SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIỜ THỰC HÀNH TIN HỌC 7

A/ ĐẶT VẤN ĐỀ. I. MỞ ĐẦU.

Ngày nay, với sự phát triển nhảy vọt của khoa học công nghệ nói chung

của ngành tin học nói riêng, với những tính năng ưu việt, sự tiện dụng và được

ứng dụng rộng rãi, tin học ngày nay là một phần không thể thiếu được của

nhiều ngành trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội. Hơn thế nữa nó

còn đi sâu vào đời sống của con người.

Do vậy, Việt Nam nói chung và ngành giáo dục đào tạo nói riêng phải

đầu tư phát triển về mọi mặt. Đặc biệt là nguồn nhân lực tức là phải đào tạo ra

một thế hệ trẻ năng động, sáng tạo, nắm vững tri thức khoa học công nghệ để

làm chủ trong mọi hoàn cảnh công tác và hoạt động xã hội nhằm đáp ứng được

nhu cầu trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Để đáp ứng được các yêu cầu trên, môn Tin học đã được đưa vào giảng

dạy ở các trường phổ thông với vai trò là môn học tự chọn.

Môn học tự chọn Tin học ở trường phổ thông hiện hành có nhiệm vụ trang bị

cho học sinh những hiểu biết cơ bản về công nghệ thông tin và vai trò của nó

trong xã hội hiện đại. Môn học này giúp học sinh bước đầu làm quen với

phương pháp giải quyết vấn đề theo quy trình công nghệ và kĩ năng sử dụng

máy tính phục vụ học tập và cuộc sống.

Từ năm học 2006-2007, môn Tin học ở THCS là môn học tự chọn cho

những trường có điều kiện với thời lượng 2 tiết/tuần với tất cả các lớp ở cấp

học. Là môn học mới đưa vào trường phổ thông và có những đặc thù riêng liên

quan chặt chẽ với sử dụng máy tính, cách suy nghĩ và giải quyết vấn đề theo

quy trình công nghệ, coi trọng làm việc theo nhóm. Đặc trưng của môn Tin học

là kiến thức lí thuyết đi đôi với thực hành, đặc biệt ở lứa tuổi THCS phần thực

hành còn chiếm thời lượng nhiều hơn.

Qua thời gian trực tiếp giảng dạy môn Tin học nói chung, Tin học 7 nói

riêng bản thân tôi nhận thấy rằng nhiều học sinh còn yếu về kĩ năng thực hành

trên máy. Thậm chí còn có một số học sinh còn ngại thực hiện các thao tác trên

máy mà chủ yếu là quan sát các học sinh khác trong nhóm thực hành (HS khá -

giỏi). Do vậy các tiết thực hành ít khi đạt yêu cầu chất lượng.

Từ thực tế trên, trong quá trình dạy học tôi luôn băn khoăn trăn trở làm

thế nào nâng cao chất lượng trong mỗi giờ thực hành giúp các em thành thục

các thao tác cơ bản với máy nên trong quá trình giảng dạy tôi luôn chú trọng

đến việc hướng dẫn, chia nhóm thực hành sao cho các đối tượng học sinh đều

có thời gian tiếp xúc, sử dụng máy nhiều giúp các em có thể tự khám phá và tự

học.

II. CƠ SỞ KHOA HỌC.

Công nghệ thông tin là một trong các phương tiện quan trọng nhất của

sự phát triển, đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo

dục của thế giới hiện đại, trong đó có Việt Nam. Chúng ta đang ở thời đại

thông tin kĩ thuật số, thời đại Internet.

Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương chính sách đầu tư và phát triển về

ứng dụng công nghệ thông tin như:

- Chỉ thị số 58-CT/TW của bộ chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển

CNTT trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã chỉ rõ: “Ứng dụng và

phát triển CNTT là một nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế -

xã hội, là phương tiện chủ lực để đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách phát

triển so với các nước đi trước”.

- Chỉ thị số 29/2001/CT-BGD&ĐT của Bộ GD&ĐT về tăng cường giảng dạy,

đào tạo và ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục đã chỉ rõ: Nâng cao nhận

thức về vai trò của CNTT; ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào

tạo sẽ tạo một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương

trình, phương pháp giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục.

Phấn đấu thực hiện các mục tiêu cụ thể của ngành là: Tổ chức tốt việc dạy và

học tin học ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học nhằm phổ cập tin học

trong nhà trường,...

Đặc trưng của môn Tin học là khoa học gắn liền với công nghệ, do vậy dạy

học Tin học một mặt trang bị cho học sinh kiến thức khoa học về Tin học, phát

triển tư duy thuật toán, rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề, mặt khác phải chú

trọng đến rèn luyện kĩ năng thực hành, ứng dụng, tạo mọi điều kiện để học sinh

được thực hành, nắm bắt và tiếp cận những công nghệ mới của Tin học phục

vụ học tập và đời sống. Nội dung chương trình của môn Tin học tự chọn hiện

hành ở các trường phổ thông đã đáp ứng được những yêu cầu trên.

B/ NỘI DUNG .

I. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH:

Thực tế qua những năm trực tiếp giảng dạy bộ môn cũng như trao đổi với

đồng nghiệp tôi nhận thấy: hầu như học sinh đều rất yêu thích và hứng thú với

môn Tin học. Tuy nhiên, chất lượng bộ môn qua các năm học chưa cao, đặc

biệt là kĩ năng thực hành trên máy của học sinh còn yếu, thậm chí một số học

sinh còn rất ngại khi sử dụng máy tính để rèn luyện kĩ năng.

1. Thuận lợi:

- Được sự quan tâm của Chi Bộ và của BGH nhà trường trong công cuộc

đổi mới phương pháp dạy học.

- Giáo viên giảng dạy được đào tạo theo đúng chuyên ngành và được bồi

dưỡng chuyên đề hàng năm.

- Phần lớn các em học sinh có ý thức tự học cao, luôn tìm tòi học hỏi

những kiến thức mới trong học tập và rất hứng thú với môn Tin học.

- Được nhà trường tạo mọi điều kiện thuận lợi về CSVC trang thiết bị

dạy học.

2. Khó khăn:

- Vẫn còn một số em học sinh tiếp thu kiến thức còn chậm, đặc biệt là kĩ

năng thực hành trên máy của học sinh còn yếu, thậm chí một số học sinh còn

rất ngại khi sử dụng máy để rèn luyện các kĩ năng, bởi đây là một môn học

mới.

- Trường THCS Dĩ An được thành lập mới từ năm học 2008-2009 sau

khi tách ra từ trường THCS Võ Trường Toản nên cơ sở vật chất của trường rất

hạn chế cho việc dạy và học theo phương pháp mới hiện nay.

- Số lượng học sinh trong một lớp học còn quá đông trên 40 học sinh

một lớp, diện tích phòng máy nhỏ hẹp, phòng máy có 35 máy nhưng là máy cũ

nên thường hay hư hỏng, thiết bị chiếu sáng thường bị hư hao, không khí trong

phòng máy không thoáng làm cho học sinh không tập trung vào bài giảng ...

ảnh hưởng rất lớn trong quá trình giảng dạy và học tập.

- Học sinh trên địa bàn chủ yếu là con em các gia đình làm công nhân, sự

quan tâm của phụ huynh đến việc học tập của con em còn nhiều hạn chế, điều

kiện để các em có máy vi tính ở nhà là rất khó, hầu hết các em chỉ được tiếp

xúc, làm quen với máy tính trong giờ học dẫn đến việc sử dụng máy của học

sinh còn lúng túng, chất lượng giờ thực hành chưa cao. Một bộ phận học sinh

chưa coi trọng môn học, xem đây là một môn phụ nên chưa có sự đầu tư thời

gian cho việc học.

II. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:

1. Khảo sát chất lượng lượng học tập bộ môn:

Qua khảo sát chất lượng đầu năm học, tôi thấy giờ thực hành học sinh rất

ngại thực hành trên máy, thao tác thực hành chưa chuẩn, đa số chỉ có học sinh

khá giỏi thực hành, số còn lại chỉ quan sát, khi giáo viên hỏi và yêu cầu thực

hành thì không thực hành được. Vì thế, kết quả khảo sát đầu năm học thấp.

Kết quả khảo sát đầu năm học 2009-2010 (phần thực hành)

Kết quả kiểm tra

TT Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu Kém

SL % SL % SL % SL % SL %

12.8 10 25.6 12 30.1 10 25.6 2 5.0 5 7.4 39 1

17.9 9 23.1 15 38.5 7 17.9 1 2.6 7 7.7 39 2

21.1 11 28.9 13 34.2 5 13.2 1 2.6 8 7.8 38 3

12 27.9 12 27.9 11 25.6 6 14.0 2 4.7 7.9 43 4

8 21.1 3 8.0 7.10 4 10.5 7 18.4 16 42.1 38 5

9 4.6 Tổng cộng 197 36 18.3 49 24.8 67 34.0 36 18.3

2. Thiết kế bài dạy thực hành phải phù hợp với nhiều đối tượng học

sinh:

Công việc thiết kế chu đáo trước một bài dạy và phù hợp với nhiều đối

tượng là khâu quan trọng không thể thiếu của một tiết dạy học mà bất kì một

giáo viên nào cũng phải biết. “Thiết kế trước bài dạy giúp giáo viên chuẩn bị

chu đáo hơn về kiến thức, kĩ năng, phương pháp, tiến trình và tâm thế để đi vào

một tiết dạy”.

Để thiết kế một bài dạy phù hợp cho nhiều đối tượng học sinh thì tối thiểu nhất

phải làm được những việc sau:

- Xác định được mục tiêu trọng tâm của bài học về kiến thức, kĩ năng, thái

độ tình cảm. Tìm ra được những kĩ năng cơ bản dành cho học sinh yếu kém và

kiến thức, kĩ năng nâng cao cho học sinh khá giỏi.

- Tham khảo thêm tài liệu để mở rộng và đi sâu hơn vào bài giảng, giúp

giáo viên nắm một cách tổng thể, để giải thích cho học sinh khi cần thiết.

- Nắm được ý đồ của sách giáo khoa để xây dựng và thiết kế các hoạt

động học tập phù hợp với tình hình thực tế của đối tượng và trình độ học sinh,

điều kiện dạy học.

- Chuẩn bị tốt phòng thực hành, các thiết bị dạy học.

- Hoàn chỉnh tiến trình của một giờ dạy học với đầy đủ các hoạt động cụ

thể.

Nếu thực hiện tốt những việc này xem như giáo viên đã chuẩn bị tốt tâm thế

để bước vào giờ dạy và đã thành công bước đầu.

3. Điều hành tổ chức hoạt động của học sinh trên lớp.

Việc thiết kế tốt một bài dạy và phù hợp với từng đối tượng học sinh

xem như đã thành công một nửa nhưng đó chỉ là bước khởi đầu cho một tiết

dạy còn khâu quyết định thành công chính là ở khâu tổ chức điều khiển các đối

tượng học sinh trên lớp.

Trong điều kiện CSVC của trường, với một giờ thực hành, việc quan

trọng đầu tiên là chia nhóm thực hành. Với việc cho học sinh thực hành theo

nhóm, học sinh có thể trao đổi hỗ trợ lẫn nhau - bài học trở thành quá trình học

hỏi lẫn nhau chứ không chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên. Với số lượng

học sinh của lớp, số lượng máy hiện có, giáo viên phải có phương án chia

nhóm một cách phù hợp.

Ví dụ: - Chia nhóm theo đôi bạn cùng tiến.

- Chia nhóm theo địa hình khu dân cư.

- Chia nhóm đa dạng nhiều đối tượng.

- Chia nhóm theo đối tượng học sinh.

Tuy nhiên để việc thực hành theo nhóm có hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải lựa

chọn nội dung đưa vào thực hành phù hợp với nhiều đối tượng học sinh.

Cách chia nhóm: Chia nhóm 2 học sinh/máy. Các nhóm có thể tự cử nhóm

trưởng của nhóm mình.

Các bước tiến hành:

- Giáo viên nêu vấn đề, yêu cầu và nội dung thực hành.

- Giáo viên hướng dẫn cho học sinh các kĩ năng thao tác trong bài thực

hành, thao tác mẫu cho học sinh quan sát.

- Tổ chức hướng dẫn các nhóm thực hành, gợi mở, khuyến khích học sinh

tích cực hoạt động.

- Giáo viên quản lí, giám sát học sinh thực hành theo nhóm :

+ Trong quá trình học sinh thực hành, giáo viên theo dõi quan sát và

bổ trợ khi cần.

+ Chỉ rõ những kĩ năng, thao tác nào được dành cho đối tượng học

sinh yếu trong các nhóm, những kĩ năng, thao tác nào được dành cho đối tượng

học sinh khá giỏi trong nhóm.

+ Phát hiện các nhóm thực hành không có hiệu quả để uốn nắn điều

chỉnh.

+ Luôn có ý thức trách nhiệm trợ giúp tránh can thiệp sâu làm hạn

chế khả năng độc lập sáng tạo của học sinh.

+ Trong quá trình thực hành, giáo viên có thể đưa ra nhiều cách để

thực hiện thao tác giúp các em rèn luyện và nâng cao kĩ năng.

- Giáo viên có thể kiểm tra hiệu quả làm việc của các nhóm bằng cách chỉ

định 1 học sinh trong nhóm thực hiện lại các thao tác đã thực hành. Nếu học

sinh được chỉ định không hoàn thành nhiệm vụ, trách nhiệm gắn cho các thành

viên trong nhóm, đặc biệt là nhóm trưởng. Hoặc cho các nhóm trưởng kiểm tra

kết quả thực hành lẫn nhau của nhóm khác theo vòng tròn. Làm được như vậy

các em sẽ tự giác và có ý thức hơn trong học tập.

- Nhận xét, đánh giá kết quả học tập:

+ Tổ chức cho các nhóm tự nhận xét kết quả thực hành, nhóm

trưởng điều hành - nhận xét về kĩ năng, thái độ học tập của các bạn trong

nhóm.

+ Tổ chức cho các nhóm trưởng nhận xét kết quả thực hành của

các nhóm khác.

+ Giáo viên tổng kết, nhận xét, bổ sung kiến thức.

Giáo viên cũng nên có nhận xét ngắn gọn về tình hình làm việc của

các nhóm để kịp thời động viên, khuyến khích các nhóm thực hành tốt và rút

kinh nghiệm đối với các nhóm chưa thực hành tốt.

* Ví dụ minh hoạ về thiết kế và điều hành tổ chức các hoạt động của

tiết thực hành

Bài thực hành 4: Bảng điểm của lớp em (Tiết 1)

1) Thiết kế bài học:

a/ Xác định mục tiêu trọng tâm của bài:

+ Học sinh biết nhập các công thức và hàm vào ô tính.

+ Biết sử dụng một số hàm cơ bản Average, Max, Min.

Xác định các kĩ năng, kiến thức các đối tượng học sinh cần đạt:

+ Đối tượng học sinh yếu: Nhập được công thức để tính điểm trung

bình, sử dụng được một số hàm để tính toán ở mức đơn giản.

+ Đối tượng học sinh khá-giỏi: Sử dụng thành thạo công thức, hàm

để tính toán.

b/ Chuẩn bị phòng máy, thiết bị dạy học (máy tính, máy chiếu), sao chép

một số tệp bảng tính của các bài thực hành trước có liên quan đến bài thực

hành (tệp Danh sach lop em, So theo doi the luc)

2) Thiết kế và điều hành tổ chức hoạt động học tập của học sinh trên lớp.

Hoạt động 1: Lập công thức tính điểm trung bình.

Mục tiêu: Học sinh lập được công thức để tính điểm trung bình.

Hoạt động theo nhóm, ưu tiên đối tượng học sinh yếu.

Sau khi đã phân nhóm thực hành phù hợp, giáo viên tiến hành các bước:

- Nêu nội dung và các yêu cầu của hoạt động 1.

- Hướng dẫn học sinh thảo luận theo nhóm với yêu cầu của bài tập 1 trước

khi bắt tay vào thực hành tính toán bằng các câu hỏi sau:

? Lập công thức tính điểm trung bình như thế nào?

? Các thành phần trong công thức có thể là những đối tượng nào?

- Giáo viên thao tác cho các nhóm quan sát, đặc biệt là đối tượng học sinh

yếu

- Tổ chức hướng dẫn cho các nhóm thực hành:

+ Đối tượng học sinh yếu thao tác nhập công thức để tính điểm trung

bình của các bạn trong lớp trong cột Điểm trung bình, tính điểm trung bình của

cả lớp và ghi vào ô cuối cùng của cột Điểm trung bình - Hình 30. Cho học

sinh lập từng công thức một để ghi nhớ. Giáo viên quan sát, tuỳ từng trường

hợp cụ thể để chỉ dẫn thêm (VD: sử dụng địa chỉ của các ô thay cho các giá trị

cụ thể trong ô, sử dụng địa chỉ của khối,...)

Hình 30. Bảng điểm lớp em

+ Đối tượng học sinh khá -giỏi: Thao tác tính điểm trung bình cho

các học sinh trong danh sách, tính điểm trung bình của cả lớp. Yêu cầu học

sinh phải biết sử dụng địa chỉ của khối trong công thức tính toán. Với đối

tượng này giáo viên có thể rút ngắn danh sách học sinh trong trang tính để

tránh việc các em mất nhiều thời gian vào việc nhập và chỉnh sửa số liệu trong

công thức.

Hướng dẫn cho học sinh ghi lại một số kết quả tính bằng công thức để so sánh

với việc sử dụng hàm trong hoạt động sau.

- Giáo viên kiểm tra đánh giá kết quả thực hiện hoạt động. Chú ý điều

chỉnh một số lỗi học sinh sinh hay mắc phải trong quá trình thực hành.

Hoạt động 2: Sử dụng các hàm để tính toán

Mục tiêu: Học sinh sử dụng được các hàm AVERAGE, MAX, MIN để tính

toán

Với đối tượng học sinh yếu: Biết sử dụng hàm AVERAGE để tính điểm trung

bình, cơ bản sử dụng được các hàm Max, Min để tìm ĐTB cao nhất và ĐTB

thấp nhất.

Với đối tượng học sinh khá - giỏi: sử dụng được các hàm AVERAGE, MAX,

MIN để tính toán với phần tham số của hàm đa dạng.

Tổ chức hoạt động:

- Nêu nội dung và các yêu cầu của hoạt động 2.

- Hướng dẫn học sinh thảo luận theo nhóm với yêu cầu của bài tập với các

câu hỏi sau:

? Sử dụng hàm nào để tính điểm trung bình?

? Để xác định điểm trung bình cao nhất, thấp nhất ta sử dụng những hàm

nào?

? Các thành phần trong tham số của hàm có thể là những đối tượng nào?

- Tổ chức hướng dẫn cho các nhóm thực hành:

+ Đối tượng học sinh yếu thao tác sử dụng hàm Average để tính điểm

trung bình của các bạn trong lớp trong cột Điểm trung bình, tính điểm trung

bình của cả lớp và ghi vào ô cuối cùng của cột Điểm trung bình. Cơ bản sử

dụng được các hàm Max, Min để xác định được điểm trung bình cao nhất,

thấp nhất

+ Đối tượng học sinh khá -giỏi: Thao tác tính điểm trung bình cho

các học sinh trong danh sách, tính điểm trung bình của cả lớp bằng hàm thích

hợp. Yêu cầu học sinh phải biết sử dụng địa chỉ của các ô, khối trong phần

tham số của các hàm để tính toán.

Xác định được điểm trung bình cao nhất và thấp nhất theo yêu cầu của bài tập

3.

Trong quá trình này, đối tượng học sinh yếu quan sát và thực hiện lại một số

thao tác theo yêu cầu của giáo viên.

- GV quản lí, giám sát học sinh thực hành theo nhóm, nhắc nhở, điều

chỉnh kịp thời các nhóm thực hành không hiệu quả

- Nhận xét đánh giá kết quả hoạt động 2.

- Kiểm tra 1-2 học sinh: Trình bày lại các thao tác trong 2 hoạt động.

