
1
Tiểu luận
PHÂN TÍCH VÀ CHỨNG MINH NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI
TRƯỜNG, HOẠT ĐỘNG, QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH
DOANH ĐẾN SỰ THAY ĐỔI TRỌNG TÂM CỦA KẾ TOÁN QUẢN
TRỊ TRÊN THẾ GIỚI QUA CÁC GIAI ĐOẠN.
DANH SÁCH NHÓM 1
1. Nguyễn Anh Vũ (nhóm trưởng)
2. Nguyễn Thị Thu Nga
3. Huỳnh Thị Xuân Thùy
4. Trần Thị Bảo Trâm
5. Phan Thị Sen
6. Đặng Thị Thanh Thảo
7. Bùi Thị Hoàng Yến
8. Huỳnh Thị Hoàng Yến

2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KẾ TOÁN QUẢN TRỊ
1.1 Lịch sử phát triển của kế toán quản trị
Trên thế giới:
Kế toán quản trị đã từng xuất hiện rất lâu trong hệ thống kế toán doanh nghiệp ở các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển ở vào những năm cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ
19;
- Đầu tiên, kế toán quản trị xuất hiện dưới hình thức kế toán chi phí trong doanh
nghiệp sản xuất nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin chủ yếu cho những nhà quản trị
trong nội bộ doanh nghiệp sản xuất kiểm soát chi phí, định hướng sản xuất để nâng cao
năng lực cạnh tranh trong hoạt động sản xuất kinh doanh, để doanh nghiệp chống đỡ sức
ép từ các doanh nghiệp lớn;
- Sau đó, với thực tiễn hữu hiệu, hiệu quả, kế toán quản trị bắt đầu được chú ý, áp
dụng, phát triển rất nhanh trong những loại hình doanh nghiệp khác và cả trong những tổ
chức phi lợi nhuận như các cơ quan của Nhà nước, bệnh viện, trường học...
- Ngày nay, kế toán quản trị có xu hướng hình thành, phát triển trước trong những
doanh nghiệp lớn có trình độ khoa học - kỹ thuật - quản trị tiên tiến, điều kiện cơ sở vật
chất hiện đại và sau đó mở rộng sang những doanh nghiệp nhỏ, khoa học - kỹ thuật -
quản trị, điều kiện cơ sở vật chất lạc hậu (H.Thomas Johnson, Robert S.Kaplan (1987),
Relevance lost the rise and fall of management Accounting, Harvard Business School
Press).
Ví dụ: Kế toán quản trị trong doanh nghiệp ở các nước như Nhật, Trung Quốc,
Singapore, Malaysia, Thái Lan, (Akira Nishimura (2003), Management accounting feed
forward and asian perspectives, Palgrave Macmillan, First Puplished, Freface and
Acknowledgements).
- Tương lai, kế toán quản trị chuyển sang một kỷ nguyên mới, rất gần với quản trị, là
một công cụ hợp nhất giữa chiến lược kinh doanh với thị trường, hợp nhất giữa kiểm

3
soát, thông tin phản hồi với thông tin định hướng (Akira Nishimura (2003), Management
accounting feed forward and asian perspectives, Palgrave Macmillan, First Puplished) và
là một bộ phận thiết yếu của quản trị, kế toán chiến lược (Timothy Doupnik, Hector
Perera (2006)) Internatioanal Accounting, Mc Graw -Hill Companies).
Xét về nội dung thông tin kế toán quản trị, quá trình hình thành, phát triển
kế toán quản trị trong doanh nghiệp trải qua hai giai đoạn cơ bản với những nội dung
khác nhau:
- Giai đoạn thứ nhất, khoảng trước những năm 1950, kế toán quản trị được xem như
là một phương pháp kỹ thuật xác định, phân bổ chi phí sản xuất để tính giá vốn sản phẩm
chế tạo, giá vốn hàng bán và lập dự toán chi phí sản xuất nhằm cung cấp thông tin tài
chính cho nhà quản trị kiểm soát chi phí, định hướng sản xuất;
- Giai đoạn thứ hai, khoảng những năm 1965 cho đến nay, kế toán quản trị được xem
như là chuyên môn kế toán phản ảnh, cung cấp toàn diện thông tin kinh tế, tài chính cho
nhà quản trị thực hiện các chức năng quản trị doanh nghiệp trong nội bộ.
Xét về trọng tâm thông tin, quá trình hình thành, phát triển kế toán quản trị
trong doanh nghiệp trải qua 4 giai đoạn cơ bản với các trọng tâm thông tin khác nhau
(Management accounting concepts) :
- STAGE 01- : Trước những năm 1950 - Cost determination and financial control;
- STAGE 02 : vào những năm 1965 - Information for management planning and
control;
- STAGE 03 : vào những năm 1985 - Reduction of waste of resource in business
processes;
- STAGE 4 : vào những năm 1995 - Creaction of value through effective resource
use.
Sự phát triển kinh tế, xã hội dẫn đến hình thành những nhận thức khác nhau về kế
toán, kế toán quản trị và chính nền kinh tế thị trường đã làm nổi bật nhu cầu về kế toán

4
quản trị, thúc đẩy phát triển kế toán quản trị, thông tin phục vụ cho nâng cao năng lực
quản trị - cạnh tranh để bổ sung toàn diện, hoàn thiện hơn hệ thống thông tin kế toán
trong môi trường sản xuất kinh doanh thay đổi rất nhanh.
Kế toán quản trị được xem như là quy trình định dạng, thu thập, kiểm tra, định tính,
định lượng để trình bày, giải thích và cung cấp thông tin kinh tế tài chính về hoạt động
của doanh nghiệp cho những nhà quản trị trong nội bộ doanh nghiệp thực hiện toàn diện
các chức năng quản trị doanh nghiệp.
1.2 Định nghĩa:
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về kế toán quản trị:
Theo tác già Robert S.Kaplan và Anthony A. Atkinson trong cuốn “Advanced
Management Accounting” đã định nghĩa về kế toán quản trị như sau “Hệ thống kếtoán
cung cấp thông tin cho những người quản lý doanh nghiệp trong việc hoạchđịnh và kiểm
soát hoạt động của họ”.
Theo định nghĩa của Viện kế toán viên quản trị Hoa kỳ thì “Kế toán quản trị là quá
trình nhận diện, đo lường, tổng hợp, phân tích, soạn thảo, diễn giải và truyền đạt thông
tin được quản trị sử dụng để lập kế hoạch, đánh giá và kiểm tra trong nội bộ tổ chức, và
để đảm bảo việc sử dụng hợp lý và có trách nhiệm đối với các nguồn lực của tổ chức
đó”.
Theo Luật Kế toán Việt Nam, “Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lý, phân tích và
cung cấp thông tin kinh tế, tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế, tài chính
trong nội bộ đơn vị kế toán”
Tóm lại, tùy thuộc vào các quan điểm khác nhau, có thể định nghĩa khác nhau về kế
toán quản trị.Tuy nhiên sự khác nhau là không nhiều. Có thể nói, kế toán quản trị không
chỉ đơn thuần là hệ thống thu thập và phân tích thông tin về các khoản chi phí của doanh
nghiệp, mà còn là hệ thống tổ chức quản trị các hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung,
kể cả quản trị chiến lược và hệ thống đánh giá hoạt động của các bộ phận, phòng ban
chức năng, nhằm đảm bảo sử dụng tối ưu các nguồn lực vật chất, tài chính và nhân lực.

5
1.3. Mục tiêu của kế toán quản trị
Mục tiêu chính của kế toán quản trị là cung cấp thông tin cho lãnh đạo doanh nghiệp
để ra quyết định quản trị đúng và kịp thời, giúp lãnh đạo chủ động tham gia vào quá trình
quản trị hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Các mục tiêu của kế toán quản trị bao
gồm:
- Cung cấp thông tin: thu thập và cung cấp thông tin cần thiết cho lãnh đạo mọi cấp
nhằm hoạch định, đánh giá và quản trị các hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo việc
bảo tồn và tăng tài sản doanh nghiệp.
- Tham gia vào quá trình quản trị: Quá trình quản trị bao gồm ra quyết định chiến lược,
chiến thuật và tác nghiệp hành động phối hợp sức mạnh trong phạm vi doanh nghiệp nhằm
đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, chú trọng đến kết quả đạt được trong các
mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn.