1
I.ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Tính cấp thiết phải tiến hành sáng kiến:
Như chúng ta đã biết, hiện tại theo chương trình Giáo dục phổ thông m
2018 dạy học theo định hướng phát triển năng lực nghĩa dạy cho học
sinh biết làm chứ không phải dạy cho học sinh biết một trong yếu tố
tạo nên điều đó chính việc ứng dụng linh hoạt những kiến thức thực tế trong
cuộc sống hàng ngày vào trong dạy học.
Mục tiêu nói trên được thông qua việc dạy học các môn học, đặc biệt
môn toán. Môn này tầm quan trọng vậy môn toán bộ môn không thể
thiếu được trong nhà trường, đây những tri thức, kỹ năng vừa đáp ứng cho
phát triển trí tuệ, óc thông minh, sáng tạo, vừa đáp ứng cho việc ứng dụng thiết
thực trong cuộc sống hàng ngày.
Trong các môn học ít môn học nào lại giúp rèn luyện năng lực suy nghĩ
và phát triển trí tuệ cho học sinh như môn Toán. Môn Toán có tầm quan trọng to
lớn. là bộ môn khoa học nghiên cứu hệ thống, phù hợp với hoạt động
nhận thức tự nhiên của con người. Môn Toán còn là môn học rất cần thiết để học
các môn học khác, nhận thức thế giới xung quanh để hoạt động hiệu quả
trong thực tiễn. Môn Toán khả năng giáo dục rất lớn trong việc rèn luyện
phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận logic, thao tác tư duy cần thiết để
nhận thức thế giới hiện thực như: trừu tượng hoá, khái quát hoá, khả năng phân
tích tổng hợp, so sánh, dự đoán, chứng minh.
trường tiểu học, đặc biệt giai đoạn lớp 5, việc dạy học toán cho học
sinh nhằm phát triển năng lực hướng dẫn, định hướng cho các em biết cách
học toán, biết cách s dụng những kiến thức đã được học trong môn toán để vận
dụng vào cuộc sống hàng ngày. Thông qua việc học toán trong ntrường,học
sinh được rèn năng lực tư duy, phát triển trí thông minh và kĩ năng tính toán.
Đặc biệt hơn cả, trong dạy toán cho các em, người giáo viên phải giúp các
em trả lời được câu hỏi: Học toán để làm gì? Trả lời câu hỏi đó các em mới
mục tiêu học tập hướng học tập một cách ràng. Xuất phát từ yêu cầu
này tôi đã luôn trăn trở và tìm phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với từng
đối tượng học sinh. Những bài toán tôi đưa ra không chỉ giúp các em giải được
bài toán, được kiến thức toán cần thiết còn giúp các em hiểu sâu, nắm
và nắm chắc bản chất toán học qua từng bài toán. Không những thế, tôi còn giúp
các em hiểu : học toán đem kiến thức toán học được để áp dụng vào trong
cuộc sống hàng ngày áp dụng một cách hiệu quả. Để đạt được mục tiêu này
tôi đã đưa các kiến thức vốn sống thực tế áp dụng để giải toán. ngược lại,
đưa những kiến thức toán các em học được áp dụng vào cuộc sống hàng
ngày. Chính do đó tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: Một số giải pháp nâng
cao tính ứng dụng thực tế trong giảng dạy môn Toán lớp 5”.
2
2. Mục tiêu của đề tài: Nhằm tìm ra một số giải pháp để nâng cao tính
ứng dụng thực tế trong giảng dạy môn Toán lớp 5.
3. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
-Thời gian: Trong năm học 2023-2024
-Đối tượng nghiên cứu: HS lớp 5 Trường Tiểu học Phú Sơn
-Phạm vi nghiên cứu: Chương trình môn Toán lớp 5
II.NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN:
1. Thực trạng v việc dạy học một số bài toán tính ứng dụng thực tế cho
học sinh lớp 5.
Qua thời gian trực tiếp giảng dạy lớp 5, tôi đã tiến hành điều tra, phân ch
thực trạng, suy ngẫm v nội dung giảng dạy một số bài toán tính ứng dụng
thực tế lớp 5 của học sinh, cách tổ chức dạy học của bản thân đồng nghiệp,
tôi đã rút ra được những thuận lợi và hạn chế sau:
1.1. Đối với giáo viên:
a) Thun li:
- Giáo viên đã nắm chắc được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy
học một cách cơ bản, việc sử dụng đồ dùng dạy học hiệu quả.
- Thông qua các tiết dạy mẫu, tiết chun đ đã mang lại cho mỗi giáo vn
nhiều kinh nghiệm tnh ng khi áp dụng o giảng dạy môn Toán 5.
- Trường tôi có cơ sở vật chất hiện đại. Mỗi lớp học được trang bị đầy đủ ti
vi , máy tính để giáo viên có thể sử dụng và dạy học đạt kết quả tốt.
b) Những hạn chế :
- Trong môn toán Tiểu học, một số bài toán tính ứng dụng thực tế
mạch kiến thức được dạy lồng ghép. Do đó một bộ phận giáo viên còn coi
nhẹ phần kiến thức này. Khi lên đến lớp 5 phần nội dung kiến thức về một số bài
toán có tính ứng dụng thực tế thời lượng rất ít , vẫn chưa được chú trọng. Do
đó giáo viên chỉ dạy những kiến thức hết sức bản không mở rộng kiến
thức cho các em. Lâu dần dẫn đến tình trạng chỉ cung cấp kiến thức một cách
“nguyên bản”, “mặc định”, như vậy cả thầy trò đều thụ động trong việc dạy
và học.
- Một số giáo viên chỉ chú trọng dạy các mạch kiến thức: số học, đại lượng,
giải toán ít chú trọng về dạy các bài toán tính ứng dụng thực tế nên mấy
năm gần đây chất lượng về giải toán nội dung ứng dụng thực tế này của các
em có khuynh hướng ngày càng đi xuống.
- Thiết kế các hoạt động học chưa hợp l, chưa tích cc.
- Giáo viên còn nói nhiều, còn làm thay cho học sinh, giao việc cho học
sinh chưa cụ thể theo từng đối tượng, thiếu quan tâm, tiếp cận kịp thời cho các
nhóm học sinh hạn chế về năng lực học tập.
3
- Giáo viên chưa chú khơi gợi, to tình hung hc tập để hc sinh
hứng thú, tìm tòi, trải nghiệm, chiếm lĩnh kiến thức mới.
- Giáo viên chưa phát huy tính tích cực chủ động, sáng to của học sinh,
còn áp đặt.
1.2. Đối với học sinh:
a) Thuận lợi:
- Học sinh ham học toán.
- Học sinh có tư duy toán học tương đối tốt.
- Trình độ tiếp thu của học sinh trong lớp tương đối đồng đều.
- Học sinh có đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập.
b) Hạn chế :
- Do đặc điểm tâm lí của lứa tuổi nên khả năng chú  tập trung còn yếu,
tính kỉ luật chưa cao dễ mệt mỏi.
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến
việc tiếp thu bài học.
- Kĩ năng sống của học sinh còn hạn chế.
- Khả năng phân tích, tổng hợp chưa cao.
- Các em chỉ ghi nhớ các công thức và quy tắc một cách máy móc học
thuộc lòng nên khi vận dụng vào giải bài toán tính ứng dụng thực tế các em
chỉ dựa vào phân tích dkiện dựa trên câu văn như giải toán lời văn các
em không liên hệ được các yếu tố , dữ kiện của đề bài.
- Trí nhớ của học sinh chưa bền vững chỉ dừng lại ở phát triển tư duy cụ thể
còn duy trừu tượng, khái quát chưa phát triển (nhất học sinh yếu kém)
nên khi gặp những bài cần sự duy logic như tính số viên gạch hay số tiền
thì các em không làm được do không có công thức tính trong sách giáo khoa
- Năng lực tư duy trừu tượng của các em phát triển chưa nhiều, nên trí
tưởng tượng về hình học còn gặp nhiều khó khăn.
- năng vận dụng quy tắc, công thức phân tích, tìm ra mối quan hệ
giữa các dữ kiện còn thấp, kéo theo kĩ năng trình bày bài của các em chưa tốt.
- Việc tóm tắt đề toán còn dài dòng theo lỗi diễn đạt của giải toán lời
văn, hay nhiều em còn không biết tóm tắt
- Đặc điểm của trẻ ở Tiểu học là chóng nhớ nhưng nhanh quên. Sau khi học
bài mới, cho các em luyện tập ngay thì các em làm được bài nhưng chỉ sau một
thời gian ngắn kiểm tra lại thì hầu như các em đã quên hoàn toàn, đặc biệt
những tiết ôn tập, luyện tập cuối năm.
Năm học 2023- 2024, tôi được Nhà trường phân công giảng dạy và chủ
nhiệm lớp 5A1. Đầu năm học, i đã điều tra 27 học sinh bằng phiếu trắc nghim
sau:
4
PHIẾU TRẮC NGHIỆM
Đánh dấu X vào trước  kiến em cho là đúng:
1. Em có thích hc môn Toán không?
Không
2. Giờ học Toán
Là một giờ học sôi nổi.
Là một giờ học tẻ nhạt vì phải thực hiện tuần tự các lệnh trong SGK.
Là một giờ mà em thích nhất vì em cảm thấy học Toán rất bổ ích.
Sau 1 tuần quan sát, theo dõi và căn cứ kết quả thăm dò từ cha mẹ học
sinh lớp 5A1, tôi thu được thực trạng năng lực ứng dụng thực tế của học sinh
như sau:
*Bảng kết quả các năng lực ứng dụng thực tế đầu năm học 20223-2024:
Nội dung
Kết quả
SL
%
1. Có thích học môn Toán.
10
37%
2. Không thích học môn Toán.
17
63%
3. Giờ học Toán là một giờ học sôi nổi.
11
40,7%
4. Một giờ học tẻ nhạt vì phải thực hiện tuần tự các lệnh
trong SGK.
16
59,3%
5. Một giờ học mà em thích nhất vì em thấy môn toán rất bổ
ích.
0
0
6.Biết áp dụng vốn hiểu biết thực tế vào giải toán và áp
dụng kiến thức toán vào cuộc sống hàng ngày.
4
14,8
7. Không biết áp dụng vốn hiểu biết thực tế vào giải toán và
áp dụng kiến thức toán vào cuộc sống hàng ngày.
23
85,2
Từ kết quả trên, để khắc phục tình trạng học sinh học toán, giải toán nhưng
tách rời kiến thức toán học, không biết áp dụng kiến thức toán vào cuộc sống tôi
đã đưa ra những giải pháp cụ thể.
5
2. Một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong giảng dạy môn
Toán lớp 5:
2.1. Các bài toán có nội dung hình học.
Mục đích:
- Từ những hiểu biết và thực tế ở trong cuộc sống hàng ngày các em s
đưa vào giải những bài toán về diện tích.
- Học sinh hiểu được bản chất của kiến thức được đưa vào trong bài toán.
- Từ những kiến thức đã học các em đem áp dụng vào cuộc sống, thể tính
toán giúp bố mẹ diện tích căn nhà mình đang ở hay diện tích cần quét vôi khi gia
đình có nhu cầu.
ch tiến nh:
* Bài toán 1:
Để lát nền lớp học hình chữ nhật chiều dài 8m, chiều rộng 6,8m, người ta
dùng những viên gạch hình vuông cạnh 40cm. Hỏi người ta phải dùng bao
nhiêu viên gạch men đó để lát kín hết nền lớp học (Diện tích phần mạch vữa
không đáng kể).( Bài 1, tiết Luyện tập chung trang 31)
Với bài toán này nếu bình thường đối với giáo viên dạy lớp 5 tkhông
phải là bài toán thuộc những dạng toán khó, nhưng với các em học sinh lớp 5 lần
đầu tiên giải bài toán này nếu không được tìm hiểu, không được giáo viên dẫn
dắt một cách hợp đặc biệt nếu không được giáo viên gợi , khơi gợi từ
những kiến thức thực tế thì các em sẽ không hiểu được bản chất bài toán. Các
em giải được cũng chỉ hoàn toàn học theo cách giải của học thuộc
cách giải một cách máy móc mà thôi.
Bài toán này khi dạy cho học sinh lần đầu tiên tiếp cận với dạng toán, tôi đã
hướng dẫn học sinh giải bài toán dựa vào điều kiện cũng như kiến thức thực tế
như sau:
- Chỉnh sửa dữ kiện i toán phù hợp với điều kiện lớp học: Thường thì các
bài toán lấy số liệu phù hợp với tiêu chuẩn một lớp học nhưng khi dạy trên đối
tượng học sinh của mình, học trong một lớp học đủ điều kiện, hàng ngày các em
ngồi học và có đủ thời gian nhìn, ngắm và biết rất rõ về phòng học nên tôi đã lấy
ngay số đo chiều dài, số đo chiều rộng của lớp học. Từ đó, khi có đáp số của bài
toán các em kiểm chứng lại ngay đáp số ấy đáp số hoàn toàn đúng trên
thực tế cũng như giải toán.
- Dùng những câu hỏi phù hợp để gợi cho các con giải bài toán một cách
tốt nhất như:
+ Bài toán hỏi gì? ( dùng bao nhiêu viên gạch để lát?)
+ Muốn biết phải dùng hết bao nhiêu viên gạch phải biết điều gì trước?