- Tổ chức cho các nhóm tự nhận xét về kết quả và sự tích cực của các

thành viên trong nhóm tạo cho các em có ý thức thi đua cao trong học tập.

- Giáo viên tổng kết, bổ sung kiến thức:

Nhấn mạnh lợi ích của việc sử dụng hàm và địa chỉ so với việc sử dụng

công thức.

Chỉ cho học sinh thấy việc nhập công thức tương tự nhau sẽ mất nhiều

thời gian, ta có thể thực hiện thao tác sao chép (giáo viên thực hiện) để gây

hứng thú cho học sinh trong tiết lý thuyết sau.

Nhận xét ngắn gọn về tình hình làm việc của các nhóm để nhắc nhở,

khuyến khích tạo không khí thi đua nhau trong học tập ở các nhóm.

III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:

Qua thời gian áp dụng phương pháp, tôi nhận thấy giờ thực hành thực sự thu

hút các đối tượng học sinh hơn chứ không còn là giờ học của các đối tượng học

sinh khá giỏi. Học sinh hoạt động tích cực hơn, các thao tác trên máy thực hiện

khá thuần thục. Các đối tượng học sinh hỗ trợ được cho nhau để cùng học,

cùng tiến bộ.

Kết quả kiểm tra học kì I lớp 7 năm học 2009-2010 (phần thực hành)

Kết quả kiểm tra

TT Lớp Sĩ số Giỏi Khá TB Yếu Kém

SL % SL % SL % SL % SL %

1 7.4 39 8 20.5 11 28.2 17 43.6 3 7.7 0 0

2 7.7 39 9 23.1 12 30.8 16 41.0 2 5.1 0 0

3 7.8 38 8 21.1 14 36.8 15 39.5 1 2.6 0 0

4 7.9 43 14 32.6 13 30.2 16 37.2 0 0 0 0

5 7.10 38 6 15.8 10 26.3 18 47.4 4 10.5 0 0

Tổng cộng 197 45 22.8 60 30.5 82 41.6 10 5.1 0 0

IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

Để thực hiện tốt một tiết dạy thực hành tin học phù hợp với các đối

tượng học sinh thì phải thực hiện được các vấn đề sau:

- Thiết kế bài dạy phù hợp với nhiều đối tượng học sinh.

Giáo viên phải nắm bắt đối tượng học sinh về kĩ năng thực hành và phân

loại đối tượng rõ ràng, chính xác.

- Điều hành tổ chức hoạt động của học sinh trên lớp.

Giáo viên cần đưa ra hệ thống bài tập thực hành, yêu cầu về các kĩ năng

sát với từng đối tượng học sinh.

Điều hành các hoạt động của học sinh một cách linh hoạt, tạo cơ hội cho

các đối tượng học sinh được thực hành

- Đánh giá và theo dõi kết quả học tập theo từng đối tượng học sinh, khen

những học sinh thực hành tốt, nghiêm túc, nhắc nhở những học sinh thực hành

chưa tốt, chưa nghiêm túc.

C/ KẾT LUẬN.

Tin học là môn học mới đối với học sinh phổ thông. Để tạo hứng thú học

tập cho học sinh và từng bước nâng cao chất lượng bộ môn đòi hỏi người giáo

viên phải tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học phù hợp, hiệu quả.

Trong quá trình dạy học áp dụng việc tổ chức hoạt động nhóm phù hợp

với các đối tượng học sinh trong giờ thực hành tôi nhận thấy rằng các em thực

hiện các kĩ năng cơ bản trên máy thành thạo hơn, tích cực tự giác trong các giời

học và các em áp dụng được nhiều kiến thức được học vào cuộc sống hàng

ngày.

Nếu áp dụng phương pháp dạy học này trong những giờ thực hành của các khối

lớp khác tôi tin chắc rằng nó sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất

lượng bộ môn.

Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân rút ra được trong quá trình

dạy học. Rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô, bạn bè đồng nghiệp để

tôi có thể hoàn chỉnh hơn đề tài này, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học.

Dĩ An, ngày 27 tháng 02 năm 2010

Người viết

Lê Thị Hồng Tươi