intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm: Thể lực của học sinh lớp 9 trường THCS Vĩnh Mỹ A hiện nay thực trạng và giải pháp

Chia sẻ: Nguyễn Ngọc An Nhiên | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:14

245
lượt xem
40
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Làm thế nào để giúp học sinh phát triển hài hòa giữa dáng vẻ bên ngoài và thể chất – sức khỏe trong khi điều kiện sống của các em ngày càng được đáp ứng tốt hơn? Mời các bạn cùng tham khảo sáng kiến kinh nghiệm "Thể lực của học sinh lớp 9 trường THCS Vĩnh Mỹ A hiện nay thực trạng và giải pháp" để giải quyết vấn đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Thể lực của học sinh lớp 9 trường THCS Vĩnh Mỹ A hiện nay thực trạng và giải pháp

  1. THỂ LỰC CỦA HỌC SINH LỚP 9  TRƯỜNG THCS VĨNH MỸ A  HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP I./ ĐẶT VẤN ĐỀ   Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa – Hiện đại hóa nhằm  tiến tới “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ  văn minh” Trong   thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng và Nhà nước ta luôn khuyến khích  và tạo điều kiện để phát triển mọi mặt trong đời sống xã hội. Trong đó việc tập luyện thể  dục thể  thao là một trong những vấn đề  không kém phần quan trọng trong cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong giai  đoạn hiện nay. Cho nên ngành thể dục thể thao nói chung và thể dục thể chất  nói riêng luôn luôn tiếp thu, bổ sung, đổi mới và ngày càng hoàn thiện  để  có  thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Hoàn thiện về thể chất để có  thể  phát triển một cách toàn diện, nhịp nhàng, hài hòa kể  cả  về  hình thái và  chức năng thể lực. Vì thể lực cường tráng mới có khả năng thích ứng tốt nhất  với điều kiện sản xuất, chiến đấu và bảo vệ Tổ quốc. Trường THCS Vĩnh Mỹ  A đang được sống trong điều kiện hiện vật  chất lẫn tinh thần cao hơn hẳn so với cha ông thuở  trước. Theo lẽ  tự nhiên,  khi cơ thể được đáp ứng đầy đủ chất dinh dưỡng, điều kiện cơ sở vật chất,   tinh thần được nâng cao sẽ là tiền đề tốt cho sự phát triển các tố chất thể lực   cũng như sức khỏe con người. Tuy nhiên, qua nhiều năm theo dõi kết hợp với   cân, đo, đong, đếm ở học sinh Lớp 9  trường THCS Vĩnh Mỹ A  , tôi thấy khả  năng của các em  so với “ Tiêu chuẩn rèn luyện thân thể” (áp dụng cho  học   sinh THCS   hiện nay) đang có chiều hướng chựng lại và giảm sút  ở  nhiều   mức độ khác nhau. Nguyên nhân nào dẫn đến sự bất cập ở trên? Làm thế nào để giúp học  sinh phát triển hài hòa giữa dáng vẻ  bên ngoài và thể  chất – sức khỏe trong   khi điều kiện sống của các em ngày càng được đáp  ứng tốt hơn? Đó là điều  bản thân tôi luôn trăn trở và tìm hướng giải quyết. 1
