intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả công tác của giáo viên bằng những việc làm cụ thể của cán bộ quản lý ở trường THPT Nguyễn Thái Học

Chia sẻ: Caphesuadathemhanh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:13

18
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của sáng kiến này là tự mình trải nghiệm, minh chứng và từng bước rút ra cho bản thân những bài học nhỏ từ thực tiễn, phục vụ ngày một tốt hơn trong công tác quản lý của mình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Nâng cao hiệu quả công tác của giáo viên bằng những việc làm cụ thể của cán bộ quản lý ở trường THPT Nguyễn Thái Học

  1. 1. Lời giới thiệu Người cán bộ  quản lý (CBQL) nhà trường luôn mong muốn và tìm các biện  pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý. Hiệu quả đó thể hiện bằng tinh  thần, trách nhiệm trong công việc của đội ngũ giáo viên, nhân viên trong nhà trường;  hiệu quả  đó thể  hiện bằng chất lượng giáo dục của nhà trường được các cấp lãnh   đạo, được nhân dân nhìn nhận, đánh giá. Đã có rất nhiều sáng kiến của CBQL về vai   trò của người quản lý trong việc nâng cao hiệu quả làm việc của đội ngũ với những   giải pháp: “Phát huy nhân tố  con người”, “Tổ  chức, chỉ  đạo xây dựng nề  nếp dạy   học”,  “Tăng cường công tác chỉ  đạo của Ban giám hiệu đối với tổ  chuyên môn”,  “Tăng cường công tác chỉ  đạo dự  giờ, thăm lớp” ,  “Tăng cường chỉ  đạo đổi mới   phương pháp dạy học”, “Tăng cường chỉ đạo công tác bồi dưỡng giáo viên”, “Tăng   cường đầu tư  và sử  dụng hiệu quả  cơ  sở  vật chất thiết bị dạy học” , “Tăng cường   công tác kiểm tra, đánh giá giáo viên, học sinh và các tổ chuyên môn” , “Tăng cường   công tác thi đua, khen thưởng, khuyến học, khuyến tài”…Tôi không phủ  nhận tính  tích cực của các biện pháp trên, đó là đường lối chung, là kim chỉ  nam cho công tác   của người quản lý. Tuy nhiên, bản thân tôi cũng như  các đồng chí giáo viên, nhân viên luôn nhìn   nhận cấp trên của mình với phương châm:“Vừa nghe những gì anh ta nói, cùng nhìn   những gì anh ta làm!”. Tăng cường kết hợp giữa lý thuyết và thực hành là một trong  những nội dung trọng điểm của đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, đây là yêu   cầu thiết yếu mà đội ngũ giáo viên phải thực hiện trong quá trình giáo dục học sinh.   Tôi suy nghĩ, trong mối quan hệ công tác giữa người quản lý và giáo viên, nhân viên   cũng rất cần hài hòa, gắn kết giữa nói và làm, giữa lý thuyết và thực hành. Nghĩa là,  người CBQL sau khi đưa ra những nội dung công việc, những chỉ tiêu cần đạt, những  đường lối thực hiện…rất cần  đặt mình vào vị  trí của người trực tiếp thực hiện   (Trong một phạm vi công việc nào đó cần bắt tay làm cụ thể như các giáo viên, nhân  viên khác). Như thế người CBQL mới thấy được thực tế  những khó khăn, thuận lợi   của công việc, sự phù hợp của các chỉ tiêu, của đường lối, phương pháp thực hiện mà  chính mình đưa ra. Ý nghĩa hơn là tạo được sự gần gũi, chia sẻ với đồng nghiệp, xóa  1
