
341
Phạm Phị Phương Thảo
Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh
1. Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo
1.1. Chuyển đổi số là gì
6
Hiện nay, có nhiều định nghĩa và cách hiểu khác nhau về chuyển đổi số
(Digital transformation).Theo Gartner – công ty nghiên cứu và tư vấn công nghệ
th ông tin hàng đầu thế giới đưa ra định nghĩa về chuyển đổi số như sau: “Chuyển
đổi số là việc sử dụng các công nghệ số để thay đổi mô hình kinh doanh, tạo ra
những cơ hội, doanh thu và giá trị mới”. Tại Hội nghị về hệ thống thông tin ở
khu vực Địa Trung Hải, các tác giả Henriette, Feki và Boughzala lại cho rằng
chuyển đổi số được hiểu là “một quá trình thay đổi tăng dần hoặc không liên tục.
Nó bắt đầu với việc áp dụng và sử dụng các công nghệ kỹ thuật số hướng tới một
sự chuyển đổi toàn diện và sâu sắc của một tổ chức hoặc nhằm mục đích tạo ra
các giá trị.”
7
. Còn tập đoàn Microsoft thì cho rằng “Chuyển đổi số là việc tư duy
lại cách thức các tổ chức tập hợp mọi người, dữ liệu và quy trình để tạo những
giá trị mới”
Tại Việt Nam, chuyển đổi số được hiểu theo nghĩa là quá trình thay đổi từ
mô hình truyền thống sang số hoá bằng cách áp dụng công nghệ mới như dữ liệu
lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud)… thay đổi
phương thức điều hành, lãnh đạo, quy trình làm việc, văn hóa công ty. Có tác giả
cho rằng ““chuyển đổi số” không đơn giản là việc đưa tất cả các dữ liệu thành
dạng mã hoá thông tin mà nó còn bao gồm cả quá trình ứng dụng các công nghệ
hiện đại nhất nhằm tạo ra các giá trị mới trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội và tạo sự thuận tiện nhất cho người dân. “Chuyển đổi số” không chỉ được
tiến hành một cách cơ học, kỹ thuật mà còn đòi hỏi sự chuyển đổi về tư duy của
các chủ thể tham gia vào quá trình này”
8
6
“Một số vấn đề về chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục”
http://dongthap.edu.vn/tin-tuc/thong-tin-can-biet/mot-so-van-de-ve-chuyen-doi-so-trong-linh-vuc-giao-
duc.html truy cập ngày 21/4/2021
7
Emily Henriette, Mondher Feki and Imed Boughzala, “Digital Transformation Challenges” (2016).
MCIS 2016 Proceedings. 33. http://aisel.aisnet.org/mcis2016/33.
8
Nguyễn Mai Anh, “ Chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo và tác động của nó đối với hoạt động đào
tạo luật”, Kỷ yếu Hội thảo “Ứng dụng các phương pháp dạy và học Luật”,Trường đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh, Tháng 4/2021, trang 162.

342
Do cách tiếp cận từ các góc độ khác nhau nên cách diễn đạt của các định
nghĩa trên không giống nhau. Nhưng, về nội hàm tất cả các định nghĩa trên đều
có điểm chung, đó là chuyển các hoạt động của chúng ta từ thế giới thực sang thế
giới ảo ở trên môi trường mạng. Sự tham gia ngày càng sâu rộng của công nghệ
vào mọi mặt đời sống, kinh tế, xã hội đang làm thay đổi căn bản và toàn diện
cách chúng ta sống, làm việc, liên hệ với nhau. Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế
giới đã và đang triển khai các chiến lược quốc gia về chuyển đổi số. Nội dung
chuyển đổi số rất rộng và đa dạng nhưng có chung một số nội dung chính gồm
chính phủ số (như dịch vụ công trực tuyến, dữ liệu mở), kinh tế số (như tài chính
số, thương mại điện tử), xã hội số (như giáo dục, y tế, văn hóa) và chuyển đổi số
trong các ngành trọng điểm (như nông nghiệp, du lịch, điện lực, giao thông).
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, Việt Nam nói chung và ngành giáo dục đào
tạo nói riêng cũng không thể thoát ly khỏi xu thế chung của thế giới.
1.2. Chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục
9
Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, chuyển đổi số sẽ hỗ trợ đổi mới giáo dục
đào tạo theo hướng giảm thuyết giảng, truyền thụ kiến thức sang phát triển năng
lực người học, tăng khả năng tự học, tạo cơ hội học tập mọi lúc, mọi nơi, cá nhân
hóa việc học, góp phần tạo ra xã hội học tập và học tập suốt đời. Theo đó, nhiều
mô hình giáo dục thông minh đang được phát triển trên nền tảng ứng dụng công
nghệ thông tin; hỗ trợ đắc lực việc cá nhân hóa học tập (mỗi người học một giáo
trình và một phương pháp học tập riêng không giống với người khác, việc này
do các hệ thống công nghệ thông tin thực hiện tự động); làm cho việc truy cập
kho kiến thức khổng lồ trên môi trường mạng được nhanh chóng, dễ dàng; giúp
việc tương tác giữa gia đình, nhà trường, giáo viên, học sinh gần như tức thời.
Chuyển đổi số trong giáo dục đào tạo tập trung vào hai nội dung chủ đạo là
chuyển đổi số trong quản lý giáo dục và chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra,
đánh giá, nghiên cứu khoa học. Trong quản lý giáo dục bao gồm số hóa thông tin
quản lý, tạo ra những hệ thống cơ sở dữ liệu lớn liên thông, triển khai các dịch
vụ công trực tuyến, ứng dụng các Công nghệ 4.0 để quản lý, điều hành, dự báo,
hỗ trợ ra quyết định trong ngành giáo dục đào tạo một cách nhanh chóng, chính
xác. Trong dạy, học, kiểm tra, đánh giá gồm số hóa học liệu (sách giáo khoa điện
tử, bài giảng điện tử, kho bài giảng e-learning, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm),
thư viện số, phòng thí nghiệm ảo, triển khai hệ thống đào tạo trực tuyến, xây
dựng các xây dựng các trường đại học ảo.
9
Chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: Thực trạng và giải pháp”,
https://ictvietnam.vn/chuyen-doi-so-trong-linh-vuc-giao-duc-va-dao-tao-thuc-trang-va-giai-phap-
20200522150010574.htm truy cập ngày 21/4/2021.

343
Trong giáo dục đại học nói riêng, chuyển đổi số sẽ giúp thay đổi tư duy và
cách tiếp cận về mô hình đại học. Trường đại học không chỉ là nơi đào tạo, nghiên
cứu mà còn là trung tâm đổi mới sang tạo, giải quyết các vấn đề thực tiễn, mang
giá trị cho xã hội. Trường không chỉ đóng khung trong các bức tường của giảng
đường, lớp học hay phòng thí nghiệm, mà phải mở rộng kết hợp với các doanh
nghiệp, với thị trường lao động để trở thành một hệ sinh thái giáo dục. Quá trình
chuyển đổi số sẽ phần nào bổ sung cho hiện tượng đưa kỹ thuật số vào cuộc sống
hàng ngày của chúng ta, trong công cuộc khám phá các lý thuyết mới
10
,sẽ hướng
sự tập trung đến việc cá nhân hóa triệt để hơn. Với sự ra đời của hang loạt nội
dung học tập số hóa, sinh viên có thể lựa chọn nội dung học tập cho phù hợp với
mục tiêu của mình. Các hệ thống học tập số hóa cũng giúp việc đánh giá của sinh
viên ngược lại đối với các phương pháp giảng dạy của giảng viên hiệu quả hơn,
cung cấp phản hồi về hiệu quả học tập cùng với gợi ý cho các nội dung cung như
phương pháp học tập tiếp theo.
11
2. Thay đổi phương pháp giảng dạy luật - Một số phương pháp giảng dạy
Luật tích cực trong thời kỳ chuyển đổi số
2.1.1. Đặc điểm của sự thay đổi phương pháp giảng dạy luật trong thời kỳ
chuyển đổi số
Trong thời kỳ chuyển đổi số, yêu cầu đối với người hành nghề luật là không
chỉ giỏi về chuyên môn, vững về kỹ năng hành nghề mà còn có khả năng tích
ứng với sự thay đổi của xã hội, của các xu hướng tiến bộ. Điều này đòi hỏi người
dạy luật, với những đặc thù riêng về kiến thức chuyên môn cũng như ứng dụng
trong lĩnh vực khoa học pháp lý, phải thay đổi phương pháp giảng dạy luật để
thích nghi với sự đòi hỏi của xã hội trong thời đại mới. Sự thay đổi đó mang
những đặc điểm sau:
(1) Thay đổi về tư duy áp dụng phương pháp giảng dạy: Thay đổi quan
trọng nhất là giảng viên phải thay đổi là phương pháp giảng dạy từ tư duy là
người truyền đạt các kiến thức trở thành người giúp sinh viên thay đổi kỹ năng
giải quyết vấn đề, tư duy sáng tạo và xóa mù thông tin. Cách dạy truyền thống
có thể không còn phù hợp hoàn toàn để tạo ra những công dân toàn cầu. Thay
đổi về tư duy, giúp sinh viên có kỹ năng giải quyết vấn đề, nhất tư duy sáng tạo
là rất quan trọng, giúp sinh viên cần làm gì, học gì và như thế nào để đạt được
mục đích học tập mình đề ra. Nếu đến trường chỉ được truyền đạt kiến thức thì
sách, sách điện tử, công nghệ dạy học được trang bị đầy đủ với không gian rộng
hơn rất nhiều so với lớp học,... cũng có thể đảm đương nhiệm vụ này.
10
Halili, S.H, Technological advancements in Education 4.0, The online journal of distance education
and e-learning, volume 7, issue 1 (2019).
11
TS.NguyễnVănToàn,“Thay đổi phương pháp dạy và học trước tác động cách mạng công nghiệp 4.0”
http://www.dhktna.edu.vn/dv-6/bai-viet-nckh-trao-doi-393/thay-doi-phuong-phap-day-va-hoc-truoc-
tac-dong-cach-mang-cong-nghiep-40-3318.aspx, truy cập ngày 21/04/2021.

344
Trong xã hội thông tin, giảng viên phải giúp sinh viên điều chỉnh định
hướng về chất lượng và ý nghĩa của nguồn thông tin, phải là nhà giáo dục chuyên
nghiệp có đầu óc sáng tạo, biết phê phán, tư duy độc lập, năng lực hợp tác tích
cực và hỗ trợ có hiệu quả giữa người học với những gì họ muốn biết, là người
cung cấp cách hiểu mới cho người học. Sự biến đổi lớn về vai trò người dạy -
truyền thụ kiến thức theo cách truyền thống sang vai trò xúc tác và điều phối, họ
phải chuyển sang chức năng hướng dẫn người học.
(2) Nâng cao năng lực sử dụng các phương tiện công nghệ: Người dạy phải
có năng lực quản lý tài nguyên mạng, có khả năng sử dụng thành thạo các phương
tiện công nghệ phục vụ quá trình dạy học, chuyển đổi từ các hình thức giảng dạy
truyền thống sang các hình thức giảng dạy áp dụng công nghệ số hóa. Các hình
thức học trực tuyến E-Learning: học thông qua các thiết bị điện tử; Mobile
Learning: Học thông qua các thiết bị di động; Blended-learning: mô hình học kết
hợp giữa học trên lớp và học online; context aware u-learning: học theo ngữ cảnh,
thông qua các thiết bị định vị; collaborative environments: học trong các môi
trường mang tính tương tác cao…
(3) Bồi dưỡng năng lực chuyên môn bằng các phương pháp hiện đại, tiên
tiến: Hiện nay, nhiều giảng viên chưa tiếp cận được với các mô hình dạy học mới
sẽ làm hạn chế việc rèn kỹ năng nghề cho sinh viên sư phạm. Vì thế công tác bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng viên nên kết hợp các mô hình đào tạo
tiên tiến 4.0, đào tạo trực tuyến, từ xa để giảng viên sư phạm vừa nâng cao trình
độ chuyên môn, vừa tiếp cận các mô hình dạy học mới. Các hình thức dạy học
này sẽ giúp giảng viên bổ sung vào kiến thức nghiệp vụ, làm phong phú hơn các
hình thức dạy học của mình. Bên cạnh đó, có một số mô hình giảng viên dạy trực
tuyến đã và sẽ được ứng dụng trong đào tạo và bồi dưỡng giảng viên như Mô
hình E-learning (đây là mô hình hệ thống quản lý qua mạng); mô hình B-learning
(mô hình dạy học kết hợp hình thức học tập trên lớp với hình thức học hợp tác
qua mạng máy tính và tự học); mô hình ứng dụng kỹ thuật hội thảo truyền hình
(là dịch vụ cho phép nhiều người hội thảo từ xa, với sự xuất hiện của hình ảnh
và âm thanh từ một người đến những người còn lại); Mô hình 4.0 là mô hình giáo
dục thông minh, liên kết chủ yếu giữa các yếu tố nhà trường - nhà quản lý - nhà
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho việc đổi mới, sáng tạo và năng suất lao động
trong xã hội tri thức.
(4) Nâng cao trình độ ngoại ngữ: Để tiếp cận những tri thức khoa học và
công nghệ tiên tiến do sự phát triển của công nghệ 4.0 mang lại, con người không
thể không thông thạo ngoại ngữ. Đây là điều cần thiết để giảng viên hội nhập với
xu hướng kết nối toàn cầu, hội nhập với giáo dục đại học thế giới. Vì thế người

345
giảng viên cần nâng cao trình độ ngoại ngữ bằng nhiều biện pháp khác nhau như
học theo các chương trình đào tạo, tự học hay thông qua sách báo, phim ảnh,..
2.1.2. Một số mô hình tổ chức và phương pháp giảng dạy Luật tích cực trong
thời kỳ chuyển đổi số
Một là: Mô hình lớp học đảo ngược trong giảng dạy luật
12
“Lớp học đảo ngược” có thể được hiểu một cách phổ biến là “Ghi lại các
hoạt động trên lớp để truyền tải một khoá học: Người học xem video trước khi
đến lớp và sử dụng thời gian trên lớp để giải quyết các khái niệm phức tạp, trả
lời các câu hỏi và người học được khuyến khích học tập tích cực”. Mô tả đơn
giản về lớp học đảo ngược là: (1) Bài giảng cuả giáo viên được giao ở nhà và (2)
bài tập về nhà của người học được thực hiện trên lớp. Trong mô hình lớp học đảo
ngược, nội dung bài giảng được trình bày trong các video trực tuyến ngoài lớp
học. Giờ học tập trung sau đó trong lớp học được dùng vào các hoạt động nâng
cao. Người hướng dẫn sử dụng công nghệ, nền tảng kỹ thuật số để mang đến bài
giảng cho người học bên ngoài lớp học. Còn người học sẽ tận dụng các lợi ích
của công nghệ thông tin để tìm hiểu các nội dung sẽ học trước khi bắt đầu khoá
học trên lớp
13
.
So với tổ chức mô hình lớp học truyền thống, lớp học đảo ngược có một số
điểm tích cực của nó: (1) Người học xác định tiến độ học tập rõ ràng, (2) Việc
giảng dạy bài tập về nhà trong lớp học cho phép giáo viên là chuyên gia chuẩn
đoán, (3) Nội dung có thể tuỳ chỉnh phù hợp với người học, (4) Thời gian trong
lớp học hiệu quả và hấp dẫn hơn, (5) Phù hợp với xu hướng sư phạm hiện nay,
(6) Công nghệ được xem như là sự phù hợp với xu hướng giảng dạy hiện đại
Một trong các điểm tích cực ưu việt nêu trên của mô hình lớp học đảo ngược
là công nghệ được sử dụng, đặc biệt là video. Không thể phủ nhận, đây là cách
hướng dẫn của giảng viên về nội dung học tập mà sinh viên có thể dễ dàng tiếp
thu nội dung học tập, bởi vì video sẽ thu hút người học vởi hình ảnh và âm thanh.
Đồng thời, sinh viên có thể xem video lặp đi lặp lại nếu họ gặp khó khăn trong
việc hiểu các khái niệm. Mặc khác, ứng dụng công nghệ trong trường hợp này
rất có lợi cho việc triển khai lớp học, bởi giáo viên có thể quản lý video và giao
tài liệu học tập cho sinh viên thuận tiện hơn thông qua các nền tảng giảng dạy
hoặc các phương pháp giảng dạy khác
14
, các bài giảng lý thuyết được “số hoá”
12
Dương Hồng Thị Phi Phi, “Áp dụng mô hình “Lớp học đảo ngược” vào dạy và học Luật tại trường đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh”, Kỷ yếu Hội thảo Kỷ yếu Hội thảo “Ứng dụng các phương pháp dạy
và học Luật”, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tháng 4/2021, trang 185.
13
Alexander, M. M. (2018), “The flipped classroom: Engaging the student in active learning, Journal of
Legal Studies Education”, 35(2), p.277-300.
14
Dương Hồng Thị Phi Phi, Kỷ yếu đã dẫn, trang 178.

