
Thời đại Đá cũ và dấu vết Người Vượn ở Việt
Nam
Trong buổi bình minh của lịch
sử, Việt Nam là một trong những quê hương của loài
người. Người ta đã phát hiện thấy người vượn ở
Bình-Gia (Lạng Sơn), nhiều công cụ thuộc buổi đầu
thời kỳ đồ đá cũ ở núi Đọ, núi Quan Yên (Thanh
Hoá). Đó là dấu vết xưa nhất hiện nay ta biết về giai
đoạn bầy người nguyên thủy trên đất nước ta.Thời ấy
cách ngày nay hàng mấy chục vạn năm.
Bấy giờ, mực nước biển Đông thấp gần trăm mét so
với ngày nay. Vì vậy, đất nước ta khi ấy qua bán đảo
Ma-lai-xi-a còn nối liền với các đảo Gia-va, Xu-ma-
tơ-ra, Ca-li-man-tan của In-đô-nê-xi-a. Các kết quả

nghiên cứu địa chất và khí hậu học còn cho biết trong
thời kỳ này xen kẽ những kỳ khô hạn là những kỳ
mưa nhiều khiến khí hậu Việt Nam ẩm và mát hơn
bây giờ một chút. Trong rừng rậm, trên thảo nguyên,
có nhiều đàn voi răng kiếm, gấu mèo, tê ngưu, lợn
lòi, hổ, báo, hươu, nai, đười ươi, vượn, khỉ, cầy,
chồn...sinh sống. Những bầy người nguyên thuỷ sống
dựa vào hang đá, lùm cây, đi dọc bờ suối, bờ sông
tìm kiếm thức ăn bằng hái lượm và săn bắt.
Người ta đã phát hiện được ở núi Đọ hàng vạn công
cụ đồ đá cũ; người Việt cổ khai thác đá gốc (ba-dan)
ở sườn núi, ghè đẽo thô sơ, tạo nên những công cụ
chặt, rìu tay, nạo...bỏ lại nơi chế tác những mảnh đá
vỡ, thuật ngữ khảo cổ gọi là mảnh tước. Với những
đồ đá đó, người nguyên thủy có thể chặt cây, vót gậy
tre, lao gỗ, xẻ thịt, đập vỡ xương thú săn bắt được...
Loại hình công cụ nghèo nàn, kỹ thuật ghè đẽo thô sơ
là đặc điểm của thời kỳ đồ đá cũ. Di tích núi Đọ là

bằng chứng về sự có mặt của những chủ nhân sớm
nhất trên lãnh thổ Việt Nam vào thời kỳ tổ chức xã
hội loài người đang hình thành.
Cách ngày nay khoảng ba, bốn vạn năm, vào thời kỳ
bộ tộc nguyên thuỷ, cư dân bản địa đã đông đúc hơn.
Người ta đã phát hiện được dấu tích con người cùng
với những hóa thạch động vật cổ ở hang Hùm (Yên
Bái), hàng Thung Lân (Ninh Bình). Đó là những thị
tộc, bộ lạc sống trong hang động miền núi đá vôi.
Tuy nhiên, cũng đã có những thị tộc, bộ lạc tiến ra
sinh sống ở miền đồi trung du vốn là miền phù sa cổ
của sông Hồng với rừng rậm phủ dày. Những hiện
vật đá cuội ghè đẽo thô sơ thuộc cuối thời đại đồ đá
cũ hoặc đầu thời đại đồ đá giữa tìm thấy ở di chỉ Sơn
Vi (Phú Thọ) là những minh chứng chắc chắn cho giả
thuyết này.
Văn hóa đá cuội ghè được tiếp nối với hai nền văn
hóa Hòa Bình (thuộc thời đại đồ đá giữa) và văn hóa

Bắc Sơn (thuộc buổi đầu thời đại đồ đá mới) cách
ngày nay khoảng một vạn năm. Ở các nền văn hoá
này, bên cạnh kỹ thuật chẻ đẽo, người nguyên thủy
đã phát minh kỹ thuật mài, tạo nên những chiếc rìu
Bắc Sơn (rìu tứ giác mài lưỡi) nổi tiếng. Văn hóa Bắc
Sơn là một trong những di chỉ văn hóa có rìu mài
sớm trên thế giới. Cũng trong thời kỳ này người ta
còn phát hiện được những đồ gốm đầu tiên được nặn
bằng tay.
Việt Nam là đất nước của hàng trăm loại tre, nứa.
Tre, nứa đóng vai trò rất quan trọng trong nền văn
hóa nguyên thủy cũng như trong đời sống người Việt
Nam sau này. Chúng được dùng làm gậy, lao, cung
tên, đồ đan lát, thừng bện... Do bị thời gian huỷ hoại
nên đến nay không còn chứng tích công cụ tre, nứa
của người Việt cổ; tuy nhiên ta vẫn có thể tìm thấy
dấu vết của tre, nứa trên các hoa văn đồ gốm sơ kỳ.

Cùng những thị tộc, bộ lạc ở miền núi, trung du trên
đất nước Việt Nam khi ấy, còn có những tập đoàn
người nguyên thủy sinh sống ở miền ven biển Đông.
Họ là chủ nhân của các nền văn hóa Quỳnh Văn
(Nghệ An), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi). Trải qua mấy
nghìn năm, đống vỏ sò điệp do họ vứt ra sau những
bữa ăn đã chất cao thành gò, rộng hàng trăm mét
vuông. Người nguyên thủy sinh sống ở ven bờ biển
còn khai thác đá gốc (thạch anh) làm công cụ. Họ
chôn người chết trong những mộ huyệt tròn đào giữa
đống sò điệp và chôn theo người chết một vài công
cụ đá, đồ trang sức bằng vỏ ốc xuyên lỗ...
Với đồ đá, đồ tre gỗ, đồ đựng bằng đất nung, các thị
tộc nguyên thủy đi săn và hái lượm có hiệu quả hơn.
Ngoài việc mò cua, bắt ốc, chủ nhân các nền văn hóa
Hòa Bình, Bắc Sơn còn săn được nhiều thú như lợn
rừng, hươu nai, trâu bò rừng, tê ngưu, voi... Chủ nhân
các nền văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Quỳnh Văn đã