
Những tác động ban đầu đến doanh nghiệp và một số
kiến nghị hoàn thiện
Có thể nói Nghị quyết 11/NQ-CP đã đưa ra các gói giải pháp toàn diện và nếu
được thực thi quyết liệt và nghiêm túc sẽ có tác dụng tích cực đối với mục tiêu
kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Đối với doanh nghiệp, đây là thời điểm vô cùng khó khăn nhưng cũng là cơ hội để
doanh nghiệp điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh doanh cho hợp lý và hiệu quả.
Phần này sẽ chỉ những tác động ban đầu khi thực hiện các giải pháp chính sách
theo Nghị quyết 11 của Chính phủ và đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện trong
thời gian tới.
- Việc thực hiện giải pháp chính sách tiền tệ thắt chặt đã được Ngân hàng Nhà
nước triển khai theo đúng Nghị quyết 11 của Chính phủ. Với việc thực hiện chính
sách này, 4 tháng đầu năm, tín dụng tăng trưởng trên 5%, tổng phương tiện thanh
toán tăng 1,5%5. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ chặt chẽ và thận trọng gây đã nhiều
khó khăn cho doanh nghiệp, đặc biệt những doanh nghiệp có hoạt động sản xuất -
kinh doanh phụ thuộc lớn vào nguồn vốn vay:
Việc thắt chặt tín dụng ở mức dưới 20% (năm 2010, tốc độ tăng trưởng tín dụng
gần 30%) buộc các ngân hàng phải lựa chọn những doanh nghiệp có thể đáp ứng
được điều kiện vay vốn. Một cách khác để các ngân hàng xoay sở trong hạn mức
tín dụng trên là đưa lãi suất lên cao. Chính điều này đang khiến doanh nghiệp càng
khó khăn và cũng không có lựa chọn nơi nào khác vì hạn mức tín dụng 20% được
cào bằng và áp dụng cho tất cả các ngân hàng. Như vậy, việc giảm tốc độ tăng
trưởng tín dụng dưới 20% khiến nguồn vốn tín dụng ít hơn, lãi suất cao hơn, gây
khó khăn cho cả khả năng tiếp cận và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trong khi
đó, nhìn theo cơ cấu nguồn vốn của đa số doanh nghiệp hiện nay, vốn vay chiếm
gần 60% tổng nguồn vốn.

Bên cạnh đó, trần lãi suất huy động là 14% hay 15%/ năm là mức hỗ trợ tốt nhất
cho chính sách thắt chặt tiền tệ mà Ngân hàng Nhà nước đang thực thi. Với mức
lãi suất huy động như vậy thì mức lãi suất cho vay khoảng 17-19%. Tuy nhiên, so
với “sức khỏe” của doanh nghiệp hiện nay thì mức lãi suất cho vay 17-19%/ năm
lại là quá cao6,7, khiến khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp suy giảm, lợi nhuận
không đủ bù lãi vay, thậm chí thua lỗ. Với lãi suất quá cao và khó tiếp cận được
nguồn vốn, nhiều doanh nghiệp không mạnh dạn đầu tư chiều sâu để phát triển
trong dài hạn, thu hẹp sản xuất hoặc hoạt động cầm chừng; như vậy, sẽ ảnh hưởng
tới cả nền kinh tế, ảnh hưởng đến công ăn việc làm cho người lao động. Với độ trễ
của chính sách tiền tệ thường là 4-5 tháng nên hoạt động sản xuất sẽ tiếp tục bị ảnh
hưởng nhiều hơn từ cuối quý II do chính sách tiền tệ thắt chặt.
- Việc điều chỉnh tỷ giá và lãi suất tiết kiệm USD đã tạo khả năng giải quyết cung
cầu USD, tính thanh khoản ngoại tệ tăng lên, góp phần chống nhập siêu, hạn chế
việc găm giữ và đầu cơ USD. Việc điều chỉnh tỷ giá đã giúp tỷ giá chính thức sát
với giá thị trường và việc mua bán ngoại tệ minh bạch và lành mạnh hơn. Các
doanh nghiệp thuần túy sẽ dễ dàng trong việc mua USD để thanh toán.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh tỷ giá cũng những tác động tiêu cực đến doanh nghiệp
mà ảnh hưởng rõ nhất là việc tăng chi phí đối với các doanh nghiệp phải sử dụng
nhiều ngoại tệ nhập khẩu vật tư, nhiên liệu, thiết bị làm tăng giá thành, giá vốn
hàng nhập khẩu và hàng sử dụng nhiều nguyên liệu nhập khẩu, không chỉ những
doanh nghiệp nhập khẩu mà cả những doanh nghiệp xuất khẩu phải nhập nhiều
nguyên liệu từ nước ngoài như dệt may, cơ khí, dược,…
Đối với doanh nghiệp nhập nguyên liệu để sản xuất và xuất khẩu, việc điều chỉnh
tăng tỷ giá đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhìn lại và điều chỉnh cơ cấu sản xuất
kinh doanh hợp lý, tăng tỷ lệ nội địa hóa, sử dụng những nguyên, vật liệu có chất
lượng tương đương với nguyên liệu nhập từ nước ngoài.
- Việc quy định đối tượng được vay vốn ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa, dịch theo
Thông tư 07/2011/TT-NHNN còn quá chung chung có thể dẫn đến cơ chế xin -
cho ngay trong ngân hàng và khiến doanh nghiệp nhập khẩu hàng tiêu dùng thiết

yếu phải “cạnh tranh” với các đơn vị nhập hàng xa xỉ phẩm để có thể vay được
ngoại tệ
- Việc điều chỉnh tăng giá xăng, giá điện đã tác động đến doanh nghiệp ở hầu hết
các ngành, lĩnh vực. Việc tăng giá điện, giá xăng đã làm tăng giá thành sản phẩm
và giảm lợi nhuận của các ngành sử dụng nhiều điện và xăng. Để đối phó với việc
tăng giá điện, thời gian qua, giải pháp tối ưu được các doanh nghiệp lựa chọn là
thay đổi thời gian sản xuất, tăng năng suất lao động, đồng thời tìm các giải pháp
cải tiến công nghệ, tiết giảm tiêu hao điện năng8.
- Việc cắt giảm đầu tư công là giải pháp cần thiết để giảm bội chi ngân sách nhà
nước nhằm bảo bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy
nhiên, việc cắt giảm đầu tư công cũng ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp,
đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, xây lắp, những doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Ví dụ, theo Bộ Giao thông Vận tải, năm 2011 sẽ giảm 50%
vốn của các dự án trái phiếu chính phủ cho ngành giao thông từ 20.000 - 25.000 tỉ
đồng xuống còn 11.000 tỉ đồng, chỉ ưu tiên vốn cho các dự án có thể hoàn thành
trong năm 2011 có phát huy ngay tác dụng về kinh tế - xã hội. Riêng các dự án
đang ở khâu chuẩn bị đầu tư, quyết định đầu tư và khởi công dự án mới thì hoàn
toàn đình hoãn lại. Việc cắt giảm các dự án đầu tư công, nhất là các dự án sử dụng
nguồn vốn trái phiếu chính phủ đã ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp
xây dựng tại các địa phương. Các nhà thầu có dự án bị đình hoãn phải đối mặt với
nguy cơ không còn nguồn thu, không trả được nợ ngân hàng.
Một số đề xuất, kiến nghị:
Như trên đã đề cập, bên cạnh những tác động tích cực của nhóm giải pháp chính
sách nhằm kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, các giải pháp này cũng có
những tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Để hoàn thiện các giải pháp chính sách này và giảm thiểu tác động tiêu cực, một

số vấn đề sau cần được xem xét:
Thứ nhất, định hướng điều chỉnh chính sách tiền tệ nói chung, chính sách tỷ giá
nói riêng và một số chính sách khác (giá điện, giá xăng,…) theo hướng nào cần có
tính tiên liệu, có tính ổn định để các doanh nghiệp chủ động được trong kế hoạch
sản xuất kinh doanh.
Thứ hai, đối với chính sách tiền tệ thắt chặt: Việc áp dụng hạn mức tín dụng dưới
20% tại tất cả các ngân hàng là chưa hợp lý. Mức khống chế này không nên quy
định chung cho tất cả các ngân hàng mà nên căn cứ vào quy mô hoạt động, cũng
như chất lượng hoạt động của từng ngân hàng. Đặc biệt là cần phải xem xét dòng
vốn của các ngân hàng vào sản xuất kinh doanh nhiều hay vào lĩnh vực phi sản
xuất là chính. Những ngân hàng đã đưa tới 80-90% vốn vào lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, quy mô ngân hàng lớn, làm ăn hiệu quả thì Ngân hàng nhà nước nên xem
xét nâng mức dư nợ lên. Còn ngân hàng có quy mô nhỏ, huy động với giá cao và
phần lớn vốn đẩy vào lĩnh vực phi sản xuất thì phải hạ thấp hạn mức tín dụng
xuống hơn nữa.
Thứ ba, quy định về cho vay ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay
là người cư trú mới cần cụ thể hóa hơn nữa đối tượng được vay ngoại tệ để xác
định đúng đối tượng cho vay, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng xa xỉ phẩm và
không thiết yếu,…
Thứ tư, cần tiếp tục tăng cường kỷ luật tài chính trong đầu tư công, nghiên cứu cụ
thể hóa tiêu chí và các dự án cần cắt giảm trong chính sách tài khóa; cải tiến trong
khâu thẩm định và ra quyết định đầu tư đảm bảo tính minh bạch, khách quan./.