intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt 1 CGD

Chia sẻ: Tomjerry004 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:26

23
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đưa ra các giải pháp trong dạy học khơi dậy sự tò mò, sáng tạo, chủ động của học sinh. Từ đó giúp các em từng bước tự điều chỉnh chính mình trong việc tự tìm tòi khám phá tri thức chứ không ai có thể làm thay được, khơi dậy lòng yêu thích học Tiếng Việt trong học sinh, giúp các em mạnh dạn trong học tập và khả năng sáng tạo và học tốt môn CGD 1.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt 1 CGD

  1.                                1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn sáng kiến ̉ ́ ứng nhu câu phát tri Đê đap  ̀ ển của xã hội chung ta hiên nay, đòi h ́ ̣ ỏi con  người cân có m ̀ ột số  phẩm chất và năng lực quan trong hàng đ ̣ ầu như  năng   lực làm việc nhóm, năng lực hoạt động thực tiễn và giải quyết vấn đề  do  cuộc sống đặt ra, năng lực hợp tác va chia se, năng l ̀ ̉ ực thích  ứng... Những  yêu cầu trên đa đ ̃ ặt ra cho giáo dục phải đổi mới toàn diện để  đáp  ứng tốt  hơn nhu cầu giáo dục của xã hội và cá nhân. Đê lam tôt đ ̉ ̀ ́ ược điêu đo, chung ̀ ́ ́   ̀ ̣ ̀ ư  ngay từ câp tiêu hoc. Vi g ta cân tâp trung đâu t ́ ̉ ̣ ̣ ̉ ̣ ̀ ̣ ̣   ̀ iao duc tiêu hoc la bâc hoc ́ ̀ ̉ ̣ ́ ̣ ̀ ̣ ̣ nên tang trong hê thông giao duc quôc dân. Đây la bâc hoc mang tinh chât nên ́ ́ ́ ́ ̀  ̉ ́ ̣ ́ ̣ mong đê cac em hoc tiêp bâc cao h ́ ơn. Qua trinh day hoc  ́ ̀ ̣ ̣ ở  bâc tiêu hoc la ̣ ̉ ̣ ̀  nhăm cung câp cho cac em nh ̀ ́ ́ ưng kiên th ̃ ́ ức, sự hiêu biêt c ̉ ́ ơ ban, toan diên vê ̉ ̀ ̣ ̀  ̉ ̀ ́ ̣ thê chât, nhân cach va tri tuê. “Nh ́ ́ ững gi hoc  ̀ ̣ ở tiêu hoc theo suôt cuôc đ ̉ ̣ ́ ̣ ời môĩ  con ngươi”.  ̀ Ngay từ  trường tiểu học, học sinh phải biết tự  tin, chủ  động,  sáng tạo trong quá trình học tập và hoạt động để hoàn thành các môn học và  hình thành được một số phẩm chất và năng lực theo mục tiêu giáo dục tiểu  học đặt ra.  Chinh vi thê, ́ ̀ ́ Nghị quyết số 29­NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị  Trung  ương 8 (khóa XI) đa đăt ra:  ̃ ̣ "Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục   và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện   kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế". Cốt lõi  của việc đổi mới đó chính là : Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các yếu  tố cơ bản của giáo dục , đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất   năng lực của người học. Muốn phát triển tốt phẩm chất và năng lực trước   hết phải dạy cho các em cách giao tiếp, mà  giao tiếp là nhu cầu đặc biệt  hằng ngày và rất quan trọng của mỗi con người. Dù bạn ở trong hoàn cảnh  nào, làm việc gì thì để đạt được mục tiêu của mình đòi hỏi bạn phải có giao   tiếp. Khả năng giao tiếp của bạn phụ thuộc vào các kĩ năng  sử dụng Tiếng  Việt của chính bản thân bạn.  Ở  nước ta, Tiếng Việt là môn học rất quan  1
  2. trọng của bậc Tiểu học, làm nền móng để  học tốt các môn học khác và là  tiền đề tạo nên cơ sở vững chắc cho nền giáo dục của nước nhà.       Để  thực hiện tốt mô hình Trường học mới Việt Nam ( VNEN ) thì dạy  Tiếng việt lớp 1­   CNGD là một nhiệm vụ  có tính chất chiến lược nhằm   quản lý tốt chất lượng đầu vào  môn Tiếng Việt  ở  bậc Tiểu học . Do vậy,  kiểu dạy học thầy giảng ­ trò ghi nhớ  trở  nên lạc hậu, không còn đáp  ứng  được nhu cầu của nền sản xuất và sự tiến bộ khoa học công nghệ. Giáo dục  đứng trước sức ép phải đổi mới, nhiều phương án dạy học đã ra đời, như:   dạy học chương trình hóa, nêu vấn đề, dạy học tình huống,…Trong đó, công  nghệ  dạy học là một chiến lược dạy học đang dần xác định và chiếm  ưu  thế. Dạy học theo chương trình Công nghệ  giáo dục là kiểu dạy mà trẻ em  không phải là đối tượng chịu sự  tác động của giáo dục một cách thụ  động,  mà là một chủ thể hoạt động để tự sinh ra mình, trẻ em hoạt động để tự tạo  ra sản phẩm giáo dục, để trở thành cá thể người, một thành viên của xã hội  có thể  sống và hoạt động có kết quả  trong xã hội hiện đại.   Cũng như  các  năm học trước, năm học  2018 – 2019, việc dạy Tiếng Việt theo Công nghệ  giáo   dục   được   áp   dụng   trong   toàn   tỉnh   Quảng   Bình.  Thực   hiện   dạy   tốt  chương trình TV1 CGD 1 là thực hiện tốt việc đổi mới căn bản và toàn diện   Giáo dục­ Đào tạo. Để góp phần nâng cao chất lượng của việc dạy học TV1   CGD, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp nâng cao chất lượng   dạy học Tiếng Việt 1 CGD”. 1.2. Điểm mới của sáng kiến        Thực tế có nhiều sáng kiến kinh nghiệm  nghiên cứu về việc học công   nghệ Tiếng Việt 1 của Giáo Sư  Hồ  Ngọc Đại. Song nó chỉ dừng lại ở việc  nghiên cứu điểm giống nhau và khác nhau giữa chương trình Tiếng Việt  hiện hành và chương trình Tiếng Việt Công Nghệ, nghiên cứu  ưu thế  của   việc dạy Tiếng Việt Công Nghệ chứ chưa đưa ra được biện pháp cụ thể để  giúp đỡ học sinh. 2
  3.      Việc nghiên cứu đề tài này nhằm đưa ra các giải pháp trong dạy học khơi  dậy sự  tò mò, sáng tạo, chủ  động của học sinh. Từ  đó giúp các em từng  bước tự  điều chỉnh chính mình trong việc tự  tìm tòi khám phá tri thức chứ  không ai có thể làm thay được, khơi dậy lòng yêu thích học Tiếng Việt trong  học sinh, giúp các em mạnh dạn trong học tập và khả năng sáng tạo và học   tốt môn CGD 1. Đồng thời sáng kiến cũng đưa ra một số phương pháp giúp  GV và HS vận dụng và thực hiện tốt việc dạy và học Tiếng Việt CGD.  1.3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến Bản thân nghiên cứu sang kiên nh ́ ́ ằm mục đích đóng góp một phần  công sức của mình để  có những biện pháp hữu hiệu, những bài học kinh  nghiệm để  có thể  áp dụng vào thực tiễn dạy học TV 1 CGD  ở trương nói ̀   riêng và giáo dục huyện nhà nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu đề  tài  ́ ượng day hoc đ thành công, chât l ̣ ̣ ược nâng cao đap  ́ ứng vơi đinh h ́ ̣ ướng đôỉ   mơi giao duc hiên nay.  ́ ́ ̣ ̣           Đề tài này nghiên cứu chương trình và nguyên tắc xây dựng chương  trình Tiếng Việt 1 CGD. Qua đó đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng   dạy học TV1 CGD theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh.   Đây là nội dung mới được đưa vào dạy học trong năm học này nên tôi chỉ  mạnh dạn nghiên cứu, áp dụng trong phạm vi đối với lớp 1.            2. PHẦN NỘI DUNG 2.1.Thực trạng tổ chức giảng dạy Tiếng Việt 1 Công nghệ giáo dục 2.1.1. Chương trình, phương pháp và quy trình dạy TV CGD.      Căn cứ vào khung chương trình quy chuẩn về thời gian, dung lượng kiến   thức   và   mục   tiêu   chung   của   phân   môn.   TV1   CGD   chia   làm   37   tuần   (10  tiết/tuần), bao gồm: Phần chuẩn bị: Tuần 0 ( 2 tuần) học cách làm việc. Học kỳ I: Tuần 1 đến tuần 17 (học phần âm và vần) 3
  4. Học kỳ II: Tuần 18 đến tuần 35 (tiếp tục học vần, nguyên âm đôi và  luyện tập tổng hợp).  Phương pháp thực hiện chương trình. Phương pháp Mẫu: Lập mẫu, sử dụng mẫu Phương pháp Việc làm là phương pháp dạy học hoàn toàn mới, xây  dựng trên cơ sở sự hợp tác mới giữa thầy và trò. Trong đó, thầy tổ chức việc  học của trò thông qua những việc làm cụ thể và những thao tác chuẩn xác do  các em tự làm lấy. Công nghệ giáo dục cũng dung nạp một số phương pháp truyền thống  như: Nêu vấn đề, trực quan, vấn đáp...coi đó như những hình thức, thủ pháp  dạy học nằm trong hệ thống của mình.       Quy trình dạy học gồm 3 loại:  Loại 1 : Tiết Lập mẫu: Gồm 4 việc Việc 1: Chiếm lĩnh ngữ âm (chiếm lĩnh đối tượng) Việc 2: Viết Việc 3: Đọc Việc 4: Viết chính tả Loại 2: Tiết Dùng mẫu Quy trình tiết Dùng mẫu giống quy trình của tiết Lập mẫu. Chủ  yếu   là tổ chức cho học sinh luyện tập với vật liệu khác trên cùng một chất liệu   với tiết Lập mẫu. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với giáo viên là phải nắm chắc   quy trình tiết Lập mẫu, chủ động, linh hoạt trong quá trình tổ  chức tiết học   sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Loại 3: Tiết Luyện tập tổng hợp Quy trình 4 việc  ở  tiết Luyện tập tổng hợp được sắp xếp lại nhằm   tập trung vào 2 kĩ năng đọc và viết: Việc 1: Ngữ âm Việc 2: Đọc ­ Bước 1: Chuẩn bị ­ Bước 2: Đọc bài 4
  5. + Đọc nhỏ + Đọc mẫu + Đọc bằng mắt + Đọc nối tiếp + Đọc to + Đọc đồng thanh + Đọc hiểu (tìm hiểu bài) Việc 3: Viết Việc 4: Viết chính tả  2.1.2. Thực trạng về việc thực hiện chương trình CGD   Năm học 2018 ­2019, thực hiện theo công văn của Sở  GDĐT Quảng  Bình về việc giảng dạy môn TV lớp Một theo CGD.  Phòng GD Đào tạo  Lệ  Thủy tiếp tục triển khai về việc dạy học TV lớp Một theo CGD.  Qua tri ển   khai, đa số  các thầy cô nắm được mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng  dạy và cách thức đánh giá kết quả  học tập của học sinh, nắm được kiến   thức ngữ âm Tiếng Việt. Có hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý của học sinh;   về đời sống, kinh tế, xã hội xung quanh ở địa phương.  Khi dạy TV1 CGD,  giáo viên  đã   tuân thủ  thiết kế  và quy trình dạy.  Giáo viên được khuyến khích tận dụng tối đa hiệu lệnh để  tổ  chức và điều  khiển học sinh học tập.  Sau khi thực hiện chương trình TV1 CGD tôi nhận thấy : Đa số  học sinh nhận biết và phân tích được cấu tạo của tiếng, phân   biệt được âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối và vị trí của chúng trong cấu  trúc của tiếng. Học sinh nhận biết được các kiểu vần, nắm vững luật chính  tả khi viết. Phát âm to, rõ ràng các âm, vần, chuẩn tiếng; đọc trôi chảy các tiếng,  từ, biết ngắt nghỉ hơi theo dấu câu.            Qua ba năm trực tiếp giảng dạy  TV1  CGD , bản thân tôi thấy rằng; học  sinh học đâu biết đó, không những kĩ năng đọc, viết tốt mà ngay cả kĩ năng phân  tích vần và tiếng cũng rất tốt. Học sinh nắm chắc luật chính tả nên khi viết các   em không bị sai chính tả như ở chương trình Tiếng Việt hiện hành.  5
  6.   Phương pháp dạy học tiếng Việt 1 ­ CGD giúp cho giáo viên nắm  vững kỹ thuật dạy học theo hướng tích cực, lấy học sinh làm trung tâm, tiến   trình giờ dạy nhẹ nhàng, dễ thực hiện. Giáo viên không phải soạn bài nên có   thời gian nghiên cứu thiết kế bài giảng có sẵn của sách công nghệ  giáo dục  nên khi dạy không bị áp lực. Giáo viên chỉ  cần thực hiện đúng, đủ  quy trình  trong sách thiết kế. Tài liệu thiết kế chi tiết cho các dạng bài, các mẫu của   từng tiết dạy. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học của giáo viên ít hơn, cũng đơn   giản, nhẹ nhàng hơn, đa số các thao tác đều có sẵn trong thiết kế bài giảng.   Trong thiết kế ở 2 tuần đầu (tuần 0) giáo viên chưa dạy chữ cho học sinh mà  chỉ cho học sinh làm quen với các hoạt động thông qua trò chơi, hướng dẫn  kĩ các quy định nên các em có nền nếp học tập tốt ngay từ đầu năm học và   sẽ  được duy trì trong suốt năm học. Một điểm khác với phương pháp dạy  học truyền thống nữa là giáo viên không phải cầm tay giúp học sinh tập viết   mà các em tự tư duy bài giảng dưới hình thức nghe, hiểu và viết lại.  Trong quá trình thực hiện với    bài có nhiều nội dung,  tùy theo điều  kiện lớp hay trình độ  học sinh mà giáo viên có thể  tăng thời lượng để  dạy  chậm và kỹ  hơn. Ví dụ, bài có 4­6 vần thì giáo viên có thể  linh động tách  thành 2 tiết, mỗi tiết dạy 2­3 vần, thực hiện đủ 4 việc dạy vào buổi chiều. Chương trình này không đặt nặng về nghĩa của từ mà chỉ tập trung vào  ngữ  âm của tiếng nên một phần thuận lợi cho học sinh. Ngoài ra, phương   pháp mới còn giúp học sinh làm theo sự  hướng dẫn, những ký hiệu và hiệu  lệnh của giáo viên. Thay vì chỉ  đánh vần, học sinh còn được phân tích âm,  vần qua các thao tác tay và các hoạt động phụ trợ khác, tạo sự hứng thú cho   các em, giúp các em chủ động trong việc tiếp thu bài học, làm chủ kiến thức.  Điểm mới của chương trình là học sinh được học kiến thức từ âm đến  chữ và khắc sâu hoạt động ngữ âm, cách phân tích cấu trúc ngữ âm, phương  pháp học này giúp học sinh xác định được vị trí các âm trong một tiếng, như:  âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối. Kết quả, các em có thể  đọc thông   viết thạo, khi viết chính tả không nhìn chép và ít viết sai chính tả vì khi dạy   6
  7. đều có đưa luật chính tả. Ví dụ: Âm "cờ" đứng trước âm e, ê, i phải viết  bằng con chữ "ca" (k). Âm “ cờ” đứng trước âm đệm phải ghi bằng con chữ  “cu” (q) và âm đệm phải ghi bằng con chữ “u”.          Theo GS.TSKH Hồ Ngọc Đại, “cha đẻ” của chương trình này thì ưu  điểm của chương trình TV1­CGD là “Học đâu biết đấy, học đâu chắc đấy”.  Chương trình TV1­ CGD giải quyết dứt điểm từng đơn vị  học và nhắc lại   thường xuyên, nhắc lại khi có cơ  hội. Chương trình phù hợp với mọi đối  tượng, dù là học sinh người Kinh hay người dân tộc thiểu số, học sinh  ở  vùng thuận lợi hay vùng khó khăn, học sinh có được chuẩn bị  tiếng Việt   trước khi vào lớp 1 hay chưa có sự chuẩn bị… Chương trình đã tạo ra sự chuyển biến tích cực đối với cả học sinh và   giáo viên. Với học sinh, các em cảm thấy rất hứng thú với chương trình công  nghệ, nghe và hiểu được hiệu lệnh, hiểu được lời nói của giáo viên. Nhiều  em trả  lời được rành mạch, nói đủ  câu rõ ràng. Các em có khả  năng giao  tiếp, mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập và thực hành cũng như giao tiếp với  thầy cô và bạn bè, nắm chắc được về ngữ âm, về luật chính tả, đọc tốt, viết  tốt. Chương trình luôn tạo cơ hội cho giáo viên sáng tạo trong tiết dạy. Giáo viên  không phải soạn bài nên có nhiều thời gian để  quan tâm đến học sinh hơn,  nghiên cứu tài liệu, hiểu tâm sinh lý lứa tuổi, cách thức tổ chức thực hiện lên   lớp đối với học sinh. Học sinh  học TV1 CGD các em được tiếp thu kiến thức một cách  vững chắc, nắm vững cấu tạo ngữ âm tiếng Việt, nắm chắc luật chính tả,   đọc thông, viết thạo, phát âm tương đối chuẩn. H ọc sinh  tích cực và chủ  động hơn khi tham gia vào các hoạt động học tạo ra sản phẩm cho chính  mình. Hầu như không còn hiện tượng học sinh không biết đọc, chỉ có những  trường hợp  học sinh  đọc chậm. Chương trình được thiết kế  theo mô hình  dạy học “Thầy thiết kế ­ Trò thi công” nên sớm hình thành được ở   học sinh  phương pháp tự học, học sinh mạnh dạn, tự tin. 7
  8.          Tuy nhiên chương trình này còn nhiều bở ngỡ với học sinh lớp 1. Ngay   bài đầu tiên, nhiều học sinh chưa biết chữ cái nhưng đã phải viết chính tả.   Trong quá trình học, các em còn phải phân biệt được các mẫu bài, dạng bài,   biết tiếng có âm đầu, tiếng có âm chính, tiếng có âm đệm, âm cuối… Trước  đây, học hết 8 tuần, các em thuộc bảng chữ cái và có thể ghép vần thành âm,  tiếng. Nay, hết 6 tuần, học sinh đã phải đọc những bài dài tới 50 tiếng. Cụ  thể: Khi dạy bài "Âm /tr/ sách Tiếng Việt CNGD tập 1 trang 60, 61 học sinh   phải đọc tới 50 tiếng chưa kể đọc 7 phụ  âm  ở  cuối trang. Bài đầu tiên của   phần vần có âm đệm và âm chính sách Tiếng Việt CNGD tập 2 trang 8, 9   học sinh phải đọc tới 65 tiếng. Chưa nói đến những bài tập đọc ở  phần sau   tập 3 quá dài, dài hơn những bài tập đọc lớp 2 chương trình hiện hành….Ở  tuần 10 trở đi, học sinh chưa được học chữ hoa mà trong sách giáo khoa đưa  chữ hoa vào bài đọc vì thế học sinh không đọc được.  Nguyên nhân Nhìn chung, từ  những nội dung  được tìm hiểu trên, ta có thể  thấy  nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng dạy học TV1 CGD: ­ Do đặc thù của chương trình, nhiều phụ  huynh còn băn khoăn về  phương pháp giảng dạy; một số  phụ huynh quan tâm rèn thêm cho học sinh   ở nhà nhưng không đúng với phương pháp của thiết kế, khiến giáo viên gặp   nhiều khó khăn trong việc hướng dẫn học sinh.  ­ Sự  tham gia học tập không chuyên cần của học sinh trong năm đều   gặp khó khăn trong việc tiếp thu kiến thức và theo kịp chương trình. 2.2. Các biện pháp dạy học TV1 CGD  Biện  pháp thứ nhất: Xác định mục tiêu, nội dung dạy học Tiếng Việt 1   CGD  Đổi mới việc xác định mục tiêu dạy học, đặc biệt là thay đổi cách xác  định mục tiêu bài học một cách cụ  thể, rõ ràng, tường minh theo hướng chỉ  8
  9. rõ mức độ  người học phải đạt được về  kiến thức, kỹ  năng, thái độ, chú ý  mục tiêu rèn luyện phương pháp tự học cho người học Lưu ý luật chính tả   Dấu thanh đặt  ở  âm chính. Khi đọc chính tả, trong quá trình viết giáo  viên có thể hỏi học sinh xem viết đúng chưa? Nếu sai bạn bên cạnh nhắc và viết  lại, không tẩy xóa chỉ gạch chữ sai  ở dưới chân và viết ra bên cạnh, giáo viên   cần quan sát học sinh liên tục. Khi học sinh không viết được thì giáo viên cho  học sinh phân tích lại để viết, yêu cầu tùy theo đối tượng học sinh trong lớp để  giáo viên giao bài viết cho phù hợp. Ví dụ: khi dạy chữ thì cần chú ý bộ nét, cơ bản là dạy đặt bút, chấm   tọa độ, kéo viết, kết thúc, tên nét phải nắm và thuộc, học sinh quên giáo viên  cho học sinh nhắc lại để nhớ, củng cố cho học sinh viết các nét và thuộc các   nét. Nếu học sinh không biết phân tích, không biết viết giáo viên phải  hướng dẫn yêu cầu học sinh học thuộc bảng chữ cái và viết hết bảng chữ  cái cho nhớ, sau đó sẽ hướng dẫn ghép các chữ với nhau. Như  vậy, sau khi học 4 việc, học sinh đã được cung cấp bộ  công cụ  Tiếng Việt (về kiến thức về cấu trúc ngữ âm, luật chính tả) và hình thành kỹ  năng sử dụng Tiếng Việt. Từ đó giúp các em học tốt hơn phân môn Tiếng việt 1   ­ CNGD.  Biện pháp thứ  hai: Đổi mới PPDH dạy học nhằm tích cực hóa   hoạt động học tập của học sinh Tính tích cực chủ  động học tập có vai trò quan trọng trong việc nâng   cao hiệu quả học tập của người học.Trong dạy học, tích cực hóa hoạt động  học tập của người học là một hướng đổi mới đã được đông đảo các nhà  nghiên cứu, nhà lý luận và các thầy cô giáo quan tâm.Tính tích cực là một   trạng thái hoạt động của người hành động. Tính tích cực nhận thức là trạng   9
  10. thái hoạt động của người học được đặc trưng bởi khát vọng học tập, sự cố  gắng với nghị lực cao trong quá trình nắm vững tri thức cho bản thân. Bản chất của dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động và  sáng tạo của người học phải xuất phát từ nhu cầu, động cơ và điều kiện của   bản thân người học. Chúng ta cần phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý lứa   tuổi của người học, nhất là cần chú ý đến trình độ tư duy của họ. Trong dạy   học, không được bắt ép, gò bó một lối suy nghĩ chung cho tất cả mọi người. Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên không còn  đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở  thành  người  thiết kế, tổ  chức, hướng dẫn, gợi mở, xúc tác, động viên, cố  vấn,   trọng tài các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ  để  học sinh tự  lực  chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng,   thái độ theo yêu cầu của chương trình.   Để giúp học sinh lớp 1 nắm vững được hệ thống âm trong tiếng Việt  1, trước hết giáo viên cần: Giúp học sinh nắm vững được từng âm, giáo viên cần chú ý hai vấn  đề then chốt: Yêu cầu đối với học sinh thuộc bảng chữ cái một cách thành thạo. Nắm   được   kĩ   năng   về   phát   âm   trong   tiếng   Việt   1,   biết   phân   biệt  nguyên âm và phụ âm, biết cách lập mẫu và dùng mẫu, phân tích âm, tiếng,  đọc được theo các mức độ to ­ nhỏ ­ nhẩm ­ thầm theo lệnh và ký hiệu của   giáo viên. Biết phân biệt đâu là âm đệm, âm chính và đâu là âm cuối, học về  luật chính tả. Tình trạng các em đọc vẹt nhiều, muốn khắc phục những hạn chế này  giáo viên nên tận dụng đồ  dùng dạy học của chương trình hiện hành, làm  thêm đồ dùng dạy học và chủ động sắp xếp thời gian rèn luyện kỹ năng nói,   đọc cho học sinh. Để  giải quyết được hai vấn đề  nêu trên, giáo viên phải nắm vững vị  trí, nhiệm vụ, yêu cầu dạy âm... trong môn Tiếng Việt 1.  10
  11. Giáo viên phải hiểu rõ khả  năng nhận thức cũng như  các đặc điểm  của quá trình nhận thức của trẻ em. Bởi vì khả năng nhận thức của học sinh  Tiểu học đang hình thành và phát triển theo từng giai đoạn có quy luật riêng,  người giáo viên tiểu học cần phải hiểu trẻ em với đầy đủ nghĩa của nó, mới   có thể tiến hành dạy phần âm đạt hiệu quả được. Lưu ý: Tác phong lời nói, cử chỉ, điệu bộ của giáo viên cần phải chuẩn mực,   thân thiện. Quy trình 4 việc cần phải thực hiện theo trình tự. Câu lệnh của giáo viên cần phải dứt khoát, rõ ràng. Học sinh thực hiện   theo đúng yêu cầu của giáo viên hoạt động giữa giáo viên ­ học sinh cần diễn ra   nhịp nhàng. Các hoạt động của lớp cần phải thực hiện theo “ký hiệu” trên bảng   hoặc ký hiệu bằng tay của giáo viên ( tùy theo quy định của giáo viên). Giáo  viên không phải nói nhiều mà phải ưu tiên các hoạt động cho học sinh. Giáo viên cần phải thuộc các việc cơ bản ở mỗi bài. Cần phải nhẹ  nhàng, thân thiện và linh hoạt trong tổ  chức các hoạt   động ở từng việc. Quan tâm tới các em học sinh có nhận thức chậm trong lớp. Tiết học buổi 2 giáo viên cần phải xác định được nội dung cần ôn tập   chú ý về  các kỹ  năng cần củng cố  phù hợp với từng đối tượng học sinh   nhằm giúp các em nắm được bài tốt hơn.          Dạy đâu chắc đó, học sinh phải nắm được bài, không để  học sinh  ngoài lề lớp học. Cần dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, phân hóa đối tượng học   sinh, cần đạt chuẩn ở mức độ thấp nhất như: học sinh tiếp thu bài kém…. Dạy học không cần viết tên bài trước, lập xong mô hình mới viết  ở  bảng, cần phải tuân thủ dạy theo sách thiết kế, có thể linh hoạt lồng ghép. 11
  12. Khen học sinh nhiều, không nên chê bai, nhắc nhở  cho học sinh tiến   bộ. Khi dạy không nên trở  về  cái cũ, mỗi ngày chỉ  thay đổi một thành   phần, khi giao việc giáo viên phải đứng trước lớp ­ học sinh làm việc giáo   viên xuống lớp kiểm tra khen học sinh. Dạy lớp 1 dạy tiếng không dạy từ, không nên đưa những gì có sẵn cho  học sinh khi đến lớp. Để  đạt được mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học theo  hướng phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh cần có sự vào  cuộc, phối hợp của người dạy và chính bản thân người học. Biện pháp thứ  ba:   Giáo viên phải kích thích được nhu cầu, khơi   gợi hứng thú học tập cho người học thông qua tất cả các giai đoạn của   tiết lên lớp. Việc kích thích nhu cầu, khơi gợi hứng thú khám phá tri thức cho   người học cần phải được thực hiện duy trì trong tất cả  các giai đoạn của   tiết lên lớp. Đặt vấn đề  vào bài, tổ  chức lĩnh hội tri thức mới, củng cố  hướng dẫn hoạt động nối tiếp…Cách thức tổ  chức lớp học khoa học giúp  học sinh dễ tiếp thu bài giảng, tích cực tham gia giờ học. Biện pháp thứ tư: Xác định mục đích và xây dựng động cơ, thái độ   học tập Trong quá trình hình thành và nâng cao năng lực tự học cho người học,   vai trò của người thầy là rất quan trọng. Người dạy cần hướng dẫn, tổ chức   để người học sinh xác định được động cơ học tập một cách đúng đắn. Tăng  cường các hình thức dạy học nhóm, trao đổi thảo luận, nêu lên chính kiến   của mình... Điều này sẽ buộc người học phải nghiên cứu tài liệu, phân tích,  mổ  xẻ  các vấn đề  trên nhiều khía cạnh khác nhau để  có thể  tham gia đóng   góp hoặc tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình. 12
  13. Để định hướng cho người học vạch ra kế hoạch tự học cá nhân, giáo  viên   cần   đề   ra   kế   hoạch   dạy   học   cụ   thể   toàn   bộ   môn   học   (hoặc   từng   chương), cung cấp trước để người học nghiên cứu để biết mình sẽ làm gì và  làm như thế nào trong quá trình học tập bộ môn. Biện pháp thứ  năm:  Tổ  chức các hoạt động vui chơi lồng ghép   trong quá trình dạy học Có thể nói đây là một kỹ năng rất quan trọng giúp cho người giáo viên  nắm bắt và đo được kết quả  học tập của học sinh qua một quá trình dạy   học. Qua hoạt động vừa chơi vừa học các em biết chia sẻ  với nhau kinh   nghiệm học tập, các em biết tự mình kiểm tra kết quả học tập của mình và   giúp nhau cùng tiến bộ. Các em không những ham thích đến trường mà còn  dần yêu thích môn học này.  Giáo viên cần thường xuyên thay đổi các hình thức tổ  chức trò chơi  khác nhau. Qua một tiết học có thể  tổ  chức cho các em chơi những trò chơi gây  hứng thú trong học tập, điều này rất bổ ích thông qua các tiết học hàng ngày. Ví dụ: Dạy bài vần oan/ oat   giáo viên tổ  chức cho học sinh chơi trò  chơi “ Chèo thuyền”. Tìm tiếng chứa vần bài trước. Một bạn lên điều hành nói: Gọi thuyền gọi thuyền Lớp: Thuyền ai, thuyền ai Học sinh điều hành hỏi: Thuyền Nga, thuyền Nga Lớp: Thuyền Nga chở gì Học sinh Nga trả lời: Chở khoai, chở khoai Lớp phân tích tiếng vừa nêu: khoai Trò chơi cứ tiếp tục như vậy với các từ khác chứa vần oai. Biện pháp thứ  sáu: Thường xuyên thay đổi các hình thức học tập   cho học sinh. 13
  14. Việc   đổi   mới   phương   pháp   dạy   học   có   thành   công,   hiệu   quả   hay  không là một phần phải có hình thức tổ chức học tập phong phú và đa dạng.  Hình thức phải xây dựng phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh. Do đó   hình thức phù hợp thì tạo nên tiết học sinh động, đạt hiệu quả  cao và phát  huy được tính tích cực tự học, chủ động và tự sáng tạo của học sinh. Luôn có ý thức nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ Cần chú trọng bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên về  lý luận dạy học  hiện đại, về  các phương pháp giảng dạy tiên tiến nhằm phát huy tính tích  cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Để  đạt kết quả  tốt nhất trong học   tập, đòi hỏi giáo viên không những nghiên cứu nội dung sách giáo khoa của  môn học mà cần nghiên cứu thêm các tài liệu, các sách báo, tạp chí có liên   quan đến môn học. Chính vì vậy, việc trang bị đầy đủ  các sách báo, tạp chí  … trong thư  viện trường cho giáo viên mượn đọc tham khảo là cần thiết.  Việc đọc các tài liệu tham khảo, sách báo… không những giúp giáo viên mở  rộng thêm kiến thức mà còn giúp giáo viên thấy được ý nghĩa thực tiễn của  môn học, từ đó góp phần nâng cao hứng thú dạy học của giáo viên.      Biện pháp thứ bảy: Cần chủ động rèn luyện tính tự học cho học sinh. Tự học có thể hiểu là tự mình lao động trí óc để chiếm lĩnh kiến thức.  Bước đầu quá trình tự học có thể học sinh còn có nhiều lúng túng nhưng đó  cũng chính là động lực giúp các em tư  duy để  thoát khỏi những khó khăn,   lúng túng đó, nhờ vậy mà thành thạo lên. Trong quá trình tự  học của học sinh, đọc sách được coi là khâu quan   trọng đầu tiên giúp các em tiếp thu tri thức và phát triển phương pháp tự học  hiệu quả.              Biện pháp thứ  tám:  Tăng cường tổ  chức hoạt động tự  học của   người học 14
  15. Giáo viên giao nhiệm vụ tự học cho học sinh một cách đầy đủ, rõ ràng  với yêu cầu từ  dễ  đến khó. Khi giao nhiệm vụ  học tập, cần hướng dẫn tài   liệu học tập cho các em. Tăng cường công tác kiểm tra việc tự  học của học sinh một cách hệ  thống, thường xuyên; nên kiểm tra việc tự học của học sinh hàng ngày, hàng  tuần để  có thể  nhận được thông tin phản hồi từ  phía học sinh, từ  đó đề  ra  các biện pháp điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng học   tập của học sinh. Biện pháp thứ chín: Xây dựng môi trường học tập thân thiện. Một môi trường học tập bao gồm các yếu tố, các quan hệ  diễn ra xung  quanh hoạt động học tập của học sinh. Trong đó, có các mối quan hệ đặc trưng:   quan hệ giáo viên ­ học sinh; quan hệ học sinh ­ học sinh; quan hệ học sinh ­ tập   thể (học sinh),… Qua thực tế điều tra, chúng tôi nhận thấy nhiều giáo viên chưa  tạo được sự gần gũi, thân thiện với tất cả học sinh, giữa học sinh với học sinh   chưa có sự hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong học tập. Mặt khác, phần lớn học sinh ở  vùng khó thường có đặc tính rụt rè, nhút nhát, các em thường ít chủ động tham gia  vào các hoạt động học tập. Sự rụt rè, nhút nhát ấy cũng do một phần các em chưa   có sự chuẩn bị cho một môi trường mới, nơi có bạn bè, thầy cô và các hoạt động   học tập đặc trưng.  Trong môi trường học tập thân thiện, tích cực học sinh sẽ  được phát  huy năng lực học tập của mình ở  trạng thái tốt nhất. Do vậy, việc tạo một   môi trường học tập thân thiện là rất cần thiết để giúp các em mạnh dạn, tự  tin, hứng thú tham gia các hoạt động học tập, yêu thích đến lớp, đến trường.  Giáo viên cần nắm được hoàn cảnh gia đình và đặc điểm tâm sinh lí  của mỗi học sinh, mặt mạnh và mặt còn hạn chế  của các em, nên ghi nhận  những thông tin  ấy vào trong sổ tay riêng. Để  biết được tính cách học sinh,  giáo viên có thể  tìm hiểu thông qua trò chuyện với các em, quan sát các em   trong học tập và vui chơi,…giáo viên nên dành một ít thời gian đến thăm gia  đình những học sinh có hoàn cảnh khó khăn trong lớp của mình. Có hiểu học  15
  16. sinh thì người giáo viên mới có thể gần gũi và tạo niềm tin nơi các em, giúp  các em phát huy ưu điểm và khắc phục phần còn hạn chế.       Biện pháp thứ mười: Quan tâm, hỗ trợ học sinh kịp thời Trong quá trình dạy học, giáo viên cần quan tâm, hỗ  trợ  học sinh kịp  thời. Gợi ý, hướng dẫn khi các em gặp khó khăn, tuyên dương, khen thưởng   khi các em thực hiện đúng yêu cầu; phải tạo cơ  hội cho tất cả các em đều   được tham gia đầy đủ các hoạt động học tập, nhất là với học sinh chậm tiến  bộ. Giáo viên phải hiểu và nắm vững thiết kế, có như  vậy mới có thể  điều khiển, tổ chức các hoạt động dạy học linh hoạt và nhẹ nhàng, giáo viên   có thời gian để quan sát, giúp đỡ học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập. Giáo viên cần chú ý về  giọng nói và ngôn ngữ  sử  dụng khi đánh giá,  nhận xét học sinh, phải thể hiện sự tôn trọng, động viên và khuyến khích các   em, tránh những lời lẽ chê bai, xúc phạm học sinh. Ngoài ra, đối với học sinh có hoàn cảnh khó khăn, sự quan tâm còn thể  hiện ở việc hỗ trợ các em có đầy đủ  dụng cụ  học tập cần thiết. Nguồn hỗ  trợ được vận động từ các mạnh thường quân hoặc trích từ nguồn xã hội hóa   giáo dục của nhà trường.     Biện pháp thứ mười một: Thiết lập vai trò của bạn bè trong học tập. Giúp học sinh nhận ra mỗi bạn đều có mặt mạnh, mặt yếu, có thể  bạn giỏi trong hoạt động này nhưng lại làm chưa tốt trong học động khác.   Vì thế, cần có sự hợp tác, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Giáo viên cần rèn được   cho học sinh có sự  chủ  động trong việc giúp đỡ  bạn, ví dụ, khi phân tích  tiếng hay luyện đọc, những bạn làm tốt sẽ  hướng dẫn, làm mẫu cho bạn  làm chưa tốt. Tổ  chức đôi bạn cùng tiến, giúp học sinh xây dựng mối quan hệ  bạn  bè trong học tập và vui chơi. Giáo viên nên bố trí một học sinh khá giỏi cùng  16
  17. một học sinh trung bình, yếu để em học sinh giỏi có thể hỗ trợ học sinh yếu   trong học tập.      Biện pháp thứ mười hai: Tổ chức giao lưu, sinh hoạt tập thể. Nhà trường cần tổ  chức và duy trì các hoạt động giao lưu giữa học   sinh các khối lớp với nhau nhằm tăng cường mối liên hệ, tiếp xúc giữa các  em, giúp các em mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Các hình thức giao lưu nên   có sự đan xen giữa kiến thức, kĩ năng (theo từng đối tượng học sinh) và các   trò chơi tập thể. Nên tổ chức định kì mỗi tuần hoặc mỗi tháng 1 lần. Một số hình thức giao lưu gợi ý: giao lưu “Tiếng Việt của chúng em”;  kể chuyện sách, diễn kịch, thực hiện tốt các tiết Trại đọc qua sự kết hợp có  hiệu quả của giáo viên chủ nhiệm, Tổng phụ trách Đội và cán bộ thư viện. Cuối mỗi tuần học, trong tiết sinh hoạt giáo viên nên tổng kết thi đua  khen thưởng kịp thời cho những học sinh tích cực trong học tập và rèn luyện,   nhắc nhở động viên những học sinh chưa tiến bộ, đồng thời có những biện   pháp cụ thể phù hợp động viên, khích lệ các em vươn lên trong học tập.     Biện pháp thứ mười ba: Xây dựng nề nếp học tập cho học sinh Chương trình TV1 CGD có thiết kế  2 Tuần 0 để  giáo viên dạy học  sinh làm quen với môi trường học tập mới, hướng dẫn học sinh biết cách   nhận lệnh, thực hiện và báo cáo kết quả  (sản phẩm). Hai tuần này dù học  sinh không được học một chữ  nào nhưng được đánh giá là có giá trị  định  hướng cho mọi việc về sau. Làm tốt Tuần 0 thì sẽ dễ làm tốt các tiết học về  sau. Song, không phải giáo viên nào cũng nhận ra vai trò của tuần 0. Trong  phần tự  nhận xét của mình, nhiều giáo viên thừa nhận chưa thực hiện tốt  việc rèn nề nếp học tập cho học sinh. Nề nếp học tập không tốt ảnh hưởng  không ít đến quá trình tổ  chức tiết học (giáo viên mất nhiều thời gian hơn   trong điều khiển, tổ  chức lớp học; phải nói nhiều vì lặp lại hiệu lệnh; khó  kiểm soát kết quả  việc làm của học sinh...) và nó gián tiếp  ảnh hưởng đến  chất lượng học tập của học sinh. Vì thế, xây dựng tốt nề  nếp học tập cho   17
  18. học sinh là điều cần phải thực hiện để  góp phần nâng cao chất lượng dạy  học TV1 CGD. Trong hai Tuần 0, học sinh được hướng dẫn và thực hành theo các nội dung:  Làm quen (giữa giáo viên ­ học sinh, giữa học sinh ­ học sinh) Đồ dùng học tập và cách sử  dụng (cách dùng và tư thế sử  dụng bảng   con, phấn, khăn lau; cách dùng và tư thế sử dụng bút chì, vở; hướng dẫn viết   các nét cơ bản) Xác định vị  trí trên/ dưới; trái/ phải; trước/ sau; trong/ ngoài (kết hợp  chấm điểm tọa độ và viết các nét cơ bản).  Làm quen với kí hiệu Luyện tập ­ củng cố kĩ năng Qua “Tiết học chuẩn bị”, học sinh được làm quen và chuẩn bị  những  điều cơ  bản, cần thiết nhất cho các hoạt động học tập chính thức. Với  những nội dung trên, việc học sinh chưa qua mẫu giáo hay học sinh vùng khó  đều không phải là trở ngại. Nhưng khi tổ chức thực hiện các tiết này, đòi hỏi  giáo viên phải giao việc rõ ràng ngay từ đầu để đưa học sinh vào nề nếp, làm  nghiêm túc, kỉ  luật nghiêm; khuyến khích học sinh nhiệt tình tham gia, rèn  luyện tinh thần tập thể. Giáo viên phải tuân thủ  quy trình làm việc, làm việc  nào chắc việc ấy. Khen học sinh làm tốt, không chê em làm kém trước lớp. Biện pháp thứ  mười bốn: Quy  ước các kí hiệu sử  dụng trong tiết   học Ngoài những nội dung được hướng dẫn trong thiết kế, giáo viên nên  dùng các kí hiệu, tín hiệu để quy ước với học sinh trong hoạt động học tập.   Những kí hiệu, tín hiệu quy  ước sẽ  giúp giáo viên hạn chế  việc nói nhiều   (việc sử dụng câu lệnh hay lời hướng dẫn dài dòng sẽ  mất thời gian và dễ  gây nhiễu thông tin đối với học sinh, đồng thời nó giúp các hoạt động của  lớp học diễn ra nhịp nhàng, trật tự và nhanh gọn hơn. Ví dụ: 18
  19. ­ Hiệu lệnh chuẩn bị  ­ hiệu lệnh bắt đầu thực hiện ­ hiệu lệnh kết  thúc:   1 tiếng gõ thước nhẹ  ­ 2 tiếng gõ thước nhẹ  ­ 1 tiếng gõ thước nhẹ  hoặc  tiếng gõ thứ nhất ­ tiếng gõ thứ 2 ­ tiếng gõ thứ 3. ­ Các kí hiệu sử dụng đồ dùng học tập: S/16 (sách giáo khoa, trang 16);   B (bảng con); V (vở trắng ­ viết chính tả); TV/24 (tập viết, trang 24),… Khi   viết các kí hiệu ấy vào một góc riêng trên bảng lớp, học sinh nhìn thấy sẽ tự  động thực hiện yêu cầu (lấy sách giáo khoa ­ mở ra trang 16; chuẩn bị bảng  con ­ phấn ­ giẻ lau hay lấy vở tập viết ­ mở ra trang 24,…), khi xóa kí hiệu  ấy đi thì học sinh sẽ tự biết là kết thúc hoạt động và cất những vật dụng đó  vào. Giáo viên giữ vai trò chủ chốt trong việc chọn lựa những kí hiệu, hiệu   lệnh quy  ước với học sinh, sao cho những kí hiệu phải đơn giản, dễ  nhận  biết. Sau khi đã thống nhất, giáo viên dành thời gian tổ chức huấn luyện cho  học sinh thực hiện theo những kí hiệu đã được quy ước ấy (kết hợp hướng   dẫn thực hiện trong các tiết chuẩn bị của Tuần 0). Tăng cường sự hợp tác của cha mẹ học sinh Cha mẹ  học sinh là một trong những lực lượng gián tiếp tác động đến   chất lượng học tập TV1 CGD. Cha mẹ cần quan tâm, nhắc nhở con em trong  học tập. Không  bắt các em nghỉ học phụ việc gia đình, cho các em học trước   chương trình hay dạy không đúng cách đều có tác động xấu đến các em. Vì  vậy, nhà trường, giáo viên và cha mẹ học sinh cần tăng cường sự hợp tác chặt   chẽ với nhau. Biện pháp thứ  mười  lăm:  Hướng dẫn CMHS về  cách học TV1   CGD       Căn cứ theo nhu cầu và nguyện vọng của CMHS, nhà trường có thể  tổ  chức một buổi họp phụ  huynh để  hướng dẫn CMHS một cách cơ  bản về  cách dạy học TV1 CGD. Nhà trường cần có kế  hoạch tổ  chức cụ  thể, chi  19
  20. tiết, nhất là chọn lọc nội dung cần hướng dẫn CMHS. Nội dung buổi họp   phụ  huynh cần phải thông qua ý kiến của Phòng GD&ĐT trực tiếp quản lí,   để  đảm bảo tính thống nhất và chặt chẽ  trong chỉ  đạo chuyên môn, tránh   những sai sót không đáng có trong quá trình thực hiện. Buổi họp nên tổ chức   tập trung CMHS toàn khối 1, không nên tổ  chức theo từng lớp và nên chọn   giáo viên có kinh nghiệm dạy TV1 CGD để hướng dẫn mẫu cho CMHS. Ban   giám hiệu cần theo sát buổi họp để  kịp thời giải đáp những thắc mắc của  CMHS khi cần thiết. Qua những buổi gặp mặt trong cuộc họp phụ huynh,   giáo viên là người hướng dẫn cho CMHS về cách thức dạy các cháu cách tự  học  ở  nhà. Góp phần nâng cao chất lượng về môn Tiếng Việt, để  từ  đó có  kết quả cao hơn vào cuối năm học. Tuyên truyền trong phụ huynh và các lực  lượng xã hội làm cho phụ  huynh vững tin vào CGD, không nóng vội. Yêu  cầu phụ huynh tuyệt đối không tự dạy đọc viết ở nhà khi không có sự kiểm  soát hoặc yêu cầu của giáo viên.   Biện pháp thứ  mười  sáu:  để  dạy tốt  TV1  CGD  GV  phải thường   xuyên trau dồi kiến thức, tự hoàn thiện bản thân mình:  Để dạy tốt lớp 1 CGD không có cách nào hơn là phải thuộc Thiết kế  và thành thạo các thao tác, bởi vậy ngay từ đầu, mỗi giáo viên cần phải tranh  thủ đọc thiết kế và tập dạy trong nhóm; tập theo từng loại mẫu, quan trọng   nhất là phải nhớ đúng quy trình của các mẫu. Quá trình thực hiện nếu thấy  có vướng mắc cần hội ý tổ hoặc hỏi ngay cán bộ cốt cán; nếu chưa kịp hỏi,  hoặc vẫn chưa hiểu thì trước mắt cứ làm theo thiết kế. Việc phản ánh chất lượng học tập của học sinh hay những khó khăn  vướng mắc đối với cán bộ  quản lí các cấp hoặc giáo viên cốt cán cần hết   sức đúng sự thật, không dấu dốt, không chạy theo thành tích vì bất kì một lí  do nào. Công nghệ  giáo dục không cho phép bất kì một sự  dối lừa nào và  không có sự dối lừa nào không được phát hiện khi kiểm chứng các sản phẩm   công nghệ. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
25=>1