Tệ sùng bái chữ Hán

“Đến nay vẫn còn rơi rớt sự sùng kính thái quá chữ Hán,

thậm chí là sợ hãi... tiếp nối mấy bác “hay chữ lỏng” mang

chữ Hán ra dọa, hù nhau như ở làng xưa!”. Đây là một điều

rất đáng suy nghĩ.

Chữ Hán (loại chữ vuông biểu ý) là một thành tựu, một giá trị

đáng ghi nhận về mặt văn hóa của Trung Quốc và của cả

nhân loại. Vì nhiều lý do, Việt Nam (và một số nước Châu Á

khác) đã tiếp nhận, sử dụng và chịu ảnh hưởng rất nhiều văn

hóa Hán học trong một thời gian dài. Việc học chữ Hán là

một yêu cầu bắt buộc đối với học trò và trình độ của lớp nhân

sĩ, trí thức phụ thuộc vào năng lực hiểu biết chữ Hán của họ.

Các triều đại nhà nước phong kiến nước ta chấp nhận sử

dụng chữ Hán là “quốc tự” trong các văn bản hành chính, đối

nội và đối ngoại. Các sáng tác văn thơ, công trình khoa học,

sử học... của nhiều thế hệ tiếp nối nhau được lưu lại cho tới

nay bằng chữ Hán (là chính).

Chữ Hán còn hiển hiện qua các di tích mang tính tín ngưỡng,

tôn giáo như đình đền, chùa chiền, miếu mạo... mà đó thực sự

được coi là di sản vô giá để chúng ta nghiên cứu, tìm hiểu.

Dù chữ Pháp, văn hóa Pháp, văn hóa phương Tây sau này

tiếp tục ảnh hưởng và ghi dấu ấn trong lịch sử nước ta thì chữ

Hán, văn hóa Trung Hoa vẫn đứng ở vị trí cao hơn, sâu đậm

hơn.

Tuy nhiên, sau khi có chữ quốc ngữ (dùng mẫu tự Latin) ra

đời vào giữa thế kỷ 17 thì nền văn hóa Việt Nam đã có những

bước chuyển mang tính lịch sử. Với hệ thống 29 chữ cái,

cách viết đơn giản, dùng để ghi âm từ ngữ, lời nói, chữ quốc

ngữ được phổ cập và nhanh chóng đi vào mọi hoạt động của

đời sống, văn hóa người Việt. Đã có thời kỳ, dưới thời Pháp

thuộc, xã hội Việt Nam đã tồn tại hiện tượng tam ngữ bất

bình đẳng (chữ Pháp trong hệ thống hành chính nhà nước,

chữ Hán trong tầng lớp nhà Nho, chữ quốc ngữ trong dân

chúng), nhưng dần dần, chữ quốc ngữ đã vượt lên và khẳng

định vững chắc vị thế “độc tôn” không thể thay thế.

Ấy vậy mà, trong các công trình tín ngưỡng và tôn giáo bây

giờ, mọi chỗ đều chỉ dùng chữ Hán. Nếu là các di tích kiến

trúc cũ hoàn toàn, hoặc một số cần trùng tu, phục dựng, thì

việc “giữ nguyên hiện trạng” các văn bản chữ Hán là cần

thiết. Nhưng với các công trình làm mới thì người ta cũng tìm

đủ cách để điểm xuyết cho bằng được mấy chữ vuông nom

rất “bí hiểm” kia vào. Chùa Bái Đính (được xây mới tinh),

tuyệt nhiên không có một dòng chữ quốc ngữ nào (ghi ở

những nơi trang trọng từ cổng, tam quan đến nội thất nhà

chùa). Chữ quốc ngữ may chăng chỉ thấy trên các biển hiệu,

các thông báo, quy định chỉ dẫn của ban tổ chức... Ngay cả

các công trình tín ngưỡng khác (đền thờ các nhân vật lịch sử,

nhà thờ...) làm mới, nhưng lại được “cổ hóa” bằng chữ Hán.

Nhà thờ họ tộc Việt 100% cũng ghi chữ Hán. Mà các chữ

viết vào đây phải viết bằng chữ Hán cổ (dạng phồn thể) chứ

không phải là Hán hiện đại (dạng giản thể). Sinh viên học

tiếng Trung Quốc hiện nay (chỉ quen cách viết giản thể) hoàn

toàn chịu không đọc nổi chữ Hán cổ. Viết chữ mà đại đa số

mọi người trong cộng đồng không đọc được, không hiểu

được thì viết làm gì? Nguyễn Bỉnh Quân đã nói đúng: “Gốc ở

ta đâu ở mấy chữ đó”. Theo tôi, chúng ta hoàn toàn có thể

“quốc ngữ hóa” tất cả những chỗ ghi chữ Hán ở các công

trình tín ngưỡng, tôn giáo được làm mới hiện nay. Dĩ nhiên,

bằng một cách thể hiện theo tự dạng Latin sao cho phù hợp

và có tính thẩm mỹ.

Ý kiến này của tôi chắc sẽ có nhiều người không đồng tình,

thậm chí phản đối, cho là tôi nhân danh chữ Việt mà cố “lên

gân”. Nhưng với tư cách một người quan tâm tới ngôn ngữ,

tôi nghĩ mọi văn bản viết ra trước hết đều phải có giá trị giao

tiếp cho đa số. Người Việt nói tiếng Việt, viết chữ Việt. Đó là

cách tốt nhất để bảo tồn văn hóa Việt.