I. PHẦNMỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài: Trước đây, bộ môn Giáo dục công dân (GDCD) không được coi trọng ở trường phổ thông, người dạy thường trái ban, hoặc giáo viên chủ nhiệm lớp nào thì dạy bộ môn Giáo dục công dân lớp đó. Vì vậy, giáo viên dạy bộ môn này chưa có sự đầu tư trong bài dạy. Nội dung bài dạy đơn điệu, sơ sài. Thậm chí giờ dạy chỉ qua loa, chiếu lệ để giáo viên chủ nhiệm còn giải quyết việc khác của lớp. Hiện nay, bộ môn GDCD đã được chỉ đạo cải tiến về phương pháp dạy học cùng những kỳ thi giáo viên giỏi qua từng cấp, đặc biệt hằng năm Phòng giáo dục có thanh tra giáo viên dạy bộ môn này. Qua những đợt hội giảng, thi giáo viên giỏi các cấp hay những đợt thanh tra chuyên môn, giáo viên được cọ sát, học hỏi rất nhiều. Song nếu chỉ qua những đợt thi đó thì chưa đủ mà giáo viên còn phải tìm tòi, sáng tạo phương pháp dạy học mới để phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học đồng thời khêu gợi niềm say mê, háo hức của học sinh với bộ môn giáo dục nhân cách này. Đó chính là lí do tôi chọn đề tài: "Tạo hứng thú cho học sinh trong các bài học thuộc chủ đề đạo đức môn Giáo dục công dân – Lớp 9" 2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài Trên cơ sở lý luận đã nêu việc thực hiện đề tài này về cơ bản nhằm đạt dược các mục tiêu sau: - Tạo được hứng thú cho h/s trong học tập ở lớp cũng như ở nhà đối với môn học, kích thích hoạt động sáng tạo, xây dựng cơ hội khám phá,ứng dụng tri thức bằng thúc đẩy hoạt động tìm hiểu thực hành, từ đó các em tích cực tham gia vào bài học hơn tránh được sự nhàm chán trong phương pháp dạy và học truyền thống. - Đảm bảo tính chính xác, khoa học, tính rõ ràng về nội dung bài học .Giáo viên dễ dàng trong truyền thụ kiến thức và nhận xét đánh giá học sinh. Học sinh nhanh chóng nắm bắt nội dung bài học,nhận biết và sửa đổi các hành vi sai trái,có nhiều cơ hội phát huy tính tích cực,nhanh chóng nắm được kiến thức tại lớp vận dụng vào thực tế cuộc sống hàng ngày. - Tiết kiệm được thời gian ,công sức và kinh phí trong việc chuẩn bị đồ dùng,giáo cụ trực quan trước khi lên lớp đồng thời bám sát yêu cầu của phương pháp đổi mới kết hợp phương pháp dạy học truyền thống phù hợp với cả 3 đối tượng hoc sinh và thực trạng dạy- học của nhà trường. - Vận dụng ứng dụng CNTT, tạo trực quan sinh động (với các bài có thiết kế trình chiếu) gắn với nội dung cụ thể của từng bài nhằm xây dựng yếu tố hấp dẫn lôi cuốn kích thích tư duy để học sinh nhanh chóng nắm được bài giảng, nhớ lâu, nhớ sâu nội dung bài học. - Thuận lợi, dễ dàng trong kiểm tra đánh giá khả năng nhận thức của h/s, dự báo sớm được kết quả học tập để có biện pháp bồi dưỡng uốn nắn kịp thời đối với tất cả các đối tượng học sinh. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tương nghiên cứu là học sinh trường THCS Bình Khê- Đông Triều- Quảng Ninh . 4.Giới hạn, phạm vi nghiên cứu:
1
Trường THCS Bình Khê- Đông Triều- Quảng Ninh 5. Phương pháp nghiên cứu: Công tác giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh qua môn học GDCD muốn thực hiện được tốt, theo tôi cách dạy của giáo viên là quan trọng nhất. Thầy là người gợi mở, học sinh tự do phát triển. Giáo viên dẫn dắt vấn đề, đưa kiến thức và tình huống bên ngoài cuộc sống để cho giờ học thêm sinh động. Giờ học, học sinh phải được “phát ngôn” theo sự hiểu biết của mình gắn với bài học, giúp học sinh say mê với môn học. Giáo viên như một người bạn, người tâm giao, có vướng mắc là các em hỏi ngay mà không ngại. Với SGK, giáo viên dựa vào khung sườn từ đó có cách gợi mở với mỗi bài học để HS chủ động. Từ kiến thức nền đó, giáo viên “biến hóa” để HS hiểu bài, biết thế nào là tốt - xấu, nếu nguy hiểm cầu cứu ở đâu...Tuy nhiên, cũng có cái khó là đồ dùng dạy học còn hạn chế, tranh ảnh minh họa ít, phần lớn giáo viên phải tự chuẩn bị, tự làm, việc sưu tầm tư liệu có thể mất khá nhiều thời gian. Thực tế, nếu dập khuôn theo SGK thì môn GDCD là khô cứng, giáo điều, HS rất khó hiểu. Chương trình lớp 9 khó, nhiều bài liên quan đến chính trị, tư tưởng như “Lý tưởng sống của thanh niên”, hay “Tình hữu nghị các dân tộc trên thế giới”... Kiến thức đưa vào thì giáo viên phải dạy và học sinh đều phải học, tuy nhiên, để minh họa rõ cho bài học thì khá khó khăn. II. PHẦN NỘI DUNG: 1. Cơ sở lí luận: Như chúng ta đã biết ngành giáo dục đã trải qua rất nhiều cuộc cải cách giáo dục và đã phấn đấu thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ,đáp ứng phù hợp với yêu cầu của các giai đoạn cách mạng mới. Tuy nhiên, ngành giáo dục vẫn còn trăn trở cùng sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phương pháp giáo dục đào tạo nêu trên, tuy có được nghiên cứu, ứng dụng vào thực tiễn học tập cũng như đời sống hằng ngày nhưng chưa đạt kết quả như mong muốn. Vì sao vậy? Có rất nhiều lí do dẫn đến việc giáo dục nhân cách cho học sinh chưa đạt hiệu quả cao. Vấn đề trước hết phải kể đến đó là xã hội, gia đình và bản thân ngành giáo dục còn chú trọng các môn khoa học nhằm nâng cao trí tuệ mà chưa chú ý nâng cao nhân cách cho học sinh, nghĩa là chỉ chú ý rèn tài mà chưa chú ý rèn đức. Biểu hiện cụ thể mà ai cũng thấy rõ là môn GDCD chưa bao giờ được Bộ Giáo dục và Đào tạo xếp vào môn thi tốt nghiệp hay vào cấp III dù chỉ một lần. Điều này không chỉ làm cho học sinh mà cả giáo viên chủ quan, coi là môn học phụ và chỉ ý thức được rằng miễn là dạy- học đủ bài, đúng chương trình là đạt yêu cầu. Chính môn GDCD không được chọn vào các môn thi trong các kì thi quan trọng nên sách tham khảo, sách bài tập còn ít, đặc biệt là sách viết về phương pháp dạy học bộ môn này thì càng hạn chế. Một vấn đề nữa là lượng thời gian dành cho bộ môn này còn ít (1 tiết / tuần ). Sách mới viết hiện nay nội dung rất phong phú, hợp với trình độ học sinh nhưng nếu giáo viên dạy bộ môn mà không có sự đầu tư, liên hệ, ứng dụng thực tiễn thì giờ học sẽ rất nhàm chán, thậm chí học sinh không chú ý lắng nghe. Thực tế đã cho thấy hầu hết học sinh không hứng thú học bộ môn này. Thông qua việc dự giờ các lớp và tình hình giảng dạy chung của khối lớp 9, tôi nhận thấy điểm hạn chế tồn tại tập trung ở phương pháp truyền thụ kiến thức
2
của giáo viên cho học sinh. Trước hết là sự đầu tư cho giờ dạy còn hạn chế dẫn đến giờ học khô khan, không đọng lại trong tâm trí học sinh một hình ảnh hoặc một ấn tượng nào. Thứ hai vì trình độ chuyên môn về môn này của giáo viên còn hạn chế (giáo viên thường là trái ban) nên những nội dung bài dạy còn chưa sâu, chưa kĩ. Trong đợt tổ chức Hội thi giáo viên dạy giỏi bộ môn Giáo dục công dân chuyên đề “ Giáo dục đạo đức theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh” cấp THCS đầu năm học vừa qua, trải qua những vòng loại, các giáo viên đạt thành tích cao trong hội thi đều là những giáo viên đã biết kết hợp nhiều phương pháp dạy học để gây hấp dẫn, hứng thú cho học sinh và điều rất quan trọng đó là sử dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là kênh hình hợp lí, để lại những ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn học sinh. 2. Thực trạng. - Học sinh ở trường THCS Bình Khê hầu hết là con em vùng nông thôn miền núi, thu nhập chủ yếu bằng nông nghiệp và nghề tự do nên trình độ dân trí thấp. Phụ huynh học sinh chủ yếu lo miếng cơm manh áo mà chưa chú ý giáo dục con cái toàn diện về mọi mặt. - Đa số học sinh chưa tự giác học tập, ít tham khảo sách vở, mải chơi, một số em thì phải phụ giúp gia đình để có thu nhập. Các em chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học nếu không được giao nhiệm vụ cụ thể . Các em ngại đi tìm tư liệu cho bài học, tiếp thu bài một cách thụ động dẫn kết quả bài học cũng như chất lượng giảng dạy bộ môn không cao. Thực tế đã cho thấy hầu hết học sinh không hứng thú học bộ môn này. Thông qua việc dự giờ các lớp và tình hình giảng dạy chung của khối lớp 9, tôi nhận thấy điểm hạn chế tồn tại tập trung ở phương pháp truyền thụ kiến thức của giáo viên cho học sinh. Trước hết là sự đầu tư cho giờ dạy còn hạn chế dẫn đến giờ học khô khan, không đọng lại trong tâm trí học sinh một hình ảnh hoặc một ấn tượng nào.Thứ hai vì trình độ chuyên môn về môn này của giáo viên còn hạn chế(giáo viên thường là trái ban) nên những nội dung bài dạy còn chưa sâu,chưa kĩ. 3. Giải pháp biện pháp 3.1. Mục tiêu của giải pháp biện pháp: Môn GDCD ở trường THCS là môn học thay thế cho môn Chính trị - Đạo đức trước đây. Đặc điểm của nó là bao quát các kiến thức về đạo đức học và pháp luật ...Tất nhiên, các kiến thức của nó không quá phức tạp, đòi hỏi tư duy cao. Nó cung cấp những tri thức cơ bản về quan hệ xử sự trong gia đình (ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em...), quan hệ ứng xử với hàng xóm, quan hệ cộng đồng xã hội. Đồng thời môn học này còn cung cấp những hiểu biết về các qui tắc, quy định của pháp luật như quyền lao động, quyền công dân... Đặc điểm chương trình là kết cấu đồng tâm với các lớp của các cấp học cao hơn. Như vậy, môn GDCD có vị trí rất quan trọng, nó kết hợp với các môn học khác có nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, đạo đức cho học sinh. Song môn học này giáo dục với tính chất cụ thể nhất. Nội dung các bài học đã trực tiếp xây dựng nên nền tảng tư tưởng, tình cảm đạo đức, trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân đối với gia đình, học đường và cộng đồng xã hội. Vì thế giáo viên dạy bộ môn này cần phải thấy rõ và đánh giá đúng được vị trí, tầm quan trọng của môn học.
3
Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học là vấn đề mà bất kì giáo viên nào khi lên lớp cũng đều mong muốn mình có thể làm tốt, song thực tế không phải ai cũng thành công .Bằng chứng cho thấy, có những giáo viên khi lên lớp, học sinh rất thích học, nhưng cũng có những giáo viên khi lên lớp học sinh không có hứng thú vớigiờ học, môn học, gây ra mất trật tự. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: 3.2.1.Giáo viên phải hiểu được yêu cầu và nội dung của công tác giáo dục tư tưởng, chính trị đạo đức cho học sinh : Ở đây, giáo dục tư tưởng đạo đức và ý thức chính trị cho học sinh phải trên cơ sở của chương trình, kiến thức của môn học. Mức độ giáo dục học sinh THCS là phải phù hợp với trình độ, lứa tuổi. Yêu cầu cụ thể như sau: a. Công tác giáo dục tư tưởng đạo dức, chính trị phải phù hợp với trình độ kiến thức của chương trình học: Đặc điểm kiến thức của lớp 6, lớp 7 về đạo đức là rất giản đơn như khái niệm về khoan dung, lễ độ, trung thực... những kiến thức này thường phải gắn với thực tế để minh hoạ, giảng giải và mức độ xây dựng tình cảm cho học sinh nhẹ nhàng, tự nhiên trên cơ sở của việc giảng giải. b. Công tác giáo dục phải phù hợp với đối tượng lứa tuổi : Hầu hết học sinh THCS còn nhỏ tuổi. Việc hiểu các khái niệm còn trực tiếp, cảm tính cho nên đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp giáo dục thích hợp. Việc giáo dục ý thức chính trị cũng như giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh phải trên cơ sở ý nghĩa rút ra của mỗi khái niệm và kiến thức bài giảng. Từ đó để học sinh cảm nhận và tự nâng lên thành nhận thức và ý thức của bản thân. Tránh những lí thuyết chung chung, tránh những lời hô hào phải thế này, thế kia. c. Công tác giáo dục tư tuởng đạo đức cho học sinh phải thiết thực, phù hợp với yêu cầu thự tiễn của xã hội hiện nay: - Những yêu cầu về lối sống hiện nay. - Những ứng xử hằng ngày của học sinh (trong gia đình, nhà trường, xã hội...) - Những vấn đề an toàn giao thông. - Những vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái. - Những vấn đề về kỉ luật trong học tập, lao động. 3.2.2. Một số biện pháp chính khi thực hiện: Công tác giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh qua môn học GDCD muốn thực hiện được tốt, theo tôi cách dạy của giáo viên là quan trọng nhất. Thầy là người gợi mở, học sinh tự do phát triển. Giáo viên dẫn dắt vấn đề, đưa kiến thức và tình huống bên ngoài cuộc sống để cho giờ học thêm sinh động. Giờ học, học sinh phải được “phát ngôn” theo sự hiểu biết của mình gắn với bài học, giúp học sinh say mê với môn học. Giáo viên như một người bạn, người tâm giao, có vướng mắc là các em hỏi ngay mà không ngại. Với SGK, giáo viên dựa vào khung sườn từ đó có cách gợi mở với mỗi bài học để HS chủ động. Từ kiến thức nền đó, giáo viên “biến hóa” để HS hiểu bài, biết thế nào là tốt - xấu, nếu nguy hiểm cầu cứu ở đâu...Tuy nhiên, cũng có cái khó là đồ dùng dạy học còn hạn chế, tranh ảnh minh họa ít, phần lớn giáo viên phải tự chuẩn bị, tự làm, việc sưu tầm tư liệu có thể mất khá nhiều thời gian.
