SKKN: Phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh cấp tiểu học
lượt xem 6
download
Mục tiêu của đề tài là Để kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh của học sinh tiểu học đạt hiệu quả cao giáo viên cần thường xuyên thay đổi hình thức tổ chức lớp học phong phú đa dạng, sử dụng phương pháp dạy phù hợp với từng khối, lớp, đối tượng học sinh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: SKKN: Phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh cấp tiểu học
- PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO CHỢ MỚI TRƯỜNG TIỂU HỌC A THỊ TRẤN CHỢ MỚI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG ANH CHO HỌC SINH CẤP TIỂU HỌC Người thực hiện: PHAN TRẦN LÊ THÚY DIỄM Đơn vị: Trường Tiểu học A Thị Trấn Chợ Mới 1
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới Tháng 12/2010 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GIAO TIẾP TIẾNG ANH CHO HỌC SINH CẤPTIỂU HỌC I . ĐẶT VẤN ĐỀ: Theo đà phát triển không ngừng của việc giao lưu Quốc tế, phổ cập Tiếng Anh đã trở thành một việc không thể thiếu. Không chỉ người lớn mong muốn có thể nói chuyện lưu loát với người nước ngoài mà ngay cả các em nhỏ cũng muốn giao tiếp được bằng Tiếng Anh với bạn bè Quốc tế. Vì thế ngành Giáo Dục Đào Tạo đã tiến hành đổi mới một cách toàn diện về chương trình, phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Trước đây Việt Nam chưa hoà nhập với các nước trên thế giới thì việc đầu tư cho học sinh trau dồi môn ngoại ngữ còn nhiều hạn chế. Nhưng ngày nay với đà phát triển chung của nhân loại thì việc học ngoại ngữ là điều cần thiết. Thấy rõ được tầm quan trọng này, ngành Giáo Dục Đào Tạo đã đưa việc học ngoại ngữ ngay ở cấp tiểu học. Hiện nay trên toàn quốc đã chọn 100 trường tiểu học thí điểm dạy chương trình Tiếng Anh mới bắt đầu từ lớp 3 và 70% số này đạt mức độ một theo chuẩn năng lực ngoại ngữ Quốc Tế vào năm 2020. Qua nhiều năm giảng dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học tôi nhận thấy kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh của học sinh còn nhiều hạn chế. Để khắc phục tình trạng trên tôi đã tìm tòi nghiên cứu một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng nói cho học sinh tiểu học. Năm học 20062007 tôi bắt đầu áp dụng GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 2
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới nhưng kết quả đạt được chưa cao. Đến năm học 20072008 tôi bắt đầu sửa đổi và bổ sung một số biện pháp khác và thấy rằng kết quả được nâng lên. Qua nhiều lần chỉnh sửa đến năm học 20082009 những phương pháp trên có thể xem là hoàn chỉnh và đạt được hiệu quả như mong muốn . Đây là lý do tôi chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “ Phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh cấp tiểu học” II . NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT: 1 . Quá trình phát triển kinh nghiệm: Trường Tiểu học “A” Thị Trấn Chợ Mới tôi đang dạy hiện nay chương trình Tiếng Anh đã được giảng dạy nhiều năm. Bản thân tôi được dạy đều các khối 3, 4, 5, vì vậy tôi thấy rõ những ưu điểm và hạn chế của học sinh mình. Đối với học sinh lớp 3 và 4 các em rất tự tin và tích cực phát biểu trong giờ học. Nhưng học sinh khối 5 thì ngược lại, các em ít tham gia xây dựng bài mặc dù câu hỏi giáo viên đưa ra các em hiểu và trả lời đúng. Qua đây chúng ta thấy rằng vẫn còn một bộ phận học sinh thiếu tự tin và rụt rè trong giao tiếp. Mặt khác tôi cũng tự hỏi hay là cách sử dụng phương pháp dạy của mình gây nhàm chán cho học sinh không còn thu hút các em như hồi lớp 3, và lớp 4 . Học ngoại ngữ muốn giỏi bản thân người học phải mạnh dạn sử dụng ngôn ngữ mình học để rèn luyện, nếu có nói sai khi được sửa chúng ta sẽ nhớ lâu hơn và lần sau nếu gặp lại câu nói đó sẽ không sai nữa. Trong nhiều năm giảng dạy tôi thấy mặt hạn chế của học sinh trong hoạt động nói là tính thụ động chỉ bám theo những gì giáo viên hướng dẫn, gợi ý để thực hiện học sinh không mở rộng hay thắc mắc yêu cầu giải đáp. Có thể nói kỹ năng nói của các em còn yếu. GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 3
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới Về phần mình tôi cần thay đổi cách tổ chức lớp học, cách sử dụng thủ thuật trong bài dạy để gây sự tập trung và hứng thú cho học sinh khi học giờ Tiếng Anh. Vào năm học 2006 2007 tôi bắt đầu áp dụng một số biện pháp sau: 1.1 Về giáo viên: a / Thường xuyên sử dụng Tiếng Anh trong tiết dạy: Đối với đối tượng học sinh cấp Trung học cơ sở và Trung học phổ thông việc sử dụng Tiếng Anh trong giờ ngoại ngữ là điều hiển nhiên, vì khi đó vốn từ các em khá đủ để hiểu những điều giáo viên truyền đạt. Nhưng đối với học sinh tiểu học vốn từ các em chưa nhiều để hiểu tốt yêu cầu của giáo viên chính điều này làm cho đa phần giáo viên dạy Tiếng Anh ở bậc tiểu học “lười” nói Tiếng Anh trong giờ dạy. Tôi nghĩ đây là một trong số lý do làm cho học sinh chưa tự tin đàm thoại bằng Tiếng Anh. Chúng ta là đầu tàu gương mẫu lứa tuổi thiếu nhi còn ngây thơ và dễ bắt chước, thầy cô là tấm gương để học sinh noi theo, nếu giáo viên thường xuyên nói Tiếng Anh thì những câu nói đó dần dần thấm sâu khi cần nói tự nhiên các em sẽ phát ra được. * Thực hiện: Vào đầu mỗi tiết dạy tôi thường đối thoại với học sinh bằng những câu Tiếng Anh đơn giản để làm “nóng” không khí lớp học, tạo sự hưng phấn trong học tập, ứng xử nhanh nhẹn trong giao tiếp. Ví dụ : T : Good morning, everybody ! How are you today ? Ss : Good morning, Mrs. Diem ! GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 4
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới We’re fine, thank you. How are you ? T : I’m fine. Thanks. Theo cách dạy truyền thống vào đầu tiết dạy giáo viên thường gọi học sinh kiểm tra bài cũ, nhưng đối với tôi thì không làm như thế. Trước khi là giáo viên tôi cũng là một học sinh như các bạn nhỏ bây giờ nên tôi hiểu rõ tâm trạng các em lúc này. Đối với tôi, tôi sử dụng phương pháp chơi trước khi học để không khí lớp học không nặng nề mà ngược lại là sự thoải mái và sinh động. Khi đưa ra yêu cầu trò chơi giáo viên nên nói bằng Tiếng Anh, không cần câu nói dài chỉ sử dụng một số cụm từ, câu đơn giản nhưng thường xuyên lặp đi lặp lại, như thế học sinh sẽ hiểu. Ví dụ: T : Would you like to play game ? Ss : Yes. T : Play game “ Slap the board” – Ok ! Ss : Ok! T : Four boys and four girls, please ! Now, any volunteers ? Raise your hand ! ……………… Sau khi chọn được hai đội tôi sử dụng một số câu ra lệnh đơn giản khác. Ví dụ: GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 5
