intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 109

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:28

60
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Lý luận hình thái kinh tế xã hội, vai trò của nhà nước, nền kinh tế Việt Nam, phát triển xã hội,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 109

  1.                                                          Tiểu luận: Triết học LỜI MỞ ĐẦU  Lý luận hình thái kinh tế – xã hội là lý luận cơ bản và giữ một vị trí  hết sức quan trọng của chủ nghĩa duy vật lịch sử do K.Marx xây dựng nên.  Lý luận hình thái kinh tế  ­ xã hội đã được thừa nhận là lý luận khoa học   và là phương pháp luận cơ  bản trong việc nghiên cứu lĩnh vực học. Nhờ  có lý luận hính thaí kinh tế – xã hội, lần đầu tiên trong lịch sử xã hội học   K. Marx đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong, nội tại của sự phát triển  xã hội, chỉ rõ được bản chất của từng chế độ xã hội. Như vậy qua lý luận  hình thái kinh tế – xã hội giúp chúng ta nghiên cứu một cách đúng đắn và  khoa học vận hành của xã hội trong mỗi giai đoạn nhất định. Lý luận hình thái kinh tế  xã hội đã lỗi thời, lạc hậu không thể  áp   dụng vào điều kiện hiện nay mà phải thay thế  bằng một lý luận khác.   Trước tình hình đó buộc chúng ta làm rõ thực chất của lý luận hình thái  kinh tế  xã hội và giá trị  về  mặt khoa học, tính thời đại của nó là rất cần   thiết ; về  thực tiễn nước ta đang trong quá trình xây dựng đất nước theo  định hướng xã hội chủ  nghĩa. Trong quá trình đó rất nhiều vấn đề  khó  khăn được đặt ra đòi hỏi phải nghiên cứu giải quyết. Vì vậy em mạnh dạn nhận đề  tài: ''  Vận dụng Lý luận hình thái   kinh tế – xã hội để phân tích vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế   Việt nam hiện nay'' Qua bài viết em thấy còn nhiều thiếu sót, bản thân là  người Laos nhận thức có hạn mong có sự đóng góp ý kiến của Thầy cô và  bạn đọc.                                                            Sinh viên: ALu Lao Ly                          1                            Lớp CH ­ 2006.  B4
  2.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học PHẦN I NỘI DUNG CỦA HÌNH THÁI KINH TẾ ­ XàHỘI I. KHÁI NIỆM. Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch  sử  dùng để  chỉ  xã hội  ở  từng giai đoạn phát triển lịch sử  nhất định, với   những quan hệ  sản xuất của nó thích  ứng với lực lượng sản xuất  ở  một  trình độ nhất định và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng lên trên  những quan hệ sản xuất đó. 1.Kết cấu và chức năng của các yếu tố  cấu thành hình thái kinh   tế – xã hội. Xã   hội  không  phải   là  tổng  số   những   hiện  tượng,   sự  kiện  rời  rạc   những cá nhân riêng lẻ. Xã hội là một  chỉnh thể toàn vẹn có cơ  cấu phức   tạp. Trong đó có những mặt cơ  bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ  sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt có vai trò nhất định và tác   động đến mặt khác tạo nên sự vận động của cơ thể xã hội. Chính tính toàn  vẹn của nó được phản ánh bằng khái niệm hình thái kinh tế – xã hội. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất kỹ  thuật của mỗi hình thái  kinh tế – xã hội. Sự  hình thành và phát triển  của mỗi hình thái kinh tế – xã   hội xét đến cùng là do lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất  phát triển qua các hình thái kinh tế – xã hội nối tiếp nhau từ  thấp  lên cao   thể hiện tính liên tục trong sự phát triển của xã hội loài người. 2
  3.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học Quan hệ  sản xuất – quan hệ giữa người và người trong quá trình sản   xuất – là những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả mối quan hệ  xã hội khác, không có mối quan hệ đó thì không thành xã hội và quy luật xã  hội. Mỗi hình thái kinh tế  ­ xã hội  lại có một kiểu quan hệ  sản xuất của   nó tương ứng với trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản   xuất, đó là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã hội   cụ thể khác, đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất định của   lịch sử. Những quan hệ sản xuất là  bộ xương của ơ thể xã hội hợp thành cơ  sở  hạ  tầng. Trên cơ  sở  những quan hệ  sản xuất đó hình thành nên những   quan điểm về chính trị, pháp lý, đạo đức, triết học v.v...và những thiết chế  tương  ứng hợp thành kiến trúc thượng tầng xã hội mà chức năng xã hội   của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sơ hạ tầng sinh ra nó. Ngoài những mặt cơ bản của xã hội đã đề cập ở trên – lực lượng sản   xuất, quan hệ  sản xuất và kiến trúc thượng tầng – thì còn có những quan   hệ dân tộc quan hệ gia đình và các sinh hoạt xã hội khác. 2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế ­ xã hội là một quá trình lịch sử tự  nhiên. Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau  từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế – xã  hội. Sự vận động thay thế nhau của các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch   sử đều do tác động của quy luật khách quan, đó là quá trình lịch sử tự nhiên   của xã hội. Marx viết : “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế –  xã hội là một quá trình lịch sử  tự  nhiên ”. Các mặt cơ  bản hợp thành một hình thái kinh tế  – xã hội: lực lượng   sản xuất quan hệ  sản xuất và kiến trúc thượng tầng không tách rời nhau,  mà liên hệ  biện chứng với nhau hình thành nên những quy luật phổ  biến   3
  4.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học của xã hội. Đó là quy luật về  sự  phù hợp của quan hệ  sản xuất với tính   chất và trình độ của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định   kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác. Chính  do tác  động của  quy luật khách quan đó, mà các hình thái kinh tế – xã hội vận động và phát   triển thay thế nhau từ thấp lên cao trong lịch sử  như một quá trình lịch sử  tự nhiên không phụ thuộc vào ý trí, nguyện vọng chủ quan của con người. Quá trình phát triển lịch sử tự  nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở  sự phát triển của lực lượng sản xuất. Những lực lượng sản xuất được tạo ra bằng năng  thực tiễn của con   người xong không phải con người làm ra theo ý muốn chủ quan. Bản thân  năng lực thực tiễn của con người cũng bị  quy định bởi nhiều điều kiện  khách quan nhất định. Ngươì ta làm ra lực lượng sản xuất của mình dựa  trên những lực lượng sản xuất đã đạt được trong một hình thái kinh tế – xã   hội đã có sẵn do thế  hệ trước tạo ra. Chính tính chất và trình độ  của lực   lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan tính chất và trình độ  quan  hệ  sản xuất, do đó, xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết định quá trình   vận động và phát triển của hình thái kinh tế – xã hội như một quá trình lịch   sử  tự nhiên. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển  của các hình thái kinh tế  – xã hội thì quy luật về sự phù hợp của quan hệ  sản xuất có vai trò quyết định nhất. Lực lượng sản xuất, một mặt của   phương thức sản xuất, là yếu tố bảo đảm tính kế  thừa trong sự  phát triển  lên của xã hội quy định khuynh hướng phát triển từ    thấp. Quan hệ  sản   xuất là mặt thứ  hai của phương thức sản xuất biểu hiện tính gián đoạn  trong sự  phát triển củ  lịch sử. Những quan hệ sản xuất lỗi thời được xoá  bỏ  và được thay thế  bằng những kiểu quan hệ  sản xuất mới cao hơn  và  hình thái kinh tế – xã hội mới cao hơn ra đời. Như   vậy, sự  xuất hiện, sự  phát triển của hình thái kinh tế – xã hội, sự chuyển biến từ hình thái đó lên   4
  5.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học hình thái cao hơn được giải thích trước hết bằng sự tác động của quy luật  về  sự  phù hợp của quan hệ    sản xuất với tính chất và trình độ  của lực  lượng sản xuất. Quy luật đó là khuynh hướng tự tìm đường cho mình trong  sự phát triển thay thế các hình thái kinh tế ­ xã hội. Nghiên cứu con đường   tổng quát của sự phát triển lịch sử  được quy định bởi quy luật chung của   sự   vận động của nền sản xuất vật chất chúng ta nhìn thấy logic của lịch   sử thế giới.  Vạch ra con đường tổng quát của lịch sử, điều đó không có nghĩa là  giải thích được rõ ràng sự  phát triển xã hội trong mỗi thời điểm của quá  trình lịch sử. Lịch sử cụ thể  vô cùng phong phú, có hàng loạt những yếu tố  làm cho quá trình lịch sử    đa dạng và thường xuyên biến đổi, không thể  xem xét quá trình lịch sử như một đường thẳng. Theo quan điểm  của chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhân tố quyết định quá  trình lịch sử, xét đến cùng là nền sản xuất đời sống hiện thực. Nhưng nhân  tố kinh tế không phải là nhân tố duy nhất quyết định các nhân tố khác nhau   của kiến trúc thượng tầng đều có  ảnh hưởng đến quá trình lịch sử. Nếu   không tính đến sự  tác động lẫn nhau của các nhân tố  đó thì không thấy   hàng loạt những sự  ngẫu nhiên mà tính tất yếu kinh tế  xuyên qua để  tự  vạch ra đường đi cho mình. Vì vậy để  hiểu lịch sử  cụ  thể  thì cần thiết   phải tính đến tất cả  các nhân tố  bản chất có tham gia trong quá trình tác   động lẫn nhau đó. Có nhiều ngyuên nhân làm cho quá trình chung của lịch thế giới có tính  đa dạng: điều kiện của môi trường địa lý có  ảnh hưởng nhất định đến sự  phát triển xã hội. Đặc biệt  ở  buổi ban đầu của sự  phát triển xã hội, thhì   điều kiện cuả môi trường địa lý là một trong những nguyên nhân quy định  quá trình không đồng đều của lịch sử thế giới, có dân tộc đi lên, có dân tộc   trì trệ lạc hậu. Cũng không thể không tính đến sự tác động của những yếu   5
  6.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học tố như nhà nước, tính độc đáo của nền văn hoá của truyền thống của hệ tư  tưởng và tâm lý xã hội v.v...đối với tiến trình lịch  sử. II. VẬN DỤNG LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ XàHỘI VÀO ĐIỀU  KIỆN VIỆT NAM HIỆN NAY. 1. Tất yếu khách quan của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc vận dụng lý luận hình thái kinh tế  xã hội của chủ  nghĩa Mac­ Lênin vào việc đề  ra chiến lược cho cách mạng Việt nam tiến lên chủ  nghĩa xã hội. Đường lối cách mạng do chủ  tịch Hồ  Chí Minh và Đảng ta  nêu ra là sự vận dụng sáng tạo hình thái kinh tế ­ xã hội vào điều kiện Việt  nam. Đảng ta đã khẳng định rằng sau khi Việt nam tiến hành công việc  cách mạng dân chủ  nhân dân sẽ  tiến lên làm cuộc cách mạng xã hội chủ  nghĩa. Đây là sự  lựa chọn đúng hướng đi và xác định mục tiêu của sự  phát   triển. Chúng ta đều biết, đối với Đảng ta, việc lựa chọn và xác định này  đặt ra   ngay từ  năm 1930 và luôn luôn đúng với mọi sự  biến động trong  thực tiễn phát triển của cách mạng Việt nam, trong lịch sử đấu tranh cách   mạng của Đảng và của dân tộc chính cương, sách lược vắn tắt do Nguyễn   Ái Quốc khởi thảo và luận văn chính trị của Đảng năm 1930 đã ghi rõ Cách  mạng Việt nam sẽ  đi theo con đường “là tư sản dân quyền cách mạng để  đi tới xã hội cộng sản” bỏ  qua giai đoạn phát triển tư  bản chủ  nghĩa. Sự  lựa chọn này là kết quả trực tiếp nảy sinh từ sự giác ngộ  chủ  nghĩa Mác­ Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học ở lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sau một thập   niên (1911­1920) đi tìm đường cứu nước và đã tìm thấy chủ nghĩa Lênin, đã  nhận thức rõ cách mạng Việt nam sẽ  đi theo con đường Cách mạng tháng  Mười  “Đường  cách  mệnh”  (1927)   là tác  phẩm lý   luận  macxít  đầu  tiên  được xây dựng trên nền móng của tư tưởng đó. Trong tác phẩm quan trọng   này Nguyễn ái Quốc đã chỉ rõ: 6
  7.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học “Trong thế  giới bây giờ  chỉ  có cách mệnh Nga là đã thành công và   thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái tự  do hạnh phúc,  bình đẳng thật, chứ  không phải tự  do và bình đẳng giả  dối như  đế  quốc  Pháp khoe khoang bên Nam An” Người khẳng định, chỉ có chủ nghĩa Lênin   là chân chính nhất, chắc chắn nhất và cách mệnh nhất mà chúng ta sẽ  đi  theo. Từ bước ngoặt năm 1920, khi Nguyễn ái Quốc trở thành người cộgn  sản và cho đến những năm sau này. NGười đều nhất quán khẳng định, giải  phóng giai cấp, giải phóng dân tộc chỉ  có thể  thực hiện được bằng con   đường cách mạng vô sản, bằng cuộc  xây dựng chủ  nghĩa xã hội mới, xã   hội cộng sản chủ nghĩa. Khi miền Bắc đã được giải phóng nhưng miền Nam còn phải tiếp tục  chiến đầu vì độc lập tự  do của  Tổ Quốc, tình hình lúc đó đặt ra câu hỏi:  Miền Bắc có nên bước ngay vào thời kỳ quá độ để xây dựng chủ nghĩa xã  hội hay không khi khi mục tiêu độc lạap dân tộc chưa được giải quyết   xong  ở  miền Nam? Đảng ta khẳng định là phải đồng thời tiến hành hai   nhiệm vụ  cách mạng: tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ   ở  miền   Nam và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Sự lựa chọn này  đã được thực tiễn xác nhận là hoàn toàn đúng đắn. Không có sự hậu thuẫn   của chủ  nghĩa xã hội  ở  miền Bắc, cách mạng miền Nam sẽ  không có  những đảm bảo vật chất và tinh thần cần thiết cho thắng lợi. Khi miền Nam đã được giải phóng, đất nước thống nhất, một vấn đề  cũng được đặt ra là miền Nam sẽ cùng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội   hay tạm thời dừng lại một thời gian để  phục hồi sau chiến tranh? Có thể  nói, sự  lựa chọn này là một thử  thách không kém phần phức tạp. Đảng  quyết định cả  nước cùng đi lên chủ  nghĩa xã hội. Quyết định này đã được  thực tiễn xác nhận hoàn toàn đúng đắn. 7
  8.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học  Vào giữa những năm 80, kinh tế  xã hội nước ta lâm vào cuộc khủng  hoảng trầm trọng, chế  độ  xã hội chủ  nghĩa  ở  Liên Xô và Đông Âu đang  chao đảo. Nhưng cũng chính vào lúc  ấy, Đảng ta đã quyết định đường lối   đổi mới, chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần,  vận hành theo cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của nhà nước, theo định  hướng xã hội chủ  nghĩa, hội nhập và mở  cửa với bên ngoài. Một lần nữa   sự  khẳng định của Đảng ta về con đường đi lên chủ  nghĩa xã hội đã được  thực tiễn xác nhận là đúng đắn. Vào giữa  những  năm 80, kinh tế  – xã hội nước  ta lâm vào cuộc   khủng hoảng trầm trọng chế  độ  xã hội chủ  nghĩa  ở  Liên Xô và Đông Âu  đang chao đảo. Nhưng cũng chính vào lúc ấy, Đảng ta đã quyết định đường  lối đổi mới, chủ  trương xây dựng và phát triển nền kinh tế  nhiều thành  phần, vận hành theo cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của nhà nước, theo   định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập và mở  cửa với bên ngoài. Một lần   nữa sự  khẳng định của Đảng ra về  con đường đi lên chủ  nghĩa xã hội đã  được thực tiễn xác nhận là đúng đắn. Có thể nói, những quyết sách của Đảng ta ở  thời kỳ  này thể  hiện sự  năng động về  tư duy lý luận gắn liền với sự mẫn cảm về thực tiễn cùng   bản lĩnh chính trị  vững vàng. Đó là sự  khẳng định tính tất yếu của sự  đổi  mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa: đổi mới để phát triển, để thoát khỏi   tình trạng khủng hoảng, để vượt qua những kìm hãm của mô hình cũ – mô  hình hành chính bao cấp, để  giải phóng và khai thác mọi tiềm năng phát   triển của xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội   công bằng văn minh. Đổi mới không phải là từ bỏ  chủ  nghĩa xã hội, mà là  khẳng định tính quy luật của con đường phát triển đó làm cho công cuộc   xây dựng chủ  nghĩa xã hội công bằng văn minh. đúng với quy luật khách  quan hơn phù hợp với hoang cảnh, điều kiện thực tế của đất nước với xu   8
  9.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học thế, đặc điểm của thế giới hiện đại. Đổi mới là để xây dựng chủ nghĩa xã  hội hiệu quả hơn làm cho chủ nghĩa xã hội bộc lộ và khẳng định bản chất  ưu việt của nó, từng bước định hình và phát triển trong thực tế, làm cho  “đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng tốt, xã hội  ngày càng văn minh, tiến bộ” để cho nhân dân ta có cuộc sống ấm no, hạnh   phúcđược học hành tiến bộ và phát triển mọi khả năng sáng tạo của mình”  để cho “dân thực sự là chủ và làm chủ lấy xã hội và cuộc sống của mình?  Như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh.  Như  vậy, đi lên xã hội chủ  nghĩa là tất yếu khách quan, và nó được   thể hiện trong công cuộc đổi mới của Đảng ta, đổi mới để xác lập một sự  ổn định mới nhằm làm cho đất nước đạt tới sự  phát triển bền vững. Điều   đó có ngiã là chúng ta phải xác định con đường xây dựng chủ  nghĩa xã hội  với sự năng động hơn nữa tichs cực hơn nữa, và phù hợp hơn nữa với tình   hình thế giới hiện đại. Chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng  sẽ  là chế  độ  phát hiện và sử  dụng tốt nhất những nguồn lực của chính  mình, trong đó sức mạnh quyết định chính là nguồn lực con người. Đó là  mục tiêu quan trọng nhất của chủ nghĩa xã hội. 2. Những nhiệm vụ của thời kỳ quá độ Thời kỳ  quá độ  là thời kỳ  tạo cơ  sở  vật chất và con người cho chủ  nghĩa xã hội trong quá trình thực hiện này, với điều kiện và hoàn cảnh của  Việt nam, đã đặt ra cho chúng ta những nhiệm vụ sau: Thực hiện công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước để  xây  dựng cơ  sở  vật chất kỹ  thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại. Công cuộc  này đặt ra những nhiệm vụ lớn mà chúng ta cần giải quyết: Cụ thể là: tạo  ra những điều kiện thiết yếu về vật chất, kỹ thuật, con người và khoa học   công nghệ, huy động mọi người vốn, nguồn lực lao động làm cho nền kinh  tế tăng trưởng nhanh nhưng bền vững và trên cơ sở nâng cao mọi mặt của  9
  10.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học đời sống xã hội. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất   nước cần   phải thực hiện ngay một số nội dung cơ bản sau; + Tăng thêm tốc độ  và tỷ  trọng sản xuất công nghiệp trong nền kinh   tế quốc dân  +Dựa trên sự thay đổi về công nghệ chúng ta phải chuyển dịch cơ cấu   nền kinh tế dẫn đến tăng trưởng nhanh và lâu bền. + Khuyến khích và đào tạo những tài năng trẻ nhằm tạo ra đội ngũ cán  bộ kỹ thuật có trình độ cao. + Thực hiện chuyển giao công nghệ  kết hợp với năng lực sáng tạo   của quần chúng. Muốn vậy phải nắm bắt đầy đủ  chính xác các thông tin   cần thiết thông qua, các công ty tư  vấn trong và ngoài nước để  đảm bảo   lựa chọn công nghệ chính xác. Mở rộng liên kết liên doanh với nước ngoài  để có thể khai thác công nghệ tiên tiến một cách trực tiếp. ­ Xây dựng và phát triển nền kinh tế  hàng hoá nhiều thành phần  theo định hướng chủ  nghĩa xã hội vận hành theo cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của nhà nước. Muốn vậy cần phải chấn chỉnh đổi mới và phát  triển có hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước để làm tốt vai trò hỗ trợ  và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Tạo điều kiện để  các thành phần kinh tế  khác phát triển theo đúng pháp luật và quan trọng   nhất là phải từng bước hướng vào con đường tư bản nhà nước. ­ Phải thận trọng trong sự phát triển xã hội, mở  rộng giao lưu văn  hoá với nước ngoài, phải có biện pháp hữu hiệu chống lại sự  thâm nhập  của các loại văn hoá độc hại. Kế  thừa và phát triển các truyền thống văn   hoá tốt đẹp của dân tộc. ­ Cần phải tiếp tục đổi mới bộ  máy nhà nước theo hướng tiến bộ  dựa trên những cơ sở sau: + Chống quan liêu chuyên quyền độc đoán trong bộ máy nhà nước. 10
  11.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học + Phải phân biệt rõ chức năng cảu các cấp các ngành. + Phải đưa ra một hệ  thống pháp luật chặt chẽ  đồng bộ  và có tính  khả thi. Phải đảm  bảo thực hiện nghiêm chỉnh mọi luật pháp đề ra. PHẦN II VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM Trong những năm đổi mới ta có thể  thấy rõ những thành tựu mà cơ  chế  mang lại. Những  ưu điểm của cơ  chế  thị  trường là không thể  phủ  định,   nhưng   chúng   ta   cũng   phải   thừa   nhận   rằng   KTTT   cũng   có   những   khuyết tật vốn có của nó. Vì vậy không chỉ tồn tại cơ chế thị trường thuần  tuý mà cần có sự  can thiệp nhà nước để  sửa chữa những thất bại của cơ  chế  thị  trường hơn nữa để  định hướng cho nó đi theo con đường XHCN  điều tiết vĩ mô nhà nước trong nền kinh tế. Vai trò và chức năng kinh tế  của nhà nước trong nền kinh tế  việt  nam hiện nay. Muốn quản lý nền kinh tế  việt nam hiệu quả  thì trước hết   phải nắm rõ những quy luật của kinh tế  thị  trường. Mọi chính sách nhà   nước đều phải dựa trên những chính sách khách quan  ấy. Sự  quản lý nhà  nước Việt Nam cũng có những điểm giống như  nhà nước tư  bản đó là:  thừa nhận tính độc lập các chủ  thể  kinh tế  để  có quyền tự  chủ  trong sản  xuất kinh doanh, tự  chịu trách nhiệm lỗ  lãi; xây dựng hệ  thống thị  trường  cớ  tính cạnh tranh, giá cả  chủ  yếu do thị  trường quyết định. Xây dựng cơ  chế  điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm hướng dẫn, giám sát hoạt động  của các chủ  thể  kinh tế, hạn chế  những khuyết tật của thị  trường; xây  dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo ra khuôn khổ cho nền kinh tế; tôn trọng   và thực hiện thông lệ quốc tế trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tuy nhiên sự  quản lý kinh tế  của nhà nước xã hộ  chủ  nghĩa và sự  quản lý kinh tế của nhà nước tư bản có sự khác nhau rõ rệt. Sự quản lý nhà  nước tư sản đối với nền kinh tế thị trường nhằm đem lại lợi nhuận tối đa  cho các tổ chức độc quyền. Nhà nước XHCN dưới sự lãnh đạo đảng cộng   sản quản lý nền kinh tế thị trường nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh xã   11
  12.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học hội công bằng, dân chủ, văn minh, đảm bảo cho mọi người có cuộc sống   ấm no tự do hạnh phúc. Nhà nước có chức năng kinh tế sau: Thứ nhất: Nhà nước đảm bảo sự ổn định chính trị  kinh tế  xã hội và  thiết lập khuôn khổ  luật pháp để  tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động  kinh tế. Nhà nước phải tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế  bằng cách đặt ra các điều luật cơ  bản về  quyền sử  hữu tài sản và hoạt   động chính trị. Thứ  hai : Nhà nước định hướng và điều tiết các hoạt động kinh tế  nhằm đảm bảo kinh tế tăng trưởng ổn định. Sử dụng những chính sách tài   chính tiền tệ  để   ổn định môi trường kinh tế  vĩ mô tạo điều kiện cho phát  triển kinh tế. Thứ ba : Nhà nước phải đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu  quả. Tránh để cho những doanh nghiệp chạy theo lợi ích kinh tế mà để lại  những hậu quả về ô nhiễm  môi trường, cạn kiệt tài nguyên. Nhà nước có  nhiệm vụ  thực hiện những biện pháp bảo vệ  cạnh tranh và chống độc  quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động chính trị. Thứ tư : Nhà nước hạn chế khắc phục những mặt tiêu cực thực hiện   công bằng xã hội. Vì sự  tác động kinh tế  đem lại hiệu quả  kinh tế  cao   không hoàn toàn đồng nghĩa với những mục tiêu CNXH vì phát triển kinh  tế phải đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Để thực hiện vai trò và chức năng cơ bản trên nhà nước cần có một  công cụ quản lý đó là : Hệ thống pháp luật, kế hoạch hoá, lực lượng kinh  tế của nhà nước, hệ thống chính sách và công cụ kinh tế. Hệ thống pháp luật tạo ra khuôn khổ cho các chủ thể kinh tế hoạt   động, phát huy các mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị  trường. Hệ  thống pháp luật bao trùm mọi hoạt động kinh tế  xã hội, điều  chỉnh hành vi của các chủ  thể  kinh tế  buộc các doanh nghiệp phải chấp  nhận sự điều tiết của nhà nước. 12
  13.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học Kế hoạch hoá cơ chế  vận hành nền kinh tế  thị  trường định hướng   XHCN là sự điều tiết của thị trường là cơ sở phân phối các nguồn lực. Còn   kế hoạch khắc phục tính tự phát của nền kinh tế việt nam  Lực lượng kinh tế  của nhà nước kinh tế  nhà nước phải đóng vai  trò tiên phong chủ  đạo hỗ  trợ  các thành phần kinh tế  phát triển theo định   hướng XHCN. HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH VÀ CÔNG CỤ KINH TẾ  + Chính sách tài chính thông qua việc hình thành và xây dựng ngân  sách nhà nước. Nhà nước được phân phối các nguồn lực kinh tế xây dựng   kết cấu hạ  tầng đảm bảo công bằng trong phân phối và thưc hiện chức  năng của mình.  + Chính sách tiền tệ: là công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu, vai trò của   nó trong điều tiết kinh tế vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển kinh   tế  thị  trường định hướng XHCN chính sách tiền tệ  phải khống chế  được   lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng.  + Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại  Để  mở  rộng và nâng cao hiệu quả  kinh tế  đối ngoại nhà nước sử  dụng nhiều công cụ trong đó chủ yếu là thuế xuất nhập khẩu đảm bảo tín  dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu. Thông qua các công cụ đó, bảo hộ hợp  lý sản xuất trong nước , nâng cao khả năng cạnh tranh ở nướ ta. Bảo vệ lợi  ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế.  3. Giải pháp nâng cao vai trò nhà nước  Trên cơ sở phân tích nhà nước đã làm được và chưa làm được trong   thời gian vừa qua.ta có thể đưa ra một số  giải pháp nhằm nâng cao vai trò  của nhà nước trong nền kinh tế việt nam. 1­Tiếp tục quá trình và tự do hoá giá cả, thương mại hoá nền kinh tế  một cách triệt  hơn.  Khác với thời kì nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hầu hết giá cả,  sản lượng do nhà nước quy định. Trong thời kì kinh tế  thị  trường vấn đề  chung ta phải đặt ngược hẳn lại: khuyến khích cạnh tranh, khắc phục tình  trạng độc quyền. Trên thị  trường nước ta, giá cả  còn diễn biến khá phức   13
  14.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học tạp. Những năm gần đây, lạm pháp tăng lằm ảnh hưởng lớn đến đời sống  xã hội. Nhà nước phải có biện pháp hết sức linh hoạt và phù hợp với thực   tiễn. a­Các biện pháp quản lý giá cả trên thị trường độc quyền. Thị  trường độc quyền nhà nước ta đã thu hẹp nhiều nhưng vẫn còn  một số  ngành như  điện lực, bưu chính viễn thông ... Đây là những ngành   then chốt trong nền kinh tế  , chỉ  nhà nước mới có thể  có điều kiện đảm   nhận, xây dựng và duy trì phát triển sự quản ly điều hành tập trung của nhà   nước là tất yếu và cần thiết. Nhà nước quản lý giá cả  của những sản phẩm này bằng hình thức   sau:  _ Quy định giá chuẩn đối với hành, dịch vụ độc quyền _ Quy định chính sách cơ chế quản lý cước bưu chínhviễn thông quốc tế. _ Quy định chính sách, cơ  chế  quản ly sử  dụng tài nguyên tự  nhiên  trong đó có giá cho thuế đất. Trong tương lai nhà nước phải từng bước xoa bỏ  độc quyền, liên  doanh mở rộng hợp tác với nước ngoài đàu tư cơ sở vcật chất trang thiết bị  , khuyến khích cạnh tranh trong kinh doanh. b­ Các biện pháp quản lý giá cả trên thị trường cạnh tranh Đối với một số  sản phẩm quan trọng vừa có sự  tham gia của   nhà nước vừa có sự tham gia của các các đơn vịkinh tế , nhà nước quy định  “giá tới hạn” như  : giá tối đa hàng chuẩn, giá tối đa nước máy tại thành  phố, khu công nghiệp, giá xuất khẩu tối thiểu ...  Đối với mặt hàng khác nhà nước quản lý giá thông qua biện pháp  sau: _ Quy định chính sách cơ  chế  quản lý giả  đối với công trình xây  dựng cơ bản thuộc sở hữu nhà nước tư sản cố định thuộc sơ hữu nhà nước  nhượng bán. _ Tổ chức đăng kí hiệp thương giá, niêm yết giá. _ Thực hiện chính sách biện pháp bình  ổn giá một số  hàng, dịnh vụ  thiết yếu, bảo hộ sản xuất trong nước. 14
  15.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học _ Thanh tra sử lí vi phạm kỉ luật về giá. c­ Hình thành đầy đủ  các thị  trường cần thiết co việc thương mại   hoá nền kinh tế như: thị trường vốn, thị trường lao động đưa thị trường này   vào hoạt động. Mô hình thị trường vốn ở VN phải là mô hoình đặc thù có sự kết hợp   các yếu tố  các loại hình thị  trường vốn “mở” và “đóng” nhà nước  ơphải   ban hành các chính sách, biện pháp cơ  chế  tổchức và trực tiếp quản li thị  trưpờng chứng khoán. Những điều kiện cơ bản trực tiếp cho hình thành thị trường  vốn VN   hiện nay là: _ Thực hiện chính sách lãi suất tín dụng theo cơ  chế  thị  trường, lãi  xuất ngân hàng là một trong những yếu tố cơ bản quy định giá cả  của các   chứng khoán. _ Đa dạng hoá công cụ  hoạt động trên thị  trường tài chính như  cổ  phiếu, trái phiếu, tín phiếu. _ Đa dạng hoá mô hình tổ chức tín dụng hoạt động đa năng và cạnh   trang theo cơ chế thị trường. _ Tạo lập môi trường đầu tư chắc chắn. _ Tạo lập lòng tin dân chúng vào hệ thống tài chính trong nước. _ Nhà nước phải có quan điểm rõ ràng nhất quán về chế độ sở hữu. _ Chính sách hạ tầng thông tin liên lạc tốt. _ Môi trường pháp lý đầy đủ đồng bộ. _ Chính sách vốn nói chung thị  trường vốn nói riêng phải tiến hành  đồng bộ với chính sách khác và thị trường khác. _   Đào tạo đội ngũ cán bộ  đủ  trình độ, am hiểu nghiệp vụ  trên thị  trường vốn. d­ Tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Tự  do hoá ngoại thương áp dụng chính sách tự  do buôn bán bảo vệ  mậu dịch ôn hào. Quản ly tốt việc nhập khẩu. Tham gia vào các thị trường  mới(hiện nay nước ta đang trong quá trình đàm phán ra nhập WTO) 2­   Đa   dạng   hoá   chế   độ   sở   hữu   theo   xu   hướng   phat   triển   doanh  nghiệp tư  nhân, đổi mới phương thức hoạt động kinh doanh của doanh  nghiệp nhà nước cho phù hợp cơ chế thị trường. 3­ Tăng cường khẳ năng kiểm kê kiểm soát của nhà nước đối với sự  hoạt động của doanh nghiệp. Nhà nước không han chế khả năng sản xuất của doanh nghiệp nhưng  mặt khác tăng cường công tác kiểm kê kiểm soát đảm bảo môi trường kinh  15
  16.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học doanh luôn trong sạch và răng nguồn thu từ  thuế  cho ngân sách. Nhà nước  cần phải: _ Tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp tự do kinh doanh. _Thành lập công ty kiểm toán tư nhân và nhà nước đặt dưới sự quản  lý và chỉ đạo nội vụ của bộ tư pháp. _ Thực hiện chế độ nghiêm ngặt đăng kí hệ thống kế toán. 4­ Cải cách bộ máy hành chính, hiện đại hoá nhà nước. Bộ  máy quản lý hành chính nước ta còn khá cồng kềnh chồng chéo.  Tệ quan liêu tham nhũng còn là vấn đề cấp bách. Chúng ta phải rà soát loại  bỏ  những quy định, phương thức tổ  chức cũ, đảm bảo sự  quản lý hiệu   quả, không chồng chéo. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ  nhà nước đảm  bảo người quản lý đủ  trình độ, chuyên môn, nhận thức bản lĩnh chính trị.  Đưa hệ  thống tin học vào quản lý đảm bảo sự  khách quan khoa học, tiết   kiệm thời gian. 5­ Đối với công tác kế  hoạch hoá theo xu hướng kế  hoạch hoá định   hướng đồng thời đổi mới hệ thống mục tiêu định hướng. 6­  Đổi  mới  hệ  thống thông tin kiểm tra theo yêu cầu cơ  chế  thị  trường. Để phù hợp với cơ chế mới và làm đúng chức năng, mô tả thực trạng   thị trường hàng, dịch vụ dự báo xu hưóng báo động giữa cung và cầugiá cả  và và các trạng thái của sản lượng việc làm, giá cả  phải căn cứ  vào hệ  thống mục tiêu quản lý theo cơ  chế  mới, hệ  thống chỉ  tiêu kế  hoạch hoá  định hướng theo cơ  chế  mới cải tạo kênh thị  trường vào hệ  hệ  thống chỉ  tiêu thị trường kinh tế quản ly cho phù hợp với việc điều hành quản lý kinh  tế theo cơ chế mới. 7­ Đổi mới công thức sử  dụng các chính sách kinh tế  theo yêu cầu  kinh tế  thị  trường, tạo cơ  chế phù hợp với chính sách,  ổn định kinh tế  vĩ  mô. 8­Đổi mới hệ thống pháp chế theo định hướng dân chủ hoá nền kinh  tế. 9­ Hoàn thiện đổi mới quản lý nhà nước về  tiền tệ  tín dụng ngân   hàng. 10­Ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát. 11­ Đổi mới chế độ tiền lương. 12­ Tăng cường phối hợp các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. 16
  17.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học Để thực hiện được mục tiêu ổn định hình thái kinh tế mà  Đảng đề  ra là làm cho dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh, đất nước  chuyển mình lên chủ  nghĩa xã hội thì đi đôi với việc củng cố, hoàn thiện   quan hệ sản xuất, chúng ta nhất thiết phải phát triển lực lượng sản xuất, vì  không có lực lượng sản xuất hùng hậu với năng suất cao thì không thể nói   đến một nền kinh tế vững mạnh. Mà  muốn có   năng suất  lao  động  cao  thì  không  chỉ  dựa  vào  nông  nghiệp, sử  dụng lao động thủ  công mà phải phát triển công nghiệp đi lên  đổi mới công nghệ  ngày càng hiện đại. Nói cách khác là Nhà nước ta đã  tiến hành theo hiện đại hoá. Đó là bước đi tất yếu của một quốc gia muốn  đi lên từ  một nền kinh tế  lạc hậu, nghèo nàn và đó cũng là xu thế  chung   của lịch sử. Một lần nữa ta khẳng định tính tất yếu của hình thái kinh tế  xã hội   đưa đất nước ta vượt qua một chặng đường dài đi lên một xã hội hoàn  thiện. Đó là sự đi lên ngày càng cao của các nước đang phát triển so với các  nước phát triển.      Nhận định được những điều nói trên và những bài học kinh nghiệm   rút ra từ  thực tế. Việt Nam, Đảng ta đã xác định tư  tưởng nhận thức một  cách đúng đắn hơn và đã tạo ra được vai trò của nó trong việc vận dụng   hình thái kinh tế xã hội thông qua các vấn đề sau: 1.Xây dựng và phát triển cơ cấu kinh tế mới. Ngày nay không phải đơn thuần là sự  phát triển mạnh mẽ  ngành  công nghiệp mà còn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự  đổi mới cơ bản về  hình thái kinh tế  và tất cả  các ngành kinh tế  quốc dân.  Từ đó tạo ra sự cân đối hài hoà giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế  quốc doanh. 17
  18.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học Đổi mới cả  tư  duy suy nghĩ và hành động. Công cuộc đổi mới mà  Đảng đã lựa chọn là đúng đắn, con đường đó là công nghiệp hoá ­ hiện đại  hoá với việc hình thành và chuyển dịch kinh tế. * Phương hướng cụ thể. Giải quyết là chuyển đổi cơ  cấu “công ­ nông nghiệp và dịch vụ”  phù hợp với xu hướng “mở” của nền kinh tế. Vấn đề này được giải quyết  tạo nền tảng vững chắc cho việc phân công lại lao động hợp lý trong các  ngành kinh tế và điều chỉnh hợp lý với cơ cấu đầu tư. Hướng chuyển dịch đó là giá trị  các ngành dịch vụ  tăng nhanh, tỉ  lệ  sản lượng chiếm phần lớn trong GDP... Tỉ  trọng giá trị  sản lượng nông  nghiệp giảm dần ( nhưng lượng tuyệt đối tăng hàng năm).   + Nông nghiệp (kể  cả  lâm ngư  nghiệp): trong một số  năm trước mắt  vẫn được coi là mặt trận hàng đầu. Nhà nước có những chính sách khuyến   khích đầu tư vốn khoa học công nghệ nhằm phát huy thế mạnh tiềm năng  của các vùng, hình thành những vùng chuyên canh... tạo cơ cấu cây trồng,   vật nuôi hợp lí đa dạng phù hợp với điều kiện sinh thái ở nước ta .     + Công nghiệp: Đã hình thành một số ngành công nghệ hiện đại có hàm  lượng khoa học ­  công nghệ hiệu quả kinh tế cao trên cơ sở những tiền đề  cần phảI đạt được  đó là: điện tử  tin học, công nghiệp sinh học, vật liệu  mới và cơ khí chính xác.    Đa dạng hoá các ngành thuộc kết cấu hạ tầng  đi trước một bước gồm   năng lượng (Điện than, dầu khí) giao thông vận tải.  Từ nay đến năm 2010 Nhà nước ta phát triển tiếp một số ngành sản   xuất tiêu dùng và xuất khẩu đi đôi với việc hình thành một số công nghiệp  tư liệu cần thiết. 18
  19.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học + Công nghiệp chế  biến nông thổ  thuỷ  sản: đã được chú trọng nhằm  nâng cao giá trị  của các mặt hàng lương thực thực phẩm nhằm thu hút  khách hàng trên thị trường quốc tế. + Dịch vụ: Đối với ta hiện nay phải hết sức coi trọng và phát huy thế  mạnh của các hoạt động dịch vụ đặc biệt là dịch vụ có thu ngoại tệ mạnh  nên Nhà nước ta đã nâng cao chất lượng hoạt động của các Ngân hàng trên  toàn quốc. Nâng cao năng lực và trình độ hiện đaị và các ngành dịch vụ kỹ thuật,  ngân hàng, bưu chính viễn thông. Các dịch vụ về hàng hải và hàng không có triển vọng to lớn, chúng ta  chú trọng phát triển các dịch vụ  vận tải biển, dịch vụ  vận tải biển quá  cảnh. Ngoài ra vấn đề phân công lại lao động xã hội và tranh thủ vốn đầu  tư Nhà nước cũng như vấn đề giải quyết sớm để phát triển kinh tế. 2.Công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Nước ta hiện nay là một Nhà nước với 80% dân cư  đang sinh sống  bằng sản xuất nông nghiệp. Đây là một địa bàn tập trung đại bộ  phận   người nghèo. Vì vậy, phát triển hình thái kinh tế  xã hội nông thôn đã đang  và sẽ là mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Song nông nghiệp không thể  tự  mình thay đổi, đổi mới cơ sở vật chất kĩ thuật công nghệ không có khả  năng tăng trưởng nhanh để  tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho nông dân  mà phải có tác động mạnh mẽ  của công nghiệp, dịch vụ  . Chỉ có như  vậy  sẽ xoá vỡ được trạng thái trì trệ của nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ  xoá đói giảm nghèo nâng cao mức thu nhập bình quân. Phần trên đã cho ta thấy Đảng và Nhà nước ta đã làm được những gì   mà thực tế  trong mấy năm chuyển đổi sản xuất nông nghiệp được phát  19
  20.                                                                                           Tiểu luận: Triết  học triển rõ rệt. Hơn nữa theo kinh nghiệm của các nước Châu á ­ Thái Bình  Dương sự phát triển công nghiệp giai đoạn đầu chủ yếu được đưa vào nền   tảng của nông nghiệp. Công nghiệp hoá phải tạo cơ  sở  cho công nghiệp  nông thôn phát triển. Nhà nước đã khuyến khích cơ sở công nghiệp nông thôn  thu hút công   nghiệp chế tạo và dịch vụ qua phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Chính  vì những bước đó mà việc phát triển nông nghiệp và kinh tế xã hội ở nông  thôn là một việc làm cần thiết trong thời gian trước mắt nhằm đẩy tới một   bước công nghiệp hoá ­ hiện đại hoá ở nước ta trong những năm tới. * Chính sách đường lối để  phát triển đẩy mạnh hơn nữa nền kinh tế   Việt nam hiện nay Trong khu vực nông thôn và nông nghiệp phương hướng hàng chiến  lược đó là thay thế nhập khẩu và có hiệu quả thấp bằng hàng hoá có chất   lượng  cao  để  xuất  khẩu. Nhiều người  cho rằng  đây là  hướng  sai  lầm   nhưng thực tế không phải vậy. Nông nghiệp là ngành sản xuất có đặc trưng là sản phẩm nó cần  thiết cho mọi cuộc sống hàng ngày. Phát triển sản xuất nông nghiệp cung   cấp sản phẩm đủ  trong nước rồi mới xuất khẩu là một lẽ  đương nhiên  những công cụ  sản phẩm chỉ  trong nước còn với xã hội là một lẽ  đương   nhiên bởi ta không thể nhập lương thực mà lại không sản xuất được ra. Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp cần được quá trình đầu tư khoa học  ­ công nghệ  để  đem lại chất lượng cao cho sản phẩm. Công nghiệp nhẹ  cần được phát triển trong lĩnh vực nông nghệ  là công nghệ  để  sản xuất  thuốc trừ sâu phân bón vi sinh cây không gây độc hại. 3.Đổi mới kết cấu cơ sở hạ tầng 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2