intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Vận dụng thuyết đa trí tuệ để tạo hứng thú học Toán cho HS lớp 4

Chia sẻ: TY T | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:81

16
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm "Vận dụng thuyết đa trí tuệ để tạo hứng thú học Toán cho HS lớp 4" được nghiên cứu với mục tiêu nhằm đề xuất các biện pháp vận dụng “thuyết đa trí tuệ” để tổ chức dạy học nhằm tạo hứng thú học môn Toán lớp 4. Từ đó, giúp HS có thêm hứng thú trong học tập, yêu thích học Toán hơn, có nhiều hoạt động thực hành – vận dụng khác trong trong môn Toán và nâng cao chất lượng dạy học môn Toán trong nhà trường Tiểu học hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Vận dụng thuyết đa trí tuệ để tạo hứng thú học Toán cho HS lớp 4

  1. 1 MỤC LỤC
  2. 2 DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI, KÝ HIỆU VIẾT TẮT STT Tên viết tắt Từ viết tắt 1 Giáo dục phổ thông GDPT 2 HS HS 3 GV GV 4 PPDH PPDH 5 Đánh giá ĐG 6 Hứng thú nhận thức HTNT 7 Hứng thú học tập HTHT 8 Quá trình giáo dục QTGD 9 Chương trình đào tạo CTĐT
  3. 3 DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ Tên danh mục T r a n g Hình 1.1 Sơ đồ tư duy 8 loại hình trí thông minh 1 0 Bảng 1.1 Đặc điểm, biểu hiện các dạng đa trí tuệ ở HS 1 2 Hình 1.2 Dùng BĐTD mô tả tám loại hình trí thông minh 1 5 Hình 1.3 Sơ đồ về trí thông minh logic - Toán 1 5 Bảng 1.2 Tỉ lệ phần trăm mức độ nhận thức của GV về thuyết đa 2 trí tuệ 4 Biểu đồ 1.1 Nhận thức của GV về sự cần thiết của việc vận dụng thuyết 2 đa trí tuệ trong môn Toán lớp 4 5 Biểu đồ 1.2 Mức độ vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học Toán của 2 GV 6 Bảng 1.3 Những khó khăn của GV khi vận dụng thuyết đa trí tuệ vào 2 trong dạy học Toán 7 Bảng 3.1: Bảng điểm cảu 2 lớp sau bài kiểm tra số 1 5 4 Bảng 3.2. Bảng tổng hợp phân loại kết quả của bài kiểm tra số 1 5 5 Biểu đồ 3.1. Biểu đồ phân loại kết quả học tập HS qua bài kiểm tra số 1 5 5 Biểu đồ 3.2 Hứng thú học tập của học sinh sau khi học xong tiết học có 5 vận dụng thuyết đa trí tuệ (Lớp thực nghiệm) 6 Biểu đồ 3.3 Hứng thú học tập của học sinh lớp đối chứng 5 6
  4. 4
  5. 5 PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của khóa luận Xã hội ngày càng phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xu hướng hội nhập phát triển kinh tế xã hội ngày càng mở rộng. Theo Luật Giáo dục 2019, số 43/2019/QH14 đã quy định: “Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”. Theo Luật Giáo dục 2019: “ Phát triển giáo dục được coi là quốc sách hàng đầu” của nước ta. Vậy phải làm gì để giáo dục được phát triển? Trước hết là ở những cơ sở trường học, phải biết thay đổi phương pháp, mục tiêu hướng đến trong dạy học để có một chất lượng giáo dục đảm bảo đạt yêu cầu. Theo Điều lệ Trường Tiểu học: “Trường Tiểu học là cơ sở giáo dục của bậc Tiểu học. Bậc học Tiểu học được coi là bậc học nền tảng của hệ thống Giáo dục quốc dân”. Trong trường Tiểu học, môn Toán là một trong những môn chiếm thời lượng nhiều nhất, tuy nhiên rất nhiều HS vẫn đang gặp khó khăn, thậm chí là có tâm lý “sợ sệt” không muốn học môn Toán mặc dù các em học rất tốt các môn khác. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới công việc và cuộc sống của HS về sau, vì mục đích mà giáo dục quan tâm đặt lên hàng đầu là đào tạo ra những con người toàn diện về cả kiến thức kết hợp với kỹ năng sống để đáp ứng nhu cầu mà xã hội đề ra. Do đó việc vận dụng thuyết đa trí tuệ vào trong học tập là việc rất cần thiết, góp phần phát triển sự sáng tạo, đa dạng về tư duy của HS và giúp HS phát triển toàn diện hơn. Ở cấp Tiểu học, mỗi một lớp học, môn Toán có một vị trí, một yêu cầu cần đạt, một nhiệm vụ khác nhau. Đặc biệt ở lớp 4, môn Toán có một vị trí quan trọng vì chương trình Toán 4 mang tính hệ thống, khái quát và phát triển ở mức độ cao hơn ở các lớp học trước đó. Toán 4 giúp cho HS có những cơ sở ban đầu về số học, các STN, phân số, các đại lượng cơ bản và một số yếu tố hình học đơn giản giúp HS lấy đó làm tiền để để học tiếp các lớp trên, hình thành kỹ năng thực hành tính toán, đo lường, giải bài toán có nhiều kiến thức ứng dụng trong thực tế của cuộc sống. Ở lứa tuổi HS lớp 4, các em cực kì hiếu động,
  6. 6 thích khám phá những kiến thức mới nhưng cũng rất dễ bị phân tâm và không tập chung, nhanh chóng chán nếu các em không hứng thú với hoạt động học. Theo chương trình GDPT 2018, cái đích mà giáo dục muốn hướng tới trong dạy học là sau khi học xong bất kì một nội dung kiến thức nào HS sẽ làm được những gì thay vì là HS sẽ học được gì sau tiết học đó. Để có thể đạt được mục tiêu đó, bên cạnh những phương pháp giảng dạy, hình thức giảng dạy thì tạo hứng thú học tập cho HS là một điều không thể thiếu trong mỗi giờ học, mỗi môn học. Hoạt động khởi động là một hoạt động rất quan trọng không thể thiếu ở mỗi đầu tiết học. Nhưng, trong tiết học GV phải làm sao để HS có thể hứng thú tìm hiểu, lĩnh hội kiến thức bài học? Trong tiết học GV sẽ phải triển khai các hoạt động khác nhau, phù hợp với nội dung bài học, phù hợp với năng lực của HS để có thể đạt được một tiết học hiệu quả nhất. Theo thuyết đa trí tuệ của Howard Gardner, ông đã chỉ ra rằng có 8 loại trí tuệ: “Trí tuệ ngôn ngữ, trí tuệ logic, trí tuệ về âm nhạc, trí tuệ về không gian, trí tuệ về vận động cơ thể, trí tuệ giao tiếp, trí tuệ nội tâm, trí tuệ về thiên nhiêm. Mỗi cá thể đều có một vài kiểu trí tuệ trong tám loại đó, trong đó mỗi cá nhân sẽ có những loại trí tuệ vượt trội hơn các trí tuệ khác”. Thuyết đa trí tuệ giúp GV cách suy nghĩ, lựa chọn PPDH sao cho phù hợp với HS và giúp GV thấu hiểu HS hơn. Từ đó GV sẽ đưa ra được nhiều hoạt động dưới nhiều dạng loại hình trí tuệ khác nhau để cho HS có cơ hội tham gia và các hoạt động đó và tăng hứng thú trong việc học tập của bản thân HS. Vậy nên, tôi đã lựa chọn đề tài “ Vận dụng thuyết đa trí tuệ để tạo hứng thú học Toán cho HS lớp 4” nhằm tạo ra nhiều hoạt động học tập dưới nhiều hình thức khác nhau dựa trên các loại hình trí tuệ của thuyết đa trí tuệ - Howard Gardner để tăng hứng thú học môn Toán cho HS lớp 4. 2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của khóa luận 2.1 Ý nghĩa khoa học của khóa luận Nếu vận dụng “thuyết đa trí tuệ” vào thiết kế các hoạt động dạy học và thiết kế kế hoạch bài dạy môn Toán lớp 4 theo một số biện pháp thích hợp sẽ phát triển trí tuệ đa dạng cho HS đặc biệt là tạo hứng thú học Toán hơn cho HS. Từ đó nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán.
  7. 7 2.2 Ý nghĩa thực tiễn của khóa luận Đề tài "Vận dụng thuyết đa trí tuệ để tạo hứng thú học Toán cho HS lớp 4" mang lại giá trị thực tiễn quan trọng trong lĩnh vực giáo dục. Việc áp dụng thuyết đa trí tuệ trong quá trình giảng dạy Toán không chỉ giúp HS lớp 4 hiểu bài học một cách sâu sắc mà còn tạo nên môi trường học tập tích cực và sáng tạo. Bằng cách sử dụng nhiều phương tiện học tập khác nhau, như hình ảnh, âm thanh, video, và trải nghiệm thực tế, đề tài này giúp HS phát triển năng lực đa chiều. Thuyết đa trí tuệ không chỉ chú trọng vào khía cạnh lý thuyết của môn Toán mà còn kết hợp với các hoạt động thực hành, giúp HS áp dụng kiến thức vào các tình huống thực tế. Ngoài ra, việc tạo hứng thú học Toán từ giai đoạn lớp 4 là quan trọng để xây dựng nền tảng vững chắc cho sự phát triển sau này. Thuyết đa trí tuệ không chỉ giúp HS nắm bắt kiến thức một cách linh hoạt mà còn khuyến khích sự sáng tạo và tư duy logic. Điều này có thể giúp hình thành tư duy khoa học và toán học từ khi còn nhỏ, làm cho quá trình học tập trở nên sinh động và thú vị hơn. Cuối cùng, áp dụng đề tài này sẽ không chỉ mang lại những lợi ích cho HS mà còn hỗ trợ GV trong QTGD. Việc sử dụng các phương pháp đa trí tuệ sẽ làm tăng cường tương tác giữa GV và HS, đồng thời thúc đẩy sự phát triển toàn diện của HS ở mức độ tinh thần và tư duy. Như vậy, đề tài này không chỉ giúp nâng cao chất lượng giáo dục mà còn đóng góp tích cực vào quá trình hình thành nhân cách và kiến thức của thế hệ trẻ. 3. Mục đích nghiên cứu Đề xuất các biện pháp vận dụng “thuyết đa trí tuệ” để tổ chức dạy học nhằm tạo hứng thú học môn Toán lớp 4. Từ đó, giúp HS có thêm hứng thú trong học tập, yêu thích học Toán hơn, có nhiều hoạt động thực hành – vận dụng khác trong trong môn Toán và nâng cao chất lượng dạy học môn Toán trong nhà trường Tiểu học hiện nay. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu các vấn đề về đổi mới PPDH hiện nay. - Nghiên cứu về hứng thú trong học tập của HS. - Nghiên cứu lý thuyết về thuyết đa trí tuệ. - Nghiên cứu, đề xuất một số hoạt động trong dạy học phù hợp với từng dạng trí tuệ theo thuyết đa trí tuệ.
  8. 8 - Nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp để vận dụng thuyết đa trí tuệ vào chương trình dạy học môn Toán lớp 4. - Thiết kế một số hoạt động dạy học và bài dạy môn Toán lớp 4 theo thuyết đa trí tuệ. - Thực nghiệm sư phạm để bước đầu đánh giá tính khả thi của biện pháp đã đề xuất. 5. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu về vấn đề hứng thú học tập trong môn Toán và quá trình tổ chức các hoạt động dạy học môn Toán theo hướng phát huy tính đa trí tuệ của HS để tạo hứng thú học tập. 6. Phạm vi nghiên cứu - Giới hạn về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu việc vận dụng thuyết đa trí tuệ vào thiết kế các hoạt động dạy học và thiết kế một số bài dạy môn Toán lớp 4. - Khảo sát thực tế tại lớp 4 trường Tiểu học . 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, các chỉ thị của Nhà nước, các công văn, chủ trương và chính sách của Bộ GD & ĐT trong giai đoạn hiện nay. Nghiên cứu các tài liệu Tâm lí học, Giáo dục học và Lý luận dạy học bộ môn Toán có liên quan đến đề tài. Nghiên cứu những tài liệu về thuyết đa trí tuệ và thực tiễn của việc ứng dụng của thuyết đa trí tuệ vào trong các trường học. Nghiên cứu các bộ SGK, sách BT, sách GV, sách tham khảo môn Toán lớp 4. 7.2. Phương pháp điều tra và khảo sát: Xây dựng hệ thống câu hỏi khách quan tiến hành điều tra thực trạng việc vận dụng thuyết đa trí tuệ để tổ chức các hoạt động dạy học nhằm tạo hứng thú trong môn Toán lớp 4. 7.3. Phương pháp quan sát sư phạm Tiến hành dự giờ, quan sát hoạt động dạy và học, hoạt động ngoại khóa của GV và HS. 7.4. Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn trực tiếp cán bộ quản lý, GV, HS về một số vấn đề hiện hữu tại trường.
  9. 9 7.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm tổ chức các hoạt động dạy học trong môn Toán lớp 4, vận dụng thuyết đa trí tuệ để tổ chức dạy học tại trường Tiểu học nhằm khẳng định tính khả thi, hiệu quả của các biện pháp sư phạm đã đề xuất. Thiết kế một số họa động và kế hoạch bài giảng môn Toán theo hướng vận dụng thuyết đa trí tuệ với hệ thống bài dạy đa dạng thông qua kiểm tra, đánh giá để tăng mức độ hứng thú học Toán cho HS lớp 4. Nhằm tăng độ hứng thú, phát huy khả năng sáng tạo và tư duy cho HS sau mỗi giờ học. 8. Dự kiến cấu trúc khóa luận Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung đề tài gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài Chương 2: Đề xuất biện pháp vận dụng thuyết đa trí tuệ để thiết kế hoạt động và tổ chức dạy học môn toán lớp 4 nhằm tạo hứng thú học toán cho HS. Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
  10. 10 PHẦN 2: NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA KHÓA LUẬN 1.1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1.1 Vấn đề trong nước Thuyết đa trí tuệ hiện nay đã được áp dụng rộng rãi và phổ biến ở nhiều nước trên thế g i ớ i . Tuy nhiên với thời điểm hiện tại thì ở Việt Nam chỉ đang là bước đầu bắt đầu nghiên cứu về thuyết đa trí tuệ như: Năm 2007, tác giả Nguyễn Thị Mai Lan nghiên cứu: “Ứng dụng lí thuyết đa nhân tố của H.Gardner vào việc tìm hiểu các loại hình trí tuệ của HS Hà Nội”. Ở bài này cho ta thấy: GV nên sử dụng thuyết đa trí tuệ làm một công cụ để có thể nghiên cứu và phát hiện các loại trí tuệ của HS từ đó tìm và chọn ra được những phương pháp phù hợp tương ứng với với HS. Tác giả Võ Thanh Hà - Viện Khoa học GD Việt Nam nghiên cứu về đề tài “ Nghiên cứu lí thuyết đa thông minh và khả năng ứng dụng vào giáo dục tiểu học” – năm 2013, tác giả đã cho rằng việc vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học không chỉ cần thiết với GV mà còn cần thiết với cả HS. Bên cạnh đó, còn nhiều khó khăn mà Gv sẽ mắc phải, ví dụ như việc GV có thể dạy đủ các tất cả loại trí tuệ trong một bài học là tương đối khó, GV sẽ mất rất nhiều thời gian để thực hiện chuẩn bị KHBD,… Một số bài báo, những trang mạng về GD trẻ cũng đăng bài về “lý thuyết đa trí tuệ” tuy nhiên mới chỉ ở mức độ giới thiệu cơ bản về thuyết đa trí tuệ (mô tả được 8 loại hình trí thông minh và các đặc điểm của từng trí thông minh). Bên cạnh đó, bài đăng còn hướng dẫn cách để có thể nhận biết và phát triển một cách tốt nhất cho trí thông minh của trẻ. Năm 2011, sách “Đa trí tuệ trong lớp học” được tác giả Lê Quang Long dịch đã xuất hiện trong “Bộ sách đổi mới PPDH”. Điều này cho chúng ta thấy rằng: giáo dục Việt Nam đã bắt đầu để tâm tới thuyết đa trí tuệ và bước đầu thực hiện vận dụng thuyết vào dạy học. Trước đó, một số quyển sách cũng đã viết về thuyết đa trí tuệ và được các tác giả biên dịch nhưng chưa cuốn nào đề cập đến vấn đề “vận dụng thuyết đa trí tuệ vào dạy học”. Một số bài ở trên tạp chí chuyên ngành, đề tài nghiên cứu của một số nhà khoa học “vận dụng thuyết đa trí tuệ vào các lĩnh vực đổi mới PPDH, sử dụng phương thức dạy học, trong giáo dục đại học, giáo dục tiểu học,…” của các tác giả Trần Khánh Đức và một số tác giả khác đã được xuất hiên phổ biến hơn rất nhiều. Từ năm 1983 đến nay đã trên 40 năm nhưng vẫn chưa có nhiều GV tìm hiểu sâu về thuyết này và vấn đề vận dụng vào dạy học còn nhiều hạn chế.
  11. 11 Hiện nay một số trường theo “mô hình quốc tế” cũng đã bắt đầu lấy lý thuyết đa trí tuệ làm định hướng trong dạy học, một số trường bắt đầu hướng tới việc phát triển đa trí tuệ cho HS. Có thể nói rằng các cơ sở giáo dục ở Việt Nam hiện nay đều chú trọng vào phát triển, cải thiện về cơ sở vật chất, chương trình dạy học và đây là những lựa chọn hàng đầu để phát huy tối đa tính cách, sở thích và những ước mơ của HS, lấy đó làm hành trang để HS trở thành những công dân có những phẩm chất, năng lực phù hợp với nhu cầu XH hiện nay. Một số mô hình giáo dục quốc tế có thể nhắc đến như Trường phổ thông liên cấp Wellspring đã xây dựng CTĐT toàn diện gốm ba mặt “Tri thức – Trí tuệ, Nhân cách – Tâm hồn, Năng lượng – Cảm xúc”. Bên canh đó, một số trường mầm non đã bắt đầu quan tâm đến vấn đề nghiên cứu và đề xuất việc vận dụng thuyết đa trí tuệ vào thực tế trong dạy học và kiểm tra đánh giá, ví dụ như: Trường mầm non quốc tế IQ, Trường phổ thông liên cấp Olympia, các trung tâm dạy học… Sinh viên khoa Giáo dục Tiểu học và Mầm non trường Đại học Hùng Vương cũng đã bắt đầu tìm hiểu về việc vận dụng thuyết đa trí tuệ vào trong trong các hoạt động dạy học ở Tiểu học. 1.1.2. Vấn đề ngoài nước Trên thế giới hiện nay, có rất nhiều nhà tâm lý, những người thuộc ngành giáo dục đã thực hiện việc thử nghiệm vận dụng lí thuyết đa trí tuệ. Nhà giáo dục Thomas Armstrong đã đạt được thành công lớn trong việc ứng dụng “một phần” thuyết đa trí tuệ của H. Gardner vào việc dạy học và giáo dục cho HS. Ông đã đề ra được các hoạt động dạy học tương ứng với từng loại trí tuệ, xây dựng được một môi trường mang tên “lớp học đa trí tuệ”, “trường học đa trí tuệ”… Armstrong khẳng định : “HS có sự khác biệt về thiên hướng trí tuệ nên GV cần ứng dụng nhiều chiến lược dạy học khác nhau”. Và ông đã phát hành những cuốn sách nổi tiếng: “7 loại hình trí thông minh, bạn thông minh hơn bạn nghĩ, đa trí tuệ trong lớp học”… Những cuốn sách này thiên về vấn đề giáo dục và hướng dẫn phụ huynh các cách giáo dục con. Các tác giả Breaux và Magee, Tomlinson… đã chỉ ra rằng cần kích thích những tiềm năng và luôn luôn tạo điều kiện cho HS được học theo trí tuệ nổi trội mà mình đang có. Hiện nay không chỉ ở Mỹ, thuyết đa trí tuệ đã được lan rộng và vận dụng trên khắp các nước như Trung Quốc, Philippines, Singapore… Và những nước đó đã vận dụng thành công thuyết đa trí tuệ vào dạy học trên mọi cấp học.
  12. 12 1.2 Nghiên cứu về thuyết đa trí tuệ 1.2.1 Giới thiệu về thuyết đa trí tuệ Năm 1983, Howard Gadner đã đưa ra một lý thuyết tâm lý học mới, đó là” lý thuyết về nhiều dạng trí thông minh” gọi tắt là MI “Theory of Multipe intelligences”. Lý thuyết này được công bố chính thức năm 1 9 8 3 . N ộ i d u n g c h í n h của lý thuyết đa trí tuệ MI là có rất nhiều thành phần của trí thông minh ở trong một người. Ông đưa ra được tám dạng trí thông minh khác nhau đó là: “ trí thông minh ngôn ngữ, trí thông minh âm nhạc, trí thông minh logic – toán học, trí thông minh không gian, trí thông minh cơ thể - vận động, trí thông minh cá nhân nội tâm, trí thông minh về tự nhiên, trí thông minh về không gian”. Nội dung của tám loại hình trí thông minh như sau: - Trí thông minh ngôn ngữ: Là có những người có khả năng tốt về cả nói và viết, năng lưc học các ngôn ngữ tốt và khả năng sử dụng một cách có hiệu quả các từ ngữ, hoặc bằng lời nói, hoặc bằng chữ viết để đạt được mục đích mà người đó đã đề ra. Dạng trí tuệ này được thể hiện qua khả năng xử lý các cấu tạo của ngôn ngữ, điều chỉnh được âm thanh của ngôn ngữ, truyền đạt nghĩa của ngôn ngữ theo một cách dễ hiểu và việc sử dụng ngôn ngữ đó trong thực tiễn. VD: hùng biện (dùng lời để thuyêt phục người khác), gợi nhớ (mượn ngôn ngữ để hồi tưởng các thông tin), giải thích (dụng lời nói để nói, để truyền đạt cho người khác hiểu được ý của mình),... Những người này thường rất giỏi trong việc đọc, viết lách và truyền đạt thông tin. - Trí thông minh logic - toán học: Là người có khả năng phân tích vấn đề một cách logic. Theo Howard Gardner thì “những người có trí thông minh này có khả năng phát hiện, suy diễn ra các trình tự, lý do và tư duy logic tốt, nhạy cảm với các quan hệ và các sơ đồ logic, các mệnh đề và tỉ lệ thức (nguyên nhân - kết quả, nếu - thì), các hàm số và các dạng trừu tượng hóa có liên quan. Các loại quá trình ứng dụng trong trí tuệ logic - toán học bao gồm thuật xếp loại, phân lớp, suy luận, khái quát hóa, tính toán và kiểm nghiệm chứng minh giả thuyết. Các nhà khoa học, nhà toán học, nhân viên thuế, kế toán, nhà thống kê, luật sư, kỹ sư phần mềm, nhà kinh tế… là những người có trí thông minh logic - toán học tốt”. - Trí thông minh về âm nhạc: Là khả năng cảm nhận âm nhạc, phân biệt các hình thức âm nhạc, biến đổi âm nhạc, và thể hiện âm nhạc. Ngoài ra, trí thông minh về âm nhạc còn xuấ hiện trong tiềm thức của bất cứ người nào, miễn là người đó có thể nghe, có thể hát theo giai điệu.
  13. 13 - Trí thông minh về thể chất: Là những người có khả năng sử dụng cơ thể để thể hiện các ý tưởng và cảm xúc (như một diễn viên kịch, một lực sĩ, một diễn viên múa), cũng như sự khéo léo trong việc sử dụng cơ thể để sản xuất hay biến đổi sự vật (như một nghệ nhân, thợ cơ khí, bác sĩ phẫn thuật). Gồm có các kĩ năng cơ thể đặc biệt: họ có sự phối hợp giữa các cử động, khả năng giữ thăng bằng tốt, sự khéo tay,... Những người có trí thông minh cơ thể vận động tốt là những người có thể tham gia các hoạt động thực hành tốt. - Trí thông minh về không gian: Những người có khả năng liên quan đến suy nghĩ. Ở dạng trí tuệ này bản thân người đó sẽ có tính nhạy cảm về màu sắc, đường nét, hình dạng, và các điểm giống và khác nhau giữa các yếu tố đó. Những người có trí thông minh về không gian có thể vẽ ra hay phác họa những ý tưởng của họ dưới dạng hình ảnh. Ví dụ: Một người đi săn, một người dẫn đường, nhà thiết kế nội thất, kiến trúc sư, nhà sáng chế… - Trí thông minh giao tiếp: Những người này có thể phân biệt được tâm trạng, ý đồ, động cơ và suy nghĩ của đối phương. Thông qua việc họ có thể nắm bắt được những sự biến đổi về nét mặt, giọng nói, cử chỉ của đối phương trong khi giao tiếp thì họ có thể sẵn sàng đáp ứng lại được các biểu hiện của đối phương một cách phù hợp nhất. Người có trí thông minh về giao tiếp họ có một tâm hồn đẹp, giàu lòng chắc biết sẻ chia với người khác trong mọi hoàn cảnh. Trong thực tế, họ có thể đứng tốt ở vị trí là người hoà giải hoặc là giáo viên, người tư vấn tâm lý. - Trí thông minh nội tâm: Là những người có khả năng hiểu biết bản thân của mình và thực hiện, làm ra những việc làm phù hợp với bản thân mình.. Người có loại trí tuệ này có thể nắm rõ và hiểu biết rõ về bản thân mình để có thể thay đổi cuộc sống của mình, làm phong phú thêm và vạch ra con đường hợp lí mà bản thân họ sẽ phải đi qua. Biểu hiện: hay tự xem xét bản thân của mình và muốn có thời gian ngồi suy nghĩ, muốn được ở trong một không gian tĩnh lặng. Mặt khác, những người này có tính độc lập cao, thẳng thắn và cực kỳ tự giác trong mọi công việc, có kỷ luật tốt. - Trí thông minh về tự nhiên: Là những người có khả năng nắm bắt, nhận dạng và phân loại các loài vật trong cuộc sống xung quanh. Những người có trí thông minh về tự nhiên luôn luôn hòa hợp với thiên nhiên và thích thú với sự nuôi trồng, khám phá thiên nhiên, tìm hiểu về các sinh vật. Những người này thích cắm trại, làm vườn, leo núi, khám phá thế giới.
  14. 14 Hình 1.1 Sơ đồ tư duy 8 loại hình trí thông minh 1.2.2 Thuyết đa trí tuệ trong lịch sử và các quan điểm về thuyết đa trí tuệ - Những quan niệm không mang tính khoa học Trong lịch sử, chưa có một định nghĩa khoa học nào nói về trí thông minh. Nhưng người ta vẫn nói về ý hiểu cơ bản của họ về trí thông minh. Các nhân vật nổi tiếng trên thế giới, họ nổi tiếng theo những cách khác nhau và những người đó đều được gọi là “tài giỏi” Nhưng chưa ai từng nghĩ và hỏi đến “thông minh” là như thế nào. Dù vậy, trí thông minh của con người luôn được đề cao, từ khi xuất hiện “thành bang Hy Lạp”: “Tác giả quan trọng nhất và động lực đầu tiên của vũ trụ là trí thông minh. Do đó, nguyên nhân cuối cùng của vũ trụ ắt phải là lợi ích của trí thông minh, và trí thông minh là chân lý… Trong tất cả nhưng điều con người theo đuổi thì theo đuổi sự thông thái là điều hoàn hảo nhất, là điều cao cả nhất, điều hữu ích nhất, và thú vị nhất…” theo Augustine of Hippo (354 - 430).” Và giai đoạn này đã bắt đầu xuất hiện một số ý kiến, một số quan điểm nói về các trí thông minh của con người. - Giai đoạn bắt đầu xuất hiện “phương pháp đo nghiệm tâm lý tiêu chuẩn”. Vào Thế kỉ XIX các nhà tâm lý học đã có những thành quả đầu tiên về định nghĩa trí thông minh dựa vào chuyên môn và nghĩ ra các cách test để kiểm tra trí thông minh. Ta thấy, những lỗ lực này là một sự phát triển, một bước đột phá và là một sự thành công đối với những nhà nghiên cứu tâm lý học. Những “test đo nghiệm trí thông minh”
  15. 15 đầu tiên đã bắt đầu xuất hiện vào đầu thế kỉ XX với mục tiêu có thể lọc ra được những trẻ chậm phát triển và áp dụng những biện pháp khắc phục. Đặc biệt l “ trào lưu trắc nghiệm I Q ” . Chỉ số thông minh, hay IQ (viết tắt của intelligence quotient trong tiếng Anh) do nhà khoa học người Anh Francis Galton viết trong cuốn sách Hereditary Genius xuất bản vào cuối thế kỷ XIX. Chỉ số IQ được cho rằng liên quan đến sự thành công trong học tập, trong công việc, trong xã hội của mỗi người. Các học giả trong lĩnh vực tâm lý học và học giả ngoài lĩnh vực này đều tin rằng sự hào hứng trong việc kiểm tra trí tuệ là thái quá và có rất nhiều hạn chế trong bản thân các công cụ đó và trong cách chúng được dùng. Các test đo nghiệm chủ yếu tập trung vào ngôn ngữ và logic toán vì giới hạn các tiềm năng phong phú của trí tuệ. Tâm lý học Thụy Sĩ Jean Piaget là người được đào tạo theo truyền thống đo nghiệm IQ, tuy ông không phê phán trào lưu test đo trí nghiệm trí tuệ nhưng khi nhìn vào những gì đã đạt được do ông tạo nên, chúng ta suy nghĩ về sự bất cập trong chương trình trắc nghiệm IQ. “Trào lưu IQ dựa trên các test với khả năng dự đoán về thành công trong học tập và dựa vào lý thuyết bên ngoài của hoạt động trí óc. Không có bất cứ cách nhìn nào về quá trình và giải quyết một vấn đề mà chỉ đơn giản là vấn đề một người đạt được câu trả lời đúng hay sai. Các bài tập trên thang đo trắc nghiệm IQ mang tính vi mô, thường liên hệ với nhau và hầu hết tiến hành theo phương pháp “bắn súng” để đánh giá trí tuệ người. Những nhân tố về phương pháp đo nghiệm tâm lý tiêu chuẩn đã có sự lạm dụng đáng kể sự “đo nghiệm IQ” một cách dễ dãi và không có mấy tiến bộ về lý thuyết. Hiện nay đã có những phương pháp đo nghiệm mới khác với đo nghiệm IQ, phương pháp này tập trung vào mô tả chi tiết quá trình xử lý thông tin của mỗi người. Mục đích của nó là có thể mô tả trên máy tính đầy đủ và tỉ mỉ quá trình thực hiện của một cá nhân.” - Giai đoạn của quan niệm đa nguyên và sự phân loại thứ bậc các dạng trí thông minh. Những nhà tâm lý học đầu tiên tìm hiểu về trí thông minh như “Charles Spearman (1927) và Lewis Terman (1975)” họ có khuynh hướng “tin rằng trí thông minh là một khả năng đơn nhất mang tính tổng hợp”. Luận điểm này không thoát khỏi những ý kiến trái chiều. Những nhà tâm lý học như “T. T. Thurstone (1960) và J. P. Guilford (1967)” đã đưa ra những phản biện để có thể ủng hộ được sự tồn tại của trí thông minh. Sau khi tìm ra được những thành phần của trí thông minh thì vấn đề đặt ra là giữa chúng có mối quan hệ với nhau không? Đã có hai lý lẽ được đưa ra: “ Một là ủng hộ mối quan hệ
  16. 16 thứ bậc giữa các nhân tố, coi trí thông minh tổng quát, trí thông minh ngôn ngữ hoặc trí thông minh về con số như là cái điều khiển những trí thông minh khác. Hai là cho rằng mỗi trí thông minh đều là thành viên bình đẳng của cấu trúc trí thông minh.” Để hiểu theo nghĩa rộng thì lý thuyết “Đa trí tuệ” của Howard Gardner là một đóng góp lớn cho thế giới về lí thuyết của trí thông minh. Có rất nhiều quan điểm khác nhau được đưa ra nhưng lý thuyết về trí tuệ của Gardner lại được mọi người hưởng ứng nhiều nhất, hữu dụng và có đầy đủ sức thuyết phục đối với người đọc. Trong thuyết, Gardner đã đưa ra các yêu cầu cần mà mỗi loại trí thông minh phải đạt được để nó có đủ những điều kiện để kết luận nó là một trí thông minh. 1.2.3 Các dạng đa trí tuệ ở HS Bảng 1.1 Đặc điểm, biểu hiện Các dạng đa trí tuệ ở HS Trí thông minh Đặc điểm, biểu hiện - Cách viết lách, trình bày tốt. - Ghi nhớ nhanh với những gì vừa được đọc qua, nghe qua hoặc đã Ngôn ngữ viết. -Bộc lộ cảm xúc tốt thông qua nói và viết. - Năng lực giải thích lưu loát tạo nên sự thuyết phục. - Thích ghi lại những gì đã gặp phải, những suy nghĩ tâm tư tình cảm. - Học giỏi các môn ngữ văn, lịch sử, các môn thiên về xã hội. - Có khả năng ĐG tốt, suy luận logic và tạo ra kế hoạch chi tiết để giải quyết vấn đề. - Thích những con số, khả năng nhẩm toán tốt. Logic - toán học - Thích làm những hoạt động thí nghiệm, thường xuyên đưa ra những câu hỏi mang tính suy luận. - Thích t h a m g i a các trò chơi đòi hỏi tư duy logic: chơi cờ,
  17. 17 đố vui. - Yêu thích Toán và các môn học thuộc lĩnh vực tự nhiên. - Ghi nhớ dựa vào các hình ảnh, sơ đồ tư duy, minh họa hoặc tự Không gian vẽ. - Thích đọc những ngữ liệu nhiều hình minh họa. - Thích tưởng tượng về mọi việc sẽ xảy ra. Hình thể - động - Có năng khiếu chơi tốt một hoặc có thể là nhiều môn thể thao khác năng nhau. - Thích thực hành, vận động, không thể ngồi yên một chỗ trong thời gian dài. - Ghi nhớ lâu hơn nếu thực hành hoặc tự làm ra. - Thích hát, nghe nhạc. Có hứng thú với những thông tin bằng âm thanh. Âm nhạc - Khi làm việc hay hát để có thể giải tỏa căng thẳng. - Có trí nhớ tốt với những bài nhạc, nhịp điệu khi mới chỉ nghe qua 1 – 2 lần. - Thích nói chuyện với bạn bè, dễ hòa đồng kết bạ n . - Thích tham gia vào các hoạt động sôi nổi và tham gia với một tinh thần tích cực. - Có khả năng tạo hứng thú tạo không khí cho những người xung Giao tiếp quanh. - Luôn luôn tự tin, thích làm việc với đông người hơn là tự làm việc một mình, có thể giúp đỡ người khác bất cứ lúc nào. - Có khả năng phát hiện ra cảm xúc của đối phương, và an ủi người đó.
  18. 18 - Bản thân tự nhận ra được các điểm mạnh và điểm yếu. - Thích làm việc tự lập hơn là làm việc với nhiều người. Nội tâm - Gặp những việc thất bại, người đó có thể rút ra được bài học cho chính bản thân. - Mọi hoạt động đều muốn được riêng tư. - Có ý thức độc lập cao trong mọi công việc. - Thích tìm hiểu về cuộc sống thiên nhiên, về các đặc điểm môi trường sống của các loài vật. Tự nhiên - Hay tham gia những chuyến đi dã ngoại ngoài trời, tham nha những cuộc hành trình trải nghiệm. - Thích nuôi và chăm sóc các con vật, cây cối. 1.2.4 Hướng tiếp cận thuyết đa trí tuệ với HS HS được coi là trung tâm của QTDH. Vì vậy, dạy HS về thuyết đa trí tuệ là một việc làm rất quan trọng, việc làm này không chỉ giúp HS tự khám phá và có những cái nhìn mới sâu sắc hơn về bản thân mình cũng như mọi người xung quanh mà còn giúp quá trình dạy học đạt được hiệu quả. Khi các em đã có những kiến thức cơ bản về thuyết đa trí tuệ thì các em sẽ lựa chọn cho mình những chiến lược học tập tốt nhất, đồng thời có thể thích ứng được khi học trong môi trường lớp học đa trí tuệ. Trong khi các thuyết khác về học tập chứa đựng những từ ngữ, cụm từ mà ngay cả người lớn cũng hiểu một cách khó khăn thì 8 trí tuệ của thuyết đa trí tuệ lại rất gần gũi, dễ hiểu, dễ mô tả. Có rất nhiều cách mà GV có thể sử dụng để cho HS tiếp cận với thuyết đa trí tuệ. Chẳng hạn, tổ chức một buổi riêng dành để giới thiệu với HS về thuyết đa trí tuệ, hoặc lợi dụng các hoạt động của trường lớp mà HS tham gia để nói về thuyết đa trí tuệ, hoặc tận dụng cơ hội trong quá trình dạy học trên lớp… Tuy nhiên, việc tiếp cận thuyết đa trí tuệ với HS phải đáp ứng được một số yêu cầu sau: Giúp HS thay đổi cách suy nghĩ về trí tuệ con người: Khi được hỏi “Theo em thế nào là trí tuệ?” hoặc “Theo em một người thông minh sẽ như thế nào?” HS sẽ trả lời rất nhanh rằng là người giỏi toán. Chính vì suy nghĩ như thế nên không dễ gì công nhận một người là thông minh và cũng không mấy HS dám nghĩ mình là người thông minh. Hướng đến cho
  19. 19 HS cách hiểu trí tuệ không giới hạn như các em vẫn nghĩ, mà nó rất đa dạng. Các em có thể học toán không giỏi nhưng các em lại hát rất hay, hoặc viết văn đầy cảm xúc, hoặc đá bóng giỏi điều đó có nghĩa là các em cũng rất thông minh. Cùng trên một bài giới thiệu về thuyết đa trí tuệ, nhưng mỗi em sẽ ghi nhớ và tiếp thu kiến thức đó theo những cách khác nhau. Có HS sẽ nhớ qua hình ảnh mà GV đã giới thiệu cho các em; có em sẽ nhớ kiến thức qua việc đó nhà văn nhà thơ mà em hay được nghe đến.. đây là trí thông minh ngôn ngữ… Điều đó không có gì khó vì mỗi HS sẽ có những trí thông minh khác nhau nên việc tiếp thu kiến thức cũng sẽ khác nhau. Vì vậy, khi dạy HS về thuyết đa trí tuệ thì GV cần áp dụng phong phú những cách mô tả, giới thiệu khác khác nhau, mô tả bằng lời nói, bằng hình ảnh, bằng thực tế xung quanh, sau đó GV có thể tổ chức cho HS những trò chơi có liên quan để củng cố lại. Hình 1.2 Dùng BĐTD mô tả tám loại hình trí thông minh
  20. 20 Hình 1.3 Sơ đồ về trí thông minh Logic - Toán GV giúp cho HS tìm trí thông minh của mình từ đó HS sẽ tìm ra được cách tiếp thu kiến thức của mình một cách dễ dàng hơn. Mỗi người sẽ có đủ 8 loại hình trí thông minh và ở mỗi người đó sẽ có những trí thông minh nổi trội hơn những trí thông minh còn lại. Sẽ có những em dễ dàng nhận ra được mình đang sở hữu trí thông minh nào qua những hoạt động thường ngày. Một số ý tưởng mà GV có thể tham khảo như: Dạy môt bài học bằng nhiều dạng trí tuệ hoặc chỉ đi sâu vào một loại trí tuệ, sau đó lấy ý kiến của các em xem cách dạy nào thu hút được sự chú ý của các em nhất, từ đó rút ra cho các em dạng trí thông minh các em đã sử dụng và tìm ra phương thức các em học tập hiệu quả. Sau khi tìm hiểu về thuyết đa trí tuệ các em sẽ có những cái nhìn mới về bản thân mình và về cả những người xung quanh. HS sẽ hiểu được, nếu em học tốt môn Toán thì em sẽ có trí thông minh liên quan đến môn Toán, ngược lại nếu em không học tốt môn Toán không chỉ vì em kém cỏi mà là do em chưa phát huy hết năng lực của mình. GV nên bồi dưỡng kiến thức cho HS: “Các dạng trí thông minh không tồn tại độc lập với nhau mà cùng kết hợp theo nhiều cách khác nhau nên nếu học theo nhiều kiểu khác nhau giúp các em phát huy tối đa khả năng của mình, đồng thời các em cũng sẽ phát triển được những dạng trí thông minh còn chưa cao ở mình”. 1.3 Nghiên cứu về hứng thú và hứng thú học tập của HS 1.3.1 Hứng thú “Hứng thú là một trong những mặt biểu hiện của xu hướng nhân cách, nó có vai trò rất to lớn đối với hoạt động của con người nói chung và hoạt động nhận thức nói riêng. Hứng thú làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức, làm nảy sinh khát vọng hành động và hành động một cách say mê, sáng tạo, làm tăng sức làm việc ở mỗi người”. Theo Tâm lý học đại cương: “Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động”. Khái niệm đã thể hiện ra được bản chất của hứng thú, cho ta thấy mối quan hệ của hứng thú với hoạt động của bản thân.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2