1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Mũi xoang là cơ quan đầu tiên của hệ hô hấp có vai trò

quan trọng trong hoạt động hô hấp, cảm nhận mùi và phát âm…

trong đó quan trọng nhất là chức năng làm ấm, làm ẩm và làm

sạch không khí trước khi đi vào phổi. Đồng thời đây cũng là

nơi tiếp nhận rất nhiều những tác nhân gây bệnh. Hiện nay do

sự phát triển của công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tình trạng ô

nhiễm không khí do khí thải từ các nhà máy, khói thuốc và khói

bụi giao thông… đã làm gia tăng đáng kể các bệnh lý của

đường hô hấp, đặc biệt là bệnh lý mũi xoang. Theo thống kê

của Bệnh viện Tai - Mũi - Họng Trung Ương thì số người bệnh

đến khám về các bệnh liên quan đến viêm mũi xoang chiếm

đến hơn 1/4 trong tổng số các người bệnh đến khám ở viện và

tỷ lệ viêm xoang ở người Việt Nam dao động trong khoảng 2%

- 5% với lứa tuổi hay gặp nhất là 18 - 45 tuổi [1].

Hiện nay, có nhiều phương pháp điều trị bệnh viêm mũi

xoang, nhưng về cơ bản có thể chia thành điều trị nội khoa và

phẫu thuật. Trong đó phẫu thuật nội soi mũi xoang là phương

pháp điều trị được chỉ định trong các trường hợp viêm xoang tiến

triển mạn tính không đáp ứng với điều trị nội khoa. Hiện tại, phẫu

thuật nội soi mũi xoang là một trong những phẫu thuật chiếm tỷ lệ

cao trong số những phẫu thuật được thực hiện tại bệnh viện Tai -

Mũi - Họng Trung Ương. Vì thế chăm sóc người bệnh sau phẫu

2

thuật nội soi mũi xoang là công tác thường xuyên được thực hiện

bởi các điều dưỡng của bệnh viện.

Để đáp ứng nhu cầu chăm sóc ngày càng cao của người

bệnh qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc người bệnh

sau phẫu thuật NSMX thì việc tìm hiểu, khảo sát những đánh

giá của người bệnh về dịch vụ chăm sóc người bệnh sau phẫu

thuật NSMX là hết sức cần thiết. Xuất phát từ thực tế này, tôi

tiến hành thực hiện đề tài: “Thực trạng chăm sóc người bệnh

phẫu thuật nội soi mũi xoang và một số yếu tố liên quan tại

Bệnh viện Tai - Mũi - Họng Trung Ương” nhằm trả lời cho 2

câu hỏi nghiên cứu:

1. Đặc điểm lâm sàng của người bệnh trước phẫu thuật NSMX

tại Bệnh viện Tai Mũi Họng trung ương hiện nay ra sao?

2. Những yếu tố nào liên quan đến đánh giá của người

bệnh về công tác theo dõi, chăm sóc người bệnh phẫu

thuật nội soi mũi xoang ?

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:

1. Mô tả đặc điểm lâm sàng của người bệnh trước phẫu thuật nội

soi mũi xoang tại Bệnh viện Tai - Mũi - Họng Trung

ương.

2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến đánh giá của

người bệnh về công tác theo dõi, chăm sóc sau phẫu

thuật nội soi mũi xoang.

3

CHƯƠNG 1:

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

1.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.

Gồm 180 người bệnh được phẫu thuật nội soi mũi

xoang tại khoa Mũi Xoang bệnh viện Tai Mũi Họng Trung

Ương từ tháng 1/2019 đến tháng 6/2019

1.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn:

Người bệnh được phẫu thuật nội soi mũi xoang tại khoa

Mũi Xoang bệnh viện Tai - Mũi - Họng Trung Ương. Người

bệnh được chăm sóc hậu phẫu và theo dõi từ ngày đầu tiên sau

mổ cho đến khi người bệnh ra viện.

Người bệnh trên 18 tuổi.

Bệnh án của người bệnh được ghi chép đầy đủ.

Người bệnh đồng ý tham gia nghiên cứu.

1.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:

Người bệnh dưới 18 tuổi.

Bệnh án của người bệnh không được ghi chép đầy đủ.

Người bệnh không đồng ý tham gia nghiên cứu.

1.2.THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU.

1.2.1. Thời gian nghiên cứu:

Từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 06 năm 2019.

4

1.2.2. Địa điểm nghiên cứu.

Khoa Mũi Xoang bệnh viện Tai - Mũi - Họng Trung

Ương.

1.3. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU.

Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến cứu.

1.4. CỠ MẪU VÀ PHƯƠNG PHÁP CHỌN MẪU

Cỡ mẫu đã thu thấp: 180 (người bệnh)

Phương pháp thu thập: Chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện.

1.5. PHƯƠNG PHÁP CHỌN MẪU.

Lấy toàn bộ người bệnh sau phẫu thuật nội soi mũi

xoang phù hợp với tiêu chuẩn chọn mẫu.

1.6. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP SỐ LIỆU.

Bộ công cụ thu thập số liệu: được thiết kế gồm có 2

phần.

- Phần một là phiếu phỏng vấn cho người bệnh gồm

35 câu hỏi theo các nội dung: đánh giá của người bệnh về

công tác chuẩn bị trước phẫu thuật, chăm sóc sau phẫu thuật

ngày thứ nhất, thứ hai, thứ ba và các ngày sau đó, công tác

hướng dẫn người bệnh thủ tục ra viện và hẹn khám lại. Cuối

cùng đánh giá mức độ hài lòng của người bệnh đối với công

tác chăm sóc sau phẫu thuật.

- Phần hai là bệnh án nghiên cứu (dành cho người nghiên

cứu) gồm các mục: Tuổi, giới, trình độ văn hóa, mức sống, nơi

sinh sống, biểu hiện lâm sàng, chỉ định phẫu thuật của người

5

bệnh khi vào viện, tiền sử dị ứng, thời gian nằm viện, biến chứng

sau phẫu thuật, tình trạng người bệnh sau phẫu thuật.

- Điều tra viên sẽ phỏng vấn người bệnh. Người bệnh sẽ

trả lời lần lượt các câu hỏi nghiên cứu và kết quả sẽ đươc ghi

vào trong mẫu phiếu phỏng vấn đã chuẩn bị trước.

- Sau đó, điều tra viên sẽ tham khảo bệnh án để hoàn

thiện bệnh án nghiên cứu.

1.7. CÁC BIẾN SỐ NGHIÊN CỨU.

1.7.1. Mô tả đặc điểm lâm sàng của người bệnh trước phẫu

thuật NSMX tại Bệnh viện Tai – Mũi – Họng trung ương.

1.7.2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến đánh giá của

người bệnh về công tác theo dõi, chăm sóc sau phẫu thuật

NSMX.

1.8. CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH NGHIÊN CỨU.

Phỏng vấn người bệnh theo bộ câu hỏi trong phiếu phỏng vấn đã

chuẩn bị.

Ghi nhận kết quả từ phiếu phỏng vấn.

Người nghiên cứu hoàn thiện thông tin vào bệnh án mẫu.

1.9. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP VÀ XỬ LÝ SỐ LIỆU.

Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập đầy đủ số liệu theo

phiếu phỏng vấn và phiếu thu thập thông tin từ bệnh án mẫu.

Nhập số liệu và xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0.

6

CHƯƠNG 2

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Quá trình nghiên cứu trên 180 người bệnh được phẫu

thuật nội soi mũi xoang tại khoa Mũi Xoang bệnh viện Tai Mũi

Họng Trung Ương đã thu được một số kết quả như sau:

2.1. Phân bố người bệnh theo tuổi:

Bảng 2.1 Phân bố người bệnh theo tuổi

Số người Tuổi trung Tỷ lệ % Nhóm tuổi bệnh bình

1,7% 18 – 20 tuổi 3

21,1% 21 – 30 tuổi 38

20% 31 – 40 tuổi 36 45,6 ± 15,84 15,6% 41 – 50 tuổi 28

41,7% >50 tuổi 75

100% 180 

Nhận xét:

Người bệnh trong nhóm nghiên cứu thuộc đủ các nhóm

tuổi, nhỏ tuổi nhất là 19 tuổi, lớn tuổi nhất là 83 tuổi. Tuổi

trung bình là 45,6 ± 15,84 tuổi.

Nhóm người bệnh > 50 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là

41,7%.

7

2.2. Phân bố người bệnh theo giới:

Nam

Nữ 38%

62%

Biểu đồ 2.1: Phân bố người bệnh theo giới

Nhận xét:

Trong số 180 người bệnh tham gia nghiên cứu, số người

bệnh nam 112 chiếm tỷ lệ 62,2% nhiều hơn so với số người

bệnh nữ 68 chiếm tỷ lệ 37,8%.

Tỷ lệ nam/nữ là 2/1 và sự khác biệt chưa có ý nghĩa

thống kê với (p>0,05).

8

2.3. Ảnh hưởng của gây mê đối với người bệnh sau phẫu

thuật.

60%

51%

50%

40%

30%

24%

20%

10%

02%

02%

01%

0%

Bí tiểu

Nôn, buồn nôn

Chóng mặt Rối loạn tiêu hóa

Mề đay, mẩn ngứa

Biểu đồ 2.2: Ảnh hưởng của thuốc mê đối với người bệnh

sau phẫu thuật

Nhận xét:

Trong các người bệnh nghiên cứu, ngay sau phẫu thuật

tác dụng ảnh hưởng nhất của thuốc mê là chóng mặt gặp ở

51,4% người bệnh. Sao đó là ảnh hưởng nôn, buồn nôn chiếm

tỷ lệ 23,9%.

Các ảnh hưởng như rối loạn tiêu hóa, bí tiểu, nổi mề

đay, mẩn ngứa ít gặp hơn.

9

2.4. Đánh giá mức độ đau sau phẫu thuật.

Bảng 2.2 Đánh giá mức độ đau theo thang điểm VAS

Điểm 0 Điểm 1 - 2 Điểm 3 - 4 Điểm 5 - 6 Điểm 7 - 8

Mức độ đau theo thang điểm VAS n= 180 5 18 67 75 11 Điểm 9 - 10 4

% 2,8% 10% 37,2% 41,7% 6,1% 2,2%

Nhận xét:

- Sau phẫu thuật nội soi mũi xoang, hầu hết có mức độ

đau trung bình với thang điểm VAS (5 - 6) chiếm tỷ lệ

41,7% và thang điểm VAS (3 - 4) chiếm 37,2%.

- Có 4 trong nghiên cứu có mức độ đau theo thang điểm

VAS (9 - 10) chiếm 2,2%.

2.5. Đánh giá diễn biến thủ thuật rút Merocel của người bệnh.

71%

63%

08%

03%

80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%

Chảy máu

Choáng ngất

Đau sau rút Merocel

Đặt lại Merocel

Biểu đồ 2.3: Công tác chăm sóc sau rút Merocel ở người bệnh

10

Nhận xét:

Trong nghiên cứu này, tôi thấy tỷ lệ chảy máu sau thủ thuật rút

merocel là 62,8%. Trong đó chỉ có 5 người bệnh phải đặt lại

merocel chiếm tỷ lệ 2,8%.

Số người bệnh phàn nàn về đau sau rút Merocel chiếm

71,1%, trong đó có 8,3% người bệnh có biểu hiện choáng ngất

sau thủ thuật rút Merocel.

2.6. Đánh giá của người bệnh về công tác tiêm truyền sau

phẫu thuật.

78%

22%

00%

00%

00%

80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%

Hài lòng

Không hài lòng

Rất không hài lòng

Bình thường

Rất hài lòng

Biểu đồ 2.4: Đánh giá của người bệnh về công tác tiêm

truyền sau phẫu thuật.

Nhận xét:

Kết quả nghiên cứu của tôi cho thấy, tất cả người bệnh

đều có mức độ hài lòng 22,2% và rất hài lòng 77,8% về công

tác tiêm truyền sau phẫu thuật.

11

2.7. Phân tích một số yếu tố liên quan đến đánh giá của

người bệnh về công tác theo dõi chăm sóc phẫu thuật nội soi

mũi xoang.

Bảng 2.3 Yếu tố liên quan mức độ đau, tình trạng ăn uống và

tình trạng ho sau phẫu thuật

Hài lòng Yếu tố liên quan

Không hài lòng n % n % Rất hài lòng n %

0 0.0% 0 0.0% 5 2.8%

5 12

1 3 15 0.6% 6.7% 2.8% 1.7% 30 16.7% 34 18.9% 8.3% 32 17.8% 28 15.6%

6 3.3% 3 1.7% 2 1.1%

Mức độ đau theo thang điểm VAS

3 1 1.7% 0.6% 0 0.0%

0 3 0.0% 1.7% 31 17.2%

1 0.6% 28 15.6% 96 53.3%

Tình trạng ăn uống 3 1.7% 14 7.8% 4 2.2%

0 0.0% 58 32.2% 68 37.8%

Tình trạng ho 5 7 5.6% 2.8% 10 3.9% 26 14.4% 3 2 1.7% 1.1% Không đau Hơi đau Đau nhẹ Đau vừa Đau nặng Đau khủng khiếp Tốt hơn Bình thường Kém hơn Không ho Ho khan Ho đờm

12

Nhận xét:

- Yếu tố mức độ đau: người bệnh có mức độ đauvừa

đánh giá không hài lòng cao nhất (8,3%), trong đó người bệnh

có mức độ đau nhẹ là nhóm người bệnh đánh giá rất hài lòng

cao nhất (18,9%).

- Tình trạng ăn uống sau phẫu thuật: người bệnh có mức

độ ăn uống sau phẫu thuật kém đánh giá không hài lòng cao

nhất (1,7%), trong đó nhóm đánh giá rất hài lòng là người bệnh

có mức độ ăn uống bình thường (53,3%).

- Yếu tố tình trạng ho: Nhóm người bệnh không ho đều

hài lòng và rất hài lòng với công tác chăm sóc, theo dõi còn

nhóm người bệnh ho đờm đánh giá không hài lòng cao nhất

(3,9%).

13

2.8. Đánh giá chung của người bệnh về công tác chăm sóc sau

phẫu thuật.

69%

70%

60%

50%

40%

28%

30%

20%

10%

03%

00%

00%

0%

Hài lòng

Không hài lòng

Rất không hài lòng

Bình thường

Rất hài lòng

Biểu đồ 2.5. Đánh giá chung của người bệnh về công tác

chăm sóc sau phẫu thuật

Nhận xét:

Trong nghiên cứu của tôi, các người bệnh đều đánh giá

chung về công tác chăm sóc sau phẫu thuật ở mức độ hài lòng

(68,9%) và rất hài lòng (28,3%).

14

CHƯƠNG 3

BÀN LUẬN

3.1. Phân bố người bệnh theo tuổi:

- Trong nghiên cứu của tôi, người bệnh được phẫu thuật

ở mọi lứa tuổi khác nhau, nhỏ nhất là 19 tuổi và lớn nhất là 83

tuổi. Ngoài ra tuổi trung bình của người bệnh trong nhóm nghiên

cứu là 45,6 ± 15,84 tuổi. Kết quả nghiên cứu này có sự phù hợp

với kết quả của các tác giả trong và ngoài nước.

- Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Tuyết Nga [37]

trên 120 người bệnh được chẩn đoán viêm mũi xoang mạn tính,

cho thấy lứa tuổi của người bệnh là từ 16 đến 59 tuổi. Trong

nghiên cứu này, nhóm tuổi phổ biến nhất là 46 - 59 tuổi chiếm

tỷ lệ 23,3%. Nghiên cứu khác của tác giả Lê Thị Thảo thực

hiện năm 2015 cũng cho kết quả tương tự[38]. Tác giả cho thấy

người bệnh viêm mũi xoang mạn tính thường có lứa tuổi từ 15

đến 55 tuổi. Lứa tuổi thường gặp nhất là 36 - 45 tuổi chiếm tỷ

lệ 32%.

