LỜI MỞ ĐẦU

Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi

con người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực ; tu dưỡng rèn luyện

phẩm chất đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu

của sự biến đổi khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng.

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn

nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển

nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức

thiết và cần có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về con người và nguồn

nhân lực xét trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng

định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội

đồng thời phải là những con người có tri thức và đạo đức. Từ đây mỗi con

người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm

các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy, vấn

đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lược GDĐT nguồn nhân lực, phát triển

con người một cách toàn diện cả thể lực lẫn trí lực. Nhiệm vụ của GDĐT là

đưa con người đạt đến những giá trị phù hợp với đặc điểm văn hoá và những

yêu cầu mới đặt ra đối với con người Việt Nam để thực hiện quá trình đổi mới

của nước ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới.

Đề tài: Vấn đề triết học về con người và con người trong quá trình đổi

mới hiện nay

1

NỘI DUNG

Triết học nào cũng phải trả lời bằng cách này hay cách khác câu hỏi:

Con người là gì? Con người sinh ra từ đâu, hoạt động và phát triển ra sao?

Trước khi có học thuyết Mác, những cố gắng của tư duy triết học nhằm

đạt tới sự hiểu biết về con người "cụ thể" hiện thực đều không đem lại kết

quả, rốt cuộc là chủ nghĩa duy tâm vẫn ngự trị trong nhận thức về con người

và về đời sống xã hội.

Chỉ đến triết học Mác, vấn đề con người mới được xem xét một cách

nhất quán, đầy đủ và sâu sắc hơn, trên cơ sở lập trường của duy vật triệt để.

I. CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN

1. Bản chất con người

Bất cứ một học thuyết nào về con người đều không thể lẩn tránh một

vấn đề đã được đặt ra trong lịch sử; Con người là gì? Bản chất của con người

là gì? Quan điểm duy tâm quy đặc trưng, bản chất con người vào lĩnh vực ý

thức tư tưởng, tình cảm, đạo đức, hoặc xem bản chất con người là cái gì đó

được quy định sẵn từ những lực lượng siêu tự nhiên.

Một số trào lưu triết học khác lại giải thích bản chất con người từ góc

độ những điểm chung của mọi sinh vật trên trái đất. Bản chất đó là bản tính tự

nhiên, là những nhu cầu thuộc về sự duy trì thể xác và dục vọng để phát triển

giống nòi; hoặc tìm kiếm bản chất con người trong khuôn khổ cá nhân riêng

lẻ, nghĩa là con người bị tách khỏi mối quan hệ xã hội hiện thực của nó. Tính

chất siêu hình của các quan điểm này về bản chất của con người biểu hiện ở

chỗ, con bản chất là cái vốn có trừu tượng và quy nó về bản tính tự nhiên,

tách khỏi xã hội và trở nên bất biến.

Với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng, C.Mác và

Ph.Ăngghen đã tạo ra một bước ngoặt trong việc nhận thức bản chất con

người. Các ông xuất phát từ con người thực tiễn, con người hiện thực, con

người cải tạo thế giới và thông qua hoạt động vật chất con người. Đó là một

động vật có tính xã hội với tất cả những nội dung văn hoá - lịch sử của nó.

2

Như vậy, các ông không xem xét bản chất con người một cách cô lập và phiến

diện mà đặt nó trong mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và con người. Con

người sống dựa vào tự nhiên như hết thẩy mọi sinh vật khác. Nhưng con

người sở dĩ trở thành con người chính là ở chỗ nó khonog chỉ sống dựa vào tự

nhiên, Ph.Ăngghen là người đầu tiên đã chỉ ra được bước chuyển biến từ

vượn thành người là nhờ có lao động. Quá trình con người cải tạo tự nhiên

cũng là quá trình con người trở thành con người. Ph.Ăngghen nói "lao động

sáng tạo ra con người là theo ý nghĩa ấy".

Khác với tự nhiên, xã hội không thể có trước con người mà đã ra đời

cùng với con người, xã hội cũng con người, xã hội cũng không phải là cái gì

trừu tượng, bất biến mà mỗi hình thái kinh tế - xã hội chỉ thích hợp với mỗi

phương thức sản xuất nhất định.Nhân tố quyết định phương thức sản xuất

phát triển lại là lực lượng sản xuất, bao gồm con người và công cụ lao động.

Như thế, không phải cái gì khác mà chính là con người, cùng với những công

cụ do họ chế tạo ra, đã quyết định sự thay đổi bộ mặt xã hội. Vậy xã hội đã

sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì con người

cũng sản xuất ra xã hội như thế.

Trong khi phê phán những quan điểm của Phoiơbắc, xuất phát từ những

cá thể cô lập C.Mác đã đưa ra luận điểm nổi tiếng về bản chất con người:

"Bản chất con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng

biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan

hệ xã hội". Luận điểm trên thể hiện những điểm cơ bản sau:

- Khi nói bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội, cũng có

nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con

người, nhưng có ý nghĩa quyết định nhất là quan hệ sản xuất. Bởi vì, các quan

hệ khác đều trực tiếp hoặc gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ này. Mỗi

hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò

chi phối, và chính kiểu quan hệ sản xuất đó là cái xét đến cùng, tạo nên bản

chất của con người trong giai đoạn lịch sử đó.

3

Ở đây, cái phổ biến (cái chung của nhân loại) tồn tại và thể hiện qua cái

đặc thù (hình thái xã hội, giai cấp) và cái đơn nhất(cá nhân từng con người).

Do đó, khi bàn đến bản chát chung của con người không thể gạt bỏ bản chất

giai cấp của các tầng lớp khác nhau; và ngược lại khi nói bản chất giai cấp

của các tầng lớp khác nhau không được quên bản chất chung của con người.

Nhưng từ đó quy bản chất con người chỉ còn là bản chất giai cấp và tất cả mọi

hoạt động của con người đều được giải thích trực tiếp từ đây lại là xuyên tạc

thực chất quan điểm macxít về bản chất con người. Đây là một quan hệ không

thể tách biệt của các thứ bậc về bản chất trong con người.

- Các quan hệ xã hội không phải chỉ xét ở quan hệ ở từng hình thái xã

hội riêng biệt mà còn khái quát những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng

chế độ, thời đại riêng biệt. Quan hệ xã hội vừa diễn ra theo chiều ngang

(đương đại) vừa theo chiêù dọc lịch sử. Các quan hệ xã hội quy định bản chất

con người bao gồm cả quan hệ xã hội hiện tại và quan hệ xã hội truyền thống,

bởi trong lịch sử của mình con người bắt buộc phải kế thừa di sản của những

thế hệ trước nó.

Trong lĩnh vực văn hoá tinh thần có những truyền thống thúc đẩy con

người vươn lên, nhưng cũng có những truyền thống "đè nặng lên những con

người đang sống". Do đó khi xem xét bản chất con người không được tách rời

hiện tại và quá khứ.

- Cái bản chất không phải là cái duy nhất, mà là bộ phận chi phối trong

chỉnh thể cụ thể phong phú đa dạng. Bản chất và thể hiện bản chất của con

người có khác biệt. Không hiểu bản chất chung của con người hay quy tất cả

những gì của con người để chỉ vào bản chất là sai lầm. Bản chất một con

người cụ thể là tổng hoà các quan hệ xã hội "vốn có" của con người đó và quy

định những đặc điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của người đó. Còn tất cả

những hành vi của người đó bộc lộ ra bên ngoài là những hiện tượng biểu

hiện bản chất của họ. Sự thể hiện bản chất của con người không phải theo con

đường thẳng, trực tiếp, mà thường là gián tiếp, quanh co qua hàng loạt mâu

4

thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh nghiệm và nhận thức khoa học, giữa

lợi ích trước mắt và lâu dài; giữa bản năng sinh vật và hoạt động có ý thức

giữa di truyền tự nhiên và văn hoá xã hội… Trong diễn biến đầy mâu thaũan

đó, bản chất thể hiện ra như một xu hướng chung, xét đến cùng mới thấy sự

chi phối của xu hướng đó.

Con người là một thực thể sinh vật - xã hội. Thông qua hoạt động thực

tiễn, con người làm biến động đời sống xã hội đồng thời cũng biến đổi chính

bản thân mình. Điều đó cũng có nghĩa là con người tiếp nhận bản chất xã hội

của mình thông qua hoạt động thực tiễn.

Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là hiện thực,

không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá

thể riêng lẻ mà là tổng hoà của toàn bộ quan hệ xã hội. Đây là phát hiện có giá

trị to lớn của Mác về bản chất con người.

Thừa nhận ý nghĩa quyết định của mặt xã hội đối với việc hình thành

bản chất con người, song không có nghĩa là, chủ nghĩa Mác- Lênin coi nhẹ

mặt tự nhiên, phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành bản chất con người.

Bởi vì theo C. Mác "giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với

nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói

rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên,

nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới

tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên".

Con người và con vật đều có những nhu cầu như ăn uóng, tính dục…,

nhưng C. Mác đã từng vạch ra tính chất khác nhau của những nhu cầu ấy: con

người hoạt động theo bản năng, con người hành dộng theo ý thức. Và chính

mặt xã hội của con người đã làm cho mặt sinh vật trong con người phát triển

ở trình độ cao hơn những động vật khác.

Con người sống, hoạt động không phải chỉ theo những bản năng di

truyền sẵn có như các động vật thông thường mà chủ yếu theo sự phát triển

của văn hoá, của tiến bộ lịch sử - xã hội. Khác con vật, con người ngoài

5

chương trình di truyền, còn có chương trình kế thừa về mặt xã hội. Bằng con

đường giáo dục, chương trình này truyền lại kinh nghiệm của những thế hệ

trước cho các thế hệ sau. Những đặc điểm di truyền của từng người vừa bảo

đảm những thuộc tính sinh học của mình, vừa bảo đảm để con người tiếp thu

chương trình xã hội.

Ngày nay, mối tương quan giữa mặt sinh vật và mặt xã hội trong sự

phát triển của con người vẫn là đối tượng của những cuộc tranh luận khoa học

gay gắt. Nhiều nhà khoa học tư sản vẫn đem đối lập và tách mặt sinh học khỏi

mặt xã hội. Chẳng hạn, phải duy sinh vật tuyệt đối hoá yếu tố sinh vật trong

sự phát triển của con người. Họ tuyên truyền thuyết Đácuyn xã hội. Đại biểu

trường phái này là: Ph.Nítsơ, Trenherơlen, Klovenơ…

Nhiều tác giả như Liônen Tigơ và Rôbin Phốcxơ cắt nghĩa hành vi của

con người theo quan điểm di truyền học…

Chủ nghĩa Phơrớt cho rằng, toàn bộ cái xã hội trong tâm lý học người

chỉ là mặt khác nhau của giới tính, là sự biểu hiện quanh co của những đam

mê bẩm sinh.

Ngược lại quan điểm xã hội học tầm thường về con người thường quy

kết bản chất con người là một sản phẩm văn hoá của xã hội, của kinh tế và

tước bỏ tính hữu cơ, tính tự nhiên của con người.

Trường phái "Triết học nhân bản hiện đại" quan niệm về bản chất của

con người phải được xuất phát từ nguyên tắc tinh thần.

Xuất phát từ những lập luận trên, kết luận tất yếu rút ra là: con người

với tư cách là sản phẩm của giới tự nhiên, là sự phát triển tiếp tục của giới tự

nhiên, mặt khác con người là một thực thể xã hội được tách ra như một lực

lượng đối lập với tự nhiên. Sự tác động qua lại giữa mặt sinh học và mặt xã

hội trong con người tạo thành bản chất người.

2. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.

6

Con người tồn tại qua những cá nhân người, mỗi cá nhân người là một

chỉnh thể đơn nhất gồm một hệ thống những đặc điểm cụ thể không lặp lại,

khác biệt với những cá nhân khác về cơ chế, tâm lý, trình độ…

Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành. Những cá nhân này

sống và hoạt động trong những nhóm cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau

do điều kiện lịch sử quy định. Trong mối quan hệ với giống loài, tức là trong

mối quan hệ với xã hội, cá nhân biểu hiện ra với tư cách sau:

- Cá nhân là phương thức tồn tại của giống loài "người". Không có con

người nói chung, loài người nói chung tồn tại cảm tính.

- Cá nhân là cá thể người riêng rẽ, là phần tử tạo thành cộng đồng xã

hội, là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách.

- Cá nhân được hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội.

Nhưng xã hội thay đổi theo tiến trình lịch sử cá nhân là một hiện tượng có

tính lịch sử. Mỗi thời kỳ lịch sử có một "kiểu xã hội của cá nhân" mang tính

định hướng về thế giới quan, phương pháp luận cho hoạt động của con người

trong thời kỳ lịch sử cụ thể đó.

Nếu như cá nhân là khái niệm phân biệt sự khác nhau giữa cá thể với

giống loài, sự khác biệt biểu hiện ra bên ngoài của cá nhân này với cá nhân

khác thì nhân cách là khái niệm để chỉ sự khác biệt những yếu tố bên trong

riêng biệt với toàn bộ hoạt động sống của nó, của cá nhân này với cá nhân

khác. Nhân cách là nội dung, trạng thái, tính chất, xu hướng bên trong riêng

biệt của mỗi cá nhân. Đó là thế giới của "cái tôi" do tác động tổng hợp của

các yếu tố cơ thể và xã hội riêng biệt tạo nên. Mỗi cá nhân "dấn thân" vào

cuọc sống, tiếp thu và chuyển những giá trị văn hoá của xã hội vào bên trong

mình, thực hiện quá trình so sánh lọc bỏ, tự đánh giá, tự tạo nên thế giới riêng

của mình. Đâylà quá trình kép, xã hội hoá cá nhân và cá nhân hoá xã hội, cá

nhân xã họi và cá nhân nhân cách là thống nhất. Với nhân cách riêng, mỗi cá

nhân có khả năng ý thức về mình, làm chủ cuộc sống của mình, tự lựa chọn

chức năng, niềm vui và trách nhiệm hoạt động cụ thể trong xã hội.

7

Vấn đề cá nhân, nhân cách không giải quyết một cách khoa học nếu

không có phương hướng triết học rõ ràng giải quyết mối quan hệ cá nhân và

xã hội. Mối quan hệ này được giải quyết liên tiếp thông qua tập thể cơ sở. Nó

tạo thành một bộ phận hết sức quan trọng của một cơ thể xã hội hoàn chỉnh.

Cá nhân có nhân cách gia nhập vào tập thể như là bộ phận của cái toàn thể,

thể hiện bản sắc của mình thông qua hoạt động tập thể, nhưng không "hoà

tan" vào tập thể. Đây là mối quan hệ biện chứng bao hàm mẫu thuẫn cá nhân

và tập thể. Tuỳ theo tính chất và khả năng giải quyết những mâu thuẫn đó mà

mối quan hệ này có thể duy trì phát triển hoặc tan rã.

Mối quan hệ cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng, tác động

nhau, trong đó xã hội giữ vai trò quyết định. Nền tảng của quan hệ này là

quan hệ lợi ích. Thực chất của việc tổ chức trật tự xã hội là sắp xếp các quan

hệ lợi ích sao cho khách thác được cao nhất khả năng của mỗi thành viên vào

các quá trình kinh tế, xã hội và thúc đẩy quá trình phát triển lên trình độ cao

hơn. Xã hội là điều kiện, là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân

được thực hiện. Cá nhân không chỉ là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể

của sự phát triển xã hội, của hoạt động sản xuất và hoạt động xã hội khác. Với

tư cách là chủ thể của lịch sử, cá nhân hành động không phải riêng rẽ mà với

tư cách là một bộ phận của tập thể xã hội (gia đình, giai cấp, dân tộc, nhân

dân). Nhân dân là cộng đồng lớn nhất, trong đó cá nhân hành động như chủ

thể lịch sử. Cá nhân chỉ được hình thành phát triển trong xã hội, trong tập thể.

Sự tác động cá nhân và xã hội mang hình thức đặc thù tuỳ thuộc vào các chế

độ xã hội và trình độ văn minh khác nhau.

Lịch sử phát triển của loài người là lịch sử đấu tranh để giành tự do

ngày càng cao. Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, tự do của người này

được thực hiện bằng cách tước đoạt tự do của người khác. Tự do cá nhân của

giai cấp thống trị được đảm bảo bằng cách tước đoạt tự do của giai cấp bị trị.

Cho nên, quá trình đấu tranh của giai cấp và quần chúng lao động là quá trình

giành tự do của họ đã bị giai cấp thống trị cướp đoạt. Tự do của con người

8

không tách rời những điều kiện xã hội, không tách rời trình độ của con người

chinh phục thiên nhiên. Chỉ đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản con

người mới thực sự có tự do. Ở đây, tất cả những vấn đề về lực lượng sản xuất,

quan hệ kinh tế, hệ thống chính trị, đấu tranh giai cấp… đều được thực hiện

theo mục đích phát triển tối đa năng lực con người và vì con người. Trước đây

C.Mác và Ph. Ănghen đã chỉ ra rằng, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm

phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc, và

"sản xuất vật chất đã như thế thì sản xuất tinh thần cũng không kém như thế".

Chủ nghĩa tư bản hiện đại đang đẩy mạnh quá trình này, nhưng về thực chất

đó vẫn là sự mở rộng quan hệ bóc lột và nô dịch con người sang các dân tộc

khác. Nó tạo ra một số nước tư bản phát triển cao, giàu có, thì đồng thời cũng

làm cho châu Phi đói, châu Á nghèo, châu Mỹ Latinh nợ nần chồng chất.

Chủ nghĩa xã hội thực hiện quá trình quốc tế hoá đời sống nhân loại để

mỗi dân tộc có điều kiện tiếp cận nhanh chóng những giá trị tiến bộ của nhân

loại, làm cho con người phát triển nhân cách phong phú, biết đấu tranh chống

những quan hệ không có tính người trong cuộc sống nhân loại. Đó là đặc

trưng của chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong quan hệ giữa cá nhân và

xã hội.

3. Cá nhân và quần chúng nhân dân trong lịch sử

Lịch sử chẳng qua là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của

mình. Nhưng lịch sử không diễn ra qua hoạt động của từng cá nhân cô lập,

tách rời mà phải thông qua hoạt động của quần chúng đông đảo theo những

mục đích nhất định. Khái niệm quần chúng nhân dân có tính lịch sử, nghĩa là

ở các chế độ xã hội khác nhau thì kết cấu quần chúng nhân dân cũng khác

nhau và luôn luôn biến đổi theo sự phát triển của phương thức sản xuất. Nói

chung, quần chúng nhân dân bao gồm tất cả những lực lượng, giai cấp, những

tập đoàn, những cá nhân thúc đẩy sự phát triển của xã hội, trong đó chủ yếu là

quần chúng lao động.

9

Trước Mác, triết học duy tâm và duy vật đều hiểu không đúng đắn vai

trò của quần chúng nhân dân và mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và cá

nhân trong lịch sử.

Tư tưởng tôn giáo cho rằng, mọi sự thay đổi trong xã hội là do ý chí

của đấng tối cao, là do "mặt trời", ý chí đó được các cá nhân thực hiện. Triết

học duy tâm cho rằng lịch sử nhân loại là lịch sử của các bậc vua chúa, anh

hùng hào kiệt, thiên tài lỗi lạc. Còn quần chúng nhân dân chỉ là "lực lượng

tiêu cực", là "phương tiện" mà các vĩ nhân cần đến để đạt mục đích của mình.

Các nhà duy vật trước Mác tuy không tin vào Thượng đế, thần linh,

nhưng lại cho rằng nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là đạo đức, tư

tưởng, là các vĩ nhân sớm nhận thức được chân lý vĩnh cửu.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định quần chúng nhân

dân là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử vì những lý do sau:

- Tư tưởng tự nó không dẫn đến biến đổi xã hội. Tư tưởng chỉ có giá trị

khi nó dẫn đến hành động làm biến đổi lịch sử, sự thống nhất giữa tư tưởng và

hành động làm phát triển xã hội chỉ có thể xảy ra qua hoạt động của quần

chúng nhân dân. Sức mạnh quần chúng nhân dân là sức mạnh vật chất và mọi

sự vận động lịch sử đều do quần chúng trực tiếp tạo ra. Nói quần chúng nhân

dân quyết định lịch sử là nói tới sức mạnh này.

- Quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã

hội. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng.

Cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động là động lực phát triển của

xã hội.

- Quần chúng nhân dân là người đóng vai trò to lớn trong sự phát triển

văn hoá, nghệ thuật và khoa học. Trong lịch sử, do sự phân công lao động dẫn

đến tạo ra một lớp người chuyên về sáng tạo tinh thần tư tưởng, những hoạt

động này của họ cũng chỉ diễn ra được trên cơ sở đời sống tinh thần và sáng

tạo của quần chúng. Quần chúng nhân dân là người trực tiếp sáng tạo ra văn

học nghệ thuật. Hoạt động thực tiễn của quần chúng là cái gốc, là nguồn vô

10

tận cho văn học nghệ thuật sáng tạo, đồng thời quần chúng nhân dân còn là

người thưởng thức, phê phán, kiểm nghiệm các giá trị đó. Trong lịch sử phát

triển của xã hội, không có văn học dân gian thì cũng không thể có văn học bác

học, không có kinh nghiệm của đa số người lao động thì cũng không có các

khoa học. Đây là hai mặt không thể tách rời của đời sống tinh thần trong xã

hội.

- Hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân là cái nôi, là cơ sở cho

sự hình thành các nhân vật ưu tú của xã hội. Sức mạnh và tài năng của lãnh tụ

cũng chỉ được phát huy trong phong trào quần chúng, gắn bó mật thiết với

quần chúng. Một nhân dân anh hùng, một đại chúng cách mạng năng động sẽ

là cơ sở để sản sinh ra những anh hùng, những lãnh tụ tiêu biểu của mình.

Như vậy, xét tất cả các mặt trong đời sống xã họi từ kinh tế đến chính

trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng, khi quần chúng nhân dân đóng vai trò

quyết định lịch sử. Song, theo quan niệm duy vật lịch sử, quần chúng nhân

dân và cá nhân lãnh tụ trong lịch sử không tách rời nhau. Cá nhân lãnh tụ là

những người có năng lực và phẩm chất tiêu biểu nhất trong phong trào quần

chúng, được quần chúng tin yêu. Vai trò to lớn của họ trong quá trình phát

triển lịch sử được thể hiện ở những điểm sau:

- Lãnh tụ là người đúc kết trí tuệ, nhu cầu nguyện vọng của quần chúng

để định hướng cho hoạt động của quần chúng. Cá nhân ưu tú là con đẻ của

quần chúng và chỉ có những cá nhân như thế mới "sống mãi" với lịch sử.

- Lãnh tụ do có trình độ nhận thức cao, họ nhìn xa trông rộng, thấy

được xu hướng tất yếu khách quan của lịch sử, từ đó, họ đưa ra những dự

đoán khoa học thiên tài và chủ động tổ chức quần chúng hoạt động thống nhất

tiếp nhận và thực hiện xu hướng lịch sử đó.

- Lãnh tụ là người giáo dục, thức tỉnh, tổ chức, tập hợp quần chúng đấu

tranh, hướng phong trào qua những khó khăn, đưa phát triển phát triển nhanh

chóng. Và, quần chúng chuyển hoạt động từ tự phát sang tự giác, từ kinh

nghiệm sang khoa học, từ phân tán sang có tổ chức thống nhất, từ nhu cầu

11

hàng ngày sang biến đổi lịch sử phải qua mất khâu trung gian là hoạt động

khái quát tư tưởng và tổ chức lãnh đạo của các cá nhân lãnh tụ, đại diện cho

lợi ích quần chúng. Họ không phải là người đứng bên ngoài, hay bên trên

quần chúng mà là sản phẩm, là một nhân tố tự nhiên của phong trào quần

chúng, sống và phát triển phụ thuộc vào sự chấp nhận tín nhiệm của quần

chúng.

Chủ nghĩa Mác LêNin đánh giá cao vai trò của cá nhân lãnh tụ trong sự

phát triển của lịch sử, đồng thời kiên quyết chống tệ sùng bái cá nhân. Tệ

sùng bái cá nhân là thần thánh hoá cá nhân, lãnh đạo, đi đến chỗ chỉ thấy vai

trò của cá nhân quyết định tất cả mà không thấy, hoặc coi nhẹ vai trò của quần

chúng. Đây là biểu hiện của quan niệm duy tâm về lịch sử, hoàn toàn trái

ngược với thế giới quan của giai cấp vô sản.

Trong xã hội có đối kháng giai cấp, quần chúng nhân dân là những bị

trị, sống phụ thuộc vào lợi ích và quyền lực của thiểu số giai cấp bóc lột và

cầm quyền lực của thiểu số giai cấp bóc lột và cầm quyền thống trị. Trong

chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân là người làm chủ xã hội. Tất cả những

cá nhân và bộ máy lãnh đạo, quản lý đều là công cụ thực hiện quyền làm chủ

của quần chúng nhân dân.

Những người cầm đầu của giai cấp bóc lột có tác dụng tiến bộ trong

thời kỳ mà vai trò lịch sử của giai cấp đó còn phù hợp với tiến trình lịch

sử.Nhưng khi giai cấp đó trở thành phản động, những người cầm đàu của nó

trở thành lực lượng cản trở, kìm hãm sự phát triển của lịch sử. Nói một cách

khác là, trong những thời kỳ lịch sử nhất định có những cánhân đại diện cho

các lực lượng tiến bộ và những cá nhân cầm đầu các lực lượng xã hội phản

động.

Công lao to lớn của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin và lãnh tụ vô sản

vĩ đại khác là ở chỗ, các ông đã chỉ cho giai cấp vô sản và quần chúng bị áp

bức hiểu được nhiệm vụ lịch sử của họ, sức mạnh vĩ đại của họ và con đường

đi đến tự giải phóng khỏi mọi ách áp bức bóc lột. Giai cấp công nhân và nhân

12

dân Việt Nam vô cùng tự hào có vị lãnh tụ là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở Người

đã kết tinh những phẩm chất tiêu biểu nhất của một lãnh tụ vô sản. Thắng lợi

của "cách mạng Việt Nam, ngót lửa thế kỷ nay mãi mãi gắn liền với tên tuổi

của chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người khai

sinh nền Cộng hoà dân chủ Việt Nam, người vun trồng khối đại đoàn kết dân

tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài của giai

cấp công nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ

lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế.

13

II. VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

1. Khái niệm nhân tố con người, chiến lược con người

Nhận thức đúng đắn về khái niệm nhân tố con người là sự phát triển

sáng tạo quan điểm Mác - Lênin về con người với tư cách là người sáng tạo

có ý thức, là chủ thể của lịch sử. Trong thời igan gần đây, xuất hiện nhiều

khái niệm: nhân tố con người, nguồn nhân lực, nguồn lực con người, phát

triển người… Khái niệm nhân tố con người đã được nhiều tác giả trong và

ngoài nước đề cập với những góc độ khác nhau, cách tiếp cận khác nhau. Có

tác giả đề cập dưới góc độ quản lý, có tác giả đề cập dưới góc độ phân tích

tâm lý - xã hội. Trong tài liệu triết học - xã hội về nhân tố con người cũng nổi

lên nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tựu trung lại, có hai cách tiếp cận chính:

- Thứ nhất, coi nhân tố con người như là hoạt động của những con

người riêng biệt, những năng lực và khả năng của họ do các nhu cầu và lợi ích

cũng như tiềm năng trí lực và thể lực của mỗi người quyết định.

- Thứ hai, coi nhân tố con người như là một tổng hoà các phẩm chất

thuộc tính, đặc trưng, năng lực đa dạng của con người, biểu hiện trong các

dạng thức hoạt động khác nhau.

Như vậy, cái chung trong các quan niệm này là coi nhân tố con người

về bản chất là nhân tố xã hội, quy định vai trò chủ thể của con người. Nhưng

sự khác nhau là quan niệm thứ nhất lấy hoạt động làm đặc trưng cơ bản, còn

phẩm chất, năng lực được thể hiện trong hoạt động. Quan niệm thứ hai, lấy

đặc trưng cơ bản là những phẩm chất năng lực, còn hoạt động là sự thể hiện

nó.

Từ đây, có thể đưa ra một quan niệm chung đầy đủ hơn về nhân tố con

người là: nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc trưng quy định vai

trò của chủ thể tích cực, sáng tạo của con người, bao gồm một chỉnh thể thống

nhất giữa mặt hoạt động với tổng hoà các đặc trưng về phẩm chất, năng lực

của con người trong một quá trình biến đổi và phát triển xã hội nhất định.

14

Nhân tố con người là khái niệm không chỉ để phân biệt nhân tố "người"

với các yếu tố khác: kinh tế, chính trị, xã hội… trong đời sống xã hội, mà

quan trọng hơn là để khẳng định vai trò của nhân tố "người" đối với các yếu

tố đó. Tức là không có khái niệm nhân tố con người tách khỏi hoạt động, dù

đó là hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.

Tịch cực hoá nhân tố con người là phát hiện, như bộc lộ, hình thành và

sử dụng tiềm năng sáng tạo của người lao động và phát huy nhân tố con người

chính là chăm lo tạo ra những điều kiện cần thiết để mỗi người, mỗi cộng

đồng người thể hiện tối đa năng lực của mình trong lao động, trong hoạt động

sáng tạo nhằm đẩy mạnh sự phát triển kinh tế - xã hội vì hạnh phúc của mỗi

con người. Đây cũng chính là quá trình làm cho mỗi con người trở thành chủ

thể có ý thức trong sáng tạo lịch sử

Phát triển người tựu trung là gia tăng giá trị cho con người, giá trị tinh

thần, giá trị thể chất, vật chất. Con người ở đây được xem xét như một tài

nguyên, một nguồn lực. Vì thế, phát triển người hoặc phát triển nguồn lực con

người trở thành một lĩnh vực nghiên cứu hết sức cần thiết trong hệ thống phát

triển các loại nguồn lực như vật lực, tài lực, nhân lực, trong đó phát triển

nguồn nhân lực giữ vai trò trung tâm. Lịch sử phát triển nhân loại là lịch sử

giải phóng từng bước con người cả vật chất và tinh thần. Và không phải đến

chủ nghĩa xã hội mới bàn đến chiến lược con người, khai thác yếu tố người, vì

trong lịch sử, không chế độ nào tồn tại lại không nhắc đến yếu tố người,

nhưng vấn đề là khai thác, phát huy theo lợi ích giai cấp nào và bằng phương

thức nào. Thực chất chiến lược con người là tạo ra môi trường xã hội kích

thích con người hoạt động sáng tạo và thoả mãn nhu cầu tối đa của con người

trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Đó là môi trường kinh tế xã hội, môi

trường chính trị xã hội, môi trường văn hoá xã hội.

2. Chiến lược con người trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.

Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng xã

hội mới. Sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy

15

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo lối "vựot trước, đi tắt, đón

đầu" nhất thiết gắn liền với phát triển con người và coi con người là nhân tố

quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Đảng ta khẳng định lấy việc phát

huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền

vững..

Để xây dựng con người Việt Nam mới trong giai đoạn đẩy mạnh sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần thực hiện đồng bộ các vấn đề cơ

bản sau:

Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh

tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển

của nền văn minh nhân loại, nó tồn tại khách quan trong quá trình xây dựng

chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, kinh tế thị trường phải có sự quản lý của Nhà

nước. Thực chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là

một kiểu tổ chức vừa dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường,

vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn

chứng minh, những chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong gần 20

năm đổi mới vừa qua đã tạo nên động lực kinh tế giải phóng sức sản xuất,

trực tiếp thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng

con người Việt Nam mới.

Hai là, ổn định chính trị và mở rộng dân chủ. Bất kỳ một quốc gia dân

tộc nào, dù ở chế độ chính trị nào cũng cần có sự ổn định chính trị - xã hội.

Bởi vì, đó là tiền đề để phát triển và tiến bộ xã hội. Ổn định chính trị, trước

hết thể hiện sự ổn định hệ thống chính trị, cơ cấu hợp lý và thể chế chính trị

hoàn chỉnh. Ở Việt Nam, khi bước vào công cuộc đổi mới, vấn đề quan trọng

được đặt ra giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là phải có sự kết hợp

ngay từ đầu, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, và từng bước đổi mới chính

trị, nhằm làm cho hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng là quá trình củng cố và phát

triển hệ thống chính trị từ nền tảng kinh tế của nó. Mục tiêu đổi mới hệ thống

16

chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ

quyền làm chủ của nhân dân.

Ba là, nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục. Ngày nay, cùng với

việc đổi mới công nghệ, phải chú ý đổi mới công tác giáo dục, với phương

châm: "Giáo dục cái mà đất nước cần, chứ không phải giáo dục cái mà ta có".

Mặc khác, giáo dục toàn diện: giáo dục chính trị, giáo dục lao động nghề

nghiệp, giáo dục đạo đức, phải sử dụng nhiều hình thức giáo dục đào tạo đa

dạng phong phú, tạo điều kiện cho con người tự giác, tự giáo dục, chủ động

sáng tạo. Đầu tư cho giáo dục được coi là đầu tư cơ bản, đầu tư cho tái sản

xuất sức lao động, đầu tư cho tương lai Không phải ngẫu nhiên mà ở nhiều

nước trên thế giới, trong kế hoạch phát triển đất nước, các quốc gia này đều

đặt giáo vào hệ thống ba chiến lược: giáo dục khoa học và mở cửa.

Có thể nói, ngày nay, sự lạc hậu về giáo dục sẽ phải trả giá đắt trong

cuộc chạy đua ở thế kỷ XXI mà thực chất là chạy đua về trí tuệ và phát triển

giáo dục trong cách mạng khoa học và công nghệ.

Bốn là, mở rộng giao lực quốc tế, Để tạo điều kiện cho con người Việt

Nam sáng tạo tránh được những sai lầm quanh co, để đưa đất nước đi lên tiến

kịp trên con đường tiến hoá của nhân loại đòi hỏi phải kết hợp việc tổng kết

kinh nghiệm trong nước và kinh nghiệm của thế giới. Không chỉ tìm phương

thức, hình thức xây dựng chủ nghĩa xã hội nội bộ nước mình, dân tộc mình,

các nước xã hội chủ nghĩa mà còn tìm ngay trong các nước tư bản chủ nghĩa.

Tiếp thu có phê phán chọn lọc những giá trị phong phú của loài người sẽ tạo

thành một động lực mạnh mẽ để hình thành từng bước một chủ thể mới của

lịch sử - con người Việt Nam mới vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa

đại biểu cho sự phát triển của dân tộc. Và chắc chắn rằng "Thế kỷ XXI sẽ là

thế kỷ nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp

xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng với

các nước phát triển trên thế giới".

17

KẾT LUẬN

Ngày nay, với cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại, đã dần dần

đi đến khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự

phát triển. Trong sự phát triển con người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của trí

tuệ và đi liền với nó là vai trò của giáo dục đào tạo nguồn lực con người.

Đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta phải coi nhân tố con người là

nhân tố quyết định, từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn

nhân lực có đủ trí tuệ và nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn

thấm đượm sâu bản sắc dân tộc, khoa học và ý chí, thực hiện sự chuyển mình

từ một xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp theo định hướng xã hội

chủ nghĩa. Các cuộc đại thắng của dân đã đi vào lịch sử suy cho cùng là thắng

lợi của chính con người Việt Nam. Bài học đó còn nguyên giá trị cho tới ngày

nay. Với chiến lược giáo dục đào tạo đúng đắn và khoa học của Đảng, với trí

tuệ và phẩm chất của con người Việt Nam, chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Với kiến thức và sự cố gắng, em đã hoàn thành bài tiểu luận song

không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được lời nhận xét và

đánh giá của thầy để em rút kinh nghiệm trong những bài sau.

Em xin chân thành cảm ơn!

18

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Minh Hạc, nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, 2001.

2. Nghiêm Đình Vỳ (chủ biên), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài, Nxb

Chính trị quốc gia, 2002.

3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc, Nxb Chính

trị quốc gia, 2001.

4. Ngô Đình Giao (chủ biên), Suy nghĩ về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở

nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, 1996.

5. Nguồn chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010, Khoa giáo Trung

ương, Hà Nội, 2000.

6. Dự thảo tầm nhìn Việt Nam 2020, Bộ khoa học công nghệ và môi trường,

2001.

7. Phạm Minh Hạc, Tổng kết mười năm (1990 - 2000) xoá mù chữ và phổ cập

giáo dục tiểu học, Nxb Chính trị quốc gia, 2000.

19