
ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ
TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨNH QUỲNH
----------------------------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5
PHÂN BIỆT TỪ ĐỒNG ÂM VÀ TỪ NHIỀU NGHĨA
Lĩnh vực/ Môn: Tiếng Việt
Cấp học :Tiểu học
Tên Tác giả: Nguyễn Thùy Trang
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh
Chức vụ: Giáo viên
NĂM HỌC: 2021 - 2022
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức
của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Bởi thế dạy Tiếng Việt có
vai trò cực kì quan trọng, những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội,
văn hóa giáo dục đòi hỏi những yêu cầu mới trong dạy môn Tiếng Việt nói chung

và phân môn Luyện từ và câu nói riêng. Một trong những nguyên tắc cơ bản của
dạy Tiếng Việt là dạy học thông qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt
giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ cực mạnh để học sinh tiếp cận, rèn luyện và
phát triển khả năng sử dụng từ tiếng Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt
động học tập trong môn Tiếng Việt được giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý. Ngôn
ngữ tiếng Việt của chúng ta thực sự có nhiều khía cạnh khó, một trong những nội
dung khó đó là phần nghĩa của từ. Các em muốn nói đúng, viết đúng thì phải nắm
vững kiến thức về từ ngữ và ngữ pháp tiếng Việt. Dân gian có câu: “Phong ba bão
táp không bằng ngữ pháp Việt Nam”. Quả đúng như vậy. Nhờ có điều đó mà tiếng
mẹ đẻ của chúng ta trở nên phong phú và uyển chuyển vô cùng.
Từ là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ, vai trò của từ trong hệ thống ngôn ngữ
quy định tầm quan trọng của việc dạy từ ngữ ở Tiểu học. Nếu như không có vốn từ
đầy đủ thì không thể sử dụng ngôn ngữ như một công cụ giao tiếp được. Vì vậy,
giúp học sinh Tiểu học nắm vững lí thuyết cũng như kĩ năng nắm nghĩa, sử dụng từ
là rất quan trọng. Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, nội dung nghĩa của từ
được tập trung biên soạn có hệ thống trong phần Luyện từ và câu. Trong quá trình
dạy học, tôi nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm
các từ đồng nghĩa cũng không mấy khó khăn, tuy nhiên khi học xong từ đồng âm
và từ nhiều nghĩa thì các em bắt đầu có sự nhầm lẫn. Khả năng phân biệt từ đồng
âm và từ nhiều nghĩa cũng không được như mong đợi của giáo viên, kể cả học sinh
khá, giỏi đôi khi cũng còn thiếu chính xác. Khi nói hoặc viết đôi lúc các em còn
hiểu sai lệch các loại từ này dẫn đến hiệu quả đạt được trong các giờ học Tiếng Việt
chưa cao. Vậy làm thế nào để thực hiện tốt mục tiêu của môn học? Điều này đòi hỏi
người thầy phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh
để giờ học diễn ra nhẹ nhàng mà hiệu quả. Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là hai
mảng kiến thức quan trọng trong phân môn Luyện từ và câu – chương trình Tiếng
Việt lớp 5. Qua thực tế đó, bản thân tôi đã tìm tòi, nghiên cứu, áp dụng trong quá
trình giảng dạy, từ đó rút ra được một số kinh nghiệm qua 1 năm dạy học lớp 5 để
giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Đó chính là lý do tôi
chọn đề tài:“ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa”.
2. Mục đích nghiên cứu

Tôi nghiên cứu vấn đề này nhằm hệ thống hóa nội dung, kiến thức về từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa trong chương trình Luyện từ và câu lớp 5. Bên cạnh đó, tôi
chọn đề tài này nghiên cứu còn với mục đích:
- Giúp học sinh tháo gỡ những nhầm lẫn giữa các từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa. Góp phần làm giàu thêm vốn từ cho học sinh.
- Giúp học sinh thiết lập mối quan hệ của từ với sự vật.
- Giúp học sinh hiểu nghĩa từ, sử dụng từ đúng, chính xác và vận dụng trong
khi nói, viết, làm Tập làm văn…
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu vấn đề lí luận về dạy Tiếng Việt ở Tiểu học.
- Nghiên cứu thực trạng và đề ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy
học về từ đồng âm từ và nhiều nghĩa cho HS.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc dạy - học từ đồng âm từ và
nhiều nghĩa.
4. Đối tượng nghiên cứu
- Từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp trắc nghiệm
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp đối thoại.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp đọc sách và tham khảo tài liệu.
6. Phạm vi thực hiện
- Học sinh lớp 5A9 trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh.
7. Thời gian nghiên cứu
- Đầu năm học: chọn lĩnh vực nghiên cứu, đặt tên đề tài sáng kiến.
- Tháng 10/2021 - tháng 1/2022: thu thập, khảo sát, ghi chép các thông tin,
minh chứng cho phục vụ sáng kiến.
- Tháng 2/2022: Kiểm tra đánh giá hiệu quả các biện pháp.
- Tháng 4/2022: Tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, hoàn thành sáng kiến.
PHẦN II : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận

1.1. Khái niệm từ đồng âm
Theo tài liệu “88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học” (Tác giả Lê
Hữu Tỉnh - Trần Mạnh Hưởng) khái niệm từ đồng âm và từ nhiều nghĩa được hiểu
như sau:
- Từ đồng âm là những từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau,
nhưng nghĩa hoàn toàn khác nhau. Do đó, các từ đồng âm không bị chi phối bởi các
quy luật ngữ nghĩa của ngôn ngữ.
Hiện tượng đồng âm là hiện tượng mang tính phổ quát xuất hiện trong nhiều
ngôn ngữ trên thế giới.
Ví dụ: Hình thức ngữ âm đá trong hai văn cảnh dưới đây là những từ đồng âm:
- Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.
- Trăng tròn như quả bóng
Bạn nào đá lên trời.
Một ví dụ khác, hai từ đường trong những dòng thơ dưới đây của Tố Hữu
cũng là hai từ đồng âm:
- Đường ta rộng thênh thang tám thước.
- Em ạ, Cu-ba ngọt lịm đường
Mía xanh đồng bãi, biếc đồi nương.
1.2. Khái niệm nghĩa gốc - nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa
Cũng theo khái niệm khái niệm từ đồng âm và từ nhiều nghĩa của tác giả Lê
Hữu Tỉnh - Trần Mạnh Hưởng:
- Nghĩa gốc: Là nghĩa cơ bản, là nền tảng cho sự phát triển nghĩa của từ.
Trong từ điển, nghĩa gốc được nói đến đầu tiên.
- Nghĩa chuyển: Là loại nghĩa được hình thành từ nghĩa gốc, có mối quan hệ
mật thiết với nghĩa gốc. Trong từ điển, nghĩa chuyển được nói đến sau nghĩa gốc.
* Theo tài liệu “Lý luận - Phương pháp dạy học từ ngữ Tiếng Việt trong nhà
trường của Phó giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Đức Tôn cũng viết:
- Nghĩa gốc - nghĩa chuyển: Đây là cách gọi theo quan điểm lịch đại, nhìn
nhận theo quá trình phát triển ý nghĩa của từ. Nghĩa gốc là nghĩa vốn có của từ
ngay từ khi xuất hiện, từ đó làm nảy sinh ra nghĩa khác. Nghĩa được nảy sinh ra từ
một nghĩa nào đó được gọi là nghĩa chuyển.
- Nghĩa chính - nghĩa phụ: Đây là tên gọi theo quan điểm đồng đại.
Nghĩa chính là nghĩa được người ta nghĩ đến đầu tiên khi đọc hoặc nghe thấy
một từ.

- Nghĩa phụ là nghĩa bị phụ thuộc vào vị trí của từ. Nghĩa từ chỉ khi kết hợp
với những từ đặc thù nhất định thì nghĩa này mới được hiểu.
Ví dụ: + Từ “răng” dùng để chỉ bộ phận cơ thể người hoặc động vật thì đây là
nghĩa chính (răng người, răng chuột, sún răng, mọc răng…)
+ Từ “răng” dùng để chỉ bộ phận giống với răng người ở một số đồ vật thì
đó là nghĩa phụ (răng bừa, răng lược…)
Quy luật chuyển nghĩa của từ:
* Quy luật nhận thức của con người:
Quá trình nhận thức của con người bao gồm hai mặt: cảm tính và lý tính.
Trong đó nhận thức cảm tính là nhận thức đầu tiên. Điều này có nghĩa là tư duy của
con người bao giờ cũng đi từ cụ thể, trực quan, cảm tính đến trừu tượng lý tính.
Dựa vào quy luật trên, ta có thể rút ra thủ pháp nhận diện, phân biệt nghĩa gốc và
nghĩa chuyển của một từ như sau: Trong 2 nghĩa của từ, nếu nghĩa nào cụ thể hơn
(tức là với nghĩa này, từ chỉ có hiện tượng trực quan cảm tính) thì đó là nghĩa gốc.
Nghĩa nào có tính chất trừu tượng hơn (chỉ hiện tượng trừu tượng thuộc nhận thức
lý tính), thì đó là nghĩa chuyển.
- Ví dụ: Nghĩa của từ “chín” khi nói về quả, hạt là nghĩa chính, còn khi nói
về sự suy nghĩ của con người thì đó là nghĩa chuyển.
* Quy luật chuyển nghĩa của từ:
Tất cả các sự chuyển nghĩa có tính chất ẩn dụ trong ngôn ngữ đều xuất phát
từ những thuộc tính của con người và từ hiện thực gần gũi nhất đối với con người
đến toàn bộ thế giới còn lại. Dựa vào quy luật này, ta có thể thấy: Trong 2 ý nghĩa
của một từ, nghĩa nào nói đến bản thân con người, động vật hoặc nói về các hành
động, tính chất của con người thì thường là nghĩa có trước (nghĩa gốc) còn nghĩa
nói về các hiện tượng khác còn lại thường là nghĩa chuyển.
- Ví dụ: “răng” trong răng người, răng chuột là nghĩa chính.
“răng” trong răng bừa, răng cào là nghĩa chuyển.
1.3. Nội dung dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ở lớp 5
Phân môn luyện từ và câu ở lớp 5 được bố trí 2 tiết một tuần, thường là một
tiết mở rộng vốn từ, một tiết luyện từ và câu, mỗi buổi học đều có tiết hướng dẫn
học tuy nhiên năm học này vì dịch bệnh HS phải ở nhà học trực tuyến các tiết
hướng dẫn học bị cắt giảm vậy nên học sinh không có điều kiện thực hành thêm các
bài tập và củng cố kiến thức về Tiếng Việt.
* Từ đồng âm: Được dạy trong 2 tiết ở tuần 5 và tuần 6.