tâm cơ thể nằm khoảng giữa rốn
và đốt sống thắt lưng.
d. Kỹ thuật rơi xuống đất:
- Chân lăng tiếp đất trước, sau đó đến chân giậâm nhảy. Khi chân bắt đầu
chạm đất, cần dùng chân để giảm chấn động.
- Khi tiếp đất vẫn cần chú ý động tác của tay và thân trên cho khéo để không
chạm xà.
2. Phương pháp giảng dạy kỹ thuật nhảy cao kiểu bước qua:
Cần sử dụng các biện pháp chính sau đây để giải quyết các nhiệm vụ trong
nhảy cao.
Nhiệm vụ 1: Xây dựng khái niệm kỹ thuật thông qua các biện pháp sau:
- Giới thiệu, phân tích và làm mẫu kỹ thuật
- Cho xem phim, ảnh, mô hình kỹ thuật.
- Cho người tập nhảy tự do để xác định chân giậm nhảy và nắm đặc điểm của
từng người.
Nhiệm vụ 2: Dạy kỹ thuật giậm nhảy thông qua các biện pháp sau:
- Phân tích và làm mẫu kỹ thuật.

- 4 -
- Tại chỗ tập đặt chân vào điểm giậm nhảy (chú ý cả tư thế chân lăng, thân
người và tay)
- Vịn tay phải chân giậm vào thang gióng (hoặc vật cố định) tập đặt chân, giậm
nhảy và đá lăng.
- Đi bộ, chạy chậm 2-3 bước tập phối hợp giậm nhảy đá lăng.
- Chạy đà ngắn (3-5 bước) giậm nhảy đá lăng lên vật chuẩn .
- Chạy đà chính diện (3 bước) giậm nhảy đá lăng qua xà thấp
Nhiệm vụ 3: Dạy kết hợp chạy đà và kết hợp giậm nhảy thông qua những
biện pháp sau:
- Chạy đà 3 bước (chính diện) phối hợp giậm nhảy chân đá lăng thẳng qua
xà thấp, khi qua xa chân giậm nhảy co.
- Nâng xà cao dần, 5cm một lần nâng.
- Chạy đà 3-5 bước đà chếch, giậm nhảy đá lăng dọc theo xà cao, rơi xuống
bằng chân giậm .
- Chạy đà 5-7 bước thực như bài tập trên.
Nhiệm vụ 4: Dạy kỹ thuật và qua xà và rơi xuống đất.
- Chạy đà 3 bước, giậm nhảy, đá lăng qua xà. Chân đá lăng gần như thẳng,
kéo theo chân giậm cũng gần như thẳng, qua xà và rơi xuống đất bằng chân lăng rồi
đến chân giậm.
- Chạy 3 bước đà chếch, giậm nhảy xoay hông rồi kết hợp với thân người rơi
xuống bằng chân lăng rồi đến chân giậm.
- Chạy 3 bước đà chếch giậm nhảy qua xà xoay thân rơi xuống đất bằng chân
lăng và chân giậm, xốc vai đánh tay lên cao, hai tay co ở khớp khuỷu.
- Nhảy qua xà với cự ly chạy đà và chiều cao đà tăng dần đến mức trung bình.
Nhiệm vụ 5: Hoàn thiện kỹ thuật thông qua các biện pháp sau:
- Nhảy qua xà với cự ly đà và chiều cao đà tăng dần.
- Nhảy qua xà với chiều dài đà và nhịp điệu ổn định, góc độ chạy đà thích hợp.
- Nhảy toàn đà với kỹ thuật hoàn chỉnh và nâng cao dần mức xà.
- Thi đấu và kiểm tra đánh giá kết quả.
3. Đặc điểm phát triển tố chất thể lực lứa tuổi 13-14:
* Tố chất mạnh :
Là khả năng con người sinh ra lực cơ học bằng nỗ lực của cơ bắp, nói cách
khác là khả năng sức mạnh khắc phục lực đối kháng bên ngoài hoặc đề kháng lại
nó bằng nổ lực của cơ bắp.
