VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Thị Hƣơng

ẨN DỤ Ý NIỆM CỦA PHẠM TRÙ ĂN UỐNG TRONG TIẾNG ANH (ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT)

Chuyên ngành:Ngôn ngữ học so sánh, đối chiếu Mã số: 62.22.02.41

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI – 2017

Công trình đƣợc hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội – Viện hàn lâm KHXH Việt Nam Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Văn Hiệp

Phản biện 1: GS.TS. ĐỖ VIỆT HÙNG

Phản biện 2: GS.TS. NGUYỄN QUANG

Phản biện 3: PGS.TS. PHẠM VĂN TÌNH

Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận án cấp Học viện họp tại

……………………………………………………………………………….

.........................................................................................................................

vào hồi……….giờ….…phút, ngày………tháng……….năm …………

Có thể tìm hiểu luận án tại thƣ viện:

1. Thƣ viện Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam. 2. Thƣ viện Quốc gia Việt Nam.

DANH SÁCH CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. Ý niệm “ăn”và sự ánh xạ sang các miền ý niệm khác trong tiếng Anh (so sánh

với tiếng Việt), Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thƣ, số 5 (37) tháng 9/2015.

2. Sự chuyển di ý niệm “ăn” sang các miền ý niệm khác trong tiếng Anh (so sánh

với tiếng Việt), Tạp chí Ngôn ngữ, Số 3 (322) tháng 3/2016.

3. So sánh nghĩa của từ eat trong tiếng Anh và từ ăn trong tiếng Việt xét từ góc

độ ngữ nghĩa, Tạp chí Ngôn ngữ số 8 (327) tháng 8/2016.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Từ cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, xu thế nghiên cứu ngôn ngữ đã chuyển dần từ nghiên cứu ngữ

liệu quan sát trực tiếp, hƣớng đến các mô hình biểu diễn qui tắc ngôn ngữ, sang nghiên cứu những vấn đề

không thể quan sát đƣợc của con ngƣời nhƣ tri thức, ý thức, ý niệm, văn hóa, v.v..

Ở Việt Nam, các nghiên cứu về ăn uống thƣờng đƣợc tiến hành dƣới góc độ văn hóa. Tuy nhiên, trên

phƣơng diện ngôn ngữ, nhất là nghiên cứu đối chiếu hai ngôn ngữ Anh – Việt về ăn uống lại là vấn đề khá

mới mẻ, chƣa có nhiều nhà nghiên cứu đi sâu khai thác, đặc biệt hƣớng nghiên cứu từ góc nhìn của ngôn ngữ

học tri nhận thì chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách thấu đáo. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài

nghiên cứu “Ẩn dụ ý niệm của phạm trù ăn uống trong tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt)” với mong muốn

có những đóng góp mới và tích cực cho lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ liên văn hóa.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích

- Dƣới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, chúng tôi hƣớng tới mục đích tìm hiểu sự tỏa tia ý niệm và

cơ sở nghiệm thân của các từ chỉ ý niệm ăn uống trong tiếng Anh trong sự đối chiếu với tiếng Việt.

- Phân tích, làm rõ ý niệm ăn uống ở hai ngôn ngữ trên từ góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, từ đó khái

quát sự tƣơng đồng và khác biệt trong ý niệm về ăn uống giữa hai nền văn hóa.

2.2. Nhiệm vụ

Để đạt đƣợc những mục đích trên, luận án dự kiến sẽ hoàn thành một số nhiệm vụ chính nhƣ sau:

- Tập hợp có lựa chọn các tài liệu làm cơ sở lý luận cho luận án, tổng thuật tình hình nghiên cứu liên quan

đến đối tƣợng khảo sát.

- Khảo sát các từ chỉ ý niệm ăn uống trong ngôn ngữ tự nhiên cũng nhƣ trong văn học, các ấn phẩm báo

chí..v..v.. của tiếng Anh và tiếng Việt. Trên cơ sở đó tìm hiểu tình hình chuyển di ý niệm và sự hoạt động của

các nghĩa chuyển trong ngữ cảnh.

- Tìm hiểu tình hình chuyển di ý niệm và tìm ra mô hình tri nhận của ẩn dụ ý niệm phạm trù ăn uống

trong tiếng Anh trong sự đối chiếu với tiếng Việt dựa trên quan điểm của John Newman (1997) về cách nhìn

nhận ăn uống từ hai góc độ: tác thể và bị thể.

- Xác định mô hình ẩn dụ ý niệm theo công thức A LÀ B, trong đó A là miền đích, B là miền nguồn

(trong tiếng Anh và tiếng Việt). Từ đó tìm ra điểm tƣơng đồng và dị biệt trong ý niệm về ăn uống trong ngôn

ngữ, văn hóa Anh – Việt và giải thích đƣợc sự tƣơng đồng và dị biệt đó từ góc độ tri nhận.

3. Đối tƣợng, phạm vi và tƣ liệu nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu là sự chuyển di ý niệm của các từ chỉ ý niệm ăn uống trong tiếng Anh trong sự

đối chiếu với tiếng Việt và các mô hình ánh xạ từ miền ý niệm ăn uống sang các miền ý niệm khác. Chúng

tôi tập trung nghiên cứu ý niệm ăn uống nói chung chứ không chỉ nghiên cứu hai động từ ăn và uống.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Chúng tôi chủ yếu tiến hành khảo sát hoạt động của các từ chỉ ý niệm ăn uống trong ngôn ngữ tự

nhiên, các tác phẩm văn học, thành ngữ (trong tiếng Anh) và trong kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ

(trong tiếng Việt). Ngoài ra, một nguồn ngữ liệu quan trọng của luận án là ngôn ngữ báo chí (báo in và báo

điện tử).

1

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án

Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, căn cứ vào ngữ liệu thực tế, chúng tôi sẽ chủ yếu áp dụng một số

phƣơng pháp nghiên cứu sau:

- Phƣơng pháp thống kê, phân loại: phƣơng pháp này giúp chúng tôi tập hợp và phân loại các ẩn dụ ý

niệm của phạm trù ăn uống từ nguồn biểu thức ngôn ngữ trong tiếng Anh và tiếng Việt; khảo sát văn bản,

xây dựng ngữ liệu làm cơ sở thực tiễn để áp dụng khung lí thuyết.

- Phƣơng pháp phân tích ý niệm: chúng tôi tiến hành phân tích các biểu thức ngôn ngữ gắn với ngữ

cảnh cụ thể, hƣớng đến tìm hiểu các đặc trƣng văn hóa tƣ duy ẩn sau chúng.

- Phƣơng pháp so sánh đối chiếu: đây là phƣơng pháp hỗ trợ giúp chúng tôi đối chiếu sự chuyển di ý

niệm từ phạm trù ăn uống sang các phạm trù đối tƣợng khác trong tiếng Anh và tiếng Việt, từ đó tìm ra

những nét tƣơng đồng và dị biệt về mặt tƣ duy, văn hóa dân tộc giữa hai cộng đồng ngƣời Việt và ngƣời nói

tiếng Anh.

- Các hƣớng tiếp cận liên ngành: kết hợp tri thức của các ngành khoa học khác với tri thức ngành

ngôn ngữ học để tìm hiểu thấu đáo hơn về đặc trƣng văn hóa – tƣ duy dân tộc.

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án

- Luận án là một trong số lƣợng không nhiều những công trình nghiên cứu chuyên sâu tiến hành

nghiên cứu tính hệ thống của ẩn dụ tri nhận trong hai ngôn ngữ Anh – Việt về phạm trù ăn uống. Dó đó việc

đi sâu khảo sát các ẩn dụ ý niệm của phạm trù ăn uống trong tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt) có thể đƣợc

xem là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về vấn đề này.

- Điểm mới của luận án là nghiên cứu phạm trù ăn uống với sự tập trung vào ý niệm ăn uống nhìn từ

2 góc độ: tác thể - tức nhấn mạnh vai trò của đối tƣợng thực hiện hành động ăn uống và bị thể - tức nhấn

mạnh vai trò của đồ ăn/thức uống đƣợc tiêu hóa, thay đổi hay tiêu biến trong quá trình ăn uống.

- Xây dựng nên các mô hình tri nhận của ngƣời nói tiếng Anh thông qua ngôn ngữ sử dụng trong sự

đối sánh với tiếng Việt với mục đích hƣớng đến là cung cấp tri thức mô tả chi tiết về những đặc điểm của ẩn

dụ ý niệm phạm trù ăn uống và những giá trị để khám phá mối quan hệ giữa ngôn ngữ - tƣ duy – văn hóa.

6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lí luận

- Việc áp dụng khung lí thuyết ngôn ngữ học tri nhận vào nghiên cứu phạm trù ăn uống sẽ giúp

nhằm tìm ra phƣơng thức tƣ duy và mô hình tri nhận của con ngƣời đƣợc phản ánh trong quá trình nhận thức

về thế giới và tiến hành cấu trúc hóa, ý niệm hóa chúng và biểu trƣng chúng qua biểu thức ngôn ngữ.

- Việc nghiên cứu phạm trù ăn uống trong sự đối chiếu Anh – Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận

là một hƣớng nghiên cứu thú vị, đặc sắc, có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu những đặc trƣng và bản

chất tƣ duy của ngƣời nói tiếng Anh và ngƣời Việt trong quá trình nhận thức thế giới.

- Hƣớng nghiên cứu này đi sâu vào tìm hiểu cơ chế ánh xạ ẩn dụ sẽ góp phần quan trọng vào việc

nghiên cứu ngữ nghĩa của một ngôn ngữ trong sự đối sánh với một ngôn ngữ khác, làm phong phú thêm các

luận đề của ngôn ngữ học tri nhận. Đồng thời, luận án sẽ góp thêm một số quan điểm và nhận thức lí luận

cho việc nghiên cứu đặc trƣng tƣ duy dân tộc, góp phần nghiên cứu về khoa học tri nhận.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Thông qua phân tích tri nhận các miền nguồn cũng nhƣ mô hình ánh xạ của chúng trong sử dụng

thực tế trong sự đối sánh giữa hai ngôn ngữ Anh – Việt, chúng tôi hy vọng luận án sẽ mang lại những kết quả

có khả năng ứng dụng trong thực tế dạy và học ngôn ngữ ở Việt Nam.