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới T : Are you ready ? Ss : Yes . T : Now, let’s begin “ one, two,three” ……………… Giáo viên phải tự rèn luyện, học hỏi trao dồi phương pháp dạy với các bạn đồng nghiệp, trên internet, báo đài, phải tự tin và thường xuyên nói Tiếng Anh trong lớp để học sinh noi theo. Qua thời gian thăm lớp một số giáo viên trong huyện tôi thấy đa số thầy, cô còn nói Tiếng Việt nhiều trong giờ học Anh Văn. Chính điều này góp phần làm hạn chế khả năng sử dụng Tiếng Anh của học sinh. Tôi nghĩ giáo viên nên là người đầu tiên phải khắc phục mặt hạn chế trên rồi mới đến học sinh. b / Thái độ giáo viên khi đứng lớp: Phần lớn giáo viên khi đứng lớp thường có thái độ nghiêm khắc trong giảng dạy để học sinh tập trung hơn nhưng theo tôi không nên tạo căng thẳng trong giờ học ngoại ngữ. Bởi vì, những tiết học Toán, Tiếng Việt, … học sinh đã tập trung nhiều cho nên đến tiết Anh Văn giáo viên cần tạo không khí lớp học sinh động và vui vẻ. Đây là cách cuốn hút học sinh vào tiết dạy của mình để các em thấy rằng Tiếng Anh không khó học và khô khan như mình nghĩ. * Thực hiện: Giáo viên cần vui vẻ hoà nhập vào thế giới trẻ thơ của học sinh, chính thái độ của người hướng dẫn sẽ giúp các em tự tin và mạnh dạn tập nói Tiếng Anh trong lớp học mà không sợ thầy cô trách phạt hay bạn bè chế giễu khi bị sai. GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 6
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới Khi bước vào lớp điều đầu tiên giáo viên nên làm là mỉm cười với cả lớp tạo sự gần gũi, thân thiện với học trò của mình để bắt đầu một tiết học mới. Giáo viên cần rèn luyện cho mình có tính “khôi hài” và sử dụng nó trong tiết dạy để cuốn hút học sinh. Người thầy được ví như một nghệ sĩ nếu diễn tốt sẽ được khán giả mến mộ và đón nhận một cách nồng nhiệt. Làm được điều này bước đầu chúng ta đã thành công. Sau đây là một ví dụ minh hoạ. Ví dụ: Tôi cho học sinh chơi trò “Bean bag circle” và sử dụng mẫu câu “This is a ( an ) + màu sắc + tên vật” để áp dụng vào trò chơi. Học sinh nghe nhạc và chuyền bóng, khi tiếng nhạc ngưng quả bóng trong tay ai người đó tự đặt một câu theo mẫu đưa ra. Nếu một học sinh yếu nhận được quả bóng có thể sẽ không nói được hoặc “ấm a ấm úng”. Lúc này tôi động viên các em “Chúc mừng em, em có cố gắng nhưng chưa thành công” hay là “Chúc em may mắn lần sau”. Một số bộ phận giáo viên chuyển từ trung học cơ sở xuống dạy tiểu học do chưa hiểu rõ tâm sinh lý lứa tuổi này đôi khi trong tiết dạy còn nghiêm khắc và “lớn tiếng”, khi các em phát biểu sai. Theo tôi việc này không nên vì sẽ làm cho học sinh rụt rè, lúng túng khi phát biểu. Từ đó làm hạn chế tính “phản xạ” trong giao tiếp khi học ngoại ngữ. 1.2 Về học sinh: a / Rèn luyện cho học sinh phát âm chuẩn từ vựng và ngữ điệu câu: GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 7
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới Hiện nay, có quan điểm cho rằng học sinh tiểu học còn nhỏ không cần phát âm chuẩn như người bản xứ nhưng đối với tôi thì ngược lại. Phải tập các em nói đúng và chuẩn ngay từ khi mới học ngoại ngữ. Bởi vì người xưa thường nói “Tre non dễ uốn” và một phần do kinh nghiệm bản thân từ nhiều năm nay dạy học sinh tiểu học nên tôi thấy rõ mặt hạn chế của học trò. Nếu giáo viên lơ là trong việc sửa lỗi phát âm, không hướng dẫn chú ý trọng âm từ, ngữ điệu trong câu thì khi nghe người khác phát âm đúng các em không nhận ra và hiểu được người đối diện nói gì. Mặc khác các em sẽ lúng túng không biết thầy mình dạy đúng hay người này đúng làm cho học sinh e dè, không tự tin trong giao tiếp. * Thực hiện: Chúng ta phải cho học sinh nghe băng thường xuyên với giọng đọc chuẩn của người bản xứ và cho lặp lại nhiều lần, chú ý ngữ điệu cuối câu và nhất là phần kết thúc của từ. Hướng dẫn học sinh tập trung trong khi nghe và khuyến khích các em bắt chước giọng đọc trong băng càng giống càng tốt. Sau bước nghe và lặp lại giáo viên yêu cầu học sinh tự đọc đồng thanh, theo cặp rồi cá nhân. Tuyên dương những học sinh đọc tốt và chỉnh sửa ngay nếu học sinh đọc sai và không chuẩn. Khuyến khích mỗi học sinh có một cuộn băng nghe để tự rèn luyện ở nhà. Nhằm giúp các em nhập tâm và nói tốt một cách tự nhiên. b / Hướng dẫn học sinh sử dụng cử chỉ, điệu bộ khi đối thoại bằng Tiếng Anh: Các bạn thấy đó người nước ngoài khi nói chuyện với chúng ta thường sử dụng nét mặt, cử chỉ, điệu bộ diễn đạt điều muốn nói để người đối diện dễ hiểu và có cảm giác gần gũi hơn trong giao tiếp. Tại sao chúng ta GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 8
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới học ngôn ngữ của họ mà không học cách thể hiện như thế để hoàn thiện hơn trong giao tiếp. Đây là lý do tôi chọn biện pháp này để góp phần tạo sự tự tin khi đàm thoại Tiếng Anh. * Thực hiện: Tôi yêu cầu học sinh trong khi đối thoại thì nói và diễn phải kết hợp với nhau. Nếu hỏi về tên, sức khoẻ, tuổi,… của người mình muốn hỏi thì chìa tay về người đối diện và tự chỉ vào mình khi nói câu trả lời. Khi hỏi và miêu tả về đồ vật thì đến chọn hay chạm tay vào đồ vật đó. Chính việc làm này góp phần phát triển tốt kỹ năng giao tiếp, giúp học sinh thuộc từ và mẫu câu nhanh hơn. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh xây dựng một đoạn hội thoại và trình bày lại. Hoa : Hello, Lan. How are you today ? (Hoa đưa tay vẫy và chìa tay về phía Lan) Lan : Hi, Hoa . I’m fine, thank you. (Lan vẫy tay và chỉ vào mình trả lời ) Hoa : How’s the weather ? (Chỉ tay lên trời) Lan : It’s sunny . (Đưa tay lên trời) Hoa : Let’s play. Lan : Ok ! (Cả hai cùng nắm tay và chạy) c / Khuyến khích học sinh tự làm từ điển cá nhân: GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 9
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới Muốn nói tốt Tiếng Anh phải thuộc nhiều từ, đối với học sinh tiểu học việc tìm tòi, tham khảo sách báo, trên internet, ti vi còn hạn chế. Vì vậy tôi yêu cầu học sinh làm quyển từ điển theo hướng dẫn của tôi để học sinh củng cố và nhớ lâu hơn những từ được học hay sưu tầm. * Thực hiện: Vào tuần thứ hai của đầu năm học, tôi yêu cầu mỗi học sinh chuẩn bị một quyển sổ tay bỏ túi để viết lại tất cả các từ đã học. Yêu cầu học sinh sắp xếp và viết theo chủ đề (chủ đề về đồ vật, con vật, màu sắc, thời tiết,….) Tôi hướng dẫn học sinh thực hiện như sau: chia quyển sổ tay thành nhiều chủ đề để các em thuận tiện hơn khi sử dụng. Tiếp theo chia trang vở làm hai phần một bên viết từ Tiếng Anh bên kia viết nghĩa Tiếng Việt. Ví dụ: Chủ đề về đồ vật English Vietnamese * a ruler 1 cây thước * a pen 1 cây bút mực * a desk 1 cái bàn học * an eraser 1 cục tẩy ……………………. GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 10
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới Để quyển từ điển thêm phong phú tôi hướng dẫn học sinh tự vẽ hoặc sưu tầm hình ảnh để minh hoạ nghĩa Tiếng Việt. Ví dụ: Chủ đề về tự nhiên English Vietnamese * a tree * trees * a cloud GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 11
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới * clouds * a flower * flowers * Tôi áp dụng những biện pháp trên vào năm học 2006 2007 cho khối 3 và khối 5. Qua thống kê và so sánh kết quả học tập của học sinh nhận thấy chất lượng được nâng cao so với những năm học trước. Hơn nữa học sinh GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 12
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới cũng biết sử dụng một số câu Tiếng Anh thông thường để ứng dụng vào các bài đàm thoại và tự tin hơn khi phát biểu trước lớp. Số liệu cụ thể như sau: Giỏi Khá Trung bình Yếu Tổng Số Số Số Số số Năm học lượn Tỉ lệ lượn Tỉ lệ lượn Tỉ lệ lượn Tỉ lệ học g g g g sinh 20052006 224 40 17,8% 41 18,3% 85 37,9% 58 25,% 20062007 219 50 22,8% 60 27,3% 72 32,8% 37 16,% Qua kết quả trên tôi thấy có sự thay đổi khi chưa áp dụng và sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Tỉ lệ học sinh khá giỏi có tăng, số lượng học sinh trung bình, yếu có giảm. Tuy nhiên với kết quả trên tôi chưa hài lòng vì tỉ lệ học sinh yếu còn quá cao. Từ đây tôi tiếp tục nghiên cứu và tìm tòi thêm một số biện pháp khác nhằm cải thiện tỉ lệ học sinh yếu xuống thấp nhất. Vào năm học sau tôi đã bổ sung thêm một số biện pháp khác, các bước tiến hành như sau: 1.3 Một số biện pháp khác: a / Phân hoá đối tượ ng học sinh và chia nhóm rèn luyện kỹ năng giao ti ếp : Một điều thiếu sót khi tôi áp dụng những biện pháp trên là chưa phân hoá đối tượng học sinh, đây là một điều cần thiết. Khi phân định rõ đối tượng thì giáo viên sẽ bao quát lớp tốt hơn, nắm rõ số lượng học sinh yếu nhiều hay ít của từng lớp. Từ đó sử dụng phương pháp dạy phù hợp để đạt hiệu quả cao. GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 13
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới * Thực hiện: Bắt đầu vào năm học 20072008 sau ba tuần học tôi có thể phân loại nhóm học sinh giỏi, khá và nhóm trung bình, yếu. Tôi chia lớp thành nhiều nhóm (mỗi nhóm từ bốn đến năm học sinh) để cùng nhau học tập. Trong nhóm có từ hai đến ba học sinh thuộc dạng khá giỏi, những em này được phân công làm nhóm trưởng và nhóm phó để điều hành nhóm hoạt động và có nhiệm vụ giúp đỡ những bạn yếu. Mỗi nhóm được đặt cho một cái tên như : “ Blue sky”, “Lion”, “Green grass”, “ Tiger”,….để tạo sự mới lạ, hấp dẫn cho học sinh. Nhóm hoạt động vào đầu mỗi buổi học có tiết Anh Văn. Chỉ hoạt động từ 5 phút đến 10 phút để cùng nhau học Tiếng Anh. Lúc đầu các em chỉ có thể nói một vài câu đơn giản như “Hello. What’s your name? How are you? I’m fine, thank you….” Qua những bài học tiếp theo số lượng từ vựng và mẫu câu tăng dần từ đó học sinh nói được nhiều và nội dung phong phú hơn. Ví dụ: Vy : Hello, Nam. Nam : Hi, Vy . What’s the matter ? Vy : I’m tired. Nam : Do you want milk ? Vy : Yes, I do. Nam : Here you are ! Vy : Thank you. Nam : You’re welcome. GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 14
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới ……………. Vào cuối mỗi tiết học tôi dành từ ba đến năm phút ở phần mở rộng bài học để kiểm tra từ 1 đến 2 nhóm. Các nhóm sẽ trình bày lại những gì đã thực hành ở đầu giờ học. Nhóm nào thực hành tốt sẽ được thưởng, phần thưởng là những viên kẹo hay vài chiếc bánh để khích lệ tinh thần các em. Đối với học sinh yếu có tiến bộ tôi thưởng cho các em đồ dùng học tập như: viết, thước, vở, …còn các nhóm trưởng và nhóm phó của nhóm có bạn yếu tiến bộ cũng được nhận phần quà. Hoạt động nhóm mục đích giúp cho những học sinh yếu khắc phục tính rụt rè, sợ sệt và mặc cảm khi không nói được Tiếng Anh như các bạn. Thầy cô không có nhiều thời gian để gần gũi và giúp đỡ các em, thông qua hoạt động nhóm bạn sẽ là người hỗ trợ có hiệu quả nhất “Học thầy không tày học bạn”. b/ Khuyến khích học sinh tập hát nhiều bài hát Tiếng Anh: Muốn học giỏi Tiếng Anh điều đầu tiên ta phải làm thế nào cho trẻ em yêu thích nó. Âm nhạc chính là cầu nối sẽ giúp các em đến gần môn học này hơn để thấy rằng Tiếng Anh thật thú vị và bổ ích. * Thực hiện: Ngoài những bài hát trong chương trình học tôi còn sưu tầm trên internet, băng, đĩa một số bài phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi để dạy các em. Lứa tuổi học sinh tiểu học rất năng động và thích hát, những bài có tiết tấu vui nhộn càng làm các em thích thú. Thông qua đây học sinh sẽ chăm học Tiếng Anh hơn. Giáo viên cần giải thích ý nghĩa, nội dung bài hát để học sinh hiểu, cảm thụ bài hát. Từ đó các em có hứng thú và hát hay hơn. GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 15
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới Học sinh hát tập thể, nhóm và có thể cho các em tự chọn bạn hát chung với mình. Khi dạy bài hát mới tôi lồng ghép vào tiết làm bài tập tại lớp vừa giảm bớt căng thẳng vừa cung cấp thêm nhiều bài hát cho học sinh. 2. Kết quả: Sau khi áp dụng những biện pháp trên tôi thấy tiết dạy của mình không còn nhàm chán mỗi khi lên lớp. Không khí lớp học sinh động hơn, học sinh hưng phấn và thích nói Tiếng Anh nhiều hơn và thườ ng yêu cầu tôi mở rộng thêm một số câu Tiếng Anh sử dụng trong giao ti ếp. Đây là một bước phát triển tốt . Học sinh không còn lo sợ đến giờ học Tiếng Anh như trước thay vào đó là tâm trạng trông chờ đến tiết học. Sau đây là kết quả theo từng năm học của khối 3 và khối 5 tôi phụ trách: Giỏi Khá Trung bình Yếu Tổng Số Số Số Số số Năm học lượn Tỉ lệ lượn Tỉ lệ lượn Tỉ lệ lượn Tỉ lệ học g g g g sinh 20052006 (Chưa áp dụng sáng 224 40 17,8% 41 18,3% 85 37,9% 58 25,8% kiến kinh nghiệm) GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 16
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới 20062007 219 50 22,8% 60 27,3% 72 32,8% 37 16,8% 20072008 220 63 28,6% 75 34% 58 26,3% 24 10,9% 20082009 222 72 32,4% 84 37,8% 56 25,2% 10 4,5% 20092010 220 77 35% 86 39% 54 24,5% 3 1,3% So sánh kết quả năm học chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm và những năm học có áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Từ kết quả trên cho chúng ta thấy rõ nếu giáo viên có đầu tư tốt vào giảng dạy, biết áp dụng mọi phương pháp phù hợp với năng lực của từng học sinh, phù hợp với tình hình chung của mỗi khối lớp thì chúng ta sẽ gặt hái được chất lượng và hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó tạo được tình cảm tốt “giữa thầy và trò”, “giữa trò và trò”, học sinh cảm thấy yêu thích môn học mà mình phụ trách. Để từ đó các em học tốt hơn và tạo nền tảng cho sự phát triển sau này. III . PHẠM VI ÁP DỤNG: Có thể áp dụng cho việc giảng dạy Tiếng Anh từ cấp tiểu học tr ở lên và cho trẻ em nói chung vì hiện nay việc tiếp cận ngoại ngữ càng sớm càng tốt là xu hướng chung của toàn thế giới. IV . NGUYÊN NHÂN THÀNH CÔNG: Để đạt được những thành quả trên. Bản thân người giáo viên luôn nhận thức được trách nhiệm của mình. Tìm mọi biện pháp để rèn luyện từng đối tượng học sinh, kích thích các em có hứng thú trong việc học ngoại ngữ ngay GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 17