Cơ chế sinh lý của việc điều hoà sức mạnh cơ : Lực tối đa mà con người có
thể sản sinh ra một mặt phụ thuộc vào đặc tính sinh cơ của động tác. Mặt khác, phụ
thuộc vào mức độ hoạt động của từng nhóm cơ riêng biệt và sự phối hợp giữa
chúng. Cơ chế sinh lý của các động tác được thực hiện với lực đối kháng khác nhau
(trọng lượng). Đặc điểm cơ chế sinh lý của các bài tập so với lực đối kháng khác
nhau cho thấy : Muốn phát triển sức mạnh, thì nhất định phải tạo được sự căng cơ
tối đa. Nếu không thường xuyên tập luyện với mức căng cơ tương đối cao, thì sức

- 5 -
mạnh sẽ không được phát triển. Nếu tập luyện với mức căng cơ quá nhỏ, sẽ làm
giảm sút sức mạnh. Đối với những người không phải là vận động viên, sự giảm sút
sức mạnh xảy ra khi mức hoạt động của cơ bắp trong tập luyện nhỏ hơn sức mạnh
tối đa 20%. Mức căng cơ càng nhỏ, thì quá trình giảm sút sức mạnh và hiện tượng
teo cơ diễn ra càng nhanh.
Sự phát triển tố chất mạnh có liên quan đến sự phát dục của hệ thần kinh và
mức độ hình thành tổ chức xương cơ và dây chằng, tức là phụ thuộc vào bộ máy
vận động. Nhưng ở các bộ phận khác nhau của cơ thể sự phát triển tố chất mạnh
không giống nhau. Sức mạnh lưng bụng phát triển sớm. Học sinh tiểu học phát
triển nhanh sức mạnh tốc độ, sức mạnh tĩnh lực phát triển chậm, còn sức mạnh bột
phát sau 14 tuổi mới phát triển nhanh. Ngoài ra tỷ lệ sức mạnh giữa các nhóm cơ
thay đổi tuỳ theo lứa tuổi. Sức mạnh của các nhóm cơ duỗi thân mình, đùi, cơ co
bàn chân phát triển mạnh, trong khi các nhóm cơ như duỗi bàn tay, cẳng tay, cổ tay
. . . phát triển yếu hơn, do đó mỗi lứa tuổi lại có một tỷ lệ phân bổ sức mạnh giữa
các nhóm cơ đặc trưng của mình. Về nguyên tắc, sức mạnh của các cơ duỗi phát
triển nhanh hơn sức mạnh của các cơ co, các cơ hoạt động nhiều sẽ phát triển với
nhịp độ nhanh hơn. Sức mạnh cơ bắp phát triển với nhịp độ nhanh trong giai đoạn
từ 13 – 15 đến 16 – 17 tuổi. Các năm sau đó sức mạnh phát triển chậm lại (nếu
không có tập luyện đặc biệt). Tuy nhiên, do hiện tượng phát triển sớm một số nhóm
cơ có thể phát triển sức mạnh ngay từ 12 – 13 tuổi, đặc biệt là các nhóm cơ chân.
Do đó, cần phải sắp xếp hợp lý các bài tập phát triển sức mạnh; phát triển tốt nhất
là trong thời kỳ mẫn cảm sức mạnh. Các bài tập sức mạnh đó chỉ nhằm phát triển
thể lực toàn diện không nên dùng các bài tập sức mạnh chuyên môn.
Tóm lại: Việc phát triển tố chất mạnh cho thanh thiếu niên cần được chú ý ở
lứa tuổi 14 và được đẩy mạnh ở lứa tuổi 18 – tương ứng với thời gian hoàn thiện hệ
cơ quan vận động.
* Tố chất nhanh:
Sức nhanh được coi là tố chất thể lực quan trọng, là khả năng của con người
hoàn thành những hoạt động vận động trong khoảng thời gian ngắn nhất. Sức nhanh
có 3 hình thức biểu hiện chủ yếu : thời gian tiềm phục của phản ứng vận động, tốc độ
từng cử động riêng lẻ (khi lực cản bên ngoài bé), tần số động tác ... Chính vì vậy, chỉ
số để đánh giá sức nhanh rất phong phú. Những hình thức biểu hiện đơn giản của sức
nhanh tương đối độc lập với nhau, nhất là các chỉ số của thời gian phản ứng trong
nhiều trường hợp, những chỉ số ấy tương ứng với những chỉ số của tốc độ động tác.
Có thể phản ứng thì vô cùng mau lẹ và trái lại thì động tác thì tương đối chậm hoặc
ngược lại. Sự kết hợp 3 hình thức đã nêu trên xác định mọi trường hợp biểu hiện sức
nhanh.
Thời gian phản ứng có thể đo được từ 2 – 3 tuổi. Trong lứa tuổi này thời gian
đó vào khoảng 0,50 đến 0,90 giây. Song thời gian phản ứng biến đổi rất nhanh đến
5 – 7 tuổi giảm xuống còn 0,30 – 0,40 giây và đến 13 – 14 tuổi đã đạt mức xấp xỉ
người lớn (0,11 – 0,25 giây). Sự phát triển thời gian phản ứng xảy ra không đều. Từ