4
Thực tế, nếu dập khuôn theo SGK thì môn GDCD là khô cứng,giáo điều, HS rất khó hiểu. Chương trình lớp 9 khó, nhiều bài liên quan đến chính trị,tư tưởng như “Lý tưởng sống của thanh niên”,hay “Tình hữu nghị các dân tộc trên thế giới”... Kiến thức đưa vào thì giáo viên phải dạy và học sinh đều phải học, tuy nhiên, để minh họa rõ cho bài học thì khá khó khăn. Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy để tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học GDCD cần chú ý các biện pháp sau: 3.2.2.1. Biện pháp đưa thực tiễn, tư liệu cuộc sống vào bài giảng, làm cho bài giảng phong phú sinh động, học sinh dễ hiểu và có ấn tượng sâu về bài học. Những tư liệu này phải phong phú, cập nhật những vấn đề mang tính thời sự mà học sinh quan tâm. Muốn vậy, đòi hỏi người giáo viên phải thường xuyên theo dõi những vấn đề của xã hội đặc biệt khi đọc các thông tin trên báo, mạng Internet, truyền hình ...giáo viên phải lưu lại những vấn đề có thể phục vụ cho bài giảng. 3.2.2.2. Biện pháp nêu gương : Mỗi khái niệm đạo đức, pháp luật mỗi chủ đề cần đưa gương tốt về người thật, việc thật. Đồng thời cả gương xấu nếu có để học sinh tránh. Những tấm gương nêu ra phải được nhiều học sinh biết, đặc biệt là những tấm gương ở địa phương mình. 3.2.2.3. Biện pháp mời báo cáo ngoại khoá Ví dụ: - Mời báo cáo an toàn giao thông. - Báo cáo,tọa đàmvề luật lệ đi đường. - Báo cáo gương tốt trả của rơi cho người bị mất. - Báo cáo về gương dũng cảm cứu người bị nạn... Biện pháp này, học sinh phải được chuẩn bị, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm tư liệu, kiểm tra bài báo cáo trước khi học sinh trình bày trước lớp. 3.2.2.4.Biện pháp tổ chức cho học sinh đi tham quan các chủ đề đạo đức và pháp luật. Biện pháp này phải được sự đồng ý của Ban Giám hiệu nhà trường, giáo viên nên liên hệ địa điểm trước khi tham quan thông báo và được sự nhất trí của phụ huynh học sinh. 3.2.2.5. Biện pháp viết báo tường, hát các bài có chủ đề về đạo đức-người tốt, việc tốt. Biện pháp này có thể kết hợp với đoàn đội, giáo viên chủ nhiệm để học sinh được tập duyệt trong giờ sinh hoạt lớp. Bên cạnh giờ lên lớp của môn GDCD, các nhà trường nên tổ chức giáo dục đạo đức công dân cho học sinh thông qua các hoạt động ngoại khóa, qua lễ chào cờ đầu tuần, giờ sinh hoạt lớp...giúp HS hiểu rõ hơn các “chuyển động” trong đời sống xã hội. 3.2.3. Ứng dụng trong bài dạy cụ thể VÍ DỤ: Giáo dục công dân lớp 9 bài 10 - tiết 14: Lí tưởng sống của thanh niên (Tiết 2) Phần I: Phần chuẩn bị của giáo viên - Những tấm gương, những ví dụ thực tế.
5
- Chuẩn bị băng hình chính diện và phản diện về lối sống của thanh niên hiện nay. - Các hình ảnh về hoạt động của thanh niên . Tham khảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Phần II: Chuẩn bị của học sinh - Tìm hiểu những tấm gương của thanh niên qua các thời kì lịch sử. - Chuẩn bị diễn đàn thanh niên . - Chuẩn bị câu hỏi tọa đàm,thảo luận. - Chuẩn bị phần máy tính phục vụ cho buổi toạ đàm. PhầnIII: Các biện pháp tiến hành: Đối với bài này, tôi xác định đây là một bài dạy khó, các kiến thức của bài rất trừu tượng đối với học sinh. Vậy làm thế nào để học sinh dễ hiểu, bài dạy gây ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn học sinh. Tôi suy nghĩ và vận dụng các biện pháp tích hợp để tạo hứng thú trong gìơ dạy. Tuy nhiên yếu tố không thể thiếu để làm nên thành công trong giờ dạy đó là sử dụng công nghệ thông tin ( trình chiếu Power Point) hoặc sử dụng các thiết bị điện tử (Đầu chiếu,Băng, đĩa Audio,Video..,) a. Biện pháp đưa các tư liệu cuộc sống vào bài dạy để tạo ấn tượng cho học sinh:
Đối với mục xác định lí tưởng sống cao đẹp của thanh niên ngày nay, tôi đưa các tư liệu, hình ảnh trong cuộc sống vào bài giảng. Những tư liệu nàykhông chỉ giới học sinh quan tâm mà toàn xã hội đang quan tâm đó là tư liệu về hiến máu nhân đạo, hình ảnh thanh niên tình nguyện tham gia vào rất nhiều hoạt động, chung tay khắc phục lũ lụt năm 2007, 2008, 2009... Những tư liệu này rất đơn giản và đều có trên mạng. VD: Đây là hai thông tin để học sinh tìm hiểu về lí tưởng sống của thanh niên ngày nay: Từ ngày 10/10/2007 đến 12/10/2007, điểm hiến máu đặt tại siêu thị Big C Hà Nội đã có 205 bạn trẻ đăng ký hiến máu, 122 đơn vị máu được tiếp nhận.
Thanh niên tình nguyện vận động các bạn trẻ hiến máu
6
Tại Bình Định, ngay sau khi nước lũ rút, 12 đội thanh niên và y bác sĩ trẻ tình nguyện đã có mặt ở các vùng trọng điểm của lũ để khám bệnh, cấp thuốc miễn phí, làm vệ sinh môi phục khắc trường, đường giao thông, các công trình thủy lợi,…
Sinh viên Trường CĐSP Bình Định chung tay khắc phục bão lũ.
Tôi cho các em đọc, quan sát ảnh và sau đó nêu câu hỏi: Khi nghe những thông tin đó, em có suy nghĩ gì về hoạt động của thanh niên hiện nay? Học sinh dễ ràng thấy được hoạt động của thanh niên rất đa dạng, phong phú, thiết thực. Thanh niên tham gia vào rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đến những nơi đất nước và nhân dân đang cần. Từ đó cho học sinh thấy được ý nghĩa việc làm của họ đó là đem đến cho con người cuộc sống ấm no, góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá... Sau đó giáo viên cho học sinh tự rút ra lí tưởng sống cao đẹp của thanh niên ngày nay là gì bằng câu hỏi phụ: "Theo em, thanh niên ngày nay cần phải sống như thế nào?". Khi học sinh trình bày ý kiến của mình, giáo viên viết tóm tắt ý kiến đó lên bảng, sau đó gạch chân các từ ngữ quan trọng và cuối cùng chốt lại - đây chính là lí tưởng sống cao đẹp của thanh niên này nay. Với phần mục cách rèn luyện của bản thân tôi cũng đưa hình ảnh thiết thực để cho học sinh tự nhận thấy mình phải làm theo tấm gương nào, và không nên theo lối sống nào. Tôi đã đưa một đoạn băng hình về đối tượng thanh niên nghiện ngập và một đoạn băng hình tôi tự cắt ghép, lồng hình ảnh chụp từ điện thoại di động, máy ảnh KTS cùng các hình ảnh download từ mạng về các hoạt động của thanh niên trong các năm: 2007, 2008, 2009, 2010,... tham gia rất nhiều các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Dưới mỗi hình ảnh là các lời bình, nhạc nền là bài hát mà thanh niên rất yêu thích - "Mùa hè xanh", “Nối vòng tay lớn”. Học sinh được nghe một đoạn nhạc bài hát và 50 hình ảnh cùng với lời bình chỉ trong 4 phút. Sau khi xem băng hình xong tôi hỏi: Nêu cảm nghĩ của em khi xem các hình ảnh trên?. Từ các hình ảnh đó, học sinh biết mình phải làm theo tấm gương nào và không nên sa vào con đường ma tuý. Có thể nói, hình ảnh trên đã tác động đến tâm lí, hành vi của các em và từ đó hướng các em đi đúng con đường mà xã hội đang cần và mong muốn. Kết quả là học sinh rất thích thú khi xem các hình ảnh đó, có em nói đó là một ấn tượng sâu đậm đối với các em, có học sinh còn xin đoạn băng hình đó. Còn
7
người dự giờ cũng cảm thấy dưng dưng, có một sự xúc động thật sự trong tâm hồn. Để làm các Files Video hình ảnh này tốn không nhiều thời gian. Giáo viên chỉ cần biết sử dụng chương trình Windows Movie Maker của Windows XP kết hợp với một vài phần mềm dựng phim nghiệp dư như: 4Easysoft HD Converter, mkv-video-converter, Proshow producer, Proshow Gold 3.0, Ulead Video Studio 9, hoặc chuyên nghiệp như: VSX3_Pro_TBYB.exe... Tất cả các tư liệu từ bài hát đến hình ảnh, kể cả các phần mềm nêu trên đều có thể tải trên mạng Internet và dùng miễn phí. ĐÂY LÀ MỘT SỐ HÌNH ẢNH LỒNG TRONG CÁC ĐOẠN BĂNG ĐÓ:
8
CHIẾN DỊCH TÌNH NGUYỆN MÙA HÈ XANH
9
ĐỂ MÔI TRƯỜNG MÃI MÃI XANH TƯƠI
Lúa ơi, nước đã về đây.
10
Thêm màu xanh cho núi Tản.
11
Thanh niên lao động giúp dân
Nhịp cầu yêu thương
Mang kiến thức đến cho các em
12
Hãy thắp sáng cho em ngọn lửa tri thức
13
Chung tay khắc phục bão lũ
14
Dấu ấn bước chân tình nguyện
15
16
Sẻ chia giọt máu nghĩa tình
17
Đặt nền móng cho những ngôi nhà
Khoảnh khắc đáng nhớ
18
Đây là tấm lòng của chúng cháu
19
Ấm lòng những người đã khuất
Chiến dịch kỳ nghỉ hồng
20
Góp phần giữ gìn trật tự an toàn giao thông
21
b. Biện pháp nêu gương Những tấm gương mà tôi nêu ra rất gần gũi với học sinh đó là những tấm gương ngay ở trường, địa phương Vân Hoà, học sinh biết rất rõ. Ví dụ: Hãy nêu tấm gương thanh niên ngày nay ở quê hương em sống có lí tưởng? Sau khi học sinh nêu xong tôi giới thiệu thêm một số tấm gương người tốt,việc tốt được quảng bá trên đài, báo, truyền hình..., để học sinh tấm gương sáng ngưòi thật, việc thật mà học tập,noi theo. Cũng có thể là những tấm gương trong thời kì kháng chiến, hoặc trong sử sách mà gây một làn sóng trong giới thanh niên làm thay đổi cách sống, suy nghĩ của thanh niên đó là Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ Trâm...Ví dụ: tôi đã đưa cả hình ảnh 2 cuốn nhật kí của hai liệt sĩ này.
22
c. Biện pháp cùng tìm hiểu, cùng làm theo Cho học sinh nêu các phong trào hoạt động của thanh niên hiện nay? Có rất nhiều các phong trào hoạt động sôi nổi, đem lại lợi ích thiết thực cho cộng đồng và xã hội như: + Mùa hè xanh. + Hành trình viết tiếp tuổi 20, sống đẹp, sống có ích . + Hành quân về chiến trường xưa . + Chiến dịch Kì nghỉ hồng... Hướng học sinh đến tìm hiểu và học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đây cũng là một phong trào hoạt động sâu rộng trong quần chúng nhân dân. d. Biện pháp toạ đàm : Học sinh được tổ chức một buổi toạ đàm (ngoại khoácùng Đoàn -Đội:buổi HĐNGLL)nói về lí tưởng sống của thanh niên ngày nay (thời gian 20-25 phút). Nội dung phải được thầy giáo duyệt trước.Các em tham gia rất nhiệt tình. Có thể nói qua phần chuẩn bị các em đã nắm được cơ bản nội dung bài học. * Nội dung toạ đàm gồm hai phần
23
- Phần 1:Chơi trò chơi ô chữ: Học sinh tìm hiểu về các tấm gương thanh niên xưa. Mục đích để cho học sinh thấy mình cần phải tiếp nối truyền thống của cha ông đi trước. Phần này học sinh cũng có những hình ảnh, bài hát tạo không khí sôi nổi trong buổi toạ đàm. - Phần 2:Trao đổi toạ đàm về ước mơ của các em, về những sáng kiến đóng góp cho Đoàn thanh niên và quyết tâm thực hiện lí tưởng sống của mỗi người. 3.3.Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp: Giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh thông qua môn học GDCD đó là việc làm rất khó nhưng bắt buộc. Ở đây, phải xuất phát từ khái niệm đạo đức học của pháp luật để hình thành ở các em những tình cảm đạo đức và các hành vi đạo đức, hành vi pháp luật. Chính vì vậy đòi hỏi cần thực hiện bảo đảm các biện pháp, giải pháp sau: + Phải cho học sinh hiểu rõ khái niệm rồi mới rút ra ý nghĩa ,cách vận dụng, hình thành tư tưởng, tình cảm cho học sinh. + Tính thực tiễn trong công tác giáo dục tư tưởng phải xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, thực tiễn cách mạng để giáo dục. + Giáo dục tư tưởng đạo đức đáp ứng với yêu cầu thiết thực của gia đình, học đường và xã hội ở địa phương nơi có địa bàn trường. + Giáo dục tư tưởng đạo đức phải phù hợp với đối tượng,phù hợp với chương trình học. Tất cả các nguyên tắc trên là sự kết hợp hài hoà và gắn liền hữu cơ với nhau, không thể coi nặng cái này mà coi nhẹ cái kia.Một bài giảng gây được hứng thú cho học sinh trước hết phải là một bài giảng có tính giáo dục tốt và phải biết vận dụng kết hợp các nguyên tắc trên. 3.4. Kết quả - Với những biện pháp mà tôi vận dụng trong bài dạy của mình,đa số học sinh hiểu và nắm được bài. Các em biết vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống đặc biệt định hướng được sự thành kĩ năng sống của mỗi học sinh. - Điều quan trọng hơn đó là học sinh có hứng thú trong giờ học môn GDCD,các em thấy đây là môn học thực sự bổ ích,giúp các em hình thành tư tưởng đạo đức đúng đắn, biết sống có lí tưởng, có mục đích, sống là để cống hiến. Kết quả có so sánh đối chứng thu được sau bài dạy như sau:
( Đánh giá của tổ xã hội sau dự giờ ) H/S KHÔNG HIỂU BÀI H/S HIỂU BÀI LỚ P SĨ SỐ HS HIỂU BÀI TỐT GHI CHÚ
9A 35 25 13 2
9B 34 22 11 1
9C 32 22 10 0 SỐ BT ĐÃ LÀM BT- SGK: 2 BT bổ sung: 3 BT- SGK: 2 BT bổ sung: 3 BT- SGK: 2 BT bổ sung: 3
24
So sánh kết quả lớp 9A,B,C( Lớp áp dụng đề tài) với 9D,E: (Lớp không áp dụng đề tài)
LỚP
SĨ SỐ
HS HIỂU BÀI TỐT
H/S KHÔNG HIỂU BÀI
SỐ BT ĐÃ LÀM
GHI CHÚ
H/S HIỂU BÀI
18
9D
36
10
8
19
9E
33
8
6
BT- SGK: 2 BT bổ sung: 0 BT- SGK: 2 BT bổ sung: 0
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: 1. Kết luận: 1.1. Ý nghĩa rút ra từ đề tài: - Thông qua ứng dụng các biện pháp trên sẽ phát huy việc đổi mới PPDH, đáp ứng được yêu cầu thực hiện cuộc vận động ứng dụng CNTT vào công tác giảng dạy mà Bộ GD phát động góp phần thúc đẩy phong trào giảng dạy ứng dụng CNTT trong nhà trường. - Sử dụng triệt để các trang thiết bị đồ dùng dạy học hiện có và thực tế giảng dạy của nhà trường, phát huy năng lực tư duy,tích cực sáng tạo của h/s rất phù hợp và tiện dụng cho việc vận dụng phương pháp dạy học đổi mới hiện nay và xu hướng phát triển giáo dục nói chung. 1.2. Bài học kinh nghiệm: 1.2.1.Tính giáo dục: Qua việc thực hiện đề tài trên trong năm học vừa qua, tôi thấy rằng nếu giáo viên thường xuyên có ý thức tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, chịu khó tìm tòi sáng tạo tìm cách đổi mới PPDH, đầu tư thời gian nghiên cứu để ứng dụng công nghệ hiện đại vào giảng dạy một cách phù hợp với bộ môn thì sẽ đem lại hiệu quả giáo dục rất cao không chỉ đối với học sinh mà các thầy cô giáo cũng sẽ không ngừng nâng cao nghiệp vụ và sự hiểu biết. a) Đối với giáo viên:
* Bằng việc chuẩn bị tốt cho giờ dạy(đầu tư tìm tư liệu xây dựng giáo án)giúp giáo viên khắc sâu kiến thức cần dạy,mở rộng,liên hệ, tích hợp kiến thức ở các phân môn khác tạo điều kiện để học sinh nhanh chóng tiếp thu và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống,đẩy mạnh việc rèn luyện tư tư tưởng đạo đức cho học sinh.
* Giáo viên đỡ phải vất vả viết bảng chính nhiều như như phương pháp dạy truyền thống (bảng chính chỉ cần ghi những đề mục lớn và nội dung cơ bản của bài). *Tiết kiệm được thời gian, công sức và kinh phí trong việc chuẩn bị đồ dùng, giáo cụ trực quan, bản thân người thực hiện sẽ nhanh chóng nâng cao kỹ năng về CNTT. * Tạo trực quan rất sinh động cho học sinh, giáo viên phát huy được vai trò chủ đạo của mình trong việc hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức và vận dụng kiến thức đó vào thực tế.
