Tìm vốn cho doanh nghiệp (P.2)
Ngoài vốn vay ngân hàng, doanh nghiệp có thể tìm vốn qua hình thức phát
hành cổ phiếu, trái phiếu, mua chịu hàng hóa, đi thuê tài chính hay liên doanh liên
kết.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 97% tổng số doanh nghiệp tại Việt
Nam, đóng góp hơn 40% tổng sản phẩm quốc nội, nhưng lại gặp nhiều khó khăn
trong việc tiếp cận các kênh huy động vốn chính thức, do quy mô nhỏ, uy tín chưa
cao. Tuy nhiên, nếu biết gõ đúng cửa, doanh nghiệp vẫn có cách để gỡ bài toán
vốn.
Phát hành cổ phiếu
Thị trường chứng khoán được xem là kênh huy động vốn quan trọng của
các doanh nghiệp. Chỉ trong 5 tháng đầu năm 2010, theo thống kê của Công ty
Truyền thông Tài chính Stox Plus, đã có 38,5% doanh nghiệp niêm yết công bố kế
hoạch phát hành cổ phiếu, dự kiến sẽ huy động được 32.000 tỉ đồng.
Tuy nhiên, việc phát hành cổ phiếu ồ ạt đã khiến thị trường chứng khoán bị
bội thực nguồn cung. Vì thế, kênh huy động này đã thực sự không còn thu hút
trong thời gian gần đây. Mặc dù vậy, với đặc điểm vừa có thể gọi vốn từ cổ đông
vừa có thể chào bán riêng lẻ cho đối tác, công nhân viên chức, việc phát hành cổ
phiếu vẫn được nhiều doanh nghiệp ưa chuộng.
Phát hành trái phiếu
Trong 6 tháng đầu năm 2010, thị trường đã chứng kiến các đợt phát hành
trái phiếu thành công của nhiều doanh nghiệp như Công ty Cổ phần Long Hậu,
Công ty Cổ phần Vincom, Tập đoàn Sông Đà, Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
Điều này đã cho thấy sức hấp dẫn của kênh phát hành trái phiếu. Bởi lẽ,
doanh nghiệp có thể tránh bị pha loãng cổ phiếu, được hưởng ưu đãi thuế đối với
vốn vay và giảm chi phí sử dụng vốn. Đặc biệt, nếu phát hành trái phiếu chuyển
đổi, doanh nghiệp chỉ phải trả mức lãi suất rất thấp, thậm chí không phải trả lãi
(như đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai và Tập
đoàn Hòa Phát vào cuối năm 2009).
Để đảm bảo cho sự thành công của đợt phát hành, ông Mạc Quang Huy,
phụ trách quản lý tài sản và vốn của Ngân hàng Đầu tư Nomura Australia, cho
rằng, doanh nghiệp phải minh bạch và uy tín. Bởi thế, trong số các doanh nghiệp
đã phát hành thành công trái phiếu, có thể thấy đó hoặc là tập đoàn lớn thuộc sở
hữu nhà nước hoặc là các công ty niêm yết và có những dự án hấp dẫn.
Trong khi đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại yếu về năng lực quản lý,
công nghệ lạc hậu, thiếu nhân lực, vốn ít, lại bị hạn chế trong việc lập dự án,
phương án sản xuất, hệ thống sổ sách kế toán thiếu minh bạch. Vì thế, cơ hội tiếp
cận kênh huy động vốn này không cao.
Đi thuê tài chính
Đi thuê tài chính là hoạt động đi vay thông qua việc thuê mướn máy móc,
thiết bị, phương tiện và các tài sản khác nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh. Ở Mỹ,
cứ 10 doanh nghiệp thì có đến 8 thuê tài chính vì tính linh hoạt và tiện lợi của hình
thức này.
Khi thuê mướn tài sản, doanh nghiệp tránh được rủi ro do tài sản mất giá.
Ngoài ra, khi có nhu cầu thay đổi hoặc nâng cấp tài sản, doanh nghiệp có thể tùy
cơ ứng biến bằng cách thuê bổ sung hoặc ngừng thuê. Doanh nghiệp chỉ trả chi phí
cho thời gian sử dụng thiết bị thay vì phải chi trả toàn bộ giá trị thiết bị. Vì thế,
việc đi thuê tài chính cho phép doanh nghiệp linh hoạt về vốn, thanh toán, tận
dụng được cơ hội kinh doanh và không làm ảnh hưởng tới hạn mức tín dụng của
doanh nghiệp khi đi vay ngân hàng. Doanh nghiệp cũng hưởng được một khoản
lợi về thuế so với việc sở hữu tài sản…
Tuy nhiên, ở Việt Nam hình thức này lại chưa phổ biến. Nguyên nhân là
giá cho thuê tài chính (phí khấu hao tài sản, phí bảo hiểm...) còn cao. Ngoài ra,
hành lang pháp lý về cho thuê tài chính vẫn chưa hoàn thiện.
Mua chịu hàng hóa
Đây là hình thức chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp với nhau thông
qua việc mua chịu hàng hóa và trả chậm. Việc chiếm dụng này có thể phải trả phí
(lãi, chiết khấu) hoặc không tùy vào mối quan hệ giữa các bên. Tuy nhiên, khi tận
dụng được nguồn vốn này, thay vì ngay lập tức phải thanh toán đủ số tiền mua
nguyên vật liệu, hàng hóa, doanh nghiệp chỉ cần trả trước một phần. Như vậy,
hình thức này cho phép doanh nghiệp sử dụng quỹ tiền mặt của mình cho những
mục đích khác hoặc có thể có nguyên vật liệu kịp thời để phục vụ sản xuất kinh
doanh, dù lúc đó chưa đủ vốn.
Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể chiếm dụng quá lâu một khoản nợ nào
đó vì như thế sẽ làm ảnh hưởng đến uy tín doanh nghiệp hoặc có thể bị kiện tụng.
Vốn chiếm dụng cũng chỉ mang tính tạm thời, giữa các doanh nghiệp quen biết, có
sự tín nhiệm lẫn nhau. Và quy mô tín dụng của hình thức này cũng giới hạn trong
khả năng vốn hàng hóa mà đối tác có.
Liên doanh liên kết
Doanh nghiệp cũng có thể gọi vốn qua liên doanh liên kết. Đây là hình thức
huy động hiệu quả và phù hợp với mọi doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo quan sát của
ông Lê Thẩm Dương, Trưởng khoa Quản trị Kinh doanh, Đại học Ngân hàng
TP.HCM, hình thức này chưa thành công tại Việt Nam. Lý do là mối liên kết giữa
các doanh nghiệp thường lỏng lẻo. Dù cùng ngành nghề, cùng tham gia các hiệp
hội, nhưng sự hỗ trợ, hợp tác giữa các thành viên vẫn rất hạn chế.
Vốn vay ngân hàng
Theo số liệu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, có đến
74,47% doanh nghiệp chọn hình thức vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên, không phải
doanh nghiệp nào cũng có thể tiếp cận nguồn vốn này.
Để vay được vốn ngân hàng, doanh nghiệp phải tạo được lòng tin nơi tổ
chức tín dụng. Muốn vậy, theo ông Dương, Đại học Ngân hàng TP.HCM, doanh
nghiệp phải đạt được 7 tiêu chuẩn. Đó là tính pháp lý của doanh nghiệp; uy tín của
doanh nghiệp thể hiện qua lịch sử vay nợ, danh tiếng và kết quả phỏng vấn có
được; mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp; tính khả thi của dự án; môi trường
kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp có phương án tài chính nào
khác để chắc chắn về khả năng trả nợ? Tài sản nào sẽ được doanh nghiệp dùng để
làm đảm bảo? Rõ ràng, không dễ dàng gì để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể
đáp ứng được các tiêu chí trên.
Đó là lý do vì sao chỉ 32% doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tiếp cận
được vốn ngân hàng. Và dù các ngân hàng đang cởi mở hơn cũng như tiến hành hạ
lãi suất cho vay, doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn khó tiếp cận được kênh vay vốn
này.
Quế Lâm (Theo Nhipcaudautu)