7. Cơ cấu của luận án

2

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án đƣợc tổ chức thành 3 chƣơng nhƣ sau:

Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận.

Chƣơng 2: Vấn đề ăn uống và cơ chế chuyển di của ý niệm ăn uống trong tiếng Anh và tiếng Việt

Chƣơng 3: Hệ thống ẩn dụ ý niệm của phạm trù ăn uống trong tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt).

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về ý niệm ăn uống trong ngôn ngữ ở nước ngoài

Từ góc độ ngôn ngữ học, phạm trù ăn uống đã đƣợc các nhà nghiên cứu tiếp cận theo nhiều hƣớng

khác nhau. Nhìn chung, các nghiên cứu đã đƣợc thực hiện với các quan điểm chính là: ngữ pháp chức năng,

cú pháp – ngữ nghĩa, từ vựng – ngữ nghĩa, ý niệm – từ vựng, ngữ nghĩa - tri nhận.

Theo quan điểm ngữ pháp chức năng, tác giả Sally Rice [125], trong nghiên cứu của mình đã tìm

hiểu cấu trúc của các động từ chỉ ăn uống trong ngôn ngữ Athapaskan (thuộc ngữ hệ chiếm phần đa ở khu

vực Bắc Mỹ). Theo tác giả, mỗi ngôn ngữ trong ngữ hệ này đều kiến tạo nên một tập hợp các gốc động từ có

tính phân loại mà về mặt ngữ nghĩa chúng ít tập trung vào việc đánh dấu quan hệ kết cấu chủ vị mà chú trọng

hơn vào một số thuộc tính nổi bật của tham thể.

Tiếp cận từ góc độ cú pháp - ngữ nghĩa, tác giả Jae Jung Song đã đƣa ra những kết quả nghiên cứu

về từ moekta (to eat = ăn) và từ masita (to drink = uống) trong tiếng Hàn trong [128]. Tác giả đã nghiên cứu

đặc điểm cú pháp, ngữ nghĩa của hai động từ này, chỉ ra những điểm tƣơng đồng và dị biệt trong nghĩa sở chỉ

và sở biểu của chúng.

Từ góc độ từ vựng – ngữ nghĩa, Alexandra Y. A (2009) đã thực hiện một nghiên cứu trong ngôn ngữ

Manambu (thuộc nhóm ngữ hệ Ndu, khu vực Sepik, New Guinea). Kết quả đƣợc trình bày trong bài viết

[77]. Theo kết quả của nghiên cứu này thì tiếng Manambu có duy nhất một động từ dùng chung chỉ khái

niệm ăn, uống, hút thuốc và cho con bú (breast-feeding). Việc sử dụng cùng một dạng thức miêu tả tất cả các

quá trình ăn uống là một đặc điểm tƣơng đồng của ngôn ngữ Manambu và nhiều ngôn ngữ khác ở New

Guinea.

Tiếp cận theo hƣớng ngữ nghĩa – tri nhận, nhóm tác giả Zahra Khajeh, Imran Ho-Abdullah và Tan

Kim Hua (2013) tại trƣờng Đại học Kebangsaan (Malaysia) đã có một nghiên cứu đối chiếu xuyên ngôn giữa

động từ xordan (ăn) trong tiếng Ba Tƣ (nay gọi là Iran) với từ “eat” (ăn) trong tiếng Anh áp dụng khung lí

thuyết về ẩn dụ ý niệm của Lakoff và Johnson (1980). Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tiếng Ba Tƣ chứa

đựng cấu trúc ngữ nghĩa – cú pháp khá cụ thể xét từ phạm trù xuyên tâm tri nhận với trƣờng hợp cụ thể là

động từ xordan. Các biểu thức ẩn dụ của động từ xordan xuất hiện khá nhiều với hình thức chuyển nghĩa đa

dạng biểu thị cách thức tƣ duy riêng có của dân tộc Ba Tƣ.

Với cách tiếp cận từ hai hƣớng khác nhau là (1) từ góc nhìn tri nhận và (2) từ góc nhìn từ vựng học,

nhóm tác giả Peter E. Hook và Prashant Pardeshi đã tiến hành nghiên cứu hệ ngôn ngữ Indo-Aryan với hai

ngôn ngữ đại diện là tiếng Hindi-Urdu và tiếng Marathi. Kết quả đƣợc trình bày trong bài viết [98]. Các tác

giả đã chứng minh rằng ý niệm ăn uống trong những ngôn ngữ này có thể đƣợc mở rộng sang diễn đạt những

sự tình, trạng thái và trải nghiệm trừu tƣợng.

Cũng từ góc độ tri nhận, tác giả Toshiko Yamaguchi (2009), trong [138] đã trình bày kết quả nghiên

cứu của mình về về nghĩa đen và nghĩa bóng trong cách sử dụng các động từ chỉ ăn/uống trong tiếng Nhật.

3

Với nghiên cứu này tác giả khẳng định các yếu tố nhƣ ánh xạ ý niệm phổ quát, định hƣớng văn hóa có vai

trò quan trọng trong việc hình thành nên sự mở rộng nghĩa ẩn dụ.

Cùng hƣớng với Toshiko Yamaguchi [138], Philip J. Jaggar và Malami Buba trong bài [100] đã trình

bày những kết quả nghiên cứu tiếng Hausa, với đối tƣợng nghiên cứu chính là sự chuyển nghĩa ẩn dụ của từ

ci (to eat = ăn) và từ shaa (to drink = uống) sang miền nghĩa mới. Cụ thể là từ ci (ăn) đƣợc mã hóa thành

nghĩa vượt qua/kiểm soát (overcome/control) một bị thể bởi một tác thể nào đó có chức năng làm chủ ngữ.

Nghĩa của từ shaa (to drink = uống) thƣờng đƣợc chuyển di thành trải qua/chịu đựng (undergo).

Trong tuyển tập [119], tác giả Newman (2009) đã có một hợp các bài viết của nhiều tác giả về vấn

đề ăn uống, đặc biệt là các vị từ mang ý niệm ăn uống. Những bài viết này tập trung thảo luận những vấn đề

liên quan đến cấu tạo và chức năng của các vị từ có nghĩa ăn/uống trong các ngôn ngữ riêng biệt cũng nhƣ

trong phổ quát ngôn ngữ nói chung. Cũng nhƣ nhiều hoạt động khác trong đời sống hàng ngày của con

ngƣời, ăn và uống đóng một vai trò cơ bản, nền tảng và là phổ quát toàn nhân loại. Những thuộc tính ngữ

nghĩa điển hình của ăn và uống kể cả khi chúng đƣợc sử dụng với nghĩa đen, vẫn có thể phản ảnh bản chất

đa diện của hoạt động ấy.

Với tình hình nghiên cứu phạm trù ăn uống trong ngôn ngữ học thế giới nói trên có thể khẳng định

rằng vấn đề ăn uống đã giành đƣợc nhiều sự quan tâm của các nhà ngôn ngữ học.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ý niệm ăn uống trong ngôn ngữ ở Việt Nam

Từ góc độ ngôn ngữ, những nghiên cứu về ý niệm ăn uống mới đƣợc quan tâm trong thời gian gần

đây. Công trình đầu tiên phải kể đến là bài viết Câu chuyện tiếp tục về nghĩa của những từ đơn tiết của

Hoàng Tuệ (1973) trong [71]. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích tính đa nghĩa của từ ăn đồng thời chỉ ra

gần 40 nghĩa của từ này. Theo tác giả thì từ ăn có thể đƣợc phân tích theo 4 dòng ngữ nghĩa cơ bản nhƣ sau:

(i) dòng nghĩa tiếp thu; (ii) dòng nghĩa hƣởng thụ; (iii) dòng nghĩa hài hòa; (iv) dòng nghĩa tiêu hao.

Tác giả Nguyễn Thị Kim Hoàng trong [121] đã tiến hành so sánh, đối chiếu việc sử dụng động từ

EAT và DRINK trong tiếng Anh và động từ ĂN và UỐNG trong tiếng Việt, đồng thời chỉ ra đƣợc điểm

tƣơng đồng và khác biệt trong thực tế sử dụng. Tuy nhiên, nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở dạng liệt kê cách

cấu trúc ẩn dụ, so sánh số lƣợng chứ chƣa có những lí giải thấu đáo từ góc nhìn tri nhận, chƣa có những kiến

giải, so sánh về văn hóa, tƣ duy dân tộc.

Từ góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, tác giả Đinh Phƣơng Thảo [58] và tác giả Hà Thị Bình Chi

[5] đã thống kê phân loại các đơn vị của trƣờng từ vựng “thức ăn” và “đồ uống” trong tiếng Việt, nghiên cứu

sự hoạt động của chúng trong ngôn ngữ.

Công bố gần đây nhất phải kể đến luận án của tác giả Nguyễn Thị Bích Hợp [31]. Trong luận án, tác

giả đã nghiên cứu khá sâu và tỉ mỉ về miền ý niệm đồ ăn từ góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận. Tác giả kết

luận rằng thông qua các điển mẫu, sự vận động ý niệm “đồ ăn” đƣợc định hình, các thành tố nghĩa mới có sự

biến chuyển xa dần nghĩa trung tâm, chuyển nghĩa theo kiểu hoán dụ hoặc chuyển miền ý niệm tạo thành ẩn

dụ.

Có thể khẳng định rằng việc nghiên cứu phạm trù ăn uống với sự nhấn mạnh đặc biệt vào ý niệm ăn

uống trong tiếng Anh và tiếng Việt hầu nhƣ chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách thấu đáo và có hệ

thống. Vì vậy, luận án trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu hiện có, tiến hành thống kê, phân tích,

đối chiếu cách sử dụng các từ chỉ ý niệm ăn uống trong hai ngôn ngữ, đặc biệt là tình hình chuyển di ý niệm

từ miền ý niệm ăn uống sang các miền ý niệm khác.

