1
Tiền chỉ ngủ khi bạn cho phép
Nhiu chuyên gia cho rng không có quy tắc tài chính nào quan trọng
hơn là quản lý tiền tệ đối với hoạt động của doanh nghiệp, mà quy tắc
đó lại hay bị bỏ qua nhất. Trong một vài trường hợp, các công ty nhỏ
không màng suy nghĩ tới quản lý tiền tệ miễn là tin vào vn lớn hơn
tiền ra - nhng người chủ toàn tâm toàn ý nghĩ về sản phẩm và bán
hàng.
Đọc E-paper
Nếu có một thời khi mà các nền kinh tế có thể dựa vào để phát triển, thậm
chí suy giảm, theo những chu kỳ thông thường và dễ đoán định, thì thi đó
có thnói đã đến và đã qua. Nhìn lại hơn mười lămm vừa qua, thế giới đã
b chấn động bởi hàng loạt cú sốc; từ khủng hoảng tài chính châu Á cho ti
sự đổ vỡ của nền kinh tế “dot com”.
Như nhà toán học John Allen Paulos nói một cách hài hước: “Sự bất ổn là
cái n định duy nhất còn tn tại, và biết cách chung sống với bất ổn lại tạo ra
nơi trú ẩn an toàn duy nhất”. Chúng ta đang ở quý II m 2012, sự lạc quan
có được trong quý I ở châu Á dần vơi đi.
2
Người ta vẫn hy vọng vào một giải pháp trật tự để giải quyết các vấn đề tại
khu vực đồng tiền chung châu Âu, nhưng nếu lắng nghe quan điểm của giáo
sư Paulos thì skhông khôn ngoan nếu cho rằng thời đim kết thúc của
những bất ổn thị trường đã phía bên kia đường chân tri.
Nhiều chuyên gia cho rằng không có quy tắc tài chính nào quan trọng hơn
quản lý tiền tệ đối với hoạt động của doanh nghiệp, mà quy tắc đó lại hay bị
bỏ qua nhất. Trong một vài trường hợp, các công ty nhỏ không màng suy
nghĩ tới quản lý tiền tmiễn là tin vào vẫn lớn hơn tiền ra - những người
chủ toàn tâm toàn ý nghĩ về sản phẩm và bán hàng.
Khi điều kiện thị trường ôn hòa, kcả những công ty có quy mô tương đối
ln đôi khi cũng để tin nhàn rỗi và pn tán những tài khon khác nhau.
Tuy nhiên khi tín dụng trở nên đắt đỏ và thu nhập khó đoán định hơn, các
công ty nhận thấy nhu cầu ưu tiên số 1 là phải phân bổ và ti đa hóa lợi
nhuận từ số tiền họ có.
Chuyển giao nội bộ, tín dụng thấu chi và đầu tư trên số dư qua đêm của các
tài khon nghe có vẻ xa vời nhưng quản lý tiền tệ kém hiệu quả thường b
chỉ trích là nguyên nhân hàng đầu của thất bại về kinh doanh. Quy mô công
ty càng lớn, sản phẩm và hot động bán hàng ngày càng phát trin trên quy
mô toàn cu, tài chính doanh nghiệp càng trnên phc tạp.
Vì lý do đó, ngày càng nhiều công ty tìm ti ngân hàng để được tư vấn về
quản lý tiền tệ hiệu quả và ngày càng nhiu công ty sử dụng các công cụ và
hệ thống thanh toán và thu hồi nợ khiến họ có thể đẩy nhanh quá trình
chuyển đổi tiền tệ, từ đó gii phóng vốn lưu động.
Ngân hàng đồng nhất hệ thống của mình với hệ thống của khách hàng và t
đó xử lý tất cmọi thứ từ trả lương hay thanh toán cho nhà cung cấp tới tập
trung tiền (danh nghĩa) và đầu tư trên số dư qua đêm của tài khoản sao cho
tin nằm qua đêm có thể được sử dụng một cách thông minh và sinh lời
nhiều nhất.
Cái li từ xu ng này ở các công ty là h nhìn thấy rất rõ ràng dòng tin
của mình và những chi phí tiết kiệm được từ tốc độ và hiệu quả được cải
thin, từ đó giúp họ trở nên cnh tranh hơn trong giao thương quốc tế. Lợi
ích cho ngân hàng là họ củng cố sâu hơn mối quan hệ với khách hàng.
Vì sự đồng bộ hóa hệ thống cần thời gian và lòng tin, mối quan hệ phát triển
theo một pơng thức có thể làm gim sự bất ổn cho cả hai bên và cung cấp
3
một nền móng trên đó công ty có thể phát triển hoạt động kinh doanh của
mình.
Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, các nghiên cứu chỉ ra rằng thương
mại sẽ phát triển với tốc độ trung bình 6,5%một năm trong vòng năm năm
tới khi giao thương nội vùng nở rộ và dòng thương mại phát triển tại các
hành lang thương mại Nam - Nam nối lin châu Á, châu Mỹ Latin, cu Phi
và Trung Đông.
Đây rõ ràng là tin tốt đối với các công ty trong vùng và tim năng làm ăn ra
tin, nhưng mặt khác cũng là tín hiu cảnh báo đối với những công ty chưa
xây dng cho mình một bộ phận hỗ trợ có đủ quy mô để phục vụ hiệu quả
cho tăng trưởng. Chung quy, không một công ty nào muốn nhìn thấy chi phí
của mình tăng cùng với tốc độ tăng của doanh thu.
Trong khi Mvà khu vực đồng tiền chung châu Âu có thể cung cấp cho các
công ty một mức độ ổn định nhất định, ở châu Á các công ty phải soát xét
nhiều loại tiền tệ, bảo hiểm rủi ro chống lại bất ổn về tỷ giá, phải trả thuế các
loi và tuân thủ theo các định chế pháp lý khác nhau.
Sự khác biệt rất ln vmúi giờ cũng khiến các giám đốc kinh doanh vốn và
ngoại tệ có thể phải cần tới khả năng đầu tư trên số dư tài khoản ở những
nước xa như New Zealand và Ấn Độ. Công ty càng vươn xa, càng có nhu
cầu phải tối ưu hóa các chuỗi cung ứng và đồng bộ thông tin tài chính từ các
đối tác và công ty con.
Tại Việt Nam hiện tại, số lượng các doanh nghiệp chú trọng và sử dụng các
sản phẩm quản lý tiền mặt chưa nhiều, đặc biệt là đối với khối doanh nghiệp
vừa và nhỏ và k cả các tập đoàn quốc doanh. Có nhiu nguyên nhân dn
đến tình trng này.
Thứ nhất, trong một thời gian dài nền kinh tế Việt Nam phát triển khá ổn
định, ít bị ảnh hưởng mạnh từ các đợt khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới
như đợt khủng hoảng tài chính tiền tệ xuất phát từ Thái Lan m 19971998.
Điều này khiến các doanh nghiệp chủ quan vì hluôn được kinh doanh
trong môi trường khá ổn định và an toàn khi dòng vn lưu động chưa phải là
bài toán khoặc việc tiếp cận vốn vay ngân hàng dễ dàng vi lãi suất vay
không bị đẩy lên cao.
Hai là trong một thời gian dài các ngân hàng chú trọng vào tăng trưởng tín
dụng thay vì phát trin cung cấp các sản phẩm quản lý liên quan trong đó có
4
dch vụ quản lý tiền tệ. Ba là việc sử dụng sản phẩm quản tiền tệ để đạt
được hiệu quả cao nhất đòi hỏi sự tích hợp hệ thống kế toán của doanh
nghiệp, và cđối tác của doanh nghiệp với hệ thống của ngân hàng.
Tuy nhiên một thực trạng tại đây là hệ thống kế toán cũ với nhiều công đoạn
thủ công gây một thách thức không nhỏ cho các ngân hàng mun cung cấp
sn phẩm, ng nghệ quản lý tiền tệ hin đại.
Tuy nhiên, trong tình hình kinh tế hiện nay với nhiều thách thức và chi phí
vay trnên ngày càng đắt đỏ thì các doanh nghip lại có xu hướng tìm ti
các sản phẩm quản lý tiền tệ hiệu quả giúp họ tối ưu hóa bất cứ đồng vốn
đang sẵn có hoặc để nhàn ri của mình, trong khi tn dụng tăng doanh thu và
gim bớt sự phụ thuộc vào chi phí vay ngoài.
Sự quan tâm này thể hiện rất rõ khi câu hỏi của các doanh nghiệp với chúng
tôi tại các buổi hội thảo là về các giải pháp gom tin trên tài khoản, thu hộ,
đối chiếu các khoản phải thu, ngân hàng điện tử hay đầu tư trên số dư qua
đêm, thay vì chhỏi về lãi suất vay, tỷ giá USD/VND như trước đây không
lâu.
Kinh nghim cho chúng tôi biết rằng luôn luôn có khả năng có ai đó sẽ chọn
cách bqua câu cách ngôn của giáo sư Paulos, và có những người cho rằng
sự bất ổn chỉ là trường hợp cá biệt không thường xuyên chứ không phải quy
luật. Nhưng khi châu Á mở cửa và phát triển, mang lại những cơ hội mới và
cùng đó là những thách thức về tài chính cho các công ty, chúng tôi tin rng
sẽ có nhiều người khác không muốn lựa chọn cách nhìn đó.