Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số vấn đề cơ bản khi ôn luyện phần truyện ngắn hiện đại
lượt xem 4
download
Mục đích nghiên cứu đề tài là góp thêm một số kinh nghiệm luyện thi cho đồng nghiệp tỉnh nhà, giúp họ nâng cao hơn nữa chất lượng mỗi giờ dạy, trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết để các em tự tin bước vào kì thi THPT Quốc gia, thi học sinh giỏi.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số vấn đề cơ bản khi ôn luyện phần truyện ngắn hiện đại
- SỞ GD&ĐT VĨNH PHÚC TRƯỜNG THPT NGUYỄN THÁI HỌC =====***===== BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN KHI ÔN LUYỆN PHẦN TRUYỆN NGẮN HIỆN ĐẠI TÁC GIẢ : NGUYỄN THỊ THANH LOAN MÃ SÁNG KIẾN : 05.51
- Vĩnh Phúc, tháng 2 năm 2020 BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu Truyện ngắn là một trong ba thể loại quan trọng (cùng với thơ và kịch) được đưa vào giảng dạy trong chương trình Sách giáo khoa Ngữ vănTHPT. Sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ năng cùng hàng loạt sách tham khảo khác đều hướng dẫn phương pháp dạy cho từng bài, từng thể loại. Song các tài liệu trên chỉ có tính chất khái quát hoặc tản mạn, chưa tập trung, chưa triển khai hết các góc độ của tác phẩm theo đặc trưng thể loại nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong quá trình giảng dạy, đồng thời chưa tỉ mỉ trong việc giải quyết các vấn đề then chốt. Trong khi đó truyện ngắn lại là thể loại có tần số thi cử khá nhiều. Đây là những lí do khiến chúng tôi thực hiện chuyên đề: Một số vấn đề cơ bản khi ôn luyện phần truyện ngắn hiện đại. Trong chuyên đề này, tôi dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu những vấn đề cơ bản khi ôn luyện truyện ngắn. Sau một thời gian thực hiện tôi đã thu nhận được những kết quả tương đối tốt của chuyên đề. Đây chính là lí do tôi xin mạo muội trình bày lại những sáng kiến của mình với mong muốn góp thêm một số kinh nghiệm luyện thi cho đồng nghiệp tỉnh nhà, giúp họ nâng cao hơn nữa chất lượng mỗi giờ dạy, trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết để các em tự tin bước vào kì thi THPT Quốc gia, thi học sinh giỏi. 2. Tên sáng kiến: "Một số vấn đề cơ bản khi ôn luyện phần truyện ngắn hiện đại". 3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi, thi THPT Quốc gia và nghiên cứu Ngữ văn.
- 4. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Năm 2020 5. Mô tả bản chất của sáng kiến. 5.1 NỘI DUNG SÁNG KIẾN A.TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU I. CƠ SỞ LÝ LUẬN Đọc hiểu tác phẩm văn học là một công việc khó khăn bởi phải huy động vốn kiến thức về nhiều mặt ( lịch sử xã hội, lịch sử văn học, xã hội học, tâm líí học…) Nhưng có kiến thức chưa đủ, còn phải có cả khả năng cảm thụ, tức là cần có sự nhạy bén về tình cảm, cảm xúc trước cái đẹp văn chương. Ngoài ra còn phải nắm được phương pháp tiếp cận tác phẩm, khám phá các khía cạnh khác nhau của tác phẩm. Đối với một truyện ngắn, khi khai thác cần chú ý những vấn đề then chốt sau: 1. Phong cách tác giả Phong cách là biểu hiện tài nghệ của người nghệ sĩ ngôn từ trong việc đem đến cho người đọc một cái nhìn mới mẻ từng chưa có về cuộc đời thông qua những phương thức, phương tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân người sáng tạo. Phong cách tác giả không phải qua một tác phẩm là có thể nhận thấy ngay, vì thế phần tiểu dẫn cho một văn bản văn học trong sách giáo khoa bao giờ cũng giới thiệu phong cách tác giả của nó. Người học khi khai thác tác phẩm cần nắm được điều này để soi chiếu, đánh giá sâu nội dung, nghệ thuật, vị trí của tác phẩm, nét độc đáo của nó so với những tác phẩm khác. 2. Bối cảnh truyện Bối cảnh truyện bao giờ cũng là yếu tố có tầm quan trọng bậc nhất trong việc hiểu đúng tư tưởng tác phẩm.
- Hiểu bối cảnh truyện, người tìm hiểu truyện dễ dàng phân tích các yếu tố nội dung tác phẩm, tránh nhầm lẫn trước những vấn đề có nhiều cách hiểu khác nhau. Bối cảnh truyện bao giờ cũng có yếu tố liên quan đến hoàn cảnh lịch sử của đất nước. Hiểu được nó, ta sẽ đánh giá chính xác vai trò, vị trí, ý nghĩa của tác phẩm. 3. Các yếu tố nội dung tác phẩm 3.1. Chủ đề: Vấn đề cơ bản được nêu ra trong văn bản. Ví dụ Chí Phèo – Nam Cao: Sự mâu thuẫn giữa nông dân với cường hào. 3.2. Đề tài: Đối tượng để miêu tả, thể hiện trong tác phẩm. Nói cách khác nó là lĩnh vực đời sống được nhà văn nhận thức, lựa chọn, khái quát, bình giá và thể hiện trong văn bản. Ví dụ Tắt đèn – Ngô Tất Tố: Cuộc sống bi thảm của người dân Việt Nam trước CMT8/1945, trong những ngày sưu thuế. 3.3. Nội dung cảm hứng: Niềm hứng khởi của người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật, sự thôi thúc mạnh mẽ từ cả tâm hồn và trí óc khi hướng tới một đối tượng thẩm mỹ nào đó. 3.4. Giá trị tư tưởng: Tư tưởng là ý nghĩ và quan điểm chung của tác giả với hiện thực khách quan. Trong một tác phẩm truyện, giá trị tư tưởng bao giờ cũng quy về tư tưởng yêu nước, tư tưởng nhân đạo. 4. Các yếu tố nghệ thuật chính Một truyện ngắn, để truyền tải tốt nội dung, người viết luôn phải quan tâm đến các yếu tố nghệ thuật, nghệ thuật có sáng tạo, có độc đáo mới phát huy hết giá trị nội dung, mới làm bật lên tư tưởng tình cảm của người cầm bút. Người học bắt buộc phải nắm kĩ các yếu tố nghệ thuật của một tác phẩm truyện. Bao gồm các yếu tố chính sau: 4.1. Nhan đề
- Các nhà thơ, nhà văn khi tạo ra tác phẩm đều có ý thức cao trong việc chọn tên gọi cho đứa con tinh thần của mình. Nhan đề thường có vai trò thâu tóm nội dung tư tưởng của tác phẩm, hơn thế nữa nhiều khi nó chính là một yếu tố nghệ thuật làm nên thành công của tác phẩm. 4.2. Cách vào truyện (cách mở đầu) Gây ấn tượng và cuốn hút người đọc đầu tiên phải là nhan đề, nhưng sau nữa phải kể đến là cách vào truyện (cách mở đầu). Cách mở đầu của truyện ngắn thao túng toàn bộ định hướng phát triển của mạch truyện, nó chất chứa và châm ngòi cho cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Khai mở cảm xúc, mạch truyện. Một mở đầu hay phải ấn tượng, lạ, trở thành điểm tựa cho sự sáng tạo của nhà văn và tạo sức hấp dẫn với người đọc. 4.3. Cốt truyện Là hệ thống sự kiện làm nòng cốt cho sự diễn biến các mối quan hệ và sự phát triển của tính cách nhân vật trong tác phẩm. 4.4. Nhân vật Là đối tượng được miêu tả (thường là con người) trong tác phẩm. Đây là yếu tố trung tâm, nơi người nghệ sĩ gửi gắm quan điểm, suy nghĩ của mình về cuộc sống. Qua nhân vật ta dễ dàng nhận ra phong cách, tài năng nghệ thuật của tác giả. 4.5. Tình huống truyện Tình huống truyện là tình thế xảy ra truyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự việc diễn ra rất đậm đặc, là khoảnh khắc chứa đựng cả đời người. Tình huống truyện còn được hiểu là mối quan hệ đặc biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh và môi trường sống. Qua tình huống nhà văn bộc lộ tâm trạng, tính cách, thân phận của nhân vật… Tình huống góp phần thể hiện tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ một cách sâu sắc. 4.6. Cách kết thúc truyện
- Kết thúc còn gọi là mở nút Một trong những thành phần của cốt truyện, thường tiếp theo ngay sau đỉnh điểm, đảm nhiệm chức năng thể hiện tình trạng cuối cùng của xung đột được miêu tả trong tác phẩm. Một kết thúc truyện hay là vừa làm nhiệm vụ kết luận, vừa giải quyết vấn đề mâu thuẫn đường dây, vừa là hình ảnh cuối cùng đọng lại trong tâm trí người đọc, vừa phải gây được ấn tượng sâu sắc. Cho nên, nếu tác giả cài được một ý triết lý tích cực rút ra từ nội dung câu chuyện, truyện sẽ được nâng lên bất ngờ. 4.7. Cách sử dụng ngôn ngữ Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của tác phẩm văn học. Ngôn ngữ trong văn học giống như màu sắc trong hội họa, âm thanh trong âm nhạc. Trong sự lao động của nhà văn có sự lao động về ngôn ngữ, trong sự giày vò của sáng tạo nghệ thuật có sự giày vò về ngôn từ. Thành công của tác phẩm một phần lớn là nhờ khả năng ngôn ngữ của tác giả. II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU: 1. Thuận lợi: Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy và học của Ngành và của toàn xã hội. Yêu cầu của mục tiêu bài học trong chuẩn kiến thức, kĩ năng của mỗi bài dạy cụ thể của Bộ Giáo Dục và Đào tạo. Gợi ý hướng dẫn giảng dạy theo thể loại từng bài của sách giáo viên. Kinh nghiệm giảng dạy của giáo viên. Học sinh phát huy được tính chủ động và sáng tạo trong việc tìm hiểu, khám phá tác giả, tác phẩm văn học. 2. Khó khăn: Phương pháp này khó đạt hiệu quả cao nếu học sinh không tích cực chủ động, chuẩn bị bài trước khi lên lớp. Năng lực đọc – hiểu của học sinh còn hạn chế, văn hóa đọc chưa tự giác.
- Xu thế xã hội, tâm lí học sinh chú trọng các môn khoa học tự nhiên hơn là các môn khoa học xã hội. Tiếp cận và khai thác tác phẩm dựa vào đặc trưng thể loại mà kiến thức lí luận của học sinh còn hạn chế. III. MÔ TẢ CÁC GIẢI PHÁP NGHIÊN CỨU: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản, khám phá tác phẩm đi từ kiến thức cơ bản đến kiến thức nâng cao. Hệ thống hóa các mức độ kiến thức kiểm tra, hệ thống câu hỏi, đề kiểm tra về tác phẩm truyện ngắn. Hướng dẫn giải các đề cụ thể. B. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU: I. HỆ THỐNG KIẾN THỨC CƠ BẢN. 1. Những hiểu biết về tác giả Cuộc đời. Sự nghiệp sáng tác văn học. Phong cách nghệ thuật. 2. Những hiểu biết về tác phẩm. Hoàn cảnh sáng tác Xuất xứ. Giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. II. CÁC DẠNG ĐỀ VÀ GỢI Ý LỜI GIẢI Thực hiện việc đổi mới kiểm tra đánh giá chất lượng học tập theo hướng đánh giá năng lực học sinh ở các mức độ: thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao. Cụ thể là tập trung vào đánh giá hai kĩ năng quan trọng: kĩ năng đọc hiểu văn bản và kĩ năng viết văn bản của học sinh.
- Mỗi một văn bản truyện trong chương trình Ngữ văn lớp 11, lớp 12 (theo giới hạn chương trình của bộ GD & ĐT) đều có thể có mặt trong cấu trúc đề thi THPT Quốc gia. (đề thi ra theo hướng mở). + Dạng câu hỏi kiểm tra phần đọc hiểu . + Dạng câu hỏi kiểm tra kĩ năng viết văn bản nghị luận văn học. Như vậy, mỗi một văn bản có thể rơi vào một trong hai dạng câu hỏi của đề thi hoặc cả hai dạng. Nắm vững kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm , thành thạo các kĩ năng: đọc hiểu văn bản, kĩ năng làm văn nghị luận học sinh hoàn toàn có thể làm bài thi tốt. 1. Dạng câu hỏi đọc hiểu (3,0 điểm ). 1.1 Cách thức ôn tập, kiểm tra kĩ năng đọc hiểu: Ở phần đọc hiểu về kiến thức lí thuyết chủ yếu là kiến thức tiếng việt: ngữ pháp, cấu trúc câu, phong cách ngôn ngữ, kết cấu đoạn văn, các biện pháp nghệ thuật tiêu biểu và hiệu quả của biện pháp nghệ thuật đó trong một đoạn văn, thơ cho sẵn. Để làm tốt phần đọc hiểu, giáo viên cần giúp học sinh nắm vững các kiến thức lí thuyết trên và xây dựng các loại câu hỏi tập trung vào một số khía cạnh sau: + Nội dung chính và các thông tin quan trọng của văn bản; hiểu ý nghĩa của văn bản; đặt tên cho văn bản. + Những hiểu biết về từ ngữ, cú pháp, chấm câu, cấu trúc, thể loại văn bản. + Một số biện pháp nghệ thuật trong văn bản và hiệu quả của chúng. 1.2. Thực hành. Đề : Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi nêu ở dưới. Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chắng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay
- tất cả làng Vũ Đại. nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “ Chắc nó chừa mình ra!” không ai lên tiếng cả .Tức thật! ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn . nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đã đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo! Hắn nghiến răng vào mà chửi cái đứa đã đẻ ra Chí Phèo. Nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo? Có mà trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại không ai biết… Gợi ý 1. Nêu xuất xứ và nội dung cơ bản của đoạn trích? Đây là đoạn mở đầu truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao Đoạn trích miêu tả cảnh Chí Phèo uống rượu say và vừa đi vừa chửi giữa sự thờ ơ của tất cả mọi người. 2. Chỉ rõ những tính chất tiếng chửi của Chí Phèo? Những tiếng chửi ấy cho thấy bi kịch gì của Chí Phèo? Những tiếng chửi của Chí Phèo vu vơ, uất ức, hắn chửi từ trời đến đời, từ làng Vũ Đại đến những người không chửi nhau với hắn…hắn chửi tất cả mà chẳng chúng vào ai. Bởi Chí Phèo không biết ai làm hắn khổ, còn cả làng Vũ Đại ai cũng nghĩ mình vô can trong bi kịch của Chí. Những tiếng chửi vu vơ, phấn uất ấy cho thấy Chí mơ hồ cảm nhận bi kịch đau khổ của một kẻ lạc loài, một kẻ hoàn toàn bị gạt bỏ ra bên lề cuộc sống bình dị của dân làng, hòan toàn đứng ngoài xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hình như dưới đáy cùng của cơn say triền miên u tối chí vẫn thèm nghe người ta nói với mình, cũng tức là công nhận sự tồn tại của mình trong cộng đồng loài người, dẫu sự công nhận chỉ bằng tiếng chửi, nhưng cả làng Vũ Đại, cả xã hội lòai người kiên quyết từ bỏ, tẩy chay Chí.