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới từ đầu. Làm được việc này chúng ta đã rèn luyện cho các em có thói quen tốt học ngoại ngữ. Trong bất cứ nghề nghiệp hay công việc gì cũng đòi hỏi người làm phải có cái tâm và niềm đam mê. Có được điều này chắc chắn chúng ta sẽ thành công. Bên cạnh được tham gia những lần tập huấn phương pháp dạy do Sở Giáo Dục và Đào Tạo tổ chức, được sự hướng dẫn trực tiếp của một số giáo viên nước ngoài tôi học hỏi được rất nhiều ở họ từ phong thái đứng lớp, đến cách sử dụng một số phương pháp giảng dạy một cách tự nhiên, nhẹ nhàng nhưng đạt hiệu quả cao. Được sự hỗ trợ tích cực từ Ban giám hiệu và giáo viên chủ nhiệm luôn đôn đốc khích lệ tinh thần của học sinh. Phần lớn phụ huynh học sinh có quan tâm đến việc học của con em mình, vì vậy luôn tạo điều kiện tốt cho các em trong học tập. V . TỒN TẠI: 1 . Học sinh: Còn một số bộ phận học sinh thiếu tự tin khi nói Tiếng Anh trước lớp. Mỗi tuần chỉ được học hai tiết không đủ thời gian để học sinh phát triển tốt kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh. Vì là môn học tự chọn nên một số học sinh chưa chú trọng nhiều đến môn Anh Văn. 2 . Giáo viên: GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 18
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới Hiện nay một số bộ sách biên soạn cho học sinh cấp tiểu học nội dung khá dài giáo viên truyền tải kiến thức trong một tiết chỉ 35 phút không đủ. Do đó thời gian phát triển kỹ năng nói cho học sinh chưa nhiều. Một số giáo viên dạy ngoại ngữ chưa thực sự sử dụng Tiếng Anh trong lớp học, bản thân chưa nói được lưu loát Tiếng Anh. Vẫn còn giáo viên phát âm từ, và ngữ điệu câu sai. Phần lớn giáo viên dạy Tiếng Anh tiểu học không biết hát nên khi hướng dẫn gặp phải khó khăn và hát chưa đúng giai điệu, tiết tấu nhạc. Giáo viên phải tự lo kinh phí làm đồ dùng dạy học và phần thưởng cho học sinh. 3 . Về phía nhà trường và phụ huynh học sinh: Môn Anh Văn là môn học tự chọn chưa đưa vào môn học chính cấp tiểu học nên Ban giám hiệu một số trường còn thiếu sự quan tâm, giúp đỡ cho giáo viên bộ môn Phụ huynh học sinh một số em chưa có nhận thức tốt môn học này do quan niệm “Tiếng Việt nói chưa xong mà học Tiếng Anh”. Vì vậy thiếu sự quan tâm sâu sát đến con em trong việc học ngoại ngữ. VI . NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh biết cách học đúng . Phải đầu tư cho bài dạy của mình trước khi lên lớp. Phải có lòng yêu trẻ và nhiệt tình học hỏi trau dồi kinh nghiệm với các bạn đồng nghiệp và qua sách báo. Trong giờ học tại lớp giáo viên truyền đạt kiến thức cho học sinh một cách tự nhiên và sinh động. Bằng cách sử dụng lời nói, cử chỉ kết hợp với đồ GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 19
