Sáng kiến “Phương pháp giải bài tập Đột biến nhiễm sắc thể, sinh học 9”
MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU
Giáo dục nn tảng của hội, cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn
vinh của đất nước. Giáo dục cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của
nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em những hiểu biết bản cần thiết
về khoa học cuộc sống. Mặt khác giáo dục còn góp phần hình thành bồi
dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh
Hiện nay nền kinh tế - hội ngày càng phát triển, hội nhập kinh tế ngày
càng mở rộng đòi hỏi nền giáo dục Việt Nam không ngừng cải tiến, đổi mới phù
hợp với thế giới các quốc gia trong khu vực. Mặt khác, trong bối cảnh đó,
nền giáo dục còn những bất cập về chất lượng giáo dục, nhiều giáo viên sử
dụng phương pháp dạy học lạc hậu đã gây n tình trạng thụ động trong học tập
của học sinh dẫn đến hiệu quả dạy học chưa cao. Học sinh ít được lôi cuốn động
viên khích lệ để hứng thú, tự giác học tập, gây nên tình trạng chán học, bỏ học
một số bộ phận học lực yếu kém. Cùng với nhiều nguyên nhân, tình trạng này
trở nên khá gay gắt, khó khắc phục.
Vậy để giáo dục hiệu quả đạt chất lượng cao, trong quá trình giảng
dạy chúng ta cần thiết phải đổi mới về nội dung, phương pháp dạy học, trong đó
đổi mới phương pháp nhằm phát huy tích tích cực của học sinh vấn đề quan
trọng. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học được xác định trong nghị
quyết Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định "Đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, hội hoá,
dân chủ hoá và hội nhập quốc tế" và "Pha5t triê8n nhanh nguô:n nhân lư<c, nhâ5t la:
nguô:n nhân lư<c châ5t lươ<ng cao, tâ<p trung va:o viê<c đô8i mơ5i căn ba8n va: toa:n diê<n
nê:n gia5o du<c quô5c dân".
Sinh học bộ môn khoa học thực nghiệm vị trí hết sức quan trọng
trong hệ thống tri thức khoa học của nhân loại, ý nghĩa thiết thực với đời
GV: Bùi Minh Vĩnh 1 Trường THCS An Hải
Sáng kiến “Phương pháp giải bài tập Đột biến nhiễm sắc thể, sinh học 9”
sống, kinh tế hội loài người. Trong hệ thống chương trình Sinh học cấp
THCS nói chung Sinh học lớp 9 nói riêng, bên cạnh những kiến thức thuộc
về thuyết được tả còn mảng kiến thức không kém phần quan trọng
bài tập Sinh học.
Trong chương trình sinh học THCS đặc biệt là chương trình sinh học 9 thì
dạng bài tập về đột biến nhiễm sắc thể là một đề tài hay và khó đối với học sinh.
Dạng bài tập này đòi hỏi học sinh phải nắm vững cách phân dạng bài tập mới
thể giải tốt được.
Đã có nhiều tài liệu viết về vấn đề này tuy nhiên qua một số năm tham gia
giảng dạy môn sinh học 9, cũng như bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi môn
Sinh học 9 của trường, của huyện; tôi nhận thấy đây là những dạng bài tập nhiều
năm trong các đề thi. Mặt khác dạng i tập này khá khó học sinh dễ bị
nhầm lẫn vậy tôi muốn viết chuyên đnày để tổng hợp lại nội dung cụ thể
nhất, thiết thực nhất, gần với khả năng tiếp thu của học sinh THCS để phục
vụ giảng dạy của bản thân, đặc biệt công tác bồi dưỡng đội tuyển học sinh
giỏi các cấp.
Từ thực tế trên, để nâng cao chất lượng dạy học trong tình hình hiện nay,
tôi mạnh dạn thực hiện đề i “Phương pháp giải bài tập Đột biến nhiễm sắc
thể, sinh học 9” với hy vọng cùng chia sẻ kinh nghiệm, hiểu biết về phương
pháp giải bài tập với đồng nghiệp, đồng thời cùng nhau vận dụng vào thực tiễn
dạy học để nâng cao chất lượng môn sinh học 9.
2
Sáng kiến “Phương pháp giải bài tập Đột biến nhiễm sắc thể, sinh học 9”
2. NỘI DUNG
2.1. Thời gian thực hiện: Từ năm 2022 đến năm 2024
2.2. Đánh giá thực trạng:
2.2.1. Kết quả đạt được:
Khi chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm thì đa phần học sinh rất khó khăn
trong việc xác định các dạng bài tập đột biến nhiễm sắc thể, chưa phân loại được
bài tập nào thuộc dạng nào nên cách giải của các em bị hạn chế nhiều, đôi lúc
không phân được dạng nên áp dụng sai công thức dẫn đến tính toán sai.
Chính vậy qua khảo sát i thấy học sinh yếu nhiều về môn sinh học, đặc
biệt là phần bài tập về nguyên phân
Số liệu thống kê khảo sát:
Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung
bình Yếu
9A 35 0 0% 5 14,3 % 16 45,7% 14 40%
9D 32 0 0% 7 21,9% 15 46,9% 10 31,2%
Như vậy, qua khảo sát chúng ta thấy trình độ học tập của 2 lớp tương
đương nhau. Sáng kiến này tôi sẽ lấy lớp 9D làm lớp thực nghiệm, còn lớp 9A
không áp dụng sáng kiến.
2.2.2. Những mặt còn hạn chế:
Môn sinh học 9 theo chương trình đổi mới mỗi tuần 2 tiết, cả năm 74 tiết,
trong đó chỉ 1 tiết bài tập sau chương IV Biến dị, với số tiếti tập quá ít
như vậy thì việc dạy cho học sinh năng giải được các bài tập di truyền
một vấn đề rất khó khăn trong công tác giảng dạy cũng như công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi.
Tiết bài tập trong chương trình sinh học 9 quá ít trong khi đó lượng kiến
thức thuyết mỗi tiết học lại quá nặng, dẫn đến hầu hết giáo viên dạy môn
sinh học lớp 9 không có thời gian để hướng dẫn học sinh giải bài tập ở cuối bài.
GV: Bùi Minh Vĩnh 3 Trường THCS An Hải
Sáng kiến “Phương pháp giải bài tập Đột biến nhiễm sắc thể, sinh học 9”
Học sinh khôngkhả năng phân tích tổng hợp kiến thức, đây sẽ trở ngại
lớn trong công tác giảng dạy phần bài tập.
Trong nội dung phần i tập di truyền thì mỗi chương đều phải bồi
dưỡng phần kiến thức cần thiết để vận dụng giải bài tập và phần bài tập áp dụng
ở mức cơ bản và mức nâng cao, nhưng các kiến thức này trong nội dung chương
trình sách giáo khoa sinh học lớp 9 không có đề cập đến hoặc chỉ đề cập mức
lược, không chuyên sâu. Đây một khó khăn lớn đối với giáo viên bồi
dưỡng học sinh giỏi môn sinh học 9, dẫn đến một số giáo viên bồi dưỡng học
sinh giỏi chỉ hướng dẫn học sinh giải phần bài tập biến dị với các dạng bài tập ở
mức cơ bản không dạy bài tập nâng cao.
Ngoài ra trong sách giáo khoa, cuối bài đều câu hỏi vài tập, trong
đó những câu hỏi tự luận dạng củng cố kiến thức hoặc dạng nâng cao, học
sinh thể vận dụng kiến thức bài học trả lời, nhưng những câu hỏi bài tập
thuộc dạng trắc nghiệm khách quan thực chất đòi hỏi học sinh phải biết vận
dụng kiến thức toán học mới trả lời được. vậy khi giảng dạy, nếu giáo viên
không tìm hiểu, nghiên cứu thêm tài liệu tham khảo mà chỉ nghiên cứu sách giáo
viên sẽ khó giải thích cho học sinh hiểu bài tập một cách khoa học được.
Riêng về học sinh, do kiến thức lớp 9 quá mới so với kiến thức các
lớp trước như những diễn biến của các quá trình sinh học xảy ra trong tế bào
liên quan đến cấu trúc và số lượng nhiễm sắc thể, nên khi học sinh giải phần bài
tập biến dị dạng này thường các em tỏ ra lúng túng, ngỡ ngàng
2.2.3. Nguyên nhân đạt được và nguyên nhân hạn chế:
Những kết quả có được qua phần khảo sát, thì phần lớn nằm ở các em học
sinh giỏi đều các môn; ý thức tự học tốt, tham khảo nhiềuch thư viện
hoặc tìm hiểu các bài dạy của giáo viên trên YouTube.
Do những năm gần đây ảnh hưởng của dịch COVID 19 không tham gia
bồi dưỡng học sinh giỏi; đồng thời học sinh giỏi khối 9 không chọn môn sinh
học nên việc đầu tư, nghiên cứu còn nhiều hạn chế.
4
Sáng kiến “Phương pháp giải bài tập Đột biến nhiễm sắc thể, sinh học 9”
Do thời lượng của chương trình dành cho phần bài tập còn hạn chế nên
việc hướng dẫn học sinh hoàn thành bài tập rất khó khăn, chủ yếu lồng vào các
tiết dạy trong phần củng cố, luyện tập.
3. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
3.1. Cơ sở lý luận
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục đào tạo “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy học theo
hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển
từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
động hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin truyền thông trong dạy học”; “Đổi mới căn bản hình thức
phương pháp thi, kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung
thực, khách quan. Việc thi, kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần
từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội cộng đồng giáo dục thế giới
tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quđánh giá trong quá trình học với
đánh giá cuối kỳ, cuối m học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của
người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội”.
Luật Giáo dục số 43/2019/QH14, Điều 7 qui định:
Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại,
hệ thống được cập nhật thường xuyên; coi trọng giáo dục ởng, phẩm
chất đạo đức ý thức công dân; kế thừa phát huy truyền thống tốt đp, bản
sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với s phát
triển về thể chất, trí tuệ, tâm sinh lý lứa tuổi và khả năng của người học.
GV: Bùi Minh Vĩnh 5 Trường THCS An Hải