
1
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Ở nước ta, Các văn kiện của Đảng và Nhà nước như nghị quyết số 29-
NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nghị quyết 88 của
Quốc hội và quyết định số 404 của Thủ tướng Chính phủ đều nhấn mạnh đổi mới
mục tiêu giáo dục trong chương trình giáo dục phổ thông mới đã khẳng định mục
tiêu tổng quát của đổi mới là “phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng,
khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân”, “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ nặng về
trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực của người
học”[1]. Chương trình giáo dục phổ thông mới giải thích năng lực “là thuộc tính cá
nhân được hình thành và phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn
luyện cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc
tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí thực hiện thành công một loại hoạt
động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể”[2].
Vật lí là môn khoa học thực nghiệm, quá trình giảng dạy Vật lí ở trường phổ
thông cần thông qua những thí nghiệm để xây dựng các kiến thức giúp cho học sinh
nhận thức một cách vững chắc những kiến thức trong chương trình cũng như các
kiến thức thực tiễn liên quan. Trong những năm gần đây được sự đầu tư của Nhà
nước cho chương trình cải cách giáo dục trong đó có chương trình cung cấp các
thiết bị thí nghiệm phù hợp với chương trình giảng dạy đã làm cho các bài giảng
thêm phong phú sinh động và có tính trực quan cao. Tuy những thí nghiệm thực
hành và thí nghiệm biểu diễn đã tạo cho học sinh sự hứng khởi trong quá trình tiếp
thu kiến thức, nhưng khả năng độc lập tư duy, khả năng tự xây dựng phương án cho
một thí nghiệm vẫn còn hạn chế. Số lượng bài tập thí nghiệm thực hành ở SGK,
SBT và các tài liệu tham khảo rất ít.
Mặt khác! trong các loại bài tập vật lí thì bài tập thí nghiệm có nhiều lợi thế
thực hiện nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục, phát huy tư duy và giáo dục kĩ thuật tổng
hợp. Tuy vậy, trong nhà trường phổ thông ở nước ta giáo viên hầu như không quan
tâm tới loại bài tập này. Trong đổi mới phương pháp dạy học vật lí, một trong
những vấn đề đặt ra là phải phát huy tính sáng tạo cho học sinh trong việc giải
quyết các vấn đề thực tiễn.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới dạy học, từ chương trình giáo dục phổ thông
mới, từ giá trị của mô hình dạy học hệ thống bài tập thí nghiệm trong bộ môn Vật lí
bậc THPT nên tôi đã chọn đề tài: Xây dựng hệ thống bài tập thí nghiệm chương II
môn vật lí 11 cơ bản nhằm phát huy tính sáng tạo cho học sinh trong việc giải
quyết các vấn đề thực tiễn.

2
1.2. Điểm mới của đề tài:
Đề tài đã xây dựng được hệ thống, phân loại, và đưa ra các bước giải bài tập
thí nghiệm chương: “Dòng điện không đổi” môn vật lí 11 cơ bản nhằm phát huy
tính sáng tạo cho học sinh trong việc giải quyết các vấn đề thực tiễn. Từ đề tài này,
giáo viên và học sinh có thể áp dụng để xây dựng hệ thống bài tập thí nghiệm cho
các chương, các phần khác của chương trình môn vật lí THPT.
1.3. Đối tượng, phạm vi, thời gian nghiên cứu:
1.3.1. Đối tượng:
- Học sinh lớp 11
- Quá trình dạy học chương “Dòng điện không đổi” – Vật lí 11 cơ bản.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Tại 03 trường THPT trên địa bàn Thị xã Thái Hòa - Tỉnh Nghệ An: THPT
Thái Hoà, THPT Tây Hiếu, THPT Đông Hiếu.
1.3.3. Kế hoạch thời gian thực hiện”
Thời gian Nội dung
Tháng 9/2020 - 12/ 2021
Viết đề cương và triển khai sáng kiến trong giai
đoạn thử nghiệm, khảo sát và đánh giá kết quả đạt
được.
Tháng 01/2021 - 02/ 2021 Tiếp tục áp dụng sáng kiến để kiểm định độ tin cậy
của các giải pháp đề ra.
Tháng 3/2021 Hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm.
1.4. Giả thuyết khoa học:
Nếu xây dựng và sử dụng một hệ thống bài tập thí nghiệm bảo đảm tính khoa
học, đáp ứng được mục tiêu dạy học chương “Dòng điện không đổi” – vật lí 11 cơ
bản thì có thể góp phần phát huy tính sáng tạo cho học sinh trong việc giải quyết
các vấn đề thực tiễn.
1.5. Phương pháp nghiên cứu:
* Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
- Nghiên cứu các tài liệu lí luận dạy học để làm sáng tỏ về mặt lí luận các vấn đề
có liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu chương trình SGK và sách bài tập, các tài liệu tham khảo để phân tích
cấu trúc, nội dung của các kiến thức thuộc chương “Dòng điện không đổi”- vật lí 11
cơ bản.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

3
- Tìm hiểu, điều tra, thăm dò thực trạng sử dụng BTTN ở trường THPT.
- Thực nghiệm sư phạm.
1.6. Đóng góp của đề tài:
- Xây dựng được hệ thống, phân loại BTTN và đưa ra được các bước giải
BTTN để dạy học chương “Dòng điện không đổi” môn vật lí 11 cơ bản.
- Đề xuất các phương án sử dụng BTTN trong dạy học chương “Dòng điện
không đổi” môn vật lí 11 cơ bản.
- Từ đề tài này, giáo viên và học sinh có thể xây dựng và giải BTTN cho các
chương, phần khác của chương trình vật lí THPT.

4
PHẦN 2. NỘI DUNG
Chương 1 . Cở sở lí luận của đề tài.
I. Cơ sở lí luận và thực tiễn
1.1. Khái niệm về bài tập thí nghiệm trong môn vật lí ở trường phổ thông:
BTTN là loại bài tập mà khi giải, đòi hỏi HS phải vận dụng một cách tổng
hợp nhiều kiến thức lí thuyết và thực nghiệm, các khả năng hoạt động trí óc và
chân tay, vốn hiểu biết kĩ thuật...để xây dựng phương án, lựa chọn hoặc chế tạo
phương tiện thực hiện TN để quan sát diễn biến hiện tượng hoặc để đo đạc một số
đại lượng cần thiết, sau đó xử lí tư liệu đã quan sát và đo đạc nhằm tìm ra lời giải
và đáp số cuối cùng mà bài tập yêu cầu. Thông thường những TN này khá đơn
giản, HS có thể tự thiết kế, lắp ráp bằng cách sử dụng ngay những đồ dùng học tập,
dụng cụ sinh hoạt hàng ngày hoặc tự chế tạo được bằng những vật liệu rẻ tiền, phế
liệu từ đồ chơi trẻ em và từ các vật dụng cũ hỏng đã bỏ đi. Cũng có lúc HS phải
làm một số TN ở trong phòng TN của nhà trường, song nhìn chung đó vẫn là TN
đơn giản.
Giải BTTN là một hình thức hoạt động nhằm nâng cao chất lượng học tập,
tăng cường hứng thú, sáng tạo, gắn học với hành, lí luận với thực tiễn, kích thích
tính tích cực, tự lực, tư duy sáng tạo, tháo vát của từng HS và đặc biệt đối với HS
khá giỏi.
BTTN có thể được sử dụng trong các tiết lí thuyết; dùng trong các tiết bài
tập; dùng trong tiết ôn tập; kiểm tra (như yêu cầu học sinh thiết kế, mô tả một thí
nghiệm); trong các buổi ngoại khoá; giờ thực hành...Vì thế độ phức tạp của BTTN
cũng phải khác nhau. Muốn nâng cao chất lượng học tập, đào sâu mở rộng kiến
thức, phát triển tư duy sáng tạo cho HS trong dạy học vật lí, chúng ta phải cho HS
tăng cường giải quyết nhiều BTTN. Dĩ nhiên không quên kết hợp BTTN với các
loại bài tập vật lí khác.
1.2. Tác dụng của bài tập thí nghiệm với tác dụng với việc phát huy tính sáng
tạo cho học sinh trong giải quyết các vấn đề thực tiễn:
- Bài tập thí nghiệm tạo ra ở học sinh động cơ học tập, sự hăng say tò mò khám
phá xây dựng kiến thức mới, truyền cảm hứng cho học sinh, tự giác tư duy độc lập,
tích cực sáng tạo.
- Thông qua bài tập thí nghiệm sẽ tạo ra học sinh khả năng tổng hợp kiến thức lý
thuyết và thực nghiệm, các kỹ năng hoạt động trí óc và thực hành một cách khéo
léo, các vốn hiểu biết về vật lý, kỹ thuật và thực tế đời sống nhằm phát huy tốt nhất
khả năng suy luận, tư duy lôgic.
- Với bài tập thí nghiệm, học sinh có thể đề xuất các phương án thí nghiệm khác
nhau tạo không khí tranh luận sôi nổi trong lớp, trong các hoạt động ngoại khóa...

5
- Bài tập thí nghiệm giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong giải quyết các vấn
đề thực tiễn gắn liền với đời sống hàng ngày.
1.3. Phân loại bài tập thí nghiệm vật lí:
Căn cứ vào yêu cầu và phương pháp giải chúng ta có thể phân chia BTTN
thành hai loại là: BTTN định tính và BTTN định lượng
1.3.1. BTTN định tính:
* Loại bài tập này không có các phép đo đạc, tính toán định lượng. Khi giải
nó thì HS phải lắp ráp TN theo sơ đồ cho trước hoặc theo những điều kiện đã xác
định; sau đó tiến hành TN. HS phải quan sát diễn biến của hiện tượng vật lí trong
TN và sử dụng những suy luận lôgic dựa trên cơ sở các định luật, khái niệm vật lí
đã học để mô tả và giải thích những kết quả đã quan sát được, hoặc sử dụng kết
quả mà từ thí nghiệm quan sát được để giải thích các hiện tượng đã có.
* Phân dạng BTTN định tính:
Dạng I: BTTN quan sát và giải thích hiện tượng
Khi giải bài tập dạng này yêu cầu HS phải thực hiện các công việc sau:
+ Làm TN theo sự trợ giúp, định hướng của giáo viên.
+ Quan sát TN theo mục tiêu đã chỉ sẵn.
+ Mô tả hiện tượng bằng kiến thức đã được lĩnh hội.
Để giải dạng bài tập này thì HS cần phải trả lời các câu hỏi như:
+ Câu hỏi 1: Hiện tượng xảy ra như thế nào?
+ Câu hỏi 2: Tại sao lại xảy ra hiện tượng đó?
Trả lời câu hỏi thứ nhất HS tham gia vào quá trình tích luỹ kiến thức về hiện
tượng, mô tả được diễn biến của hiện tượng. Còn câu hỏi thứ hai, giúp cho HS liên
hệ sự kiện quan sát xảy ra trong thí nghiệm với những định nghĩa, khái niệm, hiện
tượng vật lí đã học. Tức là giúp HS biết cách lập luận khi giải thích bản chất của
hiện tượng. Đây chính là cơ hội để bồi dưỡng cho HS các thao tác tư duy, khả năng
lập luận, diễn đạt bằng ngôn ngữ nói và viết.
Ví dụ 1: Cho mạch điện có sơ đồ như hình vẽ.
Hãy làm thí nghiệm, và cho biết số chỉ của của
Ampe kế thay đổi thế nào khi thay đổi giá trị
của R4. Giải thích vì sao số chỉ của Ampe kế
lại thay đổi như vậy?
R
1
R
2
R
3
R
4
A
E