- 3. Anh/ chị có thể giải thích để trả lời giúp Chí Phèo câu hỏi: Ai đẻ ra Chí Phèo ? Người mẹ khốn khổ bất hạnh nào đó chỉ đẻ ra một hài nhi bị bỏ rơi trong lò gạch cũ; những người dân làng Vũ Đại nhân hậu đã cưu mang, nuôi lớn và tạo ra một anh Chí nghèo khổ nhưng lương thiện. Nhà văn đã cho thấy, chính xã hội thực dân nửa phong kiến trước 1945 đã đẻ ra Chí Phèo khi hủy hoại phần thiên lương, tước đoạt vĩnh viễn quyền làm người của Chí. Cụ thể, nhà tù thực dân cùng những thủ đoạn áp bức tàn bạo của bọn cường hào, ác bá ở nông thôn Việt nam trước Cách mạng đã đẩy những người nông dân lương thiện như Năm Thọ, Binh Chức, Chí Phèo,…vào con đường tha hóa lưu manh, đó chính là những kẻ đã đẻ ra Chí Phèo, đã hủy hoại nhân hình để Chí trở thành một con vật lại, hủy hoại nhân tính để Chí trở thành con quỉ dữ. 2. Dạng đề nghị luận văn học ( 5,0 điểm ) Để làm tôt các bài văn nghị luận văn học, học sinh cần biết vận dụng những kĩ năng viết văn đã học để tạo lập văn bản văn học theo hướng mở và tích hợp trong môn và liên môn, tập trung vào một số khía cạnh: Tri thức về viết văn bản ( kiểu loại văn bản, cấu trúc văn bản, quá trình viết). Các kĩ năng viết (đúng chính tả, ngữ pháp; viết theo phong cách ngôn ngữ viết, sử dụng từ và cấu trúc ngữ pháp trong bài viết; lập dàn ý và phát triển ý; bộc lộ quan điểm, tư duy của mình) Khả năng viết các loại văn bản phù hợp với mục đích, đối tượng.( vận dụng vào thực tiễn học tập và đời sống ). 2.1 Giá trị nội dung của tác phẩm. 2.1.1. Giá trị hiện thực của tác phẩm. Đề : Giá trị hiện thực trong truyện ngắn "Chí Phèo"của Nam Cao và "Hai đứa trẻ"của Thạch Lam.
- Gợi ý 1. Giới thiệu chung. Về giá trị hiện thực: Về nhà văn Nam Cao và Thạch Lam: hai cây bút tiêu biểu của hai dòng văn học giai đoạn 1930 – 1945( hiện thực phê phán và lãng mạn) nhưng cả hai nhà văn đều nắm bắt khá rõ hiện thực đời sống và phản ánh vào trong tác phẩm. Hiện thực cuộc sống con người giai đoạn 1930 1945 đã được khắc họa với những nét tiêu biểu và chân thực trong hai tác phẩm của Thạch Lam và Nam Cao. 2. Giá trị hiện thực trong truyện ngắn "Chí Phèo" và "Hai đứa trẻ" 2.1. Giống nhau: Đều phản ánh hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến giai đoạn 19301945. Hiện thực của những con người nghèo khổ: + Chí Phèo: không có miếng ăn, không tấc đất cắm dùi. + Hai đứa trẻ: cảnh chợ tàn với cuộc sống cơ cực của con người. Hiện thực cuộc sống quẩn quanh không lối thoát. Chí Phèo: + Bị đẩy đến bước đường cùng + Hình ảnh chiếc lò gạch cũ bỏ hoang (ở đầu và cuối tác phẩm) Hai đứa trẻ: + Không gian phố huyện chiều tàn + Nhịp sống của con người nhàm tẻ, quẩn quanh. Hiện thực về những con người với những phẩm chất tốt đẹp. + Giàu tình yêu thương. + Khát vọng sống mãnh liệt. 2.2 Khác nhau. Chí Phèo: + Xã hội nông thôn nổi bật lên với mâu thuẫn giai cấp.
