1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Người Việt Nam nói Tiếng Việt học Tiếng Việt, nhưng hiểu cho hết
cái hay, cái đúng, cái đẹp của Tiếng Việt còn là một vấn đề để chúng ta phải bàn
nhiều, phải nghiên cứu, học hỏi mới đáp ứng nhu cầu giáo dục hiện nay: Giáo
dục Tiểu học nền tảng của hệ thống giáo dục Quốc dân, nhiệm vụ xây
dựng phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm thể chất cho trẻ em
nhằm hình thành cơ sở ban đầu để cho sự phát triển toàn diện về nhân cách con
người Xã hội chủ nghĩa".
Tiếng Việt tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính
thức của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Như thế việc dạy
Tiếng Việt hết sức quan trọng giúp học sinh kỹ năng giao tiếp tốt, để từ đó
các em thêm yêu q biết giữ gìn sự trong ng của Tiếng Việt. Nội dung
nghĩa của từ trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, được biên soạn hệ
thống nằm trong phân môn Luyện từ câu. Trong đó, từ đồng âm từ nhiều
nghĩa là các loại từ quan trọng, được xem như là “hiện tượng đặc thù” của ngôn
ngữ Tiếng Việt. Như vậy việc nhận diện hai loại từ này đối với người lớn đã
khó, với các em lớp 5 lại càng khó rất nhiều. Qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy,
dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy học sinh (kể cả học sinh năng khiếu) đều
rất khó khăn, hay nhầm lẫn khi xác định nghĩa để phân biệt từ, đặc biệt là những
từ xuất hiện trong văn cảnh. Xuất phát từ điều đó, tôi đã rút ra một số kinh
nghiệm để hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm từ nhiều nghĩa. Dưới
đây những biện pháp i đã áp dụng đối với học sinh lớp 5 trường i, xin
được mạnh dạn đưa ra để trao đổi cùng đồng nghiệp dưới dạng một sáng kiến
kinh nghiệm tựa đề: Hệ thống bài tập phân biệt từ đồng âm từ nhiều
nghĩa theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 5.”
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- TiWm hiêXu thưYc têZ về viêYc dạy từ đồng âm từ nhiều nghĩa, nhăWm tích
lũy thêm như\ng kiêZn thưZc, ki\ năng khi daYy môn Tiếng Việt 5 cho hoYc sinh.
- Đề xuất một số biện pháp phân biệt từ đồng âm từ nhiều nghĩa theo
hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh goZp phâWn tạo tiền đ cho sự
phát triển trí tuệ và phẩm chất của học sinh nâng cao châZt lươYng daYy học môn
Tiếng Việt lớp 5.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp, cách thức phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa môn Tiếng
Việt cho học sinh lớp 5.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra thực tiễn.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến:
.
Một trong những nguyên tắc bản của dạy Tiếng Việt đó chính dạy
học thông qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, trong đó giao tiếp bằng ngôn
ngữ công cụ cực mạnh để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng
sử dụng từ Tiếng Việt. Như vậy, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập
trong giờ Tiếng Việt được giáo viên hết sức quan tâm. Ngôn ngữ Tiếng Việt
thực sựnhiều khía cạnh khó, một trong những nội dung khó đó là phần nghĩa
của từ. Để thể giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa,
nhân tôi tập trung hướng dẫn học sinh phân biệt nghĩa gốc nghĩa chuyển
trong từ nhiều nghĩa. Nghĩa gốc nghĩa chuyển trong từ nhiều nghĩa được
xem một hiện tượng độc đáo của tiếng Việt, góp phần làm cho Tiếng Việt
thêm phong phú mang nét riêng mà không thể lẫn với một thứ ngôn ngữ nào
khác. Nghĩa gốc nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa trong (SGK Tiếng Việt 5
tập1) nêu trong khi dạy học về từ nhiều nghĩa, tuy nhiên khi xác định
phân biệt trong văn bản cụ thể thì thì nhiều trường hợp, giáo viên học sinh
vẫn còn nhầm lẫn. Vì thế, cần nắm vững những quy luật cơ bản trong Tiếng Việt
để dễ dàng hơn trong cách phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
2.2. Thực trạng vấn đề
2.2.1.Thực trạng chung:
Qua thực tế giảng dạy ở lớp 5, tôi nhận thấy việc phân biệt từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa môn Tiếng Việt cho học sinh Tiểu học còn gặp một số khó
khăn:
- Do một số giáo viên chủ quan, nhận thấy bài dạy ngắn gọn, ít bài tập nên
dễ dạy. Một số khác nghiên cứu bài dạy trước khi lên lớp chưa càng nên việc
sử dụng phương pháp, hình thức kỹ thuật dạy học chưa linh hoạt, chưa sáng
tạo dẫn đến hiệu quả.
- Đây là mảng kiến thức khó trong chương trình Tiếng Việt, khó về kiến
thức nên một số giáo viên nghĩ rằng học sinh sẽ nắm bắt tiếp ở các lớp trên.
- Trong quá trình dạy học phần trên mỗi giáo viên đều làm đúng vai trò
hướng dẫn, tổ chức cho học sinh. Tuy nhiên do thời lượng 1 tiết học rất ít nên
giáo viên chưa thể lồng ghép liên hệ phân biệt từ đồng âm từ nhiều nghĩa
đa dạng bài được.thế sau các bài học đó học sinh chỉ nắm được kiến thức về
nội dung học một cách trừu tượng. Trong quá trình giảng dạy nội dung này, một
số giáo viên còn gặp khó khăn khi lấy thêm một số ví dụ cụ thể trong thực tế đời
sống để minh hoạ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
- Hầu hết học sinh học xong bài học này chỉ nắm bắt kiến thức về lí thuyết
một cách thụ động đã có sẵn ở sách giáo khoa.
- Do vốn từ nghèo nàn, chưa hiểu bản chất nghĩa của từ. Do đó các em
chỉ phân biệt được từ đồng âm, từ nhiều nghĩa qua những dụ giáo viên
đưa ra minh họa.
- Một số em đặt câu sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa nhưng lại
chưa chính xác, chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu.
2
Trong thực tế cho thấy, học sinh khi làm các bài tập về từ đồng âm nhanh
hơn ít sai hơn so với khi làm bài tập về từ nhiều nghĩa, cũng thể do từ
nhiều nghĩa trừu tượng hơnể phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
2.2.2.Thực trạng
Để kiểm tra khả năng phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
Nôi dung đề kiểm tra:
Bài 1: Cặp từ ngữ nào dưới đây có từ đồng âm:
a, xương sườn- sườn núi b, vách đá - đá bóng
c, mắt cá - mắt lưới d, cái miệng – miệng hố
Bài 2: Dòng nào dưới đây gồm các từ nhiều nghĩa
a, ăn cơm – ăn ảnh – tàu ăn hàng
b, đỏ tươi- đỏ thắm – đỏ chót
c, thơ thẩn - thơ ca - thơ ngây.
Bài 3: những từ nào quan hệ đồng âm, những từ nào quan hệ nhiều nghĩa
với nhau
Bay: - Bác thợ nề cầm bay để trát tường.
- Đàn cò đang bay ở trên trời.
- Đạn bay vèo vèo.
2.3. Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1: Dạy các tiết học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa theo
hướng phát triển năng lực, phẩm chất.
- Tôi nghiên cứu lưỡng bài dạy, lựa chọn nội dung phù hợp với từng
đối tượng học sinh nhưng phải đạt theo yêu cầu của chuẩn kiến thức, năng lự
phẩm chất cho học sinh.
- Tôi lựa chọn hình thức phương pháp dạy học linh hoạt, sáng tạo phù
hợp với từng hoạt động của bài dạy.
- Tôi lựa chọn đồ dùng dạy học phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả bài dạy.
Đồng thời dự kiến các tình huống và cách xử lí tình huống trong dạy học. Tôi
tự đặt câu hỏi: Sau mỗi tiết học bài mới học sinh làm được những gì?
Các em biết vận dụng kiến thức đã học để phát triển những năng lực, phẩm
chất nào?
Ví dụ: Bài dạy: Từ Đồng âm –Tuần 5, Tiếng Việt 5/ tập 1.
( Giáo án và tiến trình dạy học cụ thể ở phần phụ lục)
+ Làm bài tập, phân tích yếu tố ngữ pháp bài đề cập đến. Cụ thể là giải nghĩa
từ, đối chiếu nghĩa và hình thức ngữ âm các từ làm nổi bật hiện tượng ngữ pháp
bài nói đến.
+Nhận xét, rút ra tiểu kết, từ các tiểu kết, đi đến kết luận.
+HS nhắc lại, GV đưa ghi nhớ lên bảng.
3
+ HS lấy ví dụ làm rõ thêm phần ghi nhớ.
+ Hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập để củng cố lí thuyết vừa học.
+ Bước củng cố bài cần làm để học sinh biết cách phân biệt từ đồng âm - từ
nhiều nghĩa, nghĩa gốc – nghĩa chuyển.
+Chú ý tìm cách rút ngắn thời gian nhận xét, tăng thời gian thực hành.
+Qua kiến thức hình thành năng lực, phẩm chất cần thiết cho học sinh.
Qua thực tế, tiết học đã diễn ra sôi nổi, hứng thú. Nhờ hình ảnh trực
quan học sinh tiếp thu cảm nhận ràng hơn về từ đồng âm, khắc sâu được
kiến thức cho học sinh, phát triển tốt năng lực hợp tác tự giải quyết vấn đề,
phẩm chất trung thực, chăm học cho học sinh .
- Đối với tiết dạy về bài: Từ nhiều nghĩa giáo viên cũng cần hết sức quan
tâm đến cách thức, phương pháp tổ chức cho học sinh thực sự được hoạt động
để từ đó giúp các em nắm được kiến thức, phát triển năng lực, phẩm chất của
học sinh.
Như vậy, việc dạy học hai bài học trên cũng tuân theo nguyên tắc chung
khi dạy Luyện từ câu vận dụng một số phương pháp, hình thức dạy học
phát huy tính tích cực của học sinh.
- Riêng đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo
viên chủ yếu thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để thể giúp học
sinh củng cố, nắm vững kiến thức, nhận diện, đặt câu cuối cùng xác định
đúng nghĩa của từ.
Biện pháp 2 : Giúp học sinh so sánh rút ra điểm khác nhau giữa từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa.
* Sự khác nhau giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
4
Từ đồng âm
- hai hoặc nhiều từ cùng nh
thức ngữ âm. (hòn) đá và đá (bóng)
- Các nghĩa của từ hoàn toàn khác
biệt nhau chúng không bất cứ
mối liên hệ gì:
Ví dụ: (hòn) đá chỉ chất rắnsẵn
trong tự nhiên, thường thành tảng,
thành hòn rất cứng. Còn đá (bóng)
chỉ hành động dùng chân tác động
mạnh vào một vật nhằm đưa vật đó
ra xa hoặc làm tổn thương đối tượng
tác động vào..
- Không thể giải thích nghĩa của từ
được bằng cơ chế chuyển nghĩa.
Từ nhiều nghĩa
- một từ nhưng thể nhiều
nghĩa: (hòn) đá và (nước) đá.
- Các nghĩa của từ giữa chúng có mối
liên quan với nhau.
- Ví dụ: hòn (đá) chỉ chất rắn có trong
tự nhiên, thường thành tảng, khối vật
cứng. Còn (nước) đá chỉ loại nước
nhưng đông cứng lại thành tảng
giống như đá.
- Chúng do chế chuyển nghĩa tạo
thành.
VD: Mũi dọc dừa (chỉ bộ phận trên
thể người, hình dạng nhô ra
phía trước, đẹp) / mũi thuyền/ mũi
kim/ tiêm ba mũi.
Biện pháp 3: Xây dựng hệ thống bài tập nhằm củng cố khắc sâu
kiến thức cho học sinh về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong các tiết luyện, tiết
tự học.
A. Về từ đồng âm:
1. Củng cố về khái niệm: Thế nào là từ đồng âm?
Ví dụ: cái bàn (1), bàn (2)bạc
Từ bàntrong “cái bàn bàn trong “bàn công việc” nếu xét về hình thức
ngữ âm thì chúng hoàn toàn giống nhau. Còn xét về nghĩa thì chúng laị hoàn
toàn khác nhau: Trong khi bàn (1) danh từ chỉ một đồ vật mặt phẳng,
chân đứng để đồ đạc hoặc làm việc, cònbàn (2) động từ chỉ sự trao đổi ý
kiến.
Hơn nữa, trong các tiết tự học, ôn luyện tôi đã mở rộng cung cấp thêm
kiến thức về từ đồng âm cho học sinh biết như:
dụ: Kiến (1)đĩa thịt (2). (1) trong kiến là chỉ hoạt động của con
kiến, còn bò(2) trong thịt bò là danh từ chỉ con bò "bò" là từ đồng âm.
Ví dụ: Bác(1) bác(2) trứng.
Tôi(1) tôi(2) vôi.
Bác(1) một từ xưng hô, bác(2) hoạt động làm cho chín thức ăn bằng cách
đun nhỏ lửa và quấy thức ăn cho đến khi sền sệt, Vậy chúng là từ đồng âm.
5