  2. dần được cái nhìn (có phần cố hữu) của cấp dưới đối với cấp trên là:  “Áp đặt”, “chỉ   tay năm ngón”, “thiếu thực tế”…  Từ khi được phân công công tác tại trường THPT Nguyễn Thái Học, với nhiệm   vụ phụ trách công tác chuyên môn của nhà trường, tôi không chỉ luôn đồng hành, trải  nghiệm cùng đồng nghiệp trong lĩnh vực chuyên môn mà còn đồng hành trong một số  công việc có tính chất hành chính. (Năm học 2017­2018 và 2018­2019 tôi viết SKKN   với đề tài “Xây dựng hệ thống bài tập trắc nghiệm môn Toán THPT” sau năm học  2016­2017 đồng hành cùng giáo viên khắc phục khó khăn ban đầu về  hình thức thi  trắc nghiệm khách quan  đối với môn Toán). Trong mỗi năm học, Ban giám hiệu   (BGH) luôn xây dựng kế hoạch công tác trong năm học với những nội dung công việc  cụ  thể, nhằm hoàn thành tốt những công việc đó tôi đã luôn bắt tay cùng giáo viên,   nhân viên thực hiện với suy nghĩ: vừa chia sẻ công việc với đồng nghiệp, vừa tích lũy   những kiến thức, kỹ năng thiết thực cho bản thân. Sau quá trình trải nghiệm đó, xin   được chia sẻ với quý đồng nghiệp trong tỉnh nhà một số công việc cụ thể của tôi (rất  nhỏ thôi) đã hỗ trợ đội ngũ về các công việc có tính chất hành chính qua nội dung của   sáng kiến: “Nâng cao hiệu quả công tác của giáo viên bằng những việc làm cụ thể   của cán bộ quản lý ở trường THPT Nguyễn Thái Học”.  Rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý chân thành của các đồng nghiệp để tôi  có thể  đóng góp được nhiều hơn nữa, hiệu quả hơn nữa trong công tác quản lý của  những năm học tiếp theo.  2. Tên sáng kiến:  “Nâng cao hiệu quả công tác của giáo viên bằng những việc làm cụ thể của cán   bộ quản lý ở trường THPT Nguyễn Thái Học”.  3. Tác giả sáng kiến: ­ Họ và tên: Lê Hồng Thái ­ Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường THPT Nguyễn Thái Học  ­ Số điện thoại: 0969 611 811. E_mail: lethaivp@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Lê Hồng Thái  2
  3. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Công tác quản lý trong trường THPT. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 15/09/2017.  7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Trên cơ  sở  những tri thức của những tác phẩm kinh điển về  công tác quản lý  mà bản thân tôi đã đọc, chẳng hạn: “Những mục tiêu của giáo dục và các tiểu luận   khác”  –  Alfred   North   Whitehead,   “Tối   đa   hóa   năng   lực   nhân   viên”   –   Wiliam   J.   Rothwell, “Nhà quản trị  thành công” – Peter F.Drucker, “21 nguyên tắc vàng của   nghệ thuật lãnh đạo” – John C. Maxwell… tôi đặt mục đích cho bản sáng kiến này là:  tự mình trải nghiệm, minh chứng và từng bước rút ra cho bản thân những bài học nhỏ  từ thực tiễn, phục vụ ngày một tốt hơn trong công tác quản lý của mình.  Nhiệm vụ nghiên cứu ­ Sáng tỏ được: Những việc làm cụ thể của cán bộ quản lý ở trường THPT   Nguyễn Thái Học.  ­ Sáng tỏ được: Hiệu quả công tác của giáo viên được nâng cao qua các việc  làm của người quản lý.  7.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động và ảnh hưởng của người CBQL đối với đội ngũ.  Phạm vi nghiên cứu: Mối quan hệ giữa người CBQL và đội ngũ trong trường THPT   Nguyễn Thái Học. 7.3. Phương pháp nghiên cứu Thu thập, phân tích, đánh giá mức độ ảnh hưởng một số hoạt động của người  CBQL đến hiệu quả công tác của đội ngũ trong nhà trường. 7.4. Nội dung cơ bản  của sáng kiến 3
  4. Như  phần “Lời giới thiệu” tôi đã trình bày, đầu mỗi năm học, BGH luôn xây  dựng kế  hoạch công tác trong năm học với những nội dung công việc cụ  thể. Có  những công việc thường niên, quen thuộc được thực hiện trong tất cả  các năm học,  có những công việc đặc thù, phát sinh khi tổng kết một năm học Hội đồng Sư  phạm   (HĐSP) nhà trường cùng Phụ  huynh học sinh (PHHS) thấy cần thiết thực hiện trong   năm học mới. Những công việc mới này thường gây khó khăn cho đội ngũ, có không ít  giáo viên khi tiếp nhận nhiệm vụ thì có tâm thế sẵn sàng nhưng khi bắt tay vào việc   lại chán nản, muốn BGH xem xét và dừng nội dung công việc trong kế hoạch. Trước những thực trạng đó của đồng nghiệp, tôi đã yêu cầu mỗi giáo viên  (GV) mô tả đầy đủ, cụ thể những khó khăn họ gặp khi triển khai công việc. Sau khi   đã tập hợp đầy đủ các ý kiến tôi sàng lọc và nghĩ biện pháp hỗ trợ đồng nghiệp của   mình. Xin được minh họa bằng một số công việc cụ thể sau: Công việc 1: Gửi tin nhắn cho PHHS và BGH (Thông báo kết quả  rèn luyện ý   thức kỷ luật, học tập của học sinh) Lý do triển khai công việc: Trong những năm gần đây, các dịch vụ  phục vụ  thông tin hai chiều giữa nhà  trường và PHHS rất phát triển. 100% các nhà trường thu kinh phí từ PHHS (Theo thỏa   thuận) để cùng các nhà mạng thực hiện dịch vụ tin nhắn thông báo kết quả rèn luyện  ý thức kỷ  luật và học tập của học sinh (HS) đến phụ  huynh (PH). Hai năm đầu nhà  trường thực hiện công tác này và được phản ảnh là các thông tin chuyển tới PH còn ít,   không thường xuyên, nội dung thường chỉ là nhắc nhở, phê bình. BGH nhà trường ý  thức được 2 thông điệp cơ  bản PHHS muốn giải quyết: Số  lượng tin nhắn phải   tương xứng số tiền họ đóng góp; chất lượng tin nhắn phải đảm bảo sự toàn diện về  ý thức kỷ  luật và ý thức học tập của HS. Trước nguyện vọng chính đáng đó của   PHHS, BGH cần phải thay đổi về công tác nhắn tin cho PHHS. Mô tả công việc: 1. Cuối ngày thứ  7 hàng tuần các giáo viên chủ  nhiệm (GVCN) phải thông báo   đến PHHS ý thức chấp hành nội quy của HS trong lớp – Đã được lượng hóa bằng  điểm số  và đánh giá theo 4 mức: loại A, B, C, D (Từng tiêu chí cho điểm đã được  HĐSP và PHHS thống nhất).  4
  5. Ví dụ:  Em Nguyễn Văn A HK tuần 1, tháng 1: 200điểm. Xếp loại: A.  Em Vũ Mạnh C HK tuần 1, tháng 1: 28điểm. Xếp loại: D.  2. Cuối mỗi tháng: a) Các giáo viên bộ môn (GVBM) phụ trách các môn học chuyên đề (CĐ) phải có   bài kiểm tra đánh giá các nội dung học CĐ trong tháng, gửi điểm cho GVCN. b) Các GVCN tổng hợp kết quả xếp loại hạnh kiểm (HK) trong tháng – Lấy trung   bình cộng điểm số  đạt được của HS trong các tuần và xếp loại A, B, C, D theo quy   định; tổng hợp điểm số các môn học CĐ do các GVBM gửi. Sau đó gửi cho BGH và  cho PHHS.  Ví dụ: Em Nguyễn Văn A HK tháng 1: 200điểm. Xếp loại: A. Điểm KS tháng 1: Toán: 9; Lý: 9; Hóa: 8.5 Em Vũ Mạnh C HK tháng 1: 142điểm. Xếp loại: B. Điểm KS tháng 1: Toán: 8; Lý: 2; Hóa: 7.5 Công việc trên mới tiếp nhận tưởng như đơn giản, nhưng khi thực hiện xuất hiện  những khó khăn về thao tác và thời gian. Cụ thể: ­ Việc gửi thông tin hàng tuần với nội dung  “HK tuần 1, tháng 1: 200điểm. Xếp   loại: A”  là đơn giản nhất nhưng cũng rất mất thời gian vì GVCN phải copy hoặc   nhập trực tiếp các thông tin trên cho trên dưới 40 HS vào hệ thống gửi tin nhắn. ­ Việc gửi thông tin cuối tháng với nội dung  “HK tháng 1: 200điểm. Xếp loại: A.   Điểm KS tháng 1: Toán: 9; Lý: 9; Hóa: 8.5” thì không đơn giản. Phải tính trung bình  cộng điểm hạnh kiểm hàng tuần và xếp loại tương ứng; phải nhập điểm số các môn   học với thông tin chi tiết như  minh họa trên (Nếu chỉ  là con số  thì đơn giản hơn   nhiều, nhưng ở đây phải có đầy đủ các nội dung về  “HK tháng”, “Xếp loại”, “Điểm   KS tháng”, “Toán”, “Lý”, “Hóa”…). ­ Việc thu thập và nhập thông tin lên hệ thống gửi tin nhắn phải đảm bảo chính  xác về đối tượng. Nhiều giáo viên khi quá căng thẳng đã nhập thông tin của HS này  5
  6. vào địa chỉ nhận tin của HS khác và một phần làm cho phụ huynh thiếu tin tưởng về  công tác theo dõi tình hình của HS. Việc làm của CBQL: Trước những khó khăn trên của đồng nghiệp, tôi đã tìm tòi và tạo được công cụ  hỗ  trợ  hiệu quả  trong công việc này của giáo viên. Với công cụ  này thì GVCN chỉ  việc nhập thông tin của HS hàng tuần về điểm HK nghĩa là không phải nhập đầy đủ  thông tin “HK tuần 1, tháng 1: 200điểm. Xếp loại: A”  mà chỉ  cần nhập số  200. Sau   khi hàng tuần có số liệu, cuối tháng chỉ cần copy thêm điểm số của từng môn học CĐ   vào bảng tính là sẽ  có đầy đủ  thông tin dạng   “HK tháng 1: 200điểm. Xếp loại: A.   Điểm KS tháng 1: Toán: 9; Lý: 9; Hóa: 8.5” để gửi cho PH và BGH. Điểm quan trọng  cần chú ý là thứ  tự của HS trong bảng phải đồng nhất  ở  mọi khâu (Trong hệ thống   gửi tin nhắn, trong file điểm của các GVBM, trong file gửi PH và BGH) để tránh tình  trạng PH của HS này lại nhận được thông tin của HS khác. Sau khi GVCN sử  dụng công cụ  này, tôi rất vui vì được các đồng nghiệp phản  ánh là hàng tuần thay vì mất hàng giờ đồng hồ thì nay chỉ mất 10 phút, cuối tháng thay  vì mất cả đêm thì nay chỉ mất 15 phút. Qua “Công việc 1”, tôi đã phần nào hoàn thành được “Nhiệm vụ nghiên cứu” là:  “Sáng   tỏ   được:  Những   việc  làm   cụ   thể   của   cán  bộ  quản   lý   ở   trường   THPT   Nguyễn Thái Học” và sáng tỏ được: “Hiệu quả công tác của giáo viên được nâng   cao qua các việc làm của người quản lý”.  Cụ thể về công cụ này là như thế nào, tôi xin chia sẻ với quý đồng nghiệp trong   đĩa CD đính kèm cùng sáng kiến. Trong đó có đầy đủ các file công cụ và Video hướng  dẫn sử  dụng. Rất mong quý đồng nghiệp xem chi tiết để  đánh giá những nhận định  nêu trên của tôi. Công việc 2: Tổng hợp điểm số và đánh giá chất lượng dạy của GV, chất lượng   học của HS qua các kỳ thi của trường và của Sở GD&ĐT tổ chức. Lý do triển khai công việc: Thực chất đây là công việc của người CBQL phụ  trách công tác chuyên môn   của nhà trường. Tuy nhiên về phía GVCN, GVBM cũng rất cần những thông tin này   6
  7. để biết chất lượng học tập của HS lớp mình phụ  trách; để  thông báo, phân tích cho   PH trong các cuộc họp.  Thực tế cũng không cần công cụ cầu kỳ nếu thông tin gửi cho PH chỉ đơn điệu   là em HS Nguyễn Văn A nào đó được bao nhiêu điểm trong kỳ thi. Cần cho PH biết   thêm về nhiều thông tin khác như: Thứ hạng trong lớp, trong khối, tổng điểm xét tốt   nghiệp, tổng điểm xét ĐH, CĐ...Về  công tác quản lý cũng vậy, nếu chỉ  dừng lại  ở  việc đánh giá điểm số trung bình các môn, các lớp, toàn trường, tổng điểm tổng điểm  xét tốt nghiệp, tổng điểm xét ĐH, CĐ...thì chưa thể khai thác hết ý nghĩa của điểm số  trong mỗi kỳ thi trong công tác giáo dục của nhà trường. Mô tả công việc: Với   “Công   việc   2”   tôi  xin  mô   tả   công   việc  cần  làm   của   CBQL   phụ   trách  chuyên môn sau mỗi kỳ  thi vì như  trên tôi đã nói:  “Thực chất đây là công việc của   người CBQL phụ trách công tác chuyên môn của nhà trường”.  Trường THPT Nguyễn Thái Học lấy chất lượng dạy học là một trong những   tiêu chí quan trọng cho việc đánh giá, xếp loại viên chức cũng như  bình xét thi đua   khen thưởng cuối năm. Sau mỗi kỳ thi do trường hoặc Sở GD&ĐT tổ chức, mỗi giáo  viên được xếp loại theo 4 mức “Loại 1”, “Loại 2”, “Loại 3”, “Lo ại 4” căn cứ  vào  chất lượng điểm bộ môn lớp mình phụ trách. Công việc đánh giá không giản vì đánh  giá GV dạy lớp có môn chỉ để xét tốt nghiệp và GV dạy lớp có môn để xét tuyển ĐH­ CĐ phải theo những tiêu chí khác nhau. Cụ thể:  Với GV dạy môn để xét tuyển ĐH­CĐ Loại 1: Tổng số HS đạt 70% từ TB trở lên Loại 2: Tổng số HS đạt 60% từ TB trở lên Loại 3: Tổng số HS đạt 50% từ TB trở lên Loại 4: Tổng số HS đạt dưới 50% TB Với GV dạy môn để xét tốt nghiệp Loại 1: Tổng số HS đạt 90% từ 3.5 trở lên Loại 2: Tổng số HS đạt 80% từ 3.5 trở lên 7
  8. Loại 3: Tổng số HS đạt 70% từ 3.5 trở lên Loại 4: Tổng số HS đạt 3.5 trở lên dưới 70% Hơn nữa rất nhiều GV lại phụ trách đồng thời cả hai đối tượng HS trên. Ngoài  mục tiêu trên, việc tổng hợp kết quả  sau mỗi kỳ thi phải làm sáng tỏ  các nội dung   thông thường như: Điểm số trung bình của từng môn, từng lớp, toàn trường; điểm xét  tốt nghiệp, xét tuyển ĐH – CĐ, thứ tự của mỗi HS trong lớp, trong khối theo các tiêu   chí đó... Đồng thời việc truy xuất thông tin phải thuận tiện, chính xác và phù hợp cho   các đối tượng sử dụng: GVBM, GVCN, Hiệu trưởng nhà trường, thậm chí có thể chia  sẻ trực tiếp với PHHS. Việc làm của CBQL: Trước nhiệm vụ, công việc của bản thân và giúp đồng nghiệp có đầy đủ thông   tin cần thiết về HS của mình sau mỗi kỳ thi, tôi đã tạo ra cho mình công cụ thích hợp  để hoàn thành công việc.  Một tiêu chí quan trọng trong công tác thống kê số  liệu là cơ  sở  dữ  liệu ban   đầu (Ở  đây là điểm số  mỗi môn học của HS sau các kỳ  thi) chỉ  cần nhập một lần.   Khi nhập xong dữ liệu là có ngay các kết quả thống kê cho tất cả các tiêu chí đã được   đặt ra trong công tác giáo dục của nhà trường. Và sau mỗi kỳ thi không phải tính toán   lại theo từng tiêu chí trên. Với công cụ  mình tạo ra, sau khi nhận được điểm từ  bộ  phận văn phòng, tôi chỉ  cần coppy điểm của các lớp vào đúng địa chỉ  và gửi file cho   toàn trường. Các đối tượng sử dụng từ GVBM, GVCN, Hiệu trưởng... có thể dễ dàng  truy xuất các dữ liệu cần thiết cho bản thân bằng các lệnh lọc thích hợp. Một vấn đề  đặt ra  ở  việc làm này là:   Đây là công cụ, là việc cần làm của   CBQL phụ trách chuyên môn của nhà trường. Vậy nó giúp ích gì cho đồng nghiệp, có   tác dụng thúc đẩy, khích lệ  gì cho đội ngũ? Tôi được đông đảo GV thông tin lại là  việc được sử dụng các thông tin mà công cụ của tôi cung cấp rất có ý nghĩa cho công  tác giáo dục HS, có được đầy đủ các thông tin mà PH quan tâm, nhìn được sự đánh giá   của mỗi cá nhân trong một tổng thể.  8
  9. Nếu chỉ  gửi bảng điểm của từng lớp cho mỗi GV thì buộc mỗi GV lại phải  làm các thao tác thống kê sơ  đẳng cho mỗi lớp mình phụ trách. Tổng chi phí về  mặt  thời gian của đội ngũ toàn trường là một con số  không nhỏ. Hơn nữa họ  không thể  biết thứ  tự  xếp hạng của mỗi HS trong toàn khối  ở  các tiêu chí đánh giá, không có  được  sự  so sánh tường  minh  về  chất  lượng dạy  học của  mình  so  với các đồng   nghiệp...Sau công việc này, các đồng nghiệp của tôi đã hiểu rõ hơn thông điệp mà  người CBQL gửi đến họ, đó là: “Công việc của người CBQL luôn gắn liền với công   việc của GV, công việc của người CBQL luôn hướng tới mục đích giúp đỡ  và khích   lệ đội ngũ hoàn thành tốt nhiệm vụ của mỗi người”. Tôi chỉ  có thể  mô tả  một cách tổng quan như  vậy về  công cụ  mình đã làm,   không thể  mô tả  chi tiết, tường minh trong môi trường soạn thảo Microsoft Word   được. Quý đồng nghiệp sẽ xem chi tiết sản phẩm và Video hướng dẫn trong đĩa CD  đính kèm. Tôi cũng nhận thấy rằng công cụ mình tạo ra còn có một số tồn tại: Khi khởi   tạo tôi rất mất thời gian và rất dễ bị nhầm lẫn thông tin của GV được đánh giá; tồn  tại lớn nhất là công cụ  này chỉ  được sử  dụng trong một năm học, năm học sau phải   khởi tạo lại, lý do duy nhất là GV phải thay đổi lớp dạy mỗi năm. Tôi đang khắc   phục tồn tại này bằng cách cải biến bảng tính Excel đơn thuần thành dạng một phần   mềm nhỏ, có thể  sử  dụng linh hoạt và hiệu quả  hơn cho các năm học. Nghiên cứu  này tôi đang triển khai với hy vọng sẽ là đề tài sáng kiến trong năm học tới để được  chia sẻ cùng đồng nghiệp.  Công việc 3: Lập báo cáo theo các biểu mẫu M9 và M11 để nộp Sở GD&ĐT trong   kỳ thi tốt nghiệp nghề phổ thông hàng năm. Lý do triển khai công việc: Hàng năm, Sở GD&ĐT Vĩnh Phúc tổ chức kỳ thi xét tốt nghiệp nghề phổ thông  cho học sinh lớp 12. Thực tế các nhà trường thường tổ chức khâu coi thi và chấm thi  trong thời gian rất có hạn và việc hoàn thành các biểu mẫu để nộp Sở GD&ĐT được  thực hiện vào các buổi chiều muộn cùng với sự  có mặt của đầy đủ  các thành viên   (Chủ tịch, phó chủ tịch, thanh tra, giám khảo, thư ký...).  9
  10. Công việc không nhiều nhưng cần hoàn thành trong khoảng thời gian rất ngắn,   các thành viên của Hội đồng chấm thi phải chờ đợi bộ  phận thư  ký lên điểm, kiểm   dò và hoàn thành các biểu mẫu rất lâu.  Mô tả công việc: ­ Thư ký hội đồng chấm thi phải nhập điểm của học sinh vào biểu mẫu M9, sau   đó thống kê số  lượng kết quả  của HS theo 4 mức: Giỏi, Khá, Trung bình,   Không đạt theo danh sách của từng phòng thi. ­   Sao chép danh sách, kết quả  của từng phòng thi vào biểu mẫu M11 (Toàn  trường) và thống kê số  lượng, tỉ  lệ  kết quả  của HS theo 4 mức: Giỏi, Khá,   Trung bình, Không đạt của toàn hội đồng. ­ In các biểu mẫu và các cá nhân có trách nhiệm ký nhận kết quả. Quan sát công việc tôi thấy rất vất vả trong khâu thống kê số  lượng và tỉ  lệ.   