- + Con người bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Hai đứa trẻ: + Hiện thực xã hội thành thị với cuộc sống tối tăm, lay lắt. Cách phản ánh hiện thực. + Chí Phèo: bút pháp hiện thực xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. + Hai đứa trẻ: bút pháp lãng mạn kết hợp bút pháp hiện thực. 4.3 Đánh giá chung. Hiện thực phản ánh sinh động, chân thực, mang tính khái quát. Nghệ thuật khắc họa nhân vật: mang đặc điểm nhân vật của chủ nghĩa hiện thực và nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn 2.1.2 Giá trị nhân đạo của tác phẩm. Đề : Giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân. Gợi ý 1. Giới thiệu chung. Về giá trị nhân đạo: là một giá trị cơ bản của những tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người; sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của nó. Về tác phẩm: Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và của văn học Việt Nam sau 1945. Truyện được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Thông qua tình huống truyện độc đáo, tác giả cho ta thấy cuộc sống tối tăm cũng như khát vọng sống mãnh liệt, ý thức về nhân phẩm rất cao của những người lao động trong nạn đói năm 1945. 2. Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Vợ nhặt”của Kim Lân
- Tác phẩm bộc lộ niềm xót xa, thương cảm với cuộc sống bi đát của người dân nghèo trong nạn đói. Qua đó tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân, phát xít đối với nhân dân ta (phân tích dẫn chứng để chứng minh) + Tác phẩm đi sâu khám phá và nâng niu trân trọng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của con người: + Những khao khát hạnh phúc ở Tràng: cái tặc lưỡi có phần liều lĩnh, cảm giác mới mẻ “mơn man khắp da thịt”, êm ái lửng lơ sau đêm tân hôn… + Ý thức bám lấy sự sống rất mạnh mẽ ở nhân vật vợ nhặt: chấp nhận theo không Tràng, bỏ qua ý thức về danh dự. + Ý thức vun đắp cuộc sống của các nhân vật: mẹ chồng nàng dâu quét dọn nhà cửa, bà cụ Tứ bàn về việc đan phên, nuôi gà… + Niềm hi vọng đổi đời của các nhân vật: hình ảnh lá cờ và đoàn người đói đi phá kho thóc của Nhật… Tác phẩm thể hiện lòng tin sâu sắc vào phẩm giá, lòng nhân hậu của con người: + Tràng: Sự thông cảm, lòng thương người, sự hào phóng, chu đáo, tình nghĩa, thái độ, trách nhiệm. + Sự biến đổi của người vợ nhặt sau khi theo Tràng về nhà: Vẻ chao chát, chỏng lỏn, đanh đá đã biến mất. Thay vào đó là sự hiền hậu, đúng mực, ý tứ, đảm đang, hiếu thảo. + Tấm lòng nhân hậu của bà cụ Tứ: Thương con, cảm thông với tình cảnh của nàng dâu, trăn trở về bổn phận làm mẹ, cố tạo niềm vui trong gia đình giữa cảnh sống thê thảm. 3. Đánh giá chung. Điểm đáng nói nhất về giá trị nhân đạo của tác phẩm là niềm tin tưởng sâu sắc vào con người lao động, vào bản năng, khát vọng sống mạnh mẽ của họ. Tình cảm nhân đạo ở đây có nét mới mẻ so với tình cảm nhân đạo được thể hiện trong nhiều tác phẩm của văn học hiện thực trước Cách mạng.
- 2.1.3. Nhân vật trong tác phẩm. Đề : Cảm nhận về vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân. Dàn ý A. Mở bài: Giữa cuộc đời cũng như trong nghệ thuật, Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ có lí tưởng thẩm mĩ và phong cách độc đáo. Đánh giá về Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nói : Nguyễn là “một định nghĩa về người nghệ sĩ”. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân nổi tiếng với “Vang bóng một thời” – tập truyện được xuất bản năm 1940, viết về những vẻ đẹp của “một thời” đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Trong tập truyện này, Chữ người tử tù được xem là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, kết tinh phong cách sáng tác và tài năng nghệ thuật của nhà văn. Trong thiên truyện “gần đạt đến sự toàn thiện, toàn mĩ” này, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao, với sự kết hợp nhuần nhuyễn của tài hoa, khí phách và thiên lương. B. Thân bài: ● Nguyên mẫu của hình tượng nhân vật Huấn Cao Theo các nhà nghiên cứu, nhân vật Huấn Cao được xây dựng từ nguyên mẫu là Cao Bá Quát (18081855). Trong lịch sử nước ta, Cao Bá Quát không chỉ nổi danh là “văn hay chữ tốt” như đương thời truyền tụng “Thần Siêu, thánh Quát”mà còn nổi tiếng là người cương trực, quý trọng tài năng, có bản lĩnh, sống có lý tưởng và dám đương đầu với cường quyền. Tuy nhiên, Cao Bá Quát chỉ là một điểm tựa, một “chất liệu văn học” để Nguyễn Tuân xây dựng nên nhân vật của mình. Phần hư cấu, sáng tạo của nhà văn vẫn là chủ yếu bởi Huấn Cao đã xuất hiện trong tác phẩm theo đúng lý tưởng thẩm mĩ và quan niệm nghệ thuật của tác giả.
- ● Huấn Cao trước hết là người nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp, người kết tinh vẻ đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc và tấm lòng yêu nước mang màu sắc riêng của nhà văn. Trong truyện Chữ người tử tù, Huấn Cao nổi lên là một nghệ sĩ tài hoa hiếm có trong nghệ thuật thư pháp. + Ngay từ đoạn văn mở đầu tác phẩm, thông qua một đối thoại ngắn giữa quản ngục và thầy thơ lại, nhà văn đã “gieo” trên trang văn một lời giới thiệu không thể thuyết phục hơn về tài năng của con người này. Đó là “cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp ”. Đây không phải là lời ngợi khen của một người mà là lời của người dân cả một tỉnh, tức là tài năng của ông Huấn từ lâu đã được công chúng rộng rãi thừa nhận. + Tuy nhiên, với riêng ngục quan, tên tuổi và tài nghệ của “người đứng đầu bọn phản nghịch” ấy còn nhiều hơn thế. Không biết từ nguồn nào và từ bao giờ, viên quan coi ngục này đã biết “cái tài viết chữ tốt” của Huấn Cao: “Chữ của ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Và cũng đã từ rất lâu rồi, nhưng chưa bao giờ có dịp được nói ra, “cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do chính tay ông Huấn Cao viết… Có được chữ của ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời”. + Về phía chủ quan, mong muốn ấy của quản ngục xuất phát từ thú chơi chữ của ông ta. Nhưng về phía khách quan, chữ của Huấn Cao phải đẹp lắm, quý lắm, phải là “báu vật” hiếm có trên đời mới có thể khiến viên quan coi ngục lần đầu tiên có cái nhìn “hiền lành” và tỏ rõ thái độ “kiêng nể” với sáu người tù mà thực chất chỉ là Huấn Cao. Đặc biệt, quản ngục sẵn sàng “biệt đãi” ông Huấn – điều mà cả ông ta và bất cứ ai cũng thừa hiểu là hành động phạm pháp, thậm chí bị quy vào tội đồng lõa với tội phạm. Với tội danh này, nặng thì bị xử tử giống như những phạm nhân kia, nhẹ thì mất nghiệp, khuynh gia bại sản. Điều ấy, một người đại diện cho pháp luật như quản ngục không thể không hiểu. Nhưng cái gì đã khiến ngục quan nhẫn nại, hạ mình, dám đánh
- đổi cả sự nghiệp, thậm chí cả tính mạng của mình đến như vậy ? Rốt cuộc chỉ có một điều cốt lõi, ấy là chữ của Huấn Cao – một “vật báu trên đời” và vì thế với những người có thú chơi chữ như quản ngục thì được treo chữ của ông Huấn là một trong những sự mãn nguyện lớn nhất trong cuộc đời. => Có thể khẳng định, Nguyễn Tuân đã thành công khi miêu tả tài viết chữ của Huấn Cao. Cái giỏi của nhà văn là không có một từ nào miêu tả cụ thể về những chữ mà Huấn Cao đã viết, kể cả ở cảnh cho chữ cuối cùng, thế mà ấn tượng về tài năng của Huấn Cao, về người tử tù có phẩm chất nghệ sĩ, có tài nghệ hơn người vẫn đậm sâu trong lòng bạn đọc. Giống như thủ pháp “vẽ mây nảy trăng” thường thấy trong thơ, phương thức miêu tả gián tiếp của nhà văn đã có được hiệu quả nghệ thuật rõ nét trong trường hợp này. + Với những gì đã viết về Huấn Cao, nhất là qua thái độ, lời nói của nhân vật quản ngục, thơ lại, Nguyễn Tuân không hề giấu giếm thái độ say mê, cảm phục của mình đối với những người như ông Huấn. Đó là người “kết tinh” và tỏa sáng một trong những vẻ đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc. Vẻ đẹp ấy, ở thời đại Nguyễn Tuân, lại đang có nguy cơ mai một, rất dễ thuộc về “một thời” đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Do đó, sáng tạo hình tượng Huấn Cao có thể xem là một phương thức nghệ thuật đắc dụng để nhà văn kín đáo thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng của mình đối với những giá trị văn hoá cổ truyền của đất nước. Đây chính là tinh thần dân tộc, là lòng yêu nước mang nét đặc trưng riêng của nhà văn. Không phải ngẫu nhiên, nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh – chuyên gia nghiên cứu về Nguyễn Tuân đã từng đánh giá khái quát : “Nguyễn Tuân là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng : gắn liền với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc”. ● Huấn Cao còn là người nghệ sĩ có cái “thiên lương” trong sáng, có cách ứng xử cao thượng và đầy tinh thần văn hóa. Trong cuộc sống và nhất là trong nghệ thuật, tài năng không phải là thứ mà tạo hóa hay xã hội muốn có hoặc có thể ban phát cho tất thảy mọi người.
- Người có tài năng, năng khiếu nghệ thuật vốn đã không nhiều trong cuộc sống thì người vừa có tài vừa có tâm lại càng hiếm nữa. Mấy trăm năm trước, thi hào Nguyễn Du đã viết : “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Chính cái “tâm” sẽ làm cho cái tài được cất cánh cao hơn nữa, tỏa sáng hơn nữa. Trong Chữ người tử tù, Huấn Cao đâu chỉ có tài viết chữ mà còn có đạo đức và văn hóa của một người nghệ sĩ thư pháp, một nhân cách cao thượng trong đời sống. Đạo đức của Huấn Cao thể hiện trước tiên ở lòng tự trọng, ở chỗ biết giữ lấy cái tài, biết trân trọng tài năng đích thực của mình và biết dùng nó đúng lúc đúng chỗ. Con người ấy “nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Cả đời Huấn Cao cho đến trước khi cho chữ viên quản ngục mới chỉ “viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường” cho “ba người bạn thân”. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Huấn Cao cũng giữ trọn “thiên lương” của mình. Khi chưa hiểu con người của quản ngục, Huấn Cao không hề tỏ ra sợ hãi, càng không vì cái “uy vũ” đó để phải quỳ xuống viết chữ. Ông cũng không tỏ ra mềm lòng, thỏa hiệp, nhún mình viết câu đối trước sự “biệt đãi” của ngục quan. Ngay cả khi đã hiểu rõ con người của quản ngục và đã cho chữ viên quan này thì điều mà Huấn Cao khuyên bảo, mong muốn ở ngục quan là “giữ thiên lương cho lành vững”, đừng để “nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Đó đích thực là một tâm hồn trong sáng, cao đẹp, một biểu tượng của “thiên lương” lành vững mà thời đại nào cũng cần. Cái tâm của Huấn Cao không chỉ hiện ra ở đạo đức của người nghệ sĩ mà còn bộc lộ ở cách ứng xử cao thượng và đầy tinh thần văn hóa. + Đọc tác phẩm, ai cũng thấy Huấn Cao đã phản ứng dữ dội như thế nào trước hành động muốn “biệt đãi” ông của quản ngục. Nhưng đấy là khi ông chưa thực sự hiểu được bản chất của con người này. + Đến khi đã hiểu được con người bên trong của ngục quan, khi đã “cảm” được “cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài” của viên quan coi ngục thì Huấn Cao đã nhanh chóng bỏ qua những nghi kị trước đó, vui vẻ tự nguyện cho chữ. Lời của Huấn Cao: “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” đã bộc lộ
- lẽ sống của ông : sống là phải xứng đáng với những tấm lòng tri kỉ, phụ tấm lòng cao đẹp của người khác là không thể tha thứ. Rõ ràng, đối với những người biết quý trọng cái tài, cái đẹp trên đời, Huấn Cao đâu có nề hà, đã không biết thì thôi chứ biết thì nhất định không “phụ tấm lòng trong thiên hạ”. Đấy chính là lẽ sống cao đẹp, là cách xử thể tràn đầy tinh thần văn hóa ở Huấn Cao, cũng là bài học về đạo lý, lẽ sống cho mỗi người trên đời. Xem ra, chuyện xin chữ cho chữ ở đây không còn là thú chơi nữa mà là chuyện của lẽ sống và đạo đức của con người trong cuộc sống. ● Huấn Cao là người anh hùng dũng liệt, có bản lĩnh, lý tưởng, có khí phách hiên ngang, bất khuất. + Không giống như nhiều nhân vật tài hoa, tài tử khác trong Vang bóng một thời, Huấn Cao có hai con người trong một con người : con người tài hoa nghệ sĩ với cái tâm trong sáng và con nguời anh hùng dũng liệt, có khí phách hiên ngang. Đấy là một người dám chống lại triều đình mục ruỗng mà ông căm ghét. Thái độ này không thay đổi kể cả khi ông nhận được thông báo sẽ bị giải vào Kinh để chịu án tử hình. Là kẻ chiến bại nhưng Huấn Cao không hề đánh mất khí phách của mình. + Ngay từ đầu tác phẩm, điều đó đã được thể hiện qua hành động “rỗ gông”. Huấn Cao đã bất chấp lời doạ dẫm của tên lính áp giải, “ lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Cũng chính con người ấy đã “thản nhiên nhận rượu thịt” coi như “việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình”, thậm chí còn “cố ý làm ra khinh bạc đến điều” đối với viên quản ngục mà không hề sợ “một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục”. Ngay cả khi được tin “ngày mai, tinh mơ” sẽ “về kinh chịu án tử hình”, Huấn Cao cũng chỉ “lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười”. Rõ ràng, Huấn Cao có phong độ của một trang anh hùng dũng liệt, có khí phách hiên ngang của kẻ “chọc trời quấy nước” trên đầu “chẳng còn biết có ai nữa” (như chính quản ngục đã phải thừa nhận), có cái khí khái của đấng nam nhi coi cái chết “nhẹ tựa hồng mao”.
- ● Hình tượng Huấn Cao tỏa sáng trong cảnh cho chữ + Huấn Cao đúng là một nhân vật đặc biệt của Nguyễn Tuân. Ở con người này có sự hội tụ của ba phẩm chất, cũng là ba vẻ đẹp đáng trân trọng của con người : “tài” – “tâm” – “dũng”. Ba vẻ đẹp ấy hòa quyện với nhau và tỏa sáng rực rỡ trong cái đêm Huấn Cao cho chữ quản ngục. + Điểm hội tụ của tài năng nghệ sĩ và khí phách nghĩa sĩ của Huấn Cao trước hết là ở tư thế. Tuy “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” nhưng Huấn Cao vẫn có cái tư thế của một người nghệ sĩ thư pháp. Con người ấy đang dồn tinh lực để viết nên những “dòng chữ cuối cùng” cho đời – những dòng chữ “nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Tương phản với hình ảnh Huấn Cao là hình ảnh của ngục quan và thơ lại những kẻ đại diện cho uy quyền, pháp luật đương thời, nắm trong tay quyền sinh, quyền sát nhưng lại đang “khúm núm”, “run run” trước từng nét chữ của Huấn Cao. Chính sự tương phản này đã gián tiếp khắc họa cái hiên ngang, khí phách của người tử tù. Đồng thời cho thấy trong khoảnh khắc này, tại chính gian nhà ngục này không phải cái ác, cái xấu đang làm chủ mà chính là cái đẹp, cái tài của người nghệ sĩ đang tỏa sáng, hùng tâm, tráng chí của người anh hùng đang được tôn vinh. => Như mọi dòng sông đều chảy về biển, ở Huấn Cao, nơi hội lưu của thiên lương trong sáng và nhân cách con người viết hoa – CON NGƯỜI dừng lại ở một lời khuyên chí tình dành cho quản ngục : “ Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét vuông tươi tắn […] Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Lời khuyên này giống như một di huấn – di huấn của người nghệ sĩ truyền lại cho đời và hậu thế : muốn chơi chữ thì trước hết phải giữ lấy “thiên lương”. Chữ nghĩa và “thiên lương” không thể chung sống với cái ác, cái xấu, đừng để những cái cao quý ấy bị hoen ố, bị mất đi ở chốn ngục tù đen tối tàn bạo.
- ● Nghệ thuật Như ta đã biết, xây dựng hình tượng Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu là Chu thần Cao Bá Quát. Trong thực tế lịch sử, “thánh Quát” đã bỏ mình nơi chiến địa trong cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến. Nhưng với Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã “kéo dài cuộc đời Cao Bá Quát” bằng cuộc gặp gỡ thú vị giữa người tử tù có tài viết chữ đẹp với viên quản ngục – kẻ đại diện pháp luật đương thời nhưng khát khao ánh sáng chữ nghĩa. Sáng tạo này là chỗ nhà văn gửi gắm lí tưởng thẩm mĩ và quan điểm nghệ thuật của mình. Đọc truyện Chữ người tử tù, có thể thấy Nguyễn Tuân đã sử dụng bút pháp lãng mạn, lí tưởng hóa để miêu tả hình tượng Huấn Cao. Đó là người có vẻ đẹp toàn diện : vẻ đẹp của tài năng – vẻ đẹp của tâm hồn – vẻ đẹp của khí phách. Vẻ đẹp ấy hiện lên lồng lộng trên nền tăm tối của ngục tù và trong sự kính nể, tôn vinh của những kẻ đại diện cho luật pháp đương thời. Hình ảnh Huấn Cao gắn liền với cái đẹp, với ánh sáng và cái thiện. Những cái đó cũng bật nổi trong ưu thế và sự lấn át cái xấu, bóng tối và cái ác. Đó là những biểu hiện khác nhau của thủ pháp tương phản – thủ pháp đã được sử dụng rất hiệu quả trong tác phẩm. Cũng như nhiều sáng tác khác, ngôn ngữ miêu tả của Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù rất đậm chất “điện ảnh”. Nhiều đoạn như những thước phim quay chậm, sắc nét, chậm rãi, hiển hiện từng nét cảnh vật, từng hành động của nhân vật. Ngôn ngữ miêu tả nhân vật Huấn Cao cũng thế. Những đoạn tả ông Huấn như đoạn “rỗ gông”, đoạn “cho chữ”… đều có thể coi là những “thước phim ngắn” về nhân vật này. Từng hành động, điệu bộ, cử chỉ của Huấn Cao cứ dần dần, chậm rãi hiện ra qua lớp ngôn từ vừa cổ kính vừa hiện đại của nhà văn. ● Kết luận
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lý phòng máy tính trong nhà trường
29 p | 274 | 62
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"Sáng kiến kinh nghiệm THPT "Một số kinh nghiệm huấn luyện kết hợp với băng hình tập huấn trong nâng cao đội tuyển học sinh giỏi bộ môn GDQP - AN phần: Lý thuyết"
14 p | 190 | 28
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số ứng dụng của số phức trong giải toán Đại số và Hình học chương trình THPT
22 p | 175 | 25
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giải nhanh bài tập dao động điều hòa của con lắc lò xo
24 p | 41 | 13
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn bản Chí Phèo (Nam Cao)
24 p | 139 | 11
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng giải bài toán trắc nghiệm về hình nón, khối nón
44 p | 22 | 9
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kĩ năng xử lí hình ảnh, phim trong dạy học môn Sinh học
14 p | 37 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số hình thức tổ chức rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức phần Sinh học tế bào – Sinh học 10, chương trình Giáo dục Phổ thông 2018 vào thực tiễn cho học sinh lớp 10 trường THPT Vĩnh Linh
23 p | 17 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo môn Ngữ văn trong nhà trường THPT
100 p | 28 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp tổ chức hoạt động trải nghiệm, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong dạy học môn Công nghệ trồng trọt 10
12 p | 29 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một vài kinh nghiệm hướng dẫn ôn thi học sinh giỏi Địa lí lớp 12
20 p | 21 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số định hướng giải phương trình lượng giác - Phan Trọng Vĩ
29 p | 30 | 7
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tự học của học sinh THPT Thừa Lưu
26 p | 33 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số bài toán thường gặp về viết phương trình tiếp tuyến của đồ thị hàm số
19 p | 42 | 6
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 ở trường THPT Vĩnh Linh
20 p | 15 | 5
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao hiệu quả học tập môn bóng chuyền lớp 11
23 p | 71 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số biện pháp quản lí và nâng cao hiệu quả của việc giảng dạy online môn Hóa học ở trường THPT
47 p | 11 | 3
-
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học ở trường THPT
23 p | 24 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn