
1
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến Ngành giáo dục thị xã Bình Long
Tôi ghi tên dưới đây:
Số
TT
Họ và tên Ngày
tháng năm
sinh
Nơi công
tác (hoặc
nơi thường
trú)
Chức
danh
Trình
độ
chuyên
môn
Tỷ lệ (%)
đóng góp
vào việc
tạo ra sáng
kiến
01
Trịnh Thị
Thanh Thủy
21/8/1973
Trường
Tiểu học
An Lộc A
Giáo viên
dạy lớp 5
ĐHSP
Tiểu
học
100%
1. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: cấp Trường năm học 2020-
2021
2. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
“ Giúp học sinh lớp 5 học tốt phân môn tập làm văn ”
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến : Môn Tiếng Việt, phân môn Tập làm văn
4. Ngày sáng kiến được áp dụng thử: 10/10/2020
5. Mô tả bản chất của sáng kiến:
5.1. Tính mới của sáng kiến:
Trong năm học này tôi được phân công dạy lớp 5, trong quá trình giảng dạy,
tôi rất băn khoăn và lo lắng một điều là làm thế nào để giúp học sinh học tốt
phân môn Tập làm văn – một phân môn quan trọng trong môn Tiếng việt, đặc
biệt là giúp học sinh có thể làm tốt bài văn tả cảnh trong khi thực trạng việc học
phân môn này của học sinh có rất nhiều điều cần suy nghĩ : Câu văn chưa diễn
đạt trọn vẹn một ý và chưa rõ nghĩa. Cảnh tả thì sơ sài và có nhiều lỗi lặp ý,
chưa làm nổi bật nội dung cần miêu tả…
Để định hướng cho học sinh phát triển khả năng diễn đạt cần phải định
hướng cho học sinh học tư duy ngôn ngữ để phát triển, vì ngôn ngữ là sản phẩm
cuối cùng của tư duy. Có tư duy ngôn ngữ thì học sinh mới có thể nói viết trọn
vẹn câu ý được, ngôn ngữ phải là cái đích để đánh giá học sinh chứ không phải
những điểm số một cách chung chung. Vì vậy vấn đề căn bản nhất là giúp học
sinh phát triển tư duy ngôn ngữ để học sinh có thể biểu đạt thành câu trọn ý
được.

2
Với tầm quan trọng và thực tế trên, để khắc phục những hạn chế trong quá
trình làm văn, đồng thời giúp các em tiến bộ hơn khi viết văn có ý nghĩa thực
tiễn sâu sắc. Chính vì lẽ đó, tôi tìm ra một số biện pháp rèn cho học sinh những
mặt còn hạn chế của lớp mình và tôi quyết định chọn đề tài “ Giúp học sinh lớp
5 học tốt phân môn tập làm văn” nhằm đề xuất một số biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 5.
Trong sáng kiến này, tôi mạnh dạn đưa ra điểm mới là chú ý rèn kĩ năng
miêu tả cho học sinh. Từ đó học sinh mới có khả năng diễn đạt tốt , sáng tạo
trong làm văn, nói và viết.
5.2. Nội dung sáng kiến:
5.2.1.Thực trạng vấn đề mà sáng kiến cần giải quyết:
Tập làm văn là một phân môn mang tính trừu tượng cao. Nó khác hoàn
toàn với các môn học khác như toán, tự nhiên xã hội ( nội dung học mang tính
cụ thể, dễ nhận biết ). Nó đòi hỏi các em phải suy nghĩ, phân tích và cảm nhận.
Vì vậy các em rất chán học và ít yêu thích phân môn này .
- Vốn từ của các em quá nghèo nàn nên các em chưa biết sử dụng câu từ cho
phù hợp khi miêu tả…
- Các em ít được tiếp xúc trực tiếp với đối tượng miêu tả nên nhiều em đã tả
cảnh không đúng với thực tế vốn có của nó.
- Các em viết bài văn miêu tả chưa đúng theo trình tự nhất định.
- Chưa biết cách chuyển ý giữa các đoạn, làm cho các đoạn văn trong một
bài văn rời rạc, chưa logic.
- Chưa bộc lộ cảm xúc của mình qua bài viết.
- Một số em trên chuẩn thì đa số bài viết của các em bó hẹp vào khuôn khổ
của những bài văn mẫu. Tuy nhiên những từ ngữ, hình ảnh trong bài văn mẫu
không phù hợp với thực tế cuộc sống.
Bản thân giáo viên cũng cảm thấy rất ngại khi dạy Tập làm văn vì nó đòi
hỏi người giáo viên phải dành nhiều thời gian để chuẩn bị, nghiên cứu, xây dựng
nội dung, phương pháp dạy học thích hợp, trong khi các môn học thì rất nhiều.
Qua việc tìm hiểu kết quả làm văn của học sinh các năm học trước, việc
thăm nắm tình hình học văn tả cảnh của các em qua các giáo viên đã dạy lớp 5,
cũng như kiểm tra trực tiếp học sinh lớp mình, tôi thấy chất lượng bài làm văn
của nhiều em chưa cao: Câu văn chưa diễn đạt trọn vẹn một ý và chưa rõ nghĩa.
Cảnh tả thì sơ sài và còn nhiều lỗi lặp ý, chưa làm nổi bật nội dung cần miêu
tả… Đồng thời, tôi cũng rất ít gặp những hình ảnh nhân hoá, so sánh trong bài
văn của các em, có chăng cũng chỉ là những hình ảnh rất khô khan hoặc là liệt
kê các hình ảnh, chi tiết của cảnh vật… Chính những điều đó đã làm cho chất
lượng học tập môn tiếng việt của các em chưa cao.
Từ thực tế, tôi nhận thấy để thực hiện tốt yêu cầu đổi mới phương pháp dạy
học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh làm cho
giờ học Tập làm văn “Nhẹ nhàng hơn, tự nhiên và chất lượng hơn”. Tôi nhận
thấy hiệu quả giờ học có chuyển biến tốt, học sinh hứng thú học Tập làm văn
hơn, giờ học thật vui, thật nhẹ nhàng, sôi nổi. Đặc biệt mỗi học sinh đều cảm

3
thấy tự tin hơn khi đặt câu diễn đạt rõ được ý của mình, từ đó các em chắc
thêm vốn kiến thức làm hành trang với những năm học tiếp theo.
5.2.2. Các giải pháp thực hiện:
a. Vị trí, vai trò của giáo viên trong phương pháp dạy theo hướng tích
cực hóa hoạt động học tập
Giáo viên cần xác định rõ việc đổi mới sao cho phù hợp với tình hình,
năng lực của học sinh. Nghĩa là giáo viên phải biết vận dụng các phương pháp
sao cho giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh bằng các câu hỏi gợi ý,
gợi mở. Song song đó, học sinh tích cực tham gia hoạt động học tập nhằm tiếp
thu bài học một cách chủ động và hiệu quả hơn. Muốn được như vậy, bản thân
giáo viên phải nỗ lực nhiều, phải kiên trì vận dụng đổi mới phương pháp nhằm
tạo cho học sinh sự hứng thú với phương pháp học tập chủ động một cách vừa
sức từ thấp đến cao.
Việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học mới có ý nghĩa thực tiễn sâu
sắc góp phần nâng cao chất lượng giờ học, một giờ Tập làm văn thường được
quy trình hoá theo trình tự: “Hướng dẫn tìm hiểu thông tin – Quan sát và xử lí
thông tin – Trao đổi, tranh luận – Tự rút ra kết luận”- Tức là dạy cho học sinh
“cách học” chứ không phải là truyền đạt cái kiến thức có sẵn…
Trong đổi mới phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự phối hợp giữa hoạt
động dạy và học thì mới thành công.
Với chất lượng phân môn tập làm văn như trên, bản thân tôi nhận thấy
mình cần phải làm gì đó, tìm ra một số biện pháp khả thi nào đó để giúp học
sinh lớp mình có được kĩ năng làm văn nhằm nâng cao chất lượng làm văn tả
cảnh nói riêng, phân môn Tập làm văn nói chung.
b. Một số biện pháp.
b.1. Một số biện pháp đối với giáo viên:
b.1.1. Thường xuyên tự học trau dồi kiến thức về tập làm văn:
Trong quá trình đứng lớp, tôi nhận thấy rằng: Để giúp học sinh làm tốt bài
văn tả cảnh thì bản thân giáo viên phải có vốn kiến thức sâu rộng về Tiếng việt.
Vì vậy tôi luôn xây dựng kế hoạch cho mình phải tự học , tự bồi dưỡng kiến
thức về Tập làm văn bằng nhiều hình thức như đọc các bài văn tả cảnh mẫu ,
đọc báo (báo giáo dục và thời đại, tạp chí giáo dục…) , đọc các tài liệu hướng
dẫn dạy Tập làm văn, Tiếng việt ...
b.1.2. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học:
Quan sát trực tiếp với đối tượng miêu tả là biện pháp hữu hiệu để giúp
học sinh làm bài văn tả cảnh hay. Nhưng trong thực tế không phải cảnh nào các
em cũng được quan sát khi tả. Đặc biệt hơn, mục tiêu của nội dung tả cảnh, là
dựa trên những gì các em được học , các em có thể vận dụng vào tả bất cứ một
cảnh nào trong thực tế. Ngoài ra, khi thuyết trình về một vấn đề nào đó, nếu có
đồ dùng trực quan, ta cảm nhận một cách thực tế, rõ ràng hơn về đối tượng được
nói tới. Cho nên trong quá trình dạy văn tả cảnh, tôi thường sử dụng tranh ảnh,
video, ..., có liên quan tới bài học và yêu cầu học sinh cùng tìm hiểu phục vụ cho
bài học của mình.

4
+ Ví dụ : Khi dạy bài luyện tập tả cảnh tiết 2/ tuần 7. Đề bài yêu cầu các
em dựa vào dàn ý đã lập ở tiết trước để viết một đoạn văn tả cảnh sông nước.
Khi hướng dẫn học sinh làm bài tôi đã kết hợp dùng tranh, video minh hoạ cảnh
sông, suối, biển, hoặc gợi ý cho các em nhớ lại cảnh đã từng gặp giúp học sinh
nhớ lại những chi tiết mình đã quan sát được để xác định đề tài miêu tả cho bài
văn của mình và phân biệt với những cảnh khác…(do ở địa phương không có
cảnh sông nước hoặc nếu có thì cũng khá xa và một số em cũng chưa có điều
kiện tham quan...)
b.1.3. Tích hợp trong dạy- học các môn học khác:
Để giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh, chỉ nội dung, thời gian dành cho
những tiết Tập làm văn tả cảnh không là chưa đủ, mà nó đòi hỏi cả một quá trình
dạy học, là sự tích hợp của tất cả các môn học khác, nó hỗ trợ cho nhau và
không thể thiếu. Đặc biệt phải kể đến phân môn tập đọc và luyện từ và câu sẽ
giúp học sinh sở hữu vốn từ ngữ rất phong phú và đa dạng.
+ Ví dụ : Ngay trong tuần học đầu tiên của lớp 5 với bài tập đọc: “Quang
cảnh làng mạc ngày mùa”. Học sinh tích luỹ cho mình rất nhiều kiến thức có
liên quan đến bài văn tả cảnh, nhất là với bài “tả cảnh cánh đồng, nương rẫy…”
Điều đó thể hiện ở chỗ, học sinh được biết thêm rất nhiều các từ , các hình ảnh
miêu tả như : để tả màu vàng, học sinh có thể dùng từ vàng xọng, vàng xuộm,
vàng hoe, vàng ối … sao cho phù hợp với đối tượng miêu tả trong bài văn của
mình. Cũng với bài tập đọc trên, học sinh còn tìm được ở đó cấu tạo của bài văn
tả cảnh gồm 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài .
* Vì vậy khi dạy bài Tập đọc trên, trong phần tìm hiểu bài: Ở câu 2: Hãy
chọn một từ chỉ màu vàng trong bài và cho biết từ đó gợi cho em cảm giác gì ?
Trả lời được câu hỏi này tức là học sinh đã nắm được các từ chỉ màu vàng và
hiểu được nghĩa của nó khi sử dụng trong bài văn tả cảnh. Vì vậy, tôi hướng dẫn
kĩ hơn ở câu hỏi này. Cụ thể như sau:
- Bước 1: Đọc từ và lời giải (vàng xọng – màu vàng gợi cảm giác như có nước)
- Bước 2: Phân tích nghĩa của từ:
+Giúp học sinh hiểu: Tại sao “vàng xọng là màu vàng gợi cảm giác như có
nước”bằng các câu hỏi phụ:
Từ vàng xọng trong bài văn miêu tả màu vàng của sự vật nào?(Màu vàng
của bụi mía)
Em nào đã từng được quan sát bụi mía, theo em từ vàng xọng tả cây mía
ở thời kì nào (thời kì mới trồng, đang phát triển hay đã đến độ thu hoạch) ?(Tả
cây mía khi đã đến độ thu hoạch. Khi đó thân cây có màu vàng bóng, đó là dấu
hiệu để chúng ta biết mía đã có nhiều nước ngọt thơm. Từ vàng xọng gợi cảm
giác như có nước là vì vậy)
Sau đó tôi cho học sinh trực tiếp quan sát một khúc mía có màu vàng
xọng mà tôi đã chuẩn bị.
- Với các từ ‘vàng xuộm, vàng lịm, vàng tươi, vàng ối..”hướng dẫn tương tự.
- Các bài mở rộng vốn từ trong phân môn luyện từ và câu là món ăn
chính giúp học sinh có nguồn vốn từ dồi dào và sinh động.

5
Ngoài ra, nó còn giúp học sinh biết cách liên kết các câu trong bài bằng
nhiều hình thức như: lặp từ ngữ, thay thế từ, dùng từ nối... nhằm tạo ra cho học
sinh một bài văn trôi chảy, không lủng củng, không rườm rà…
Cũng chính từ phân môn luyện từ và câu, Học sinh còn được thực hành
viết những đoạn văn tả cảnh có liên quan như: Bài “Luyện tập về từ đồng
nghĩa” tuần 3/TV 5 – Tập 1/32, sau khi học sinh nắm được như thế nào về từ
đồng nghĩa học sinh được vận dụng kiến thức vừa học để viết đoạn văn miêu tả
màu sắc đẹp của những sự vật mà em yêu thích dựa vào bài tập đọc “Sắc màu
em yêu” .
+ Hay trong bài “Mở rộng vốn từ : Thiên nhiên”– tuần 9/Trang 87, ngoài
mục đích giúp học sinh nắm được vốn từ về thiên nhiên, tôi còn xoáy sâu vào
cách sử dụng hình ảnh so sánh, nhân hoá trong bài từ đó học sinh của tôi cũng
vận dụng một cách sáng tạo vào bài văn tả cảnh của mình .
- Chính vì sự gắn bó chặt chẽ nói trên mà trong quá trình xây dựng kế
hoạch giảng dạy ở mỗi bài, mỗi phân môn, tôi thường chú ý tích hợp giữa các
bài, các phân môn với nhau nhằm tận dụng triệt để sự gắn bó giữa các môn học
này trong dạy học tập làm văn tả cảnh.
b.1.4. Khai thác triệt để vốn kiến thức sẵn có của học sinh:
- Qua việc kiểm tra thực tế với 2 nhóm đối tượng học sinh lớp tôi, tôi thấy
rằng: Cùng viết một bài văn tả cảnh, một nhóm học sinh đã được quan sát trực
tiếp đối tượng miêu tả và một nhóm học sinh không được trực tiếp quan sát đối
tượng đó thì chất lượng bài viết, cách miêu tả của 2 bài văn có sự khác biệt rõ
rệt. Với bài của học sinh được quan sát đối tượng miêu tả , cách dùng hình ảnh
của các em rất phong phú, đa dạng nhưng không làm mất đi nét riêng, chân thực
của đối tượng miêu tả. Còn với bài văn của học sinh không được quan sát trực
tiếp đối tượng miêu tả, đôi khi cách dùng hình ảnh của các em mang tính chiếu
lệ, không đúng với thực tế vốn có của nó…
+ Ví dụ: Có một em khi miêu tả cảnh buổi sáng trong công viên, em viết :
“Trong công viên, vào buổi sáng xe cộ đi lại tấp nập…”
- Vì thế tôi cho rằng muốn học sinh viết được bài văn tả cảnh hay, điều
thứ nhất không kém phần quan trọng đó là việc học sinh được quan sát đối
tượng miêu tả trực tiếp bằng tất cả các giác quan. Cho nên trong phần hướng dẫn
xác định yêu cầu, tôi luôn dẫn dắt để khai thác triệt để vốn kiến thức sẵn có của
học sinh phù hợp với điều kiện quan sát của các em.
+ Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh viết một bài văn tả cảnh sông nước, tôi
hỏi học sinh đã đươc ngắm cảnh sông nước chưa ? ở đâu ? Em quan sát vào
những thời gian nào? Có kỉ niệm nào gắn bó giữa em với cảnh đó không ? ( Do
khu vực các em ở không có cảnh sông nước). Từ đó giúp các em tự nhớ lại
những gì mà mình đã quan sát được về cảnh sông nước khi miêu tả…
+ Hay với đề bài tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong vườn cây
(hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy): Dựa vào thực
tế địa phương nơi trường tôi đóng, các em có điều kiện được đi công viên, trên
đường phố hoặc đa số nhà các em có vườn cây nên vì vậy tôi đã hướng học sinh
chọn đề tài phù hợp với điều kiện quan sát của mình đó là vườn cây, công viên,
đường phố – những cảnh gần gũi , quen thuộc và gắn bó với các em.