Do phải đếm thủ công các mức đánh giá trên với một số lượng lớn nên số liệu trong   mẫu M9 và M11 không đồng nhất và việc đếm lại để  đảm bảo chính xác rất mất   thời gian. Hơn nữa, sau khi nhập dữ  liệu (Các điểm số) vào mẫu M9 lại phải sao   chép vào mẫu M11. Chỉ cần một phút thiếu tập trung thì công việc sao chép và đếm  các số liệu phải thực hiện lại.  Việc làm của CBQL: Trước thực tế công việc đó của các đồng chí thư ký (Của trường tôi và trường  bạn được cử đến) và cũng để phục vụ cho bản thân tôi trong một số lần làm Chủ tịch   Hội đồng coi, chấm thi nghề PT ở đơn vị bạn, tôi đã suy nghĩ và tạo ra công cụ phục   vụ cho công việc nêu trên một cách hiệu quả. Việc tạo ra công cụ  trên cũng không phức tạp và chỉ  mất khoảng 30 phút của  cá nhân nhưng tiết kiệm được rất nhiều thời gian cho Hội đồng lên điểm. Cụ thể, chỉ  cần thư  ký nhập điểm của học sinh vào biểu mẫu M9, nhập đến đâu là có luôn số  liệu về các mức độ đánh giá đối với học sinh ở cả hai biểu mẫu M9 và M11. Không   phải đếm thủ công, không phải sao chép dữ liệu từ biểu mẫu M9 sang biểu mẫu M11   như  đã mô tả   ở  trên. Hơn nữa số  liệu  ở hai biểu mẫu M9, M11 luôn đồng nhất với   nhau. 10
  11. Cũng như với “Công việc 1” và “Công việc 2”, sản phẩm minh chứng cụ thể  cho “Công việc 3” được tôi trình bày chi tiết cùng với video hướng dẫn sử dụng trong   đĩa CD kèm theo. Rất mong quý đồng nghiệp xem và có những phê bình, đóng góp ý  kiến để giúp tôi có thể cải thiện tốt hơn những công cụ của mình. Ngoài 3 công việc tôi đã trình bày trong sáng kiến này, thực tế  công việc tại   trường tôi đã làm nhiều công cụ khác tương tự, phục vụ cho một công việc của bản   thân, của đồng nghiệp. Như:  “Bảng tính theo dõi số  ca dạy chuyên đề”  của toàn  trường, “Bảng đăng ký viết sáng kiến” hàng năm, “Báo giảng trực tuyến” hàng tuần  của GV... với các tiêu chí cơ  bản: Dễ  sử dụng, tiết kiệm thời gian cho đồng nghiệp  và đảm bảo chính xác về  số  liệu. Hơn nữa rất thuận lợi cho công tác lưu trữ, truy   xuất dữ liệu và có tính chịu trách nhiệm của mỗi cá nhân khi nhập dữ liệu (Mỗi GV   chỉ được quyền truy cập dữ liệu vào vùng dữ liệu được tôi phân quyền; CBQL có thể  kiểm tra lại lịch sử sửa chữa dữ liệu của mỗi cá nhân khi cần thiết...).  Toàn bộ các công cụ trên tôi thiết kế trên Excel với một số hàm cơ bản và sau   đó định dạng thành trang tính trên Google Drive. LỜI KẾT Xin được trích dẫn lại một phần nội dung của  “Lời giới thiệu” trong bản sáng  kiến này:   “Bản thân tôi cũng như  các đồng chí giáo viên, nhân viên luôn nhìn nhận   cấp trên của mình với phương châm:“Vừa nghe những gì anh ta nói, cùng nhìn những   gì anh ta làm!”. Tăng cường kết hợp giữa lý thuyết và thực hành là một trong những   nội dung trọng điểm của đổi mới chương trình giáo dục phổ  thông, đây là yêu cầu   thiết yếu mà đội ngũ giáo viên phải thực hiện trong quá trình giáo dục học sinh. Tôi   suy nghĩ, trong mối quan hệ công tác giữa người quản lý và giáo viên, nhân viên cũng   rất cần hài hòa, gắn kết giữa nói và làm, giữa lý thuyết và thực hành…”. Trong khuôn khổ một sáng kiến tôi muốn chia sẻ với đồng nghiệp những việc   làm của mình xuất phát từ thực tiễn yêu cầu của công việc; xuất phát từ suy nghĩ về  vai trò, trách nhiệm của người CBQL đối với đội ngũ trong quá trình thực thi nhiệm   11
  12. vụ  của họ. Người CBQL cần hy sinh thời gian của cá nhân, luôn tư  duy trong công   việc, đi đầu trong việc khai thác và ứng dụng công nghệ tin học để  giảm thiểu thời   gian của tập thể, tăng hiệu quả  công việc của đội ngũ, của bản thân, có tác dụng  thiết thực nhất để động viên, khích lệ đội ngũ trong quá trình công tác. Người CBQL   trong thời đại 4.0 phải biết gắn kết,  gần gũi, chia sẻ  với đồng nghiệp bằng công  nghệ, xóa hẳn được cái nhìn của đội ngũ với người CBQL là  “Áp đặt”, “chỉ tay năm   ngón”, “thiếu thực tế”… bởi những việc làm thiết thực của mình. Mỗi người CBQL có cách tư duy và thực thi các nhiệm vụ khác nhau, tùy thuộc  vào đặc thù cụ thể của mỗi nhà trường. Các vấn đề tôi đưa ra mới được kiểm chứng  về  tác dụng trong phạm vi của trường THPT Nguyễn Thái Học trong thời gian qua,  chưa có thể  đảm bảo sẽ  phù hợp cho các đơn vị  khác, và cũng chưa hẳn sẽ  có tác   dụng tốt đối với trường của tôi trong thời gian tiếp theo. Phải luôn cần cải tiến cho   phù hợp với yêu cầu của thực tiễn của nhà trường trong từng công việc, trong từng  giai đoạn phát triển. Do đó tôi rất mong muốn được các quý đồng nghiệp đóng góp ý   kiến, chia sẻ về các mặt: Ý tưởng, kỹ thuật, cách làm để tôi tham khảo, định hướng,  tiếp tục có những công cụ tốt hơn. Không chỉ có tác dụng tích cực trong trường THPT   Nguyễn Thái Học mà mong muốn có sự lan tỏa đến các đơn vị trường bạn.   8. Những thông tin cần được bảo mật: Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:  Người CBQL và giáo viên trong trường cần có nhận thức tốt về  yêu cầu của  công việc, yêu cầu về sự phát triển trong thời đại 4.0. Cần có những kỹ năng cơ bản   trong công tác khai thác và ứng dụng công nghệ thông tin. Phải có tinh thần trách nhiệm cao trong công tác, chịu khó tìm tòi, học hỏi, tự  bồi dưỡng về công nghệ thông tin. 10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: + Hiệu quả  trong công tác quản lý của bản thân được nâng cao; trình độ  về  công nghệ tin học được củng cố, nâng cao.  12
  13. + Hiệu quả  và tinh thần làm việc của đội ngũ có sự  thay đổi lớn theo hướng   rất tích cực.  + Qua việc sử dụng các công cụ tôi tạo ra, trình độ tin học và ý thức khai thác,   ứng dụng công nghệ  thông tin của đội ngũ GV được nâng lên. Không chỉ  trong công  việc tôi nêu ra trong sáng kiến mà trong nhiều công việc khác. 11. Danh sách những tổ  chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử  hoặc áp  dụng sáng kiến lần đầu: Số  Phạm vi/Lĩnh vực Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ TT áp dụng sáng kiến Trường THPT Nguyễn  1 Công tác QL Thái Học Khai Quang – TP.Vĩnh Yên  ở trường THPT 2 Lê Hồng Thái Vĩnh Yên, ngày 20 tháng 02 năm 2020   Vĩnh Yên, ngày 16 tháng 02 năm 2020     Xác nhận của thủ trưởng đơn vị  Tác giả sáng kiến Lê Anh Tuấn  Lê Hồng Thái 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2