  2.   II. NỘI DUNG Để  đạt được mục đích trên, từ  năm 2010 đến nay, tôi luôn ghi các kết   quả  kiểm tra ngẩu nhiên  ở  học sinh Lớp 9, lứa tuổi đủ  16  ở  Trường THCS   Vĩnh Mỹ  A để  cùng đồng nghiệp xem xét, từ  đó từng bước đề  ra hướng đi  phù hợp trong chuyên môn của mình. 1. Số liệu thống kê: Bảng 1­ TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ: Mức Nội dung kiểm tra Nam Nữ Ghi chú 1­ Chạy nhanh 80 m 12’’8 14’’8 2­ Bật xa tại chỗ (cm) 195cm 160cm Đạt 3­ Chạy 1000m nam, 500 m nữ ( Ph,s) 4’10 2’6” 4­ Chống đẩy nam 30’’; nữ 10’’ 16 lần 4 lần Thay cho đẩy  tạ 1­ Chạy nhanh 80 m (s) 12”2 14”00 2­ Bật xa tại chỗ (cm) 205cm 170cm Khá 3­ Chạy 1000m nam; 500m nữ (Ph,s) 3’55’’ 2’00 4­ Chống đẩy nam 30’’; nữ 10’’ 20 lần 16lần Thay   cho  đẩy tạ 1­ Chạy nhanh 80 m (s) 11’’6 13’’5 2­ Bật xa tại chỗ (cm) 215cm 180cm Giỏi 3­ Chạy 1000m nam; 500m nữ (Ph,s) 3’45’’ 1’50’’ 4­ Chống đẩy nam 30’’; nữ 10’’  24 lần 8 lần Thay   cho  đẩy tạ 2
  3. Bảng 2a: ­ KẾT QUẢ THU ĐƯỢC CỦA (NAM) QUA  KIỂM TRA ĐẦU NĂM HỌC: Năm học; số  Mức tỉ lệ% Nội dung  lượng; chiều  Chưa  kiểm tra Giỏi 5 Khá % Đạt % cao, cân nặng TB đạt % ­ 2010 ­2011 1­ Chạy 80 m  20 (33,3) 30(50) 10 (16,7) 0 ­60 học sinh: 2­ Bật xa 25 (41,7) 35 (58,3) 5 (8,3) 0 ­ Cao TB: 1m53  3­ Chạy 1000m 28 (46,7) 35 (58,3) 2 (3,3) 0 Nặng TB:44,5 kg 4­ Chống đẩy 30”  21 (35) 37 (61,7) 2 (3,3) 0 ­ 2011 ­ 2012 1­ Chạy 80m… 18 (37,0) 28 (46,3) 19 (16,7) 0 ­ 65 học sinh 2­ Bật xa… 24 (35,2) 36 (48,1) 15 (16,7) 0 ­ Cao TB:1m53 3­ Chạy 1000m 15(23,1) 30 (46,1) 10 (15,4) 10(15,4) ­ Nặng TB:46,5 kg 4­ Chống đẩy 30”  19 (29,2) 31 (47,7) 8 (12,3) 7 (10,8) ­ 2012 ­ 2013 1­ Chạy 80m 8 (16) 22 (44) 12 (24) 8( 16) ­ 50 học sinh 2­ Bật xa 7 (14) 25 (50) 12 (24) 6 (12) ­ Cao TB:1m54 3­ Chạy 1000m 5 (10) 20 (40) 15 (30) 10 (20) ­ Nặng TB:46,2 kg  4­ Chống đẩy 30” 8 (16) 25 (50) 15 (30) 2 (4) ­ 2013 – 2014 1­ Chạy 80m 10 (18,2) 20 (36,4) 15 (27,3) 10(18,2) ­ 55 học sinh 2­ Bật xa 7 (12,7) 23(4,2) 12 (21,8) 13(23,6) ­ Cao TB:1m56 3­ Chạy 1000m 4 (7,3) 25 (45,5) 14 (25,5) 12(21,8) ­Nặng TB:46,5 kg  4­ Chống đẩy 30” 8 (14,5) 32 (58,2) 10 (18,2) 05 (9,1) 3
  4. Bảng 2b: ­ KẾT QUẢ THU ĐƯỢC CỦA (NỮ) QUA  KIỂM TRA ĐẦU NĂM HỌC: Năm học; số  Mức tỉ lệ% Nội dung lượng; chiều  Chưa   kiểm tra Giỏi 5 Khá % Đạt % cao, cân nặng TB đạt % ­ 2010 ­2011 1­ Chạy 80 m  15 (30) 30 (60) 5 (10) 0 ­50 học sinh: 2­ Bật xa tại chỗ 14 (28) 25 (50) 11 (22) 0 ­ Cao TB: 1m52 3­ Chạy 500m 16 (32) 28 (56) 6 (12) 0 Nặng TB:43 kg 4­Chống đẩy 10”  17 (34) 23 (46) 10 (20) 0 ­ 2011 ­ 2012 1­ Chạy 80m 13 (28,9) 22 (48,9) 10 (22,2) 0 ­ 45 học sinh 2­ Bật xa tại chỗ 12 (26,7) 25 (55,6) 8 (17,8) 0 ­ Cao TB:1m53 3­ Chạy 500m 10 (22,2) 18 (40) 12 (26,7) 5(11,1)  ­ Nặng TB:46,5 kg  4­ Chống đẩy 10”  11 (24,4) 20 (44,4) 8 (17,8) 6(13,3) ­ 2012 ­ 2013 1­ Chạy 80m 3 (13,0) 13 (56,5) 5 (21,7) 2(8,7) ­ 23 học sinh 2­   Bật   xa   5   tại  4 (17,4) 10 (22,2) 6 (26,1) 3(13,0) ­ Cao TB:1m54 chỗ 2 (8,7) 14 (60,9) 4 (17,4) 3(13,0) ­ Nặng TB:44 kg  3­ Chạy 500m 3 (13,0) 11 (24,4) 7 (30,4) 2(8,7) 4­ Chống đẩy 10” ­ 2013 – 2014 1­ Chạy 80m 8 (16) 20 (40) 10(20) 12(24) ­ 50 học sinh 2­ Bật xa tại chỗ 7 (14) 25 (50) 11 (22) 7(14) ­ Cao TB:1m58 3­ Chạy 500m 5 (10) 23 (46) 12 (24) 10(20) ­ Nặng TB:46 kg  4­ Chống đẩy 10” 6 (12) 21 (42) 14 (28) 9(18) * Phụ chú : ­ Cân đo cùng thời điểm buổi sáng, học sinh chưa ăn sáng. ­ TB chiều cao, cân nặng bằng TB cộng của tổng số  học sinh   kiểm tra. 2. Nhận xét: Qua hai bảng số liệu thu được của Nam và Nữ qua các năm ta thấy : ­ Chiều cao và cân nặng của nam và nữ  vẫn duy trì hoặc tăng nhẹ  qua  các năm. 4
  5. ­ Tỷ lệ phần trăm học sinh kiểm trả đạt mức giỏi, khá ở cả 4 nội dung   đều có chiều hướng chững lại và giảm sút, trong khi đó mức đạt và chưa đạt  tăng lên. ­ Dao động của tố chất nhanh, bền (chạy 80m ; chạy 1000m nam, 500m   nữ ) diễn ra nhanh hơn ở học sinh nam. 3. Nguyên nhân : Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến đó là quy mô “gia đình ít con” cùng   với sự quan tâm “ trên mức cần thiết” của nhiều phụ huynh vô tình đặt lên vai   nhà trường phổ thông gánh nặng phải giải quyết về sự hài hòa giữu hình thái  bên ngoài với sức khỏe, thể chất của con em họ.  Sự chu đáo thái quá của các bậc phụ  huynh làm cho sản phẩm ăn theo   liên tục phát triển là mối lợi bất đến con em chúng ta. Sữa, chất dinh dưỡng   liên tục được cải tiến về  chất lượng, bổ  sung nhiều DHA, vitamin, muối  khoáng… nhằm trị  biếng ăn, tăng cường chiều cao, trí thông minh…  ở  một  mức độ  nào đó đã cải thiện được hình hài dáng vóc cho con em chúng ta   nhưng nó cũng làm cho không  ít trẻ  bị  “suy dinh dưỡng  ngược”  suy dinh  dưỡng thể phù ở Việt Nam hiện nay không còn là chuyện lạ. Sức khỏe, thể  lực của học sinh vì thế  mà bị   ảnh hưởng theo chiều  hướng không tốt.     Nguyên nhân thứ hai phải kể đến là các loại hình vui chơi giải trí hiện  tại không những làm mai một bản sắc và văn hóa dân tộc, mà còn bào mòn  thể chất, sức khoẻ của con người nói chung và lứa tuổi học sinh nói riêng. Đã  có không ít trường hợp gục ngã trên bàn phím bởi thiếu ăn, thiếu ngủ, thiếu   vận động vì sự  hấp dẫn của game online và các chò chơi điện tử  khác ( báo  tuổi trẻ ra ngày 20­3­2007 đã đăng). Nguyên nhân thứ ba phải kể đến là sự “ đói vận động”. Vấn đề này thể  hiện  ở  nhều khía cạnh : lượng học sinh ngày một đông trong khi không gian   trương lớp không lập mở rộng( diện tích trường THCS  V ĩnh   Mỹ   A   gẩn  2300m2, không gian ngoài trường học ngày càng bị hẹp do tốc độ phát triển đô  thi hóa; bản thân học sinh chưa ý thức tốt vấn đề  tự  rèn luyện (ít phải lao  động chân tay ít vận động nên càng “đói vận động”).    5
  6. Bên cạnh đó cơ  sở  vật chất phục vụ  cho dạy và học bộ  môn thể  dục   còn thiếu thốn, không đồng bộ  cũng  ảnh hưởng không tốt đến sự  dạy học   của giáo viên cũng như học sinh. 4. Hướng khắc phục giải quyết: Qua bảng số liệu thống kê (trang 3 và 4 của đề  tài này), cũng như  một  số  nguyên nhân trực tiếp  ảnh hưởng đến sức khỏe, thể  lực của học sinh  ở  trên; chúng ta thấy rằng: Sức khỏe của con người không phải có sẵn; nó cũng  không hoàn toàn đúng và tỉ  lệ  thuận với chiều cao, cân nặng cũng như  dáng  vóc bên ngoài. Muốn có sức khỏe tốt, ngoài vấn đề  ăn uống đầy đủ, hợp vệ  sinh còn phải thường xuyên luyện tập TDTT một cách khoa học. Bác Hồ – vị  lãnh tựu muôn vàn kính yêu của dân tột ta, lúc sinh thời vẫn coi việc luyện   tập TDTT là một trong những công tác cách mạng. Trong “lời kêu gọi toàn  dân tập thể  dục” năm 1946, Người viết: “giữ  gìn dân chủ, xây dựng nước  nhà, gây đời sống mới… việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công”.   Người khuyên đồng bào ta muốn có sức khỏe tốt thì phải siêng năng luyện  tập TDTT. Chính Bác “tự  tôi ngày nào cũng tập” để  làm gương  cho mọi  người. Trong lĩnh vực chuyên môn của mình, là giáo viên dạy TDTT, tôi luân  nghĩ rằng: thể  lực chính là khâu đột phá để  phát triển sức khỏe, tăng cường   thể chất cho học sinh! Theo tôi, thể  lực (bao gồm cả  thể  lực chung, thể lực chuyên môn) là  khả  năng, năng lực của cơ  thể  nhằm thực hiện và hoàn thành công việc,   lượng vận động… cụ  thể  nào đó thể  hiện  ở  sức nhanh, mạnh, bền bỉ, khéo  léo phối hợp vận động. Phát triển tốt các tố  chất thể  lực  ấy không những  giúp học sinh cuối năm đạt “tiêu chuẩn rèn luyện thân thể” mà còn không  ngừng tăng cường sức khỏe, thể  lực, tạo tiền đề  tốt cho các em đi sâu lĩnh  hội về  TDTT nếu có khả  năng đồng thời góp phần vào nhiệm vụ  chung của  nhà trường trong việc phát triển con người toàn diện. Sau đây là một số việc bản thân đã và đang làm thấy có hiệu quả trong  việc phát triển thể lực cho học sinh. 6
  7. a. Phát triển sức nhanh: Sức nhanh (một trong những tố chất quan trọng nhất) là khả năng hoạt  động với tốc độ cự hạn. Các hình thức biểu hiện sức nhanh gồm; ­ Thời gian tiềm phục của phản ứng vận động ­ Tốc độ của động tác đơn ­ Tốc  độ ban đầu của động tác ­ Tần số của động tác. Những yếu tố ảnh hưởng đến sức nhanh gồm : ­ Độ linh hoạt của các quá trình thần kinh. ­ Sức mạnh tốc độ. ­ Đàn tính có bắp và khả năng thả lỏng. ­ Trình độ kỹ thuật. ­ Sức mạnh ý chí. ­ Các cơ chế sinh hóa đảm bảo cho động tác mang tính chất tốc độ. Xuất phát từ những yếu tố trên, để  phát triển sức nhanh tôi thường sử  dụng các bài tập lập lại nhiều lần vời tốc độ nhanh gần bằng tốc độ cực hạn  hoặc cố gắng nhanh hơn khả năng (chạy tăng tốc các đoạn ngắn 30m – 40m).  Tập nâng cao tần số bước (chạy bước nhỏ theo nhịp vỗ tay tăng dần…), chạy  xuống dốc cầu, thi đấu trước kiểm tra… nhằm tăng tính hưng phấn, kích  thích khả năng thực hiện bài tập với tốc độ tối đa. Bên cạnh đó, khi tập phát triển sức mạnh, phát triển tốc độ, nếu chỉ sử  dụng các bài tập đơn điệu kéo dài và không đề ra các yêu cầu cao đối với cơ  thể, đối với sự phát triển thể lực và phẩm chất ý chí sẽ dẫn đến sự  kìm hãm  tốc độ (còn  gọi là hiện tượng “Chặn tốc độ”). Để phá bỏ hiện tượng này về  nguyên tắc  cần phải thực hiện những động tác hết sức nhanh, trong các điều   kiện dễ hơn bình thường. Có thể sử dụng những biện pháp sau: + Lập lại các động tác với tốc độ  hết sức nhanh có tập trung cao độ  ý  chí và tâm lý. + Hướng các hành động vào đích cụ  thể: Chạy theo vật dẫn, nhảy  chạm vật chuẩn. 7
  8. + Thực hiện bài tập trong điều kiện khó khăn sau đó chuyển ngay vào   điều kiện bình thường. + Tập luyện dưới hình thức thi đấu. Tập với mục đích tăng tần số  động tác tới cực hạn: Chạy nâng cao đùi tại chỗ, chạy theo nhịp… Tóm lại: Để  ngăn ngừa và xóa bỏ  hiện tượng “chặn tốc độ” và tăng  sức nhanh lên mức cao hơn cần phải  tập theo nguyên tắc: + Tạo ra nền tảng chuyên môn (tăng sức mạnh đàn tính cơ bắp, tăng độ  linh hoạt các khớp xương, tăng sức bền chuyên môn). +   Thực   hiện   bài   tập   với   tốc   độ   nhanh   nhất   trong   điều   kiện   bình  thường.  + Tập xuyên suốt mỗi ngày từ thời kỳ đầu cho đến chuẩn bị thi. b. Phát triển sức mạnh: Sức mạnh là một trong những yếu tố để  đạt thành tích cao trong chạy  ngắn, các môn nhảy và ném đẩy. Trong các môn ấy sức mạnh được thể trong   khoảng thời gian ngắn với công suất lớn. Khả  năng thể  hiện sức mạnh phụ  thuộc vào khả  năng phối hợp thần   kinh cơ, khả năng nỗ lực ý chí, số lượng cơ bắp tham gia. Các hình thức khác nhau của năng lực sức mạnh có liên quan chặt chẽ  với nhau. Vì vậy khi tập luyện cho học sinh cần thiết phải lựa chọn bài tập  cũng như  phương pháp để  đạt được định mức đề  ra. Cần dành sự  tập trung   cho các nhóm cơ trực tiếp tham gia vào hoạt động của môn đã chọn. Để hoàn  thành khả năng phối hợp thần kinh cơ trong các hoạt động đòi hỏi sức mạnh   lớn, cần phải sử dụng các bài tập với sự nổ lực luôn thay đổi. Để  phát triển  kỹ năng thể hiện sức mạnh tối đa cần áp dụng các phương pháp gắng sức tối   đa và lớn. Sức mạnh trong các hoạt động đa dạng gọi là sức mạnh chung; thường  được tập luyện trong thời kỳ chuẩn bị chung. Để phát triển sức mạnh chung  có thể  sử  dụng đa dạng các bài tập hoặc tổ  hợp bài tập sức mạnh khác (bài  tập khắc phục trọng lượng bản thân, trọng lượng phụ; bài tập khắc phục sức   mạnh đối kháng cùng bạn tập, bài tập trên các thiết bị chuyên dùng…). 8
  9. Sức mạnh thể hiện phù hợp với các yêu cầu của môn học cụ thể gọi là  sức mạnh chuyên môn. Sức mạnh chuyên môn được phát triển thông qua việc  sử  dụng các bài tập mang đặc điểm cấu trúc giống với môn TT đã chọn (có  thể  toàn bộ  hoặc từng phần). Trong tập luyện, cần dành sự  chú ý đặc biệt  đến các bài tập có trọng lượng như: ném đẩy các dụng cụ  nặng, các bài tập  nhảy có mang theo một vật nặng trên vai hoặc ở chân (tạ, bao cát nhỏ, chì…)   bời vì trong các bài tập như vậy, cấu trúc động tác ít bị thay đổi và sức mạnh  được phát triển trong điều kiện gần giống với môn học của các em. Các bài tập phát triển sức mạnh được sử  dụng nhiều trong thời kỳ  chuẩn bị  và giảm trong thời kỳ  trước kiểm tra, thi đấu. Các bài tập chuyên  môn chủ  yếu mang đặc điểm sức mạnh vẫn được sử  dụng trong thời kỳ  kiểm tra, thi đấu. Những bài tập này sẽ  có tác dụng duy trì sức mạnh đã đạt   được (thậm chí trong nhiều  trường hợp nó còn có tác dụng nâng cao). Các   bài   tập   phát   triển   sức   mạnh   yêu   cầu   gắng   sức   và   nổ   lực   lớn   thường sử dụng gián đoạn trong tuần (đứng lên ngồi xuống trên 1 chân: tuần  tập 3­4 buổi; chạy nâng cao gối chạm tay, tuần tập 2­3 buổi; bước bục cao   40­50cm tuần tập 3­4 buổi. Nâng tạ, giật tạ 60­70% trọng lượng cơ thể ở nhà  3 buổi/ tuần). Các bài tập trong lượng nhẹ sử dụng tập hàng ngày (nắm bóng  cao su nhỏ, tạ đôi…) c. Phát triển sức bền: Sức bền là khả năng khắc phục sự mệt mỏi nhằm hoạt động trong thời   gian dài với cường độ nhất định và có hiệu quả. Người ta chia tố chất bền ra   thành nhiều loại: sức bền chung, sức bền chuyên môn, sức mạnh bền, bền   tĩnh lực, bền động lực, bền yếm khí, bền hiếu khí… trong khuôn khổ của đề  tài này, tôi đề  cập đến 2 yếu tố  cơ  bản đó là sức bền   chung và sức bền  chuyên môn. Sức bền chung là một thành phần của trình độ  huấn luyện thể  lực  chung của vận động viên nói chung và học sinh nói chung. Nó được phát triển   thông qua các bài tập thể lực chạy cự ly dài với cường độ  điều hòa. Khi tập  như  vậy các cơ  quan trong cơ thể được củng cố, khả  năng làm việc của các  cơ quan được cải thiện, nhất là đối với hệ tim – mạch và hô hấp; ngoài ra các   9
  10. cơ chân cũng được củng cố  hơn (Đi bộ, chạy bộ  được coi là “túc liệu pháp”   rất tốt  để  rèn luyện sức khỏe. Bàn chân được kích thích, xoa bóp, cải thiện  tuần hoàn  huyết dịch. Nếu không thường xuyên đi bộ, chạy bộ, vận động thì  các huyết dịch tuần hoàn sẽ  kém, tế  bào các đầu mút sẽ  thiếu dinh dưỡng   dẫn đến chóng già, học sinh trường THCS Vĩnh Mỹ  A nói riêng đa số  tới  trường bằng xe đạp, xe máy hoặc cha mẹ đưa rước; rất ít học sinh đi bộ (dù  nhà cách trường vài trăm mét). Sức bền chuyên môn là một thành phần của  trình độ    tập luyện chuyên môn, nó được xác định thông qua mức độ  tập   luyện chuyên môn của tất cả các cơ quan và hệ thống, bởi mức độ  khả năng  thể lực và tâm lý phù hợp với môn học cụ thể của học sinh. Để phát triển sức   bền chuyên môn trong chạy cự ly trung bình và dài cho học sinh thì việc nâng  cao khả năng của cơ thể nhằm duy trì sự thăng bằng giữa cung và cầu về ôxy   trong thời gian dài cũng như  đấu tranh với sự  mệt mỏi tăng lên do nợ  ôxy  đóng vai trò quan trọng. Muốn vậy, ngoài việc củng cố  và hoàn thiện hoạt động của hệ  thống  tim – mạch, hô hấp còn cần cải thiện quá trình trao đỏi chất, làm tăng hệ  số  sử dụng ôxy. Khi tập phát triển sức bền, cần chú ý: ­ Thời gian tập kéo dài từ 30 phút trở lên. ­ Cường độ tập luyện liên tục (nhịp tim từ 150 – 160 lần phút) và được   tính theo công thức: Cường độ  tập luyện = (Nhịp tim yên tĩnh + Nhịp tim tối   đa)  60%. ­ Khi tập luyện cần phát triển chức năng hô hấp, phối hợp nhịp hô hấp  với tần số  động tác (thường 2­3 bước chạy hít vào, 2­3 bước chạy thở  ra);   chú ý thở sâu và kéo dài thời gian tập luyện. ­ Nghỉ  giữa quảng hợp lý (từ  1    1,5 phút), không nên nghỉ  quá 3­4  phút. Nghỉ giữa quảng không nên ngưng tập  đột ngột mà nên chạy chậm kết   hợp rũ ta chân và hít thở sâu để nhanh hồi phục và giữ được hưng phấn. d. Tập luyện phát triển độ mềm dẻo: 10
  11. Mềm dẻo được coi là tố chất rất cần thiết đối với học sinh vì nó giúp   các em thực hiện được động tác với biên độ  lớn. Độ  mềm dẻo của học sinh   phụ  thuộc vào hình dạng khớp, độ  linh hoạt của côt sống, tính đàn hồi của  dây chằng, gân và cơ, trương lực của cơ. Độ mềm dẻo thay đổi tùy thuộc vào các điều kiện bên ngoài khác nhau  cũng như trạng thái của cơ thể học sinh. Ví như độ linh hoạt các khớp sẽ kém   nhất sau khi ngủ và ăn, khi bị bệnh và mệt mỏi. Độ  linh hoạt sẽ tăng lên sau  khi khởi động, làm nóng cơ. Tình trạng của hệ thần kinh trung  ương cũng có  ảnh hưởng đến độ mềm dẻo. Để tăng sự đàn hồi của gân và cơ cần sử dụng các bài tập chủ động và   thụ  động được thực hiện với sự  giúp đỡ  của bạn tập cùng chiều cao, cân  nặng. Các bài tập phát triển độ mềm dẻo có thể cho học sinh tự  ở nhà trong  khoảng 15­20 phút. Hợp lý nhất là nên sử dụng vào buổi tập thể dục sáng. Trong thời kỳ đầu cần dành nhiều thời gian hơn để phát triển độ mềm   dẻo. Khi đã đạt được độ mềm dẻo ở mức cần thiết thì có thể huy trì mức đạt   được bằng các bài  tập mà không mấy khó khăn. Nếu ngừng tập các bài tập  chuyên môn về  mềm dẻo thì mức phát triển độ  mèm dẻo có thể  dần dần bị  giảm sút và quay lại mức khởi điểm. (Các động tác phát triển độ  mềm dẻo không nhiều, khoảng 5­6 động  tác. Bản thân tự  tập được các động tác đá lăng, ép ngang, dọc, gập duỗi   người theo chân; các động tác từ khó hơn như uốn dẻo cần nhờ bạn tập giúp  đỡ). đ. Phát triển sự khéo léo: Khéo léo được thể hiện bởi mức cao của sự phối hợp động tác. Nó cần  thiết cho các nhiệm vụ  vận  động xuất hiện bất ngờ,  đòi hỏi phải nhanh  chóng định hướng và thực hiện cấp bách. Học sinh cần phát triển độ khéo léo  đảm bảo an toàn cho bản thân khi bị ngã trong khi chạy hoặc nhảy… Trong quá trình tập luyện và kiểm tra, thi đấu, nhiều tác động bên ngoài   có thể làm ảnh hưởng xấu đến kỹ thuật. Nếu học sinh có khả  năng khéo léo   tốt thì có thể  sửa chữa được các tư  thế  hoặc động tác không đúng và thành  tích có thể được cải thiện tốt hơn. 11
  12. Để phát triển sự khéo léo cần tổ chức cho học sinh chơi các môn bóng.  Trong nhảy cao cần thay đổi xà (xa, gần) so với điểm giậm nhảy để học sinh  làm quen với các tình huống khác nhau có thể  xuất hiện trong kiểm tra, thi  đấu. Trong nhảy xa, nhảy cao, việc đặt chân giậm vào vị  trí giậm nhảy một  cách tự  động, chính xác là điều rất quan trọng. Vì vậy trong tập luyện cần  thực hiện các lần nhảy với đà có độ dài khác nhau và cố gắng  đặt chính xác   chân giậm xuống vị trí giậm nhảy. Trong các môn có thể tăng hay giảm trọng  lượng của dụng cụ cũng sẽ tạo điều kiện không những cho sức mạnh mà cả  sự khéo léo phát triển.   III. KẾT LUẬN: Muốn duy trì và nâng cao thể lực, sức khỏe cho học sinh, trước hết giáo  viên cần quan sát, đo lường (hướng dẫn cho học sinh cách đo lường để  bản  thân theo dõi được các chỉ  số của mình) so sánh, đối chiếu để tìm ra nguyên   nhân làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển đó cũng như đưa ra được các biện   pháp tập luyện phù hợp cho các  em. Trên thực tế, giờ  học  ở  lớp giáo viên không thể  một sớm một chiều  làm được điều đó mà rất cần có sự hợp tác tự giác, tích cực từ phía học sinh.   Điều giáo viên nên làm đó là nắm chắc đối tượng học sinh – càng cụ thể càng  tốt (về  chiều cao, cân nặng, sở  thích, thái độ  khi tập TDTT, hoàn cảnh gia   đình…) ngay từ  đầu để  ngoài giúp các em phát triển thể  lực chung còn phải  hướng cho các  em các bài tập riêng phù hợp với sở  trường, điều kiện hoàn  cảnh bản thân. Trong quá trình hướng dẫn tập luyện không được nóng vội, hoặc “đốt  cháy giai đoạn” mà nên tập từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều, từ nhẹ đến nặng,   từ đơn giản đến phức tạp. Những động tác mới hoặc khó không nên đặt yêu  cầu cao quá mà chỉ  nên cho các em tập đúng các phần cơ  bản của động tác.   Khi sửa chữa sai sót cần tránh những biện pháp cứng nhắc mà phải dựa trên  khả  năng, trình độ  của học sinh để  nhắc nhở, hướng dẫn giúp các em sửa   chữa, tạo điều kiện cho các em tự sửa chữa cho nhau và cho chính mình. Bên  cạnh đó, giáo viên cũng cần động viên, khích lệ  giúp các em có thêm ý chí,   niềm tin mới mong có được kết quả khả quan. 12
  13. Tóm lại: Muốn có sức khỏe, thể lực tốt, cơ thể phát triển  hài hòa cân  đối thì ngoài việc đáp  ứng đầy đủ  chất dinh dưỡng, hợp vệ  sinh, còn cần  phải thường xuyên tập luyện TDTT. Trong lĩnh vực tập luyện TDTT, người   thầy phải có tâm, có tầm; học trò phải tự giác, tích cực và thật sự cầu tiến để  hợp tác cùng thầy mới đem lại kết quả như mong muốn. Hay nói cách khác:  thầy và trò cùng thiết kế, trò là người thi công dưới sự giám  sát của thầy.       MỘT SỐ KIẾN NGHỊ: ­ Muốn phát triển tốt thể  lực, sức khỏe cho học sinh rất cần sự phối   hợp chặt chẽ  giữa nhà trường và xã hội. Chúng ta phải biết nói “không” với   những đòi hỏi   thái quá của lớp trẻ  hiện nay và không nên làm thay những   việc các em có thể làm được. Có như  vậy sự  thiếu thốn vận động ở  các em   mới phần nào được cải thiện. ­ Chương trình giảng dạy TDTT trong nhà trường phổ thông cũng như  cách đánh giá hiện nay của chúng ta cần phải được xem lại, bố  trí buổi học  riêng để không chiếm thời lượng chính khóa của các môn học khác.  ­ Cơ  sở  vật chất của trường học nói chung và môn thể  dục nói riêng   cần được trang bị  hợp lý, đồng bộ, không gian dành cho môn thể  dục cần  rộng rãi, thoáng đảng, mát mẻ  và nhất là nên tách biệt để  không  ảnh hưởng   tới các giờ học của môn khác. ­ Chế độ đãi ngộ dành cho giáo viên TDTT cần phải được cân nhắc và  điều chỉnh cho phù hợp với biến động của thị  trường. Từ sự  yêu mến, nhiệt  tình với nghề cùng với việc bản thân luôn luyện tập, trau dồi chuyên môn sẽ  giúp chúng ta thành công trong quá trình hướng dẫn học sinh học môn TDTT,   nhằm tăng cường sức khỏe, thể lực cho các em. Kiến thức của nhân loại là vô tận, sự  hiểu biết của bản thân chỉ  như  giọt nước trong lòng biển khơi. Vì vậy bài viết này ắt sẽ còn nhiều hạn chế  và khiếm khuyết rất mong được sự bổ sung của các nhà chuyên môn, các bạn   đồng nghiệp… để bản thân được mở mang thêm kiến thức và sự hiểu biết.                                          Vĩnh Mỹ A,ngày 26 tháng 12 năm2014 13
  14.                                      Người viết                                                       NguyễnVănTrung              14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1