25
* Có nhiều điều kiện tạo tình huống có vần đề để kích thích học sinh tư duy, phát huy tính tích cực,sáng tạo cho học sinh. * Thuận lợi, dễ dàng trong kiểm tra đánh giá khả năng nhận thức của học sinh, dự báo sớm được kết quả học tập để có biện pháp bồi dưỡng uốn nắn kịp thời đối với tất cả các đối tượng học sinh. b) Đối với học sinh: * Thay cho việc chỉ sử dụng SGK là duy nhất, nay học sinh được sử dụng những phương tiện có tác dụng tốt trong việc tạo hứng thú học tập cho học sinh: Các em được nhìn - nghe - nói - viết một cách trực quan sinh động,được thảo luận trong nhóm học tập của mình, được đưa ra ý kiến, được rèn luyện các kĩ năng nói và viết của bản thân. Điều đó giúp các em phát huy tối đa vai trò chủ động của mình trong giờ học. * Học sinh có nhiều điều kiện làm quen và học tập, ứng dụng CNTT; nhất là với học sinh trong nhà trường thuộc địa bàn miền núi chưa có điều kiện tiếp cận, ứng dụng với máy tính ,với khoa học công nghệ. 1.2. Tính thực tiễn và giá trị phổ biến:
Như trên tôi đã trình bày,việc tìm kiếm tư liệu và chọn lọc các biện pháp phù hợp với từng bài dạy kết hợp với các phương pháp dạy học đổi mới khác sẽ đạt hiệu quả nâng cao chất lượng bài dạy không chỉ đối với môn GDCD mà còn ở tất cả các môn học khác. Tôi thiết nghĩ điều đó hoàn toàn khả thi trong từng tiết dạy của các bộ môn bởi lẽ: - Phương pháp giáo dục "Lấy học sinh làm trung tâm" coi thiết bị dạy học như một nguồn thông tin dẫn học sinh tự tìm tòi để tiếp cận và vận dụng những tri thức mới vào thực tiễn. - Việc xây dựng các biện pháp đổi mới để giảng dạy đối với những môn học không có sẵn thiết bị là điều vô cùng cần thiết và cũng không tốn kém, dễ làm , dễ sử dụng. Đồng thời dễ chỉnh sửa để giảng dạy phù hợp với nhiều đối tượng h/s ở các lớp khác nhau,hơn nữa có thể tái sử dụng cho những năm sau và lại dễ phổ biến rộng rãi nhờ sự phát triển của CNTT như hiện nay . Trên đây là những suy nghĩ và việc làm của cá nhân tôi.Đó là những ý kiến, việc làm rất nhỏ góp phần vào việc đổi mới PPDH cũng như nâng cao chất lượng dạy học. Theo tôi đây là cách dạy và học tập tốt, học đi đôi với hành, rất phù hợp với đặc trưng bộ môn. Việc xây dựng, sử dụng tư liệu, đồ dùng dạy học đúng lúc, đúng chỗ, phù hợp với nội dung bài dạy sẽ góp phần kích thích hứng thú học tập của học sinh. Các em sẽ tích cực hơn, thích phát biểu xây dựng bài, theo dõi bài chăm chú hơn, ghi chép cẩn thận hơn vì có những trực quan sinh động, tích hợp. Các em sẽ có điều kiện học tập tốt hơn nhanh chóng hiểu sâu, hiểu kỹ nội dung bài học, tăng cường kỹ năng vận dụng thực hành. Mỗi giáo viên hoàn toàn có khả năng tự học, tự làm, tự nâng cao về mọi mặt cho bản thân mà không cần phải đầu tư kinh phí quá tốn kém.Vấn đề là ở chỗ người thầy cần có kế hoạch học tập, tìm hiểu, nghiên cứu và ứng dụng sáng tạo, tâm huyết với nghề để ngày càng phát huy hiệu quả CNTT và sự hữu ích của nó trong giảng dạy bộ môn GDCD nói riêng cũng như các bộ môn khác trong nhà trường nói chung. Để có những giờ dạy đạt hiệu quả cao,học sinh dễ hiểu,dễ ghi nhớ nội dung là một việc làm không quá khó. Trong qúa trình giảng dạy tôi mạnh dạn nêu một
26
vài kinh nghiệm nhỏ của mình, rất mong được nhận được sự trao đổi, đóng góp chung của các thầy cô đồng nghiệp cùng chuyên môn để học sinh hào hứng hơn với môn học này, hướng tới mục đích ngày càng nâng cao chất lượng dạy học môn GDCD. 2. Kiến nghị: - Đề nghị Nhà trường và Phòng Giáo dục lưu lại, phổ biến những kinh nghiệm hay và thiết thực, có tính khả thi cao để triển khai rộng rãi, giúp giáo viên có điều kiện tham khảo, học tập và vận dụng trong giảng dạy hằng ngày. - Đề nghị các cấp, các ngành tạo điều kiện trang bị đầy đủ và cập nhật hơn về các thiết bị CNTT phục vụ công tác dạy và học, đặc biệt là các trường miền núi vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn. -Tạo điều kiện về kinh phí và có hình thức khen thưởng,động viên xứng đáng hơn đối với các thầy cô giáo nhiệt tình học hỏi và có nhiều sáng tạo và vận dụng PPDH đổi mới góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đông Triều, tháng 03 năm 2015
Người viết Bùi Thị Thu Tâm
27
tµi liÖu tham kh¶o
1. Bµi tËp t×nh huèng GDCD 9, NXB Gi¸o dôc, Hµ Néi, 2006. 2. GDCD 9 (cid:0) sgv, NXB Gi¸o dôc, Hµ Néi, 2005. 3. GDCD 9 (cid:0) sgk, NXB Gi¸o dôc, Hµ Néi, 2005. 4. Giíi thiÖu gi¸o ¸n GDCD 9, NXB Hµ Néi, Hµ Néi, 2005. 5. Nh÷ng vÊn ®Ò chung vÒ ®æi míi gi¸o dôc THCS m«n GDCD, NXB Gi¸o
dôc, Hµ Néi, 2007.
6. ThiÕt kÕ bµi gi¶ng GDCD 9, NXB Hµ Néi, Hµ Néi, 2005. 7. V¨n kiÖn §¹i héi §¹i biÓu toµn quèc lÇn thø X, NXB ChÝnh trÞ Quèc gia,
Hµ Néi, 2006.
28