1.2 Ngôn ngữ học tri nhận và một số khái niệm liên quan

1.2.1. Khái lược về ngôn ngữ học tri nhận

4

Hiện nay, “tri nhận” là một từ đƣợc sử dụng với tần suất khá nhiều trong các nghiên cứu ngôn ngữ. “Tri nhận” trong ngôn ngữ học, theo Triệu Diễm Phƣơng [52], chỉ giới hạn ở những tri nhận có liên quan đến việc học và vận dụng ngôn ngữ của con ngƣời chứ không phải là sự tri nhận hiểu theo nghĩa truyền

thống là việc nắm vững các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ.

NNHTN nghiên cứu sự ảnh hƣởng của các cách thức tri giác về thế giới, kinh nghiệm của con ngƣời

lên việc sử dụng ngôn ngữ của họ, đặc biệt là trong điều kiện cùng phù hợp với các qui phạm ngôn ngữ thì

việc làm thể nào để lựa chọn các từ, các câu khác nhau để biểu đạt các ý nghĩa khách quan lại là điều nhận

đƣợc sự quan tâm đặc biệt của NNHTN.

Tóm lại, NNHTN coi ngôn ngữ là một hoạt động tri nhận với xuất phát điểm là tri nhận để từ đó

nghiên cứu hình thức, ý nghĩa của ngôn ngữ cũng nhƣ qui luật của nó.

1.2.2. Lý thuyết phạm trù và phạm trù tỏa tia

1.2.2.1. Phạm trù và phạm trù hóa

Trong ngôn ngữ học tri nhận, phạm trù là một trong những hình thái nhận thức của tƣ duy con ngƣời,

cho phép khái quát hóa kinh nghiệm để phân loại các sự vật hiện tƣợng trong thế giới khách quan. Điều này

có nghĩa là một phạm trù phải đƣợc dựa trên nhƣng gì mà con ngƣời tri giác và trải nghiệm về sự vật hiện

tƣợng đó chứ không phải chính bản thân nó.

Sơ đồ sau đây chỉ ra khái niệm về quá trình phạm trù hóa theo quan điểm kinh nghiệm luận

(experientialism).

Ý niệm tri nhận

TƢ DUY

Lƣợc đồ hình ảnh

Năng lực cảm tri

CƠ THỂ

Trải nghiệm thân thể Thực thể trong thế giới thực

THẾ GIỚI

Sơ đồ số 1: Quá trình phạm trù hóa theo quan điểm kinh nghiệm luận

Sơ đồ trên cho thấy, phạm trù (categories) không trực tiếp kết nối với thế giới thực (real world) mà

trải nghiệm thế giới thông qua những trải nghiệm cơ thể nhờ năng lực cảm tri của con ngƣời. Chính kinh

nghiệm nghiệm thân của con ngƣời giúp hình thành lƣợc đồ hình ảnh bên trong một hệ thống ý niệm.

1.2.2.2. Phạm trù tỏa tia

Khái niệm lan tỏa hay tỏa tia (radiality) là một khái niệm trọng tâm của ngôn ngữ học tri nhận đƣợc

David Lee (2001) và Evan & Green (2006) đề cập tới trong [90] và [110]. Theo đó, hình thức thể hiện của

phạm trù lan tỏa là các lƣới xuyên tâm (radial network). Các lƣới xuyên tâm này đƣợc cấu thành từ một

thành viên trung tâm mang nghĩa trung tâm, gọi là điển mẫu (prototype), xung quanh là các thành viên phụ

(phạm trù bậc dƣới) với nghĩa chuyển . Phạm trù tỏa tia đƣợc Evan & Green (2006) mô hình hóa duới dạng

lƣới nhƣ trong sơ đồ số 2 dƣới đây.

5

Trong sơ đồ lan tỏa này, mỗi nghĩa đặc trƣng đều đƣợc minh họa bằng một điểm mốc thể hiện bởi

một chấm tròn. Các mũi tên có vai trò liên kết các điểm mốc thể hiện mối liên hệ gần hay xa giữa các nghĩa

thành viên.

Sơ đồ số 2: Sơ đồ mô hình hóa phạm trù tỏa tia

1.2.3. Ý niệm và ý niệm hóa Ý niệm (concept) đƣợc tƣờng giải trong cuốn “Từ điển tâm lý học Oxford” nhƣ sau: “Ý niệm là một

biểu hiện tinh thần, một ý tưởng, hay một tư tưởng tương ứng với một thực thể riêng biệt hay một lớp các

thực thể, hoặc đó là việc định nghĩa hay là những thuộc tính điển dạng của thực thể hay lớp các thực thể đó,

vốn có thể là cụ thể hay trừu tượng”. Tác giả cuốn từ điển này cũng giải thích “ý niệm hóa” là một quá trình

mà trong đó có một ý niệm đƣợc thụ đắc hay đƣợc học hỏi, thƣờng là nhờ vào các thí dụ của thực thể thuộc

về phạm trù và của các thực thể không thuộc về phạm trù đó. Nói chung, nó bao gồm sự học hỏi để phân biệt

và nhận biết những thuộc tính cần chủ yếu mà theo đó các thực thể đƣợc phân loại cũng nhƣ các qui tắc chế

ƣớc sự kết hợp các thuộc tính cần yếu vẫn có thể tách biệt nhau.

1.2.4. Lược đồ và điển dạng

Langacker (1993) chỉ ra rằng cả lƣợc đồ và điển dạng đều là những yếu tố “vốn có” của cấu trúc

phạm trù. Chúng là những biểu hiện khác nhau của cùng một hiện tƣợng nhất quán và mạch lạc. Mặt khác

ông cũng chỉ ra ràng sự mở rộng của phạm trù sẽ xuất hiện khi ta tiến hành phạm trù hóa một trải nghiệm

mới mà trải nghiệm này lại hơi khác biệt so với những trải nghiệm trƣớc đó cùng một phạm trù. Quan điểm

này đƣợc minh họa qua sơ đồ sau:

SCHEMA (sơ đồ)

EXTENSION(sự mở rộng)

PROTOTYPE (điển dạng)

Sơ đồ số 3: Sơ đồ minh họa sự liên quan tương hỗ giữa điển dạng – hình ảnh – sự mở rộng nghĩa

(theo Langacker, 1993, tr.2)

1.2.5. Tính nghiệm thân

Nghiên cứu của khoa học tri nhận cho rằng các ý niệm của con ngƣời không chỉ là các phản ánh của

thực tại bên ngoài mà cơ bản hình thành từ thân thể và não bộ của chúng ta. Lakoff (1987) đã kế thừa những

6

thành quả đó hình thành nên khái niệm trải nghiệm luận và năm 1999 cho ra đời cuốn Philosophy in the

Flesh (triết lí về thân thể) [108]. Lakoff chỉ ra sự nghiệm thân bao gồm những trải nghiệm thực tế hoặc tiềm

tàng của cá thể hay cộng đồng ngƣời, sự tƣơng tác của cá thể với môi trƣờng vật lí và xã hội, bao gồm sự

cảm tri môi trƣờng, di chuyển cơ thể, phát ra lực và cảm thụ lực.

Ở nhiều nền văn hóa, rất nhiều trải nghiệm cơ bản của con ngƣời đƣợc tạo ra từ tập tục văn hóa bản

địa, do đó, có thể xem tính nghiệm thân của tâm trí đƣợc sản sinh từ mối tƣơng tác giữa con ngƣời với thế

giới khách quan và bị giới hạn trong bối cảnh văn hóa cộng đồng. Vì vậy, khi xem xét kinh nghiệm trải

nghiệm của con ngƣời là phải xem xét cả kinh nghiệm của cá thể và kinh nghiệm cộng đồng của ngƣời nói

cùng ngôn ngữ.

1.2.6. Thuyết ẩn dụ ý niệm

1.2.6.1. Sự ra đời của lí thuyết ẩn dụ ý niệm

Khái niệm ẩn dụ ý niệm (hay còn gọi là ẩn dụ tri nhận) đƣợc nhà ngôn ngữ học ngƣời Mỹ G. Lakoff

và nhà triết học ngƣời Anh M. Johnson đƣa ra năm 1980 khi hai ông cho ra đời cuốn sách Metaphor we live by

[105]. Quan điểm của hai ông cho rằng: ẩn dụ không chỉ là hình thức ngôn ngữ mà quan trọng hơn đó là hình

thức tri nhận phổ biến của nhân loại, là quá trình mà con ngƣời dựa vào một sự vật, một hiện tƣợng nào đó

để nhận thức, hiểu biết, suy nghĩ và diễn đạt một sự vật hay một hiện tƣợng khác.

1.2.6.2. Khái niệm về ẩn dụ ý niệm

Ẩn dụ ý niệm (hay còn gọi là ẩn dụ tri nhận – cognitive metaphor) “là một trong những hình thức ý

niệm hóa, một quá trình tri nhận có chức năng biểu hiện và hình thành những ý niệm mới và không có nó thì

không thể nhận được tri thức mới. Về nguồn gốc, ẩn dụ tri nhận đáp ứng năng lực của con người nắm bắt và

tạo ra sự giống nhau giữa những cá thể và những lớp đối tượng khác nhau” (Trần Văn Cơ [7], tr. 293).

1.2.7. Khái niệm miền, miền nguồn và miền đích

1.2.7.1. Khái niệm miền (domain)

Theo Langacker (1987), “miền là những thực thể tri nhận như trải nghiệm tinh thần, không gian trình hiện, ý niệm,

hoặc phức hợp ý niệm”. Nói cách khác, miền là những thực thể ý niệm của những phức hợp và tổ chức ở những mức độ đa

dạng khác nhau. Điều kiện tiên quyết để một cấu trúc tri thức đƣợc coi là một miền là cấu trúc tri thức đó phải có những

thông tin nền cho một nhóm từ vựng. Ví dụ; những biểu thức nhƣ : hot (nóng), cold (lạnh), lukewarm (âm ấm), warm (ấm

áp), cool (mát) là những đơn vị từ vựng thuộc miền TEMPERATURE (nhiệt độ). Nhƣng, nếu không có những phông kiến

thức về TEMPERATURE và những khái niệm liên quan, thì chúng ta sẽ không thể sử dụng đƣợc những thuật ngữ này.

1.2.7.2. Miền nguồn (source domain ) và miền đích (target domain)

Trong cuốn Metaphor – a practical introduction [104], Kovesces đã có một khảo sát về những miền nguồn

và miền đích chủ yếu trong ẩn dụ ý niệm. Theo đó, có 13 miền nguồn và 13 miền đích phổ biến. Những miền

nguồn này bao gồm các phẩm chất của sự vật nhƣ hình dạng, mầu sắc, kích cỡ, độ cứng, độ sắc, trọng lƣợng

v.v..Các miền đích có thể phân thành 3 nhóm chính là (1) tâm lý, trạng thái tinh thần, sự kiện (cảm xúc, tham

vọng, đạo đức, tƣ duy); (2) nhóm xã hội, quá trình xử lí (xã hội, chính trị, kinh tế, mối quan hệ con ngƣời,

giao tiếp); (3) trải nghiệm cá nhân (thời gian, cuộc đời, cái chết, tôn giáo).

1.3. Hành động ăn uống nhìn từ góc độ tác thể (agent-oriented) và bị thể (patient-oriented) theo quan

điểm của John Newman

John Newman (1997) đã có một nghiên cứu khá sâu về vấn đề ăn uống trong tiếng Anh dƣới góc nhìn

của ngôn ngữ học tri nhận, chủ yếu dựa trên quan điểm của Lakoff và Johnson (1980). Nghiên cứu đã đƣa ra

những ví dụ cụ thể đƣợc trích dẫn từ các tác phẩm văn học cổ điển đƣợc viết bằng tiếng Anh – Anh và tiếng

7

Anh – Mỹ. Theo đó tác giả chứng minh đƣợc rằng ý niệm ăn uống trong tiếng Anh (miền nguồn) đƣợc

phóng chiếu lên những miền ý niệm khác (miền đích). Tác giả nghiên cứu sự lan tỏa nghĩa của ý niệm ăn

uống nhìn từ hai góc độ: từ góc độ tác thể (agent-oriented) và từ góc độ bị thể (patient-oriented). Nhìn từ góc

độ tác thể, ý niệm ăn uống đƣợc phóng chiếu đến sáu miền ý niệm khác nhau là miền hô hấp (respiratory

domain), miền cảm xúc (emotional domain), miền tri thức (intellectual domain), miền trải nghiệm cuộc sống

(domain of life’s experiences) và miền sở hữu (possession domain). Sự mở rộng nghĩa của ý niệm ăn uống

theo hƣớng này nhấn mạnh vào tính “nội tại hóa” (internalization), nhất quán với vai trò của đối tƣợng tạo ra

hành động ăn uống ở miền nguồn. Nhìn từ góc độ bị thể, ý niệm ăn uống đƣợc mở rộng nghĩa với sự phóng

chiếu lên ba miền ý niệm khác là miền địa chất (geological domain), miền cảm xúc (emotional domain), và

miền tâm lí (psychological domain). Theo hƣớng này, phạm trù ăn uống lại miêu tả sự phá hủy (destruction)

nhất quán với những ảnh hƣởng của đồ ăn/đồ uống đƣợc nói đến trong miền nguồn.

Nhƣ vậy, miền ăn uống có thể tạo ra những hình ảnh trên hai phƣơng diện khá khác biệt, phụ thuộc

vào đối tƣợng nào đƣợc nhấn mạnh (tác thể hay bị thể) trong quá trình diễn ra hiện tƣợng ăn uống. Tác giả

khẳng định rằng miền ăn uống là một mảnh đất khá “mầu mỡ” cho những nghiên cứu sâu hơn.

Sự mở rộng nghĩa của những từ chỉ ý niệm ăn/uống dựa trên các nền tảng khác nhau là:

a) Dựa trên tính nội tại hóa, ăn/uống có thể mở rộng nghĩa tới các miền khác nhƣ: sự cảm nhận của tác

thể, sự hít thở không khí, sự thỏa mãn về mặt cảm xúc hoặc tri thức.

b) Dựa trên sự tiêu biến của thức ăn/thức uống, ăn/uống có thể mở rộng nghĩa sang sự phá hủy về mặt

thể chất, sự dằn vặt/giằng xé về tâm lý.

Luận điểm của John Newman đƣợc chúng tôi áp dụng nhƣ kim chỉ nam cho những nội dung nghiên

cứu chính của luận án, đƣợc trình bày trong các chƣơng tiếp theo.

*Tiểu kết chƣơng 1

Chƣơng 1 đã tổng hợp các nghiên cứu liên quan đến vấn đề ăn uống trong và ngoài nƣớc từ bình

diện ngôn ngữ. Vì ăn uống liên quan mật thiết đến văn hóa từng dân tộc nên việc dùng ngôn ngữ liên quan

đến phạm trù ăn uống lại càng phong phú, đa dạng, đặc thù riêng có theo vùng, miền, quốc gia. Tuy nhiên,

các nghiên cứu về vấn đề ăn uống còn khá mỏng, mang tính nhỏ lẻ. Đặc biệt là chƣa có nghiên cứu nào tiếp

cận nghiên cứu phạm trù này thực sự chuyên sâu đối chiếu hai ngôn ngữ Anh – Việt theo góc nhìn ngôn ngữ

học tri nhận.

Ngoài ra, quan điểm của các nhà khoa học tiên phong của ngành ngôn ngữ học tri nhận nhƣ G.

Lakoff & M. Johnson, R. Langacker, L. Talmy, Z. Kovesces, David Lee đã đƣợc chúng tôi nghiên cứu, phân

tích, so sánh để tìm ra những quan điểm phổ quát nhất của ngành ngôn ngữ học tri nhận, từ đó xây dựng nên

đƣờng hƣớng nghiên cứu, cho các chƣơng triển khai phía sau.

Đặc biệt, quan điểm nhìn nhận hành động ăn uống từ hai góc độ: tác thể và bị thể của John Newman

và nhữnng phân tích nhận định từ khoa học sinh lí đã đƣợc trinh bày cụ thể. Đây là luận điểm mấu chốt,

đƣợc chúng tôi áp dụng xuyên suốt trong các chƣơng sau của luận án.

CHƢƠNG 2. CƠ CHẾ CHUYỂN DI CỦA Ý NIỆM ĂN UỐNG TRONG TIẾNG ANH

(ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT)

2.1. Cơ chế sinh học của ăn và uống

Có thể tổng kết các quá trình bậc dƣới tạo nên hành động ăn uống hoàn chỉnh trong sơ đồ sau:

8

Phản xạ sinh học: cảm giác đói/khát

Tiếp thụ đồ ăn/thức uống (chất rắn/lỏng): qua miệng

Cách thức tiếp thụ: nhai, nhá, nghiền, nhào trộn, cắn, xé, gặm, nhấm trong khoang miệng

Chuyển đổi vị trí đồ ăn/thức uống: nuốt

Chuyển đổi trạng thái đồ ăn/thức uống: tiêu hóa

Tác động:

+ Tích cực (nuôi dƣỡng cơ thể) + Tiêu cực (bào mòn cơ thể, gây ngộ độc, suy kiệt)

Cảm giác (phản xạ của cơ thể)

+ Tích cực: ngon miệng, thỏa mãn + Tiêu cực: không ngon miệng, ngấy, ngán,

Sơ đồ số 4: Các quá trình tạo nên hành động ăn uống hoàn chỉnh

Sơ đồ số 5: Các quá trình tạo nên hành động ăn uống hoàn chỉnh

2.2. Nghĩa của từ eat (ăn) và từ drink (uống) trong tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt)

2.2.1. Nghĩa của từ eat trong tiếng Anh và ăn trong tiếng Việt

Trong tiếng Anh, từ eat đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “to put food in your mouth, chew it and swallow

it” (Oxford advanced learner’s dictionary) nghĩa là “đưa thức ăn vào miệng, nhai và nuốt”.

Kết hợp với khảo sát ngữ liệu trong tiếng Anh (lấy từ kho ngữ liệu tiếng Anh-Anh và kho ngữ liệu

tiếng Anh – Mỹ trên trang http://www.corpus.byu.edu/coca/ và http://www.corpus.byu.edu/bnc/ chúng tôi

đã rút ra đƣợc 13 nghĩa của từ eat trong tiếng Anh.

Căn cứ trên từ điển tiếng Việt [48] và căn cứ trên ngữ liệu thu thập đƣợc, chúng tôi phân loại lại

nghĩa của từ ăn trong tiếng Việt gồm 24 nghĩa.

9

Bảng so sánh nghĩa của từ eat trong tiếng Anh trong sự đối chiếu với từ ăn trong tiếng Việt nhƣ sau:

STT Nghĩa của từ “ăn” Nghĩa bậc dƣới (nếu có) Trong Trong

TA TV

Nạp năng lƣợng Đưa thức ăn vào miệng, nhai nghiền và + 1 +

nuốt nuôi dưỡng cơ thể

2 Ăn một bữa ăn (ăn sáng, ăn trưa, ăn tối, + +

ăn đêm...)

3 Tham dự một bữa cỗ/ tiệc trong một dịp cụ + +

thể (ăn cưới, ăn giỗ, ăn tết, ăn hỏi..)

4 Một hình thức ăn cụ thể (ăn chay, ăn - +

kiêng, ăn dặm, ăn vặt..)

5 Nhai trầu, hút thuốc - +

6 Tiếp nhận Thụ hưởng - +

7 Tiêu thụ (hàng hóa, nhiên liệu) + +

8 Thu nạp (để hưởng) - +

9 Phải nhận lấy, chịu lấy (ý tiêu cực) - +

10 Giành đoạt, lấn át đối tượng khác + +

11 Hấp thu/ngấm/hút vào - +

Gắn chặt, dính vào 12 Hòa hợp - +

13 Phù hợp, hài hòa - +

14 Lan ra Phá hủy/tiêu hao đối tượng khác + +

15 Mở rộng phạm vi - +

16 Là thành phần hoặc thuộc về đối tượng - +

khác

17 Chiếm chỗ/ chiếm không gian/ dung lượng + -

18 Tƣơng ứng/ ngang giá - +

19 Quan hệ tình dục + +

20 Giành đoạt bằng hình - +

thức xấu

21 Làm việc gì đó nhanh, -`` +

trong thời gian ngắn

mang tính thực dụng

22 Kiếm sống - +

23 Trục lợi từ đối tƣợng - +

khác

24 Thực hiện các hoạt động -

25 Gây chết ngƣời - + +

26 Hoạt động tâm lí Buồn rầu/ lo lắng/ dày vò + -

27 Hoan nghênh, ca ngợi, + -

yêu thích

10

28 Tiếp thu lĩnh hội tri thức + -

29 Rút lại lời nói + -

30 Nhận lỗi, chịu nhịn nhục + -

Bảng 1: So sánh nghĩa của từ “eat” trong tiếng Anh và từ “ăn” trong tiếng Việt

Ghi chú: dấu “+”: có xuất hiện nghĩa, dấu “-” : không xuất hiện nghĩa

Qua bảng so sánh trên ta có thể thấy đƣợc từ eat trong tiếng Anh có 13 nghĩa và từ ăn trong tiếng

Việt có 24 nghĩa. Trong đó hai ngôn ngữ có chung 11 nghĩa, còn lại 22 nghĩa khác nhau. Rõ rằng từ ăn trong

tiếng Viết đa nghĩa hơn từ eat trong tiếng Anh. Đặc biệt khả năng kết hợp của từ ăn trong tiếng Việt với các

từ loại khác khá đa dạng, phong phú, tạo nên khả năng chuyển nghĩa mạnh mẽ. (ăn có thể kết hợp nhiều từ

loại khác nhau nhƣ với tính từ, động từ, danh từ). Từ eat trong tiếng Anh thƣờng đƣợc kết hợp với các giới

từ nhƣ at, up, away tạo nên những cụm từ với nghĩa khác nghĩa gốc.

Từ bảng phân tích nghĩa chuyển của từ eat trong tiếng Anh và từ ăn trong tiếng Việt nói trên, đồng

thời áp dụng lí thuyết về mô hình tỏa tia của David Lee và Evan & Green (đã nói trong phần 1.2.2), chúng

tôi có đƣợc mô hình tỏa tia của từ eat trong tiếng Anh và từ ăn trong tiếng Việt nhƣ sau:

11

1C.Tham gia một bữa cỗ/tiệc 3A. Phá hủy/ăn mòn 1B. Ăn một bữa ăn cụ thể

1. NẠP NĂNG LƢỢNG

3B.Chiếm không gian, dung lƣợng

3. LAN RA

1A. Đƣa thức ăn vào miệng nhai, nuốt

2A. Tiêu thụ

EAT (ăn)

2. TIẾP NHẬN

4. QUAN HỆ TÌNH DỤC

5. H/Đ TÂM LÍ

2B. Lấn át /giành đoạt

9. NHẪN LỖI CHỊU NHỤC

6. HOAN NGHÊNH/YÊU THÍCH

8. RÖT LẠI LỜI NÓI

7.LĨNH HỘI TRI THỨC

6A. Lo lắng/dày vò

Sơ đồ số 5: mô hình tỏa tia của từ „eat” trong tiếng Anh

12

1B. Ăn một bữa ăn cụ thể

3C. Thu nạp

3B.Tiêu thụ

1C. Ăn một bữa cỗ, tiệc 1A. Đƣa thức ăn vào miệng

1D. Một hình thức ăn cụ thể

1. NẠP NĂNG LƢỢNG

2. NHAI TRẦU, HÖT THUỐC

3A.Thụ hƣởng

3. TIẾP NHẬN

3E. Giành đoạt

4A. Gắn chặt/dính vào

4. HÕA HỢP

3F. Phải chịu

4B.Hài hòa, phù hợp

3D. Hấp thu/ngấm

ĂN

12. GÂY CHÉT NGƢỜI

11. THỰC HIỆN HÀNH ĐỘNG

7. QUAN HỆ TÌNH DỤC

10. TRỤC LỢI

6. TƢƠNG ÖNG/ NGANG GIÁ

5. LAN RA

9. KIẾM SỐNG

8. LÀM TRONG THỜI GIAN NGĂN

5A. Phá hủy/tiêu hao

5C. Thuộc về đối tƣợng khác

5B. Mở rộng phạm vi

Sơ đồ số 6: mô hình tỏa tia của từ “ăn” trong tiếng Việt

13

2.2.2. Nghĩa của từ drink trong tiếng Anh và uống trong tiếng Việt

Trong tiếng Anh, từ drink đƣợc định nghĩa nhƣ sau: “to take liquid into your mouth and swallow it”

(Oxford advanced learner’s dictionary) nghĩa là “đưa chất lỏng vào miệng và nuốt”.

Qua khảo sát trên cứ liệu từ điển Oxford [141] và căn cứ trên ngữ liệu thu thập đƣợc, chúng tôi thấy

rằng, ngoài nghĩa gốc là “đưa chất lỏng vào miệng và nuốt”, từ drink trong tiếng Anh còn có một số nghĩa

chuyển, xa dần nghĩa gốc.

Với tiếng Việt, chúng tôi đã tiến hành khảo sát từ điển (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên) và

nguồn ngữ liệu từ báo chí và một số tác phẩm văn học. Kết quả thu đƣợc nhƣ sau: từ uống trong tiếng Việt

có 8 nghĩa.

Các nghĩa của từ drink trong tiếng Anh và từ uống trong tiếng Việt đƣợc tổng hợp trong bảng so

sánh sau đây:

STT Nghĩa của từ uống Trong TA Trong TV

1) Đƣa chất lỏng vào miệng, nuốt + +

2) Uống chất có cồn + +

3) Tiêu tốn tiền (vì uống rƣợu) + -

4) Tiếp thụ không khí + +

5) Thấm, hút + -

6) Chúc mừng + +

7) Chú ý lắng nghe, thƣởng thức + +

8) Đƣa đến trạng thái nào đó + -

9) Tiêu thụ nhiên liệu - +

10) Quan hệ tình dục - +

11) Trải nghiệm cuộc sống - +

Bảng 2: So sánh nghĩa của từ “drink” trong tiếng Anh và từ “uống” trong tiếng Việt

Qua bảng so sánh trên ta thấy rằng, về mặt số lƣợng nghĩa của từ drink trong tiếng Anh và từ uống

trong tiếng Việt ngang nhau (8 nghĩa trong tiếng Anh, 8 nghĩa trong tiếng Việt). Ngoài các nghĩa riêng, hai

ngôn ngữ có chung 5 lớp nghĩa là: đưa chất lỏng vào miệng và nuốt, uống chất có cồn, tiếp thụ không khí,

chúc mừng, chú ý lắng nghe và thưởng thức.

Từ bảng so sánh nghĩa của từ drink trong tiếng Anh và từ uống trong tiếng Việt, áp dụng lí thuyết về

mô hình tỏa tia của David Lee và Evan & Green (đã nói trong phần 1.2.2), chúng tôi có đƣợc mô hình tỏa tia

của từ drink trong tiếng Anh và từ uống trong tiếng Việt nhƣ sau:

14

1. Đƣa chất lỏng vào miệng

7. Chú ý lắng nghe, thƣởng thức

2. Uống chất có cồn 8. Đƣa đến một trạng thái khác

DRINK

3. Tiêu tốn tiền

6. Chúc mừng

4. Tiếp thụ không khí 5.Thấm, hút

3. Tiếp thụ không khí

2. Uống chất có cồn

Sơ đồ số 7: mô hình tỏa tia của từ „drink” trong tiếng Anh

1. Đƣa chất lỏng vào miệng

4. Chúc mừng

UỐNG

5. Chú ý lắng nghe, thƣởng thức

6. Tiêu thụ nhiên liệu

8. Trải nghiệm cuộc sống

7. Quan hệ tình dục

Sơ đồ số 8: mô hình tỏa tia của từ „uống” trong tiếng Việt

15

Trong 4 mô hình tỏa tia trên, ý niệm ăn trong tiếng Việt có khả năng lan tỏa, vận động mạnh mẽ nhất

với 04 chùm nghĩa phái sinh từ nghĩa gốc, tổng số thành tố nghĩa là 24. Ý niệm ăn trong tiếng Anh, đại diện

là eat có 04 chùm nghĩa phái sinh từ nghĩa gốc, tổng số thành tố nghĩa là 13. Ý niệm uống trong tiếng Anh,

đại diện là drink có 8 thành tố nghĩa, ý niệm uống trong tiếng Việt cũng có số lƣợng thành tố nghĩa tƣơng

đƣơng là 8.

2.3. Nền tảng tri nhận tạo nên cơ chế chuyển di ý niệm của ăn và uống trong tiếng Anh (đối chiếu với

tiếng Việt)

Vận dụng quan điểm của Newman (1997) về cơ chế chuyển nghĩa của ý niệm ăn uống đƣợc nêu ra

trong cuốn “The linguistics of eating and drinking”, chúng tôi khái quát 03 hƣớng chuyển di ý niệm của miền

ăn uống sang các miền ý niệm khác gồm: (i) Chuyển di ý niệm dựa trên sự hoàn thành của hoạt động ăn

uống; (ii) Chuyển di ý niệm dựa trên sự nội tại hóa (nhìn từ góc độ tác thể); (iii) Chuyển di ý niệm dựa trên

sự tiêu biến của đồ ăn/thức uống (nhìn từ góc độ bị thể).

2.3.1. Chuyển di ý niệm dựa trên sự hoàn thành của hoạt động ăn uống

Nhƣ đã nói ở trên, hoạt động ăn uống có những nét giống nhau, tuy nhiên không giống nhau một

cách hoàn toàn. Khi nói đến ăn là chúng ta liên tƣởng tới sự thay đổi về trạng thái của đồ ăn, từ dạng vật chất

thô trải qua quá trình nhai, nghiền chuyển sang dạng vật chất tinh hơn, cuối cùng chuyển hóa thành chất dinh

dƣỡng đi nuôi cơ thể. Nhƣ vậy, hoạt động ăn nói chung và các động từ chỉ sự ăn nói riêng hàm chỉ một quá

trình “hoàn chỉnh”, sự hoàn thành của một chu trình làm việc (perfectivity). Hoạt động uống hơi khác biệt vì

ở đó không diễn ra quá trình chuyển đổi trạng thái vật chất (ở đây là đồ uống) giống nhƣ quá trình ăn. Đồ

uống sau khi đƣợc đƣa vào khoang miệng sẽ trải qua quá trình thay đổi ngay trong đƣờng đi của nó là qua

khoang miệng, ống họng và đi qua các tuyến tiêu hóa. Quá trình này gần nhƣ một “đƣờng thẳng” vì không

xảy ra sự nhai nghiền, nhào trộn thức ăn nào trong khoang miệng cũng nhƣ trong dạ dày. Rõ ràng hoạt động

“ăn” sẽ tạo ra một hình ảnh về một quá trình thay đổi vật chất hoàn chỉnh, còn hoạt động “uống” lại gợi nên

hình ảnh về sự liên tục, lặp lại. Chính nét khác biệt này tạo ra sự phân tách trong khả năng chuyển di

của ý niệm ăn ý niệm uống.

2.3.2. Chuyển di ý niệm dựa trên sự nội tại hóa (nhìn từ góc độ tác thể)

Khi tƣ duy ngôn ngữ, con ngƣời sẽ dựa trên những trải nghiệm thân thể của mình với môi trƣờng

xung quanh để mô hình hóa, khái quát hóa thành những lƣợc đồ hình ảnh, từ đó hình thành nên ý niệm, ý

nghĩa và kết quả cuối cùng là ngôn ngữ. Trƣớc hết với tƣ cách là tác thể (agent), con ngƣời hiểu, trải nghiệm

qua quá trình ăn uống và từ đó tƣ duy sang ngôn ngữ sử dụng. Trong quá trình ăn uống, con ngƣời với vai trò

là tác nhân gây ra hành động tạo ra một hình ảnh rõ nét về tính nội tại hóa (internalization). 2.3.2.1. Chuyển di ý niệm dựa trên trải nghiệm thoải mái, thỏa mãn của chủ thể 2.3.2.2. Chuyển di ý niệm dựa trên trải nghiệm không thoải mái của chủ thể

2.3.2.3. Chuyển nghĩa dựa trên cảm giác do ăn uống mang lại cho chủ thể

2.3.3. Chuyển nghĩa dựa trên sự tiêu biến của đồ ăn/ thức uống (nhìn từ góc độ bị thể)

Ở đây vai trò của đối tƣợng tiếp thụ đồ ăn/thức uống không còn đƣợc chú trọng. Cái đƣợc chú trọng

chính là hiệu ứng tạo nên khi hình ảnh đồ ăn/thức uống phải trải qua một qua trình xử lí cơ học có phần bạo

liệt và bị chuyển hóa thành các chất khác nhau để tham gia vào quá trình tiêu hóa và đào thải. Dựa trên trải

nghiệm này, ngƣời sử dụng ngôn ngữ đã ý niệm hóa sang các miền ý niệm khác, cụ thể chúng tôi đề cập ở

đây là các hiện tƣợng tự nhiên (địa lý, thiên văn, địa chất, sinh học, hóa học v.v..), hiện tƣợng xã hội, hoạt

động kinh tế-xã hội, hoạt động tâm sinh lí.

16

2.3.3.1. Sự tiêu biến các thực thể trong các hiện tượng tự nhiên

2.3.3.2. Hiện tượng đấu tranh trong tự nhiên và xã hội

2.3.3.3. Trải nghiệm cuộc sống

2.3.3.4. Diễn biến về tâm lí, tình cảm

* Tiểu kết chƣơng 2:

Chƣơng 2 đã đƣa ra khái quát về cơ chế sinh học của hoạt động ăn uống gồm các giai đọan cơ bản

của quá trình ăn uống. Nhìn chung hành động ăn uống luôn tuân theo một chu trình chung từ “cảm giác

đói/khát” (hunger/thirst) tạo ra nhu cầu ăn/uống cho con ngƣời, thậm chí bắt buộc con ngƣời phải ăn/uống để

thỏa mãn cảm giác đó. Bắt đầu của chu trình này là phải có một lƣợng chất rắn/ lỏng đƣợc đƣa vào trong

miệng (intake). Tiếp theo là quá trình nhai, nghiền đồ ăn/thức uống diễn ra trong khoang miệng. Đồ ăn/thức

uống phải trải qua một quá trình này gọi là tiêu hóa (digestion). Chức năng của hành vi ăn uống là để nuôi

dƣỡng cơ thể (nourishment). Sau khi ăn, chủ thể sẽ có đƣợc cảm giác từ ăn uống đem lại (taste), đƣợc cảm

nhận thông qua vị giác (gustation). Cơ chế sinh học của quá trình ăn uống là cơ sở quan trọng, là kim chỉ

nam để chúng tôi thực hiện các bƣớc nghiên cứu tình hình chuyển di ý niệm từ miền ăn uống sang các miền

khác.

Căn cứ trên quan điểm của Newman (1997), chúng tôi đã nêu ra và chứng minh bằng các ví dụ cụ

thể cơ sở của hiện tƣợng chuyển di ý niệm của miền ăn uống, cụ thể là hiện tƣợng tỏa tia ý niệm của nhóm từ

chỉ ý niệm ăn uống. Theo đó, quá trình chuyển nghĩa cần phải đƣợc xét từ hai góc nhìn khác nhau: (1) từ góc

độ tác thể tức là chú trọng tính nội tại hóa của chủ thể, (2) từ góc độ bị thể tức là chú trọng vào hình ảnh bị

phá hủy và tiêu biến của đồ ăn/thức uống. Ngoài ra, cảm giác do ăn uống mang lại cũng là một nguồn gốc

quan trọng tạo ra hiện tƣợng chuyển di ý niệm của phạm trù ăn uống.

CHƢƠNG 3: HỆ THỐNG ẨN DỤ Ý NIỆM PHẠM TRÙ ĂN UỐNG TRONG TIẾNG ANH (ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG VIỆT)

Dựa trên kết quả khảo sát ngữ liệu trong tiếng Anh và trong tiếng Việt, chúng tôi đã có những kết

quả bƣớc đầu về mô hình ẩn dụ ý niệm của miền ăn uống thể hiện trên hai ngôn ngữ Anh – Việt. Chúng tôi

cố gắng xác lập con đƣờng tƣ duy thông qua các ẩn dụ ý niệm xây dựng đƣợc. Con đƣờng tƣ duy ấy phản

ánh nhận thức của con ngƣời từ những trải nghiệm ăn uống sang những trải nghiệm trong các lĩnh vực khác

nhau của đời sống. Các ẩn dụ ý niệm sẽ đƣợc trình bày dƣới dạng biểu thức A LÀ B, trong đó A là miền đích

(các miền ý niệm nhƣ hiện tƣợng tự nhiên, con ngƣời, cảm xúc, hoạt động chính trị xã hội v.v..), B là miền

nguồn (phạm trù ăn uống).

3.1. Mô hình ẩn dụ ý niệm của ý niệm ăn uống trong tiếng Anh nhìn từ góc độ tác thể (đối chiếu với

tiếng Việt)

3.1.1. Hoạt động của con người là ăn uống

3.1.1.1. Hoạt động sinh học của con người là ăn uống

3.1.1.2. Hoạt động xã hội của con người là ăn uống

a) CÓ THÊM CƠ HỘI LÀ ĂN UỐNG

b) CÓ THÊM VẬT CHẤT LÀ ĂN UỐNG

c) HAM THÍCH/ ĐAM MÊ THAM GIA MỘT HOẠT ĐỘNG LÀ ĂN UỐNG

d) THU NHẬN KẾT QUẢ LÀ ĂN UỐNG

17

3.1.1.3. Ứng xử xã hội là ăn uống

a) LẤN ÁT/GÂY ẢNH HƢỞNG ĐẾN ĐỐI TƢỢNG KHÁC LÀ ĂN UỐNG b) NHẪN NHỊN TRƢỚC ĐỐI TƢỢNG KHÁC LÀ ĂN UỐNG

c) PHẢN BỘI LẠI NGƢỜI KHÁC LÀ ĂN UỐNG

d) HÀNH XỬ THIẾU VĂN HÓA LÀ ĂN UỐNG KHÔNG ĐÖNG CÁCH

3.1.1.4. Trải nghiệm cuộc sống là ăn uống

3.1.1.5. Hoạt động tư tưởng tinh thần là ăn uống

a) LĨNH HỘI TRI THỨC LÀ ĂN UỐNG b) GẶP KHÓ KHĂN TRONG LĨNH HỘI TRI THỨC LÀ ĂN UỐNG

c) CHẤP NHẬN Ý KIẾN KHÁC LÀ ĂN UỐNG

d) XỬ LÍ THÔNG TIN LÀ ĂN UỐNG

3.1.1.6. Hoạt động tâm lí là ăn uống

a) NUÔI DƢỠNG CẢM XÖC LÀ ĂN UỐNG b) KÌM NÉN CẢM XÖC LÀ ĂN UỐNG CÓ VẤN ĐỀ c) BỘC LỘ CẢM XÖC LÀ ĂN UỐNG

3.1.2. Sự vật hiện tượng khách quan là ăn uống

3.1.2.1. Hoạt động của sự vật khách quan là ăn uống

3.1.2.2. Cảm giác về sự vật hiện tượng khách quan là ăn uống

a) CẢM GIÁC THIẾU THỐN VỀ SỰ VẬT HIỆN TƢỢNG KHÁC LÀ CẢM GIÁC ĂN UỐNG

KHÔNG ĐẦY ĐỦ

b) CẢM GIÁC THỎA MÃN VỀ SỰ VẬT HIỆN TƢỢNG LÀ CẢM GIÁC ĂN UỐNG ĐẦY ĐỦ

c) CẢM GIÁC DƢ THỪA LÀ CẢM GIÁC ĂN UỐNG QUÁ MỨC

*Đánh giá chung:

Nhƣ vậy, nhìn từ góc độ tác thể với sự tập trung vào hình ảnh của đối tƣợng gây ra hành động chúng

tôi đã tìm ra đƣợc 3 nhóm mô hình ẩn dụ ý niệm, trong đó miền đích là phạm trù con ngƣời, hiện tƣợng tự

nhiên và cảm giác về sự vật hiện tƣợng. Trong đó 2 nhóm tồn tại những mô hình ẩn dụ bậc dƣới là nhóm

hoạt động của con ngƣời và nhóm cảm giác về sự vật hiện tƣợng. Các mô hình ẩn dụ ý niệm đƣợc tổng kết

qua bảng sau:

Mô hình ẩn dụ ý niệm T.A T.V

Hoạt động của con ngƣời Hoạt động sinh học + -

là hoạt động ăn uống

Hoạt động xã hội Có thêm cơ hội là ăn uống + +

Có thêm vật chất là ăn uống + +

Ham thích/ đam mê tham gia một + -

hoạt động là ăn uống

Thu nhận kết quả là ăn uống - +

Hoạt động tƣ tƣởng tinh thần Lĩnh hội tri thức là ăn uống + +

Gặp khó khăn trong lĩnh hội tri + +

thức là gặp khó khăn trong ăn uống

Chấp nhận ý kiến khác là ăn uống + -

Xử lí thông tin là ăn uống + -

18

Hoạt động tâm lí Nuôi dƣỡng cảm xúc là ăn uống + +

Kìm nén cảm xúc là ăn uống + +

Bộc lộ cảm xúc là ăn uống + -

Trải nghiệm cuộc sống Gặp khó khăn trong cuộc sống là + +

ăn uống có vấn đề

Ứng xử xã hội Lấn át/ gây ảnh hƣởng đến đối + +

tƣợng khác là ăn uống

Nhẫn nhịn trƣớc đối tƣợng khác là + -

ăn uống

Phản bộ ngƣời khác là ăn uống + -

Hành xử thiếu văn hóa là ăn uống - +

không đúng cách

+ + Sự vật hiện tƣợng (SVHT) Hoạt động của SVHT là ăn

khách quan uống

Cảm giác về SVHT là cảm Cảm giác thiếu thốn về SVHT là + +

giác do ăn uống mang lại cảm giác ăn uống không đầy đủ

Cảm giác thỏa mãn về SVHT là + +

cảm giác ăn uống vừa đủ

Cảm giác dƣ thừa về SVHT là cảm + +

giác do ăn uống quá mức

Bảng 3: Tổng hợp các mô hình ẩn dụ ý niệm phạm trù ăn uống trong tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt)

từ góc độ tác thể

3.2. Mô hình ẩn dụ ý niệm của ý niệm ăn uống trong tiếng Anh nhìn từ góc độ bị thể (đối chiếu với

tiếng Việt)

Khi xét hiện tƣợng ăn uống từ góc độ bị thể, vai trò của đồ ăn thức uống đƣợc quan tâm đặc biệt với

những thay đổi về chất và lƣợng của đồ ăn/ thức uống trong quá trình bị nhai nghiền trong khoang miệng, sự

biến mất sau quá trình nuốt trôi qua ống họng, vào thực quản, và đặc biệt là quá trình nhào trộn và tiêu hóa

diễn ra trong dạ dày. Nét nổi bật nhất là cần đƣợc chú ý là sự tiêu biến của đồ ăn thức uống chứ không phải

là vai trò của tác nhân gây ra hành động ăn uống. 3.2.1. Hiện tượng tự nhiên là ăn uống 3.2.2. Đấu tranh trong tự nhiên – xã hội là ăn uống 3.2.2.1. Chiếm lĩnh vị trí/không gian/ dung lượng là ăn uống 3.2.2.2. Lấn át/gây ảnh hưởng đến đối tượng khác là ăn uống

3.2.2.3. Phá hủy đối tượng khác là ăn uống

3.2.3. Hoạt động kinh tế xã hội là ăn uống

3.2.3.1. Tiêu thụ thời gian/tiền bạc/năng lượng là ăn uống

3.2.3.2. Đảm nhận công việc là ăn uống

3.2.3.3. Diễn biến kinh tế là ăn uống

*Đánh giá chung

Nhƣ vậy, từ góc độ bị thể chúng tôi đã xác lập đƣợc 03 mô hình ẩn dụ ý niệm của phạm trù ăn uống

trong tiếng Anh, đồng thời đối chiếu với tiếng Việt để tìm ra những mô hình tƣơng đồng cũng nhƣ những mô

19

hình đặc thù ở hai ngôn ngữ. Ba mô hình ẩn dụ này đƣợc chia thành nhiều nhóm nhỏ, với những ẩn dụ bậc

dƣới tồn tại song hành nhƣ đƣợc chúng tôi trình bày trong bảng tổng hợp sau đây:

TA TV Mô hình ẩn dụ ý niệm

1. Hiện tƣợng tự nhiên là ăn + +

uống

2. Đấu tranh trong tự nhiên xã Chiếm vị trí/dung lƣợng là ăn uống + +

hội là ăn uống Lấn át ảnh hƣởng đến đối tƣợng khác là ăn + +

uống

Phá hủy đối tƣợng khác là ăn uống + +

3. Hoat động kinh tế xã hội là Tiêu thụ thời gian/tiền bạc/năng lƣợng là ăn + +

uống ăn uống

Đảm nhận công việc là ăn uống + +

Diễn biến kinh tế là ăn uống + +

Bảng 4: Tổng hợp các mô hình ẩn dụ ý niệm phạm trù ăn uống trong tiếng Anh (đối chiếu với tiếng Việt)

từ góc độ bị thể

Có thể thấy rõ ràng rằng quá trình chuyển di ý niệm từ miền ăn uống sang các miền khác trong cả hai

ngôn ngữ Anh – Việt có khá nhiều điểm tƣơng đồng. Cả 3 miền ý niệm đƣợc ý niệm hóa từ miền ăn uống có

ở tiếng Anh đều có xuất hiện tƣơng đƣơng trong tiếng Việt.

Qua bảng tổng hợp trên ta thấy nhìn từ góc độ bị thể miền ý niệm ăn uống đã chuyển di sang ba miền

ý niệm lớn là (i) hiện tƣợng tự nhiên; (ii) đấu tranh trong tự nhiên và xã hội; (iii) hoạt động kinh tế xã hội

hình thành nên mô hình ẩn dụ ý niệm:

1. HIỆN TƢỢNG TỰ NHIÊN LÀ ĂN UỐNG

2. ĐẤU TRANH TRONG TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LÀ ĂN UỐNG

3. HOẠT ĐỘNG KINH TẾ XÃ HỘI LÀ ĂN UỐNG

Từ những mô hình ẩn dụ này phái sinh thêm các ẩn dụ bậc dƣới là:

1. CHIẾM VỊ TRÍ/DUNG LƢỢNG LÀ ĂN UỐNG

2. LẤN ÁT/GÂY ẢNH HƢỞNG ĐẾN ĐỐI TƢỢNG KHÁC LÀ ĂN UỐNG

3. PHÁ HỦY ĐỐI TƢỢNG KHÁC LÀ ĂN UỐNG

4. TIÊU THỤ THỜI GIAN/TIỀN BẠC/ NĂNG LƢỢNG LÀ ĂN UỐNG

5. ĐẢM NHẬN CÔNG VIỆC LÀ ĂN UỐNG

6. DIẾN BIẾN KINH TẾ LÀ ĂN UỐNG

Kêt hợp với những kết quả có đƣợc từ phần 3.1 (nhìn từ góc độ tác thể) và phần 3.2. (nhìn từ góc độ

bị thể), có thể khẳng định rằng tƣ duy ngôn ngữ của ngƣời Anh và ngƣời Việt về ý niệm ăn uống bên cạnh

những điểm khác, có tƣơng đối nhiều điểm giống nhau. Dù ở nền văn hóa nào thì cơ chế ăn uống vẫn tuân

theo qui luật chung và diễn tiến theo những cơ chế chung. Chính vì những điểm chung ấy tạo nên tính tƣơng

đồng trong tƣ duy của nhân loại. Nói nhƣ vậy không phải là chúng tôi muốn xóa mờ những đặc trƣng văn

hóa dân tộc mang tính riêng biệt tồn tại trong chính hoạt động ăn uống của mỗi quốc gia. Mỗi dân tộc sẽ có

những qui định riêng trong cách cách ứng xử văn hóa của mình. Nhƣ đã nói ở phần trên, bên cạnh những

điểm tƣơng đồng, chúng tôi có đƣợc những kết quả chứng minh rằng có tồn tại sự khác biệt nhất định trong

lối tƣ duy về ý niệm ăn uống thể hiện trong hai ngôn ngữ Anh – Việt.

20

*Tiểu kết chƣơng 3:

Bức tranh ngôn ngữ bao giờ cũng là một tấm gƣơng phản chiếu cách nhìn thể giới, cách con ngƣời

tri nhận và mô tả thể giới. Do đó, thông qua ngôn ngữ, chúng ta có thể phát hiện cách tƣ duy giống nhau và

khác nhau của con ngƣời trong cách nhìn thế giới. Điều này giúp chúng ta trở nên nhạy cảm hơn và không võ

đoán khi đánh giá sự vật hiện tƣợng xung quanh mình, đồng thời giúp chúng ta hình dung đƣợc cấu trúc cả

tƣ duy và các con đƣờng nhận thức của chúng ta.

Trong chƣơng 3, chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu tổng quát về ẩn dụ ý niệm có liên quan đến ăn

uống trên cơ sở ngữ liệu thu đƣợc trong tiếng Anh và tiếng Việt. Từ đây, chúng tôi đã tiến hành phân loại

ngữ liệu theo qui luật của cơ chế chuyển nghĩa đã nêu ở chƣơng 2, sau đó chúng tôi tiến hành phân tích, đối

chiếu trên cả hai ngôn ngữ.

Kết quả:

+ Đứng từ góc độ tác thể - tức nhấn mạnh vai trò của đối tƣợng thực hiện hành động - chúng tôi

quan sát đƣợc 19 cấu trúc ẩn dụ ý niệm với miền đích chủ yếu là hoạt động của con ngƣời. Các hoạt động

của con ngƣời đƣợc ý niệm hóa từ miền ăn uống bao gồm khá đa dạng các tiểu loại khác nhau từ hoạt động

sinh học, đến hoạt động xã hội, thậm chí cả những hoạt động khó quan sát hơn là hoạt động tƣ tƣởng, tinh

thần, hoạt động tâm lí. Từ góc nhìn này, chúng tôi thấy rằng các hoạt động của sự vật hiện tƣợng tự nhiên

cũng đƣợc con ngƣời ý niệm hóa thông qua lăng kính tri nhận của hoạt động ăn uống. Sự xuất hiện của hình

ảnh hiện tƣợng tự nhiên thông qua ý niệm ăn uống cũng góp phần khẳng định sự phong phú đa dạng và sức

mạnh tuyệt vời của tƣ duy con ngƣời khi phóng chiếu từ miền ý niệm quen thuộc tới các miền ý niệm trừu

tƣợng hơn, rộng hơn để lí giải các hiện tƣợng khách quan quanh mình.

+ Đứng từ góc độ bị thể - tức quan tâm đến việc đồ ăn/thức uống đƣợc tiêu hóa, thay đổi hay tiêu

biến trong quá trình ăn uống – chúng tôi quan sát và thấy rằng ý niệm ăn uống có xu hƣớng chuyển di sang

các miền ý niệm về hiện tƣợng tự nhiên, hoạt động đấu tranh trong tự nhiên – xã hội, hoạt động kinh tế xã

hội. Hình ảnh con ngƣời ít xuất hiện một cách trực tiếp trong miền đích của các ánh xạ này, mà chỉ xuất hiện

thông qua những diễn biến trong tâm lí với điểm nhấn là sự dày vò, sự hủy hoại về mặt tinh thần, sự héo mòn

trong nội tâm. Đây là những quá trình đấu tranh nội tâm hết sức trừu tƣợng đã đƣợc biểu thị một cách sinh

động trong cả hai ngôn ngữ thông qua những từ ngữ, cách diễn đạt vốn đƣợc dùng để biểu thị những trải

nghiệm cụ thể của con ngƣời về ăn uống.

21

KẾT LUẬN

Luận án của chúng tôi hƣớng tới mục tiêu nghiên cứu hiện tƣợng ngôn ngữ dựa trên quan điểm của

khoa học tri nhận. Sau đây là một số kết luận chính đƣợc rút ra dựa trên cơ sở nghiên cứu của luận án.

1. Chúng tôi đã tóm lƣợc, tổng hợp những kiến thức chung nhất, cơ bản nhất về ngôn ngữ học tri

nhận. Những quan điểm của những nhà nghiên cứu tri nhận luận khác nhau cũng đã đƣợc đề cập, đánh giá

chi tiết. Đồng thời chúng tôi cũng nhấn mạnh sự lựa chọn có tính kim chỉ nam cho việc thực hiện các nhiệm

vụ nghiên cứu của luận án. Đó là quan điểm của Lakoff & Johnson (1980) và Kovesces (2010) về ẩn dụ ý

niệm, phân loại miền nguồn, miền đích, các thao tác tri nhận trong nhận thức và cách thức tƣ duy đƣợc biểu

đạt qua ngôn ngữ. Đặc biệt là quan điểm của Lakoff và Johnson cho rằng ngôn ngữ về bản chất có tính ẩn

dụ, và nhiều khái niệm trừu tƣợng đƣợc hình thành nên thông qua các ẩn dụ ý niệm. Đây là quan điểm có

tính chất bƣớc ngoặt, làm thay đổi cơ bản cách nhìn nhận việc nghiên cứu ngôn ngữ từ trƣớc đến nay.

Điểm mới là trong luận án này, chúng tôi đã vận dụng nghiên cứu về phạm trù ăn uống trong ngôn

ngữ của Newman (1997) với cách nhìn nhận quá trình ăn uống từ hai góc độ: tác thể và bị thể, từ đó rút ra

các mô hình ẩn dụ ý niệm và luận giải đƣợc cách thức tƣ duy của con ngƣời.

2. Vận dụng lí thuyết Ngôn ngữ học tri nhận và cách nhìn nhận quá trình ăn uống với sự chú trọng về

tác thể, bị thể liên quan đến phạm trù ăn uống, chúng tôi đã có những phân tích với ví dụ cụ thể để tìm ra cơ

chế chuyển di của miền ý niệm ăn uống. Qua phân tích ngữ liệu chúng tôi đã đi đến những đánh giá khái

quát về tình hình chuyển di ý niệm giữa phạm trù ăn uống sang các miền ý niệm khác. Kết quả phân tích cho

thấy:

(i) nhìn từ góc độ tác thể, miền ý niệm ăn uống có khả năng chuyển di sang 02 miền ý niệm lớn là

miền ý niệm con ngƣời và miền ý niệm hiện tƣợng tự nhiên. Trong đó, miền ý niệm về con ngƣời là miền

đích rộng lớn nhất, đƣợc ý niệm hóa từ miền ăn uống nhiều nhất. Đặc biệt, cảm giác của con ngƣời về sự vật

hiện tƣợng đƣợc ý niệm hóa từ miền ăn uống một các nổi bật và đƣợc thể hiện rõ nét trong cả hai ngôn ngữ

Anh – Việt.

(ii) nhìn từ góc độ bị thể, miền ý niệm ăn uống có khả năng chuyển di sang 03 miền ý niệm khác là

hiện tƣợng tự nhiên, đấu tranh trong tự nhiên – xã hội, và hoạt động kinh tế xã hội. Với sự nhấn mạnh vào sự

tiêu biến/thay đổi của bị thể, từ góc độ nhìn nhận này, quá trình ăn uống đƣợc ý niệm hóa chủ yếu sang hiện

tƣợng tự nhiên, xã hội, còn hình ảnh con ngƣời ít xuất hiện trong những mô hình ẩn dụ mà chúng tôi tìm

đƣợc.

3. Các phân tích ví dụ văn bản điển hình cho thấy rằng kinh nghiệm sinh lí, cơ chế tâm lí, khoa học

thần kinh là những cơ sở quan trọng để con ngƣời có thể khái quát hóa các sự vật hiện tƣợng khác thông qua

các trải nghiệm cơ thể mình. Ví dụ trải nghiệm về cảm giác đói khát tạo nên cảm giác về sự thiếu thốn về

tinh thần, về những thứ trừu tƣợng nhƣ kiến thức, thông tin, sự chiến thắng v.v…hoặc thậm chí khó định

hình hơn nhƣ sự thiếu hụt về tình cảm. Từ đó con ngƣời thể hiện ngay cách hiểu và quan điểm của mình áp

lên việc sử dụng ngôn ngữ hàng ngày.

4. Qua phân tích, đối chiếu hai ngôn ngữ Anh – Việt, chúng tôi thấy rằng ngôn ngữ chịu ảnh hƣởng

từ tƣ duy của con ngƣời. Những trải nghiệm nghiệm thân từ thực tế cuộc sống cũng nhƣ những trải nghiệm

từ cơ chế sinh lí, cơ chế tâm lí góp phần không nhỏ trong quá trình con ngƣời xây dựng và hình thành nên

các nghĩ, cách sống của cá nhân và xa hơn nữa là của cả một cộng đồng dân tộc. Cũng chính vì tuân theo các

qui luật phổ quát và các cơ chế chung nên ngoài những điểm khác nhau cơ bản mang tính riêng có của mỗi

dân tộc thì ngôn ngữ đƣợc sử dụng ở các nền văn hóa khác nhau vẫn có những đặc điểm chung, nhất quán,

22

tuân theo qui luật và cơ chế sinh lí, tâm lí. Cụ thể trong luận án này, chúng tôi nghiên cứu cơ chế ánh xạ từ

miền nguồn ăn uống sang các miền ý niệm khác trong tiếng Anh và tiếng Việt. Kết quả cho thấy phần lớn

các mô hình ánh xạ tồn tại trong tiếng Anh đều có xuất hiện trong tiếng Việt. đặc biệt là các mô hình tri nhận

đƣợc hình thành nên do cơ chế sinh học của quá trình ăn uống qui định, tác động nên tƣ duy của con ngƣời.

Những mô hình ẩn dụ ý niệm có xuất hiện trong tiếng Anh nhƣng không xuất hiện trong tiếng Việt và ngƣợc

lại chủ yếu đƣợc lí giải do sự khác biệt về tƣ duy văn hóa trong ăn uống, cũng nhƣ không thể không kể đến

yếu tố lịch sử để lại. Không thể phủ nhận rằng sự khác nhau về vị trí địa lí, đặc điểm khí hậu, văn hóa ngôn

ngữ, phong tục tập quán, và cả sự khác nhau về các giai đoạn phát triển của lịch sử cũng có ảnh hƣởng không

nhỏ đến tƣ duy về ăn uống của ngƣời Việt và nguời Anh. Trong phạm vi luận án này chúng tôi đã đƣa ra

những lí giải cơ bản nhất cho sự giống và khác nhau về cách hai dân tộc nhìn nhận một vấn đề ngôn ngữ từ

góc độ tƣ duy – văn hóa dân tộc.

23