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 20102011 Trường TH “A” Thị Trấn Chợ Mới dùng dạy học mới lạ,… để thu hút sự tập trung của các em. Chính điều này giúp cho học sinh tiếp thu bài nhanh và nhớ lâu. Giáo viên khuyến khích học sinh mạnh dạn phát biểu trong giờ học. Khi học sinh phát âm sai giáo viên nhẹ nhàng sửa lỗi, không cáu gắt, khó chịu, không dồn ép kiến thức khi các em căng thẳng. Luôn nhắc nhở, kiểm tra học sinh học bài ở trường cũng như ở nhà. Giới thiệu, tuyên dương, khen thưởng những học sinh có tiến bộ trong học tập cũng như biết giúp đỡ bạn cùng tiến. Sửa chữa kịp thời những sai sót của học sinh, động viên giúp đỡ những em yếu kém. Bản thân giáo viên phải tự rèn luyện nâng cao tay nghề để truyền đạt kiến thức cho các em ngày càng phong phú hơn. VII . KẾT LUẬN: Để kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh của học sinh tiểu học đạt hiệu quả cao giáo viên cần thường xuyên thay đổi hình thức tổ chức lớp học phong phú đa dạng, sử dụng phương pháp dạy phù hợp với từng khối, lớp, đối tượng học sinh. Nhiệm vụ truyền đạt kiến thức không ngoài khả năng của một giáo viên nào cả. Nếu giáo viên có lòng quyết tâm, yêu nghề, mến trẻ, kiên trì, nhẫn nại, uốn nắn các em ở mọi lúc mọi nơi nhất là đối với học sinh yếu kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh. Bản thân luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, có làm tốt nhiệm vụ này là chúng ta đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong nhà trường. Bản thân tôi nhận ra rằng giữa thầy và trò không nên có khoảng cách mà chúng ta phải tạo cho các em cảm giác gần gũi để xem người thầy của mình GV : Phan Trần Lê Thuý Diễm Trang 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
SKKN: Rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho trẻ mẫu giáo lớn trong giờ hoạt động góc
13 p | 2193 | 171
-
SKKN: Phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ
10 p | 2092 | 148
-
SKKN: Cách dạy trẻ tự kỷ phát triển ngôn ngữ và khả năng giao tiếp
10 p | 1264 | 106
-
SKKN: Một số biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh cho học sinh tiểu học
23 p | 637 | 43
-
SKKN: Xây dựng chương trình - sưu tầm - thiết kế các bài tập phát triển giao tiếp theo các chủ đề năm học hỗ trợ trẻ tự kỉ lứa tuổi 24-36 tháng hoà nhập tại trường Mầm non Lê Quý Đôn
15 p | 269 | 41
-
SKKN: Một số biện pháp tạo môi trường chữ cho trẻ 5 - 6 tuổi
18 p | 859 | 41
-
SKKN: Phát huy kỹ năng nói trong các giờ học tiếng Anh cho học sinh khối lớp 3, 4, 5 trường TH Tình Thương
18 p | 609 | 38
-
SKKN: Một số kinh nghiệm giúp học sinh Tiểu học nâng cao kỹ năng giao tiếp trong giờ học môn Tiếng Anh ở trường Tiểu Học
26 p | 154 | 33
-
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5 tuổi tại trường mầm non Họa Mi
32 p | 693 | 29
-
SKKN: Một số biện pháp hỗ trợ phụ huynh có con bị khiếm thính để giúp trẻ phát triển khả năng nghe và nói
14 p | 215 | 21
-
SKKN: Một số biện pháp giáo dục trẻ mẫu giáo bé 3-4 tuổi kỹ năng tự bảo vệ bản thân khi gặp các tình huống không an toàn
8 p | 174 | 18
-
SKKN: Một số phương pháp dạy Ngữ âm- từ vựng để phát triển kỹ năng giao tiếp tiếng Anh cho học sinh trường THPT Than Uyên.
27 p | 50 | 9
-
SKKN: Một vài giải pháp giúp phát triển kỹ năng nói tiếng Anh cho học sinh lớp 5
41 p | 92 | 8
-
SKKN: Giải pháp góp phần phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh của học sinh ở các trường tiểu học
21 p | 65 | 8
-
SKKN: Một số phương pháp dạy Ngữ âm- từ vựng để phát triển kỹ năng giao tiếp tiếng Anh cho học sinh trường THPT Than Uyên
27 p | 133 | 7
-
SKKN: Một số biện pháp dạy trẻ về kỹ năng sống cho trẻ mầm non
21 p | 88 | 6
-
SKKN: Một số biện pháp giáo dục kỹ năng giao tiếp cho trẻ dân tộc thiểu số 5 – 6 tuổi
28 p | 48 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn