1
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Giáo viên chủ nhiệm ở Tiểu học một vị trí cùng quan trọng trong việc
hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm các năng sống bản để học sinh hoàn
thiện ở Tiểu học và tiếp tục học ở cấp cao hơn.
Tờng Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập tiếng Việt, chữ viết với
phương pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa học.
Học sinh tiểu học chỉ có thể học tập các môn học khác khi có kiến thức tiếng Việt.
Bởi đối với người Việt, tiếng Việt phương tiện giao tiếp, công cụ trao đổi
thông tin chiếm lĩnh tri thức. Môn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học
nhiệm vụ hoàn thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt
động ngôn ngữ được thể hiện trong 4 dạng hoạt động, tương ứng với bốn kỹ năng:
nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh các năng sản sinh
ngôn bản.
Đối với học sinh trường Tiểu học viết văn một nội dung khó môn tập
làm văn mang tính đặc thù của môn học giàu trí tưởng tượngbiểu cảm. Để viết
được một bài văn miêu tả hay đòi hỏi các em phải có sự quan sát tinh tế, có vốn từ
phong phú, biết cảm nhận sự vật hiện tượng, biết so sánh, nhân hoá, liên tưởng
diễn đạt bằng từ ngữ, hình ảnh trôi chảy, sáng tạo. Văn miêu tả giúp học sinh
điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người thiên nhiên, hội bộc lộ cảm
xúc cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách con người.
Chương trình Tập làm văn tiểu học chủ yếu dạy văn miêu tả. Ngay từ
lớp 2, 3, các em đã được làm quen với văn miêu tả khi được tập quan sát và trả lời
câu hỏi. Lên lớp 4, các em phải hiểu thế nào là văn miêu tả, biết cách quan sát, tìm
ý, lập dàn ý, viết đoạn văn liên kết đoạn văn thành một bài văn miêu tả đồ vật,
cây cối hoặc con vật- những đối tượng gần gũi thân thiết của các em. Để hoàn
thành bài văn miêu tả đối với học sinh lớp 4 thường rất khó khăn. Do đặc điểm
tâm lí, học sinh tiểu học còn ham chơi, khả năng tập trung chú ý quan sát chưa tinh
tế, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa phát triển tốt, dẫn đến khi viết văn miêu tả,
2
học sinh còn thiếu vốn hiểu biết về đối tượng miêu tả,…hoặc không biết cách diễn
đạt điều muốn tả.Đối với giáo viên đây cũng loại bài khó dạy. Giáo viên còn
thiếu linh hoạt trong vận dụng phương pháp chưa sáng tạo trong việc tổ chức
các hoạt độnghọc tập của học sinh. thế, không phải giờ dạy văn miêu tả nào
cũng đạt hiệu quảmong muốn,không phải giáo viên giáo viên nào cũng dạy tốt
văn miêu tả. Việc tìm tòi phương pháp để hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý, lập
dàn ý, tưởng tượng. Viết được bài văn miêu tả đúng hay vấn đề khó đối với
cả giáo viên và học sinh.
Qua quá trình giảng dạy thực tiễn còn bộc lộ rất nhiều hạn chế cần khắc
phục, sửa chữa.Vì vậy, tôi mạnh dạn nghiên cứu, chọn đề tài Một số biện pháp
rèn luyện, nâng cao năng viết văn miêu tả lớp 4B Trường Tiều học Nguyễn Văn
Trỗi.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Giúp học sinh: - Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý.
- Rèn năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch
lạc.
- Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những xung quanh các
em.
- Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp 5.
Giáo viên:
- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận dụng
phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Tự tòm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy Tập làm văn
nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu.
Học sinh lớp 4B Trường Tiều học Nguyễn Văn Trỗi năm 2022-2023
4. Giới hạn của đề tài
3
Do thời gian hạn nên đề tài chtập trung nghiên cứu năng viết văn miêu tả
lớp 4B của trường tiểu học Nguyễn Văn Trỗi - thị Buôn Hồ năm học ( 2022 -
2023)
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc các tài liệu liên quan đến dạy học môn
Tiếng Việt lớp 4
- Phương pháp quan sát: Dự giờ đồng nghiệp, quan sát việc dạy của giáo viên và
việc học của học sinh trong các giờ Tập làm văn lớp 4.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích tổng hợp và tổng kết kinh nghiệm.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Tập làm văn một trong những phân môn vị trí quan trọng của môn
Tiếng Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng
hợp từ nhiều phân môn. Để làm được một bài văn, học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ
năng: nghe, nói, đọc, viết. Phải vận dụng các kiến thức về tiếng việt, về cuộc sống
thực tiễn.
Như vậy, miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm
cho người nghe, người đọc hình dung một cách nét, cụ thể về người, vật, cảnh
vật, sự việc như vốn trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay không những
phải thể hiện nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả còn thể hiện được
trí tưởng tượng, cảm xúc đánh giá của người viết với đối tượng được miêu tả.
Bởi trong thực tế, không ai tả mà để tả, mà thường tả để gửi gắm suy nghĩ, cảm
xúc, sự đánh giá, những tình cảm yêu ghét cụ thể của mình. Các bài văn miêu tả
tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối tượng học sinh yêu mến, thích thú. vậy,
qua i làm của mình, các em phải gửi gắm tình yêu thương với những gì mình
miêu tả.
Mục tiêu của dạy viết văn miêu tả lớp 4:
+ Yêu cầu kiến thức:
- Học sinh phải hiểu thế nào là miêu tả?
4
- Miêu tả đồ vật: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả đồ vật.
- Miêu tả cây cối: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài n miêu tả cây cối.
- Miêu tcon vt : Biết cách quan sát, m ý, lp dàn ý i văn miêu t con vt.
+ Yêu cầu kỹ năng: Chương trình tập làm văn, dạng văn miêu tả nhằm trang b
cho học sinh những kĩ năng sản sinh ngôn bản, cụ thể:
- năng định hướng hoạt động giao tiếp: Nhận din đặc điểm văn bản; phân tích
đề bài, xác định yêu cầu.
- Kĩ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp: Xác định dàn ý của bài văn đã cho;
quan sát đối tượng tìm ý và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu tả.
- năng thực hiện hoá hoạt động giao tiếp: Đối chiếu văn bản i, viết của bản
thân với mục đích giao tiếp; sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
+ Một số lỗi thường gặp:
Bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 hầu hết mắc những lỗi: Sai âm đầu, lỗi dấu
câu, lỗi đặt câu, lỗi lạc đề. Cụ thể như sau:
- Lỗi dùng sai âm đầu: Học sinh chủ yếu vẫn thường sai phụ âm đầu s/x, d/r/gi,
ch/tr.
- Lỗi dấu câu: Không dùng dấu câu: Xảy ra nhiều với học sinh chưa hoàn thành,
các em không sử dụng hoặc ít sử dụng dấu chấm, dấu phẩy trong một câu hoặc
trong một bài văn. Hoặc sử dụng dấu câu sai.
Ví dụ: Cây sồi to thân cây xù xì
- Lỗi đặt câu:
+ Câu không đủ thành phần.
Ví dụ: Có nhiều cành, nhiều lá rậm rạp.
+ Câu sai nghĩa.
Ví dụ: Con chó nặng khoảng 1 tạ.
+ Câu không rõ nghĩa.
Ví dụ: Con mèo lông trắng mắt nó em yêu chú lắm.
+ Các câu trong bài mâu thuẫn nhau: Cây bàng to, mập mạp. Thân cây khẳng
khiu cao vút
5
+ Lỗi dùng từ lặp:
Ví dụ: Chú gấu bông rất mập, gấu bông có cái tai to, gấu bông có cái bụng phệ.
- Lỗi lạc đề: Các bài văn miêu tả mà đa số học sinh làm thành văn kể chuyện.
Bài văn miêu tcủa học sinh lớp 4: Bài văn ngắn, câu cụt, kể lể, ít hình ảnh,
Ví dụ: Cái cặp của em nhiều màu. Mặt trước có siêu nhân rất đẹp. Nó có ba
ngăn. Một ngăn em để bút, một ngăn em để vở, một ngăn để sách.
Đoạn văn như vậy được coi tạm được đúng ý. Câu văn nghĩa.
Nhưng
miêu tả như vậy chỉ cần vài câu tả xong một đồ vật, một cây. cũng rất
chung
chung, không làm nổi bật được nét riêng của đồ vật đó, cây đó.
Đọc bài văn miêu tả của các em, ta còn thấy sự khô khan, nghèo cảm xúc,
sự liệt kê lan man, dài dòng, lủng củng, lộn xộn, không lột tả được đối tượng miêu
tả.
Nhiều em muốn bắt chước cho bài văn hay hơn đã sử dụng biện pháp so
sánh, nhân hoá một cách tuỳ tiện.
Ví dụ: Con mèo nặng 20 kg
Như vậy, ta thấy bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 mắc rất nhiều lỗi. Tuỳ
theo mức độ, học sinh hoàn thành tốt có khả năng hạn chế hơn một số lỗi cơ bản.
Ở đây đặt ra một vấn đề cấp thiết là dạy học sinh viết văn sao cho mạch lạc,
giàu hình ảnh, tái hiện được cụ thể, sinh động đối tượng miêu tả.
+ Nguyên nhân:
Về phía giáo viên:
- Chưa khơi gợi được sự ham học, yêu thích miêu tả đồ vật, con vật, cây
cối,...xung quanh, chưa tạo được động cơ học văn miêu tả ở các em.
- Chưa thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn.
Về phía học sinh:
- Các em chưa hiểu đặc điểm bản của văn miêu tả, chưa phân biệt được sự
khác biệt giữa văn bản miêu tả vi các kiểu bài văn khác.