- Nghiên cứu của tác giả nước ngoài cũng ủng hộ cho

kết quả nghiên cứu của tôi. Tác giả Y.Min [39]cho rằng, lứa

tuổi thường gặp nhất của người bệnh viêm mũi xoang mạn tính

là 45 - 49 tuổi.

- Như vậy, viêm mũi xoang mạn tính có chỉ định phẫu

thuật nội soi thường gặp ở lứa tuổi trưởng thành. Đặc biệt là

15

những người bệnh trong độ tuổi lao động, đây là nhóm những

đối tượng thường xuyên tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ như

khói bụi, đất đai, các loại hóa chất… Và đây là một đặc điểm

dịch tễ đáng được quan tâm trong công tác chăm sóc sau phẫu

thuật nội soi mũi xoang.

3.2. Phân bố người bệnh theo giới.

- Trong số 180 người bệnh được phẫu thuật nội soi mũi

xoang, tôi thấy số người bệnh nam chiếm tỷ lệ cao hơn số

người bệnh nữ. Tỷ lệ nam/nữ trong nghiên cứu của tôi là 2/1.

- Tuy nhiên tỷ lệ nam/nữ ở nhiều nghiên cứu khác nhau

cũng có những thay đổi. Nghiên cứu của tác giả R. Shashy năm

2004 cho rằng [40], tỷ lệ mắc bệnh viêm mũi xoang mạn tính có

chỉ định phẫu thuật xoang ưu thế hơn ở phụ nữ với tỷ lệ nam/ nữ

là 1/2. Bệnh có xu hướng gặp ở nữ nhiều hơn so với nam giới.

Tương tự như vậy, trong nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị

Tuyết Nga [37], số người bệnh nữ (52,5%) cao hơn so với số

người bệnh nam (47,5%). Tuy nhiên, cũng có nghiên cứu cho rằng

tỷ lệ số người bệnh nam và nữ bằng nhau.

- Như vậy, để xác định được sự phân bố người bệnh

theo giới cần phải có nhiều nghiên cứu với cỡ mẫu lớn hơn.

Nhưng cho đến hiện tại, tôi thấy hầu hết các nghiên cứu đều

ủng hộ cho số người bệnh nam và nữ đối với viêm mũi xoang

mạn tính có chỉ định phẫu thuật không có sự khác biệt.

16

3.3. Ảnh hưởng của gây mê đối với người bệnh sau phẫu

thuật.

Theo nghiên cứu của tác giả S. Goksu[45], tác dụng phụ

thường gặp nhất của gây mê đối với người bệnh sau phẫu thuật

là cảm giác nôn và buồn nôn. Tác giả ít gặp các ảnh hưởng đến

tim mạch và hô hấp như ngừng tim hoặc suy hô hấp.

Điều này có sự khác biệt nhẹ với nghiên cứu của tôi, tác

dụng phụ thường gặp nhất sau quá trình gây mê của người bệnh

là cảm giác chóng mặt chiếm tỷ lệ 51,4%. Hầu hết cảm giác

chóng mặt những người bệnh này đều tự hồi phục mà không

cần phải can thiệp gì thêm. Trong khi đó, triệu chứng nôn, buồn

nôn là triệu chứng thường gặp thứ 2 chiếm tỷ lệ 23,9%. Rất ít

người bệnh trong nghiên cứu của tôi có triệu chứng rối loạn

tiêu hóa, bí tiểu hay nổi mề đay mẩn ngứa.

Đối với người điều dưỡng, việc nắm vững những ảnh

hưởng của gây mê với những người bệnh sau phẫu thuật có vai

trò quan trọng không chỉ trong việc theo dõi phát hiện các dấu

hiệu nguy hiểm mà còn hỗ trợ cho công tác động viên, an ủi và

giải thích cho người bệnh.

3.4. Đánh giá mức độ đau sau phẫu thuật.

Nghiên cứu của tác giả F. Ling[46], đánh giá mức độ

đau sau phẫu thuật nội soi mũi xoang bằng thang điểm VAS

cho thấy, hầu hết những người bệnh có thang điểm VAS trung

17

bình từ 4,6 - 5,4 (điểm). Đây là mức độ điểm tương ứng với các

cơn đau trung bình.

Trong nghiên cứu này tôi sử dụng thang điểm VAS để

đánh giá mức độ đau của người bệnh. Sau phẫu thuật, số người

bệnh có thang điểm đau VAS(5-6) chiếm tỷ lệ nhiều nhất là

41,7%, sau đó là số người bệnh có điểm VAS(3-4) chiếm tỷ lệ

37,2%. Cá biệt trong nghiên cứu của tôi có 4 người bệnhđau

VAS(9-10) chiếm tỷ lệ 2,2%.

Những kết quả này cho thấy, đau sau phẫu thuật nội soi

mũi xoang là một yếu tố cần phải được quan tâm và chăm sóc

cũng như động viên thăm hỏi sau phẫu thuật. Việc giảm đau

sau phẫu thuật sẽ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của người

bệnh đồng thời tránh được những ảnh hưởng tiêu cực của đau

mang lại.

3.5. Đánh giá diễn biến thủ thuật rút merocel của người

bệnh.

Merocel là vật liệu cầm máu có nhiều ưu điểm hơn so

với Meche, trong nghiên cứu của tác giả R. Garth [49] về tác

dụng và hiệu quả của các phương tiện cầm máu sử dụng trong

phẫu thuật nội soi mũi xoang. Tác giả cho thấy ưu điểm rõ rệt

của đặt Merocel so với Meche truyền thống trên 3 phương diện:

Sự thoải mái của người bệnh, tỷ lệ chảy máu sau rút vật liệu và

mức độ khó khăn khi thao tác rút vật liệu. Tất cả số liệu đều

18

ủng hộ ưu điểm của đặt Merocel sau phẫu thuật nội soi mũi

xoang. Ngoài ra nghiên cứu của tác giả R. Weber[50], còn cho

thấy, Merocel hạn chế nguy cơ nhiễm khuẩn tại chỗ hơn so với

Meche.

Kết quả nghiên cứu của tôi cũng cho thấy hiệu quả rõ

rệt hơn của Merocel so với Meche.Tôi thấy tỷ lệ chảy máu sau

rút Merocel chỉ là 62,8% nhỏ hơn so với rút Meche là 71,1%.

Ngoài ra tỷ lệ đau sau rút Merocel chỉ ở mức 71,1% trong khi

đau sau rút Meche 82,25. Trong nghiên cứu này, tôi thấy ưu

điểm rõ rệt nhất của Merocel so với Meche là ở tỷ lệ phải đặt

lại vật liệu cầm máu. Trong khi tỷ lệ đặt lại Merocel chỉ ở mức

2,8% thì tỷ lệ đặt lại Meche là 62,2%. Sự khác biệt rất có ý

nghĩa thống kê với p<0,05.

Như vậy, tôi thấy rằng việc theo dõi người bệnh sau thủ

thuật rút Merocel cũng như rút Meche đóng một vai trò quan

trọng trong quá trình chăm sóc người bệnh sau phẫu thuật mũi

xoang. Bởi vì đây là một thủ thuật có những nguy cơ đi kèm và

cần phải được thực hiện dưới sự theo dõi và chăm sóc cẩn thận.

3.6. Phân tích một số yếu tố liên quan đến đánh giá của

người bệnh về công tác theo dõi chăm sóc sau phẫu thuật

nội soi mũi xoang.

Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm đánh giá vai

trò của mức độ đau sau phẫu thuật với đánh giá hài lòng của

19

người bệnh. Trong nghiên cứu của tác giả M. Finkensieper[54],

đau sau phẫu thuật nội soi mũi xoang có thể gây ra những rối

loạn về giấc ngủ ở 49% người bệnh sau phẫu thuật nội soi mũi

xoang. Ngoài ra ảnh hưởng của đau có thể gây ra những ảnh

hưởng rối loạn cảm xúc (mood change) trên người bệnh sau

phẫu thuật nội soi mũi xoang. Những yếu tố này ảnh hưởng rất

nhiều đến đánh giá về sự hài lòng của người bệnh. Trong

nghiên cứu của tôi cũng thấy rõ mối liên quan giữa mức độ đau

với đánh giá hài lòng của người bệnh. Những người bệnh có

mức độ đau nhẹ có tỷ lệ đánh giá mức độ rất hài lòng khá cao

(18,9%) và tỷ lệ không hài lòng thấp (1,7%). Trong khi đó

những người bệnh có mức độ đau vừa có tỷ lệ mức độ không

hài lòng chiếm đa số với tỷ lệ (8,3%). Từ kết quả nghiên cứu

này, tôi thấy việc giảm đau sau phẫu thuật đóng một vai trò rất

quan trọng trong công tác chăm sóc người bệnh cũng như đánh

giá mức độ hài lòng sau phẫu thuật.

Trong nghiên cứu này, tôi cũng đánh giá ảnh hưởng của

tình trạng ăn uống đối với sự hài lòng của người bệnh sau phẫu

thuật. Kết quả cho thấy số người bệnh có tình trạng ăn uống

kém thường đánh giá mức độ không hài lòng (1,7%) cao hơn so

với người bệnh có tình trạng ăn uống bình thường (0,6%). Tuy

nhiên sự khác biệt chưa nhiều và chưa có ý nghĩa về mặt thống

kê. Cũng tương tự như vậy, khi đánh giá về sự ảnh hưởng của

20

tình trạng ho sau phẫu thuật với đánh giá của người bệnh, tôi

cũng thu được kết quả tương tự. Người bệnh không ho sau phẫu

thuật có mức độ đánh giá hài lòng (32,2%) và rất hài lòng

(37,8%) cao hơn những người bệnh ho đờm hoặc ho khan. Tuy

nhiên vẫn cần có những nghiên cứu với thời gian theo dõi lâu

hơn và số mẫu lớn hơn để có thể khẳng định nhận định này.

3.7. Mức độ hài lòng của người bệnh

Trong nghiên cứu của tôi, đánh giá mức độ hài lòng của

người bệnh trên hầu hết các công tác chăm sóc của điều dưỡng sau

phẫu thuật nội soi mũi xoang.

Công tác điều dưỡng trong việc hướng dẫn người bệnh và

người nhà theo dõi các dấu hiệu bất thường sau phẫu thuật

đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sớm các biến

chứng.

Đánh giá của người bệnh về công tác rút Meche cũng

như Merocel mũi là biến số có mức độ không hài lòng của

người bệnh cao nhất chiếm tỷ lệ 5,6%, cá biệt có người bệnh

đánh giá mức độ rất không hài lòng chiếm 0,6%. Điều này có

thể xuất phát từ nguyên nhân khách quan đó là việc rút các vật

liệu cầm máu ra khỏi mũi thường gây đau và những khó chịu

cho người bệnh, mặt khác công tác chăm sóc của người điều

dưỡng không tốt sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của người bệnh,

21

khiến cho họ không hợp tác với bác sĩ trong khi thực hiện thao

tác chăm sóc này. Do đó, công tác chăm sóc sau rút Meche

hoặc Merocel cần phải được thực hiện với sự quan tâm và cải

thiện hơn để làm giảm tỷ lệ đánh giá không hài lòng này của

người bệnh.

Công tác tiêm truyền sau phẫu thuật trong nghiên cứu

của tôi được người bệnh đánh giá cao. Mức độ rất hài lòng của

người bệnh chiếm tỷ lệ 77,8%, và mức độ hài lòng chiếm tỷ lệ

22,2%. Vai trò của người điều dưỡng không chỉ đảm bảo thực

hiện đúng y lệnh của người thấy thuốc mà trong quá trình thực

hiện y lệnh, người điều dưỡng còn cần dặn dò người bệnh và

người nhà theo dõi các dấu hiệu bất thường sau khi tiêm truyền

thuốc để kịp thời báo cáo bác sĩ nhằm đưa ra xử trí phù hợp.

Từ kết quả của những đánh giá trên đây, tôi

khảo sát đánh giá chung của người bệnh về toàn bộ quá trình

chăm sóc sau phẫu thuật mà họ đã được trải qua tại khoa Mũi

Xoang bệnh viện Tai - Mũi - Họng Trung Ương. Kết quả cho

thấy có 68,9% người bệnh có cảm giác hài lòng về quá trình

chăm sóc sau phẫu thuật, 28,3% người bệnh thấy rất hài lòng.

Không có người bệnh nào thấy không hài lòng.

22

KẾT LUẬN

- Người bệnh thường là nam giới (tỷ lệ nam/nữ là 2/1).

Lứa tuổi thường gặp nhất là trên 50 tuổi. Người bệnh có trình

độ học vấn trung học cơ sở chiếm tỷ lệ cao nhất. Phân bố người

bệnh theo mức sống chủ yếu ở mức trung bình (83,3%).

- Trước phẫu thuật đa số người bệnh có dấu hiệu sinh

tồn nằm trong giới hạn bình thường. Người bệnh thường có tiền

sử viêm mũi dị ứng chiếm (25,6%).Biểu hiện lâm sàng chủ yếu

khi nhập viện là: ngạt mũi 2 bên (50%), đau nhức vùng mặt

(46,7%) và chảy dịch mũi mủ (43,4%). Chỉ định trước phẫu thuật

thường gặp nhất là viêm mũi xoang mạn tính polyp mũi 2 bên

(60/180) trường hợp.

- Sau phẫu thuật hầu hết các người bệnh có chỉ số dấu

hiệu sinh tồn trong giới hạn bình thường. Ảnh hưởng của thuốc

gây mê: chóng mặt (51,4%). nôn và buồn nôn (23,9%). Mức độ

đau sau phẫu thuật, người bệnh có thang điểm đau VAS(5-6)

chiếm tỷ lệ cao (41,7%)

-Về tình trạnh dinh dưỡng sau phẫu thuật, ăn uống bình

thường (69,4%).

- Sau rút Meche người bệnh có cảm giác đau (82,2%),

chảy máu (71,1%). Tỷ lệ đặt lại Meche là (62,2%). Sau rút

23

Merocel người bệnh có cảm giác đau (71,1%), chảy máu

(62,8%). Tỷ lệ đặt lại Merocel là (2,8%).

- Đánh giá rất hài lòng của nhóm người bệnh đau nhẹ

cao nhất (18,9%), đánh giá không hài lòng của nhóm người

bệnh không đau (0,0%), hơi đau (0,6%).

- Về dinh dưỡng nhóm người bệnh có mức dinh dưỡng

bình thường đánh giá rất hài lòng (53,3%). Dinh dưỡng kém

hơn đánh giá không hài lòng (1,7%).

- Với nhóm người bệnh có tình trạng ho đờm đánh giá

không hài lòng (3,9%) không ho đánh giá hài lòng (32,2%) và

rất hài lòng (37,8%).

- Đánh giá chung của người bệnh về công tác chăm sóc

sau phẫu thuật: rất hài lòng (28,3%), hài lòng (68,9%), bình

thường (2,8%). Đánh giá về sự cải thiện các triệu chứng cơ

năng sau phẫu thuật: (99,4%), người bệnh thấy có sự cải thiện

hơn các triệu chứng so với trước mổ, (0,6%), người bệnh thấy

không cải thiện hoặc các triệu chứng nặng hơn so với trước mổ.

24

KIẾN NGHỊ

1. Sau phẫu thuật có đến (51,4%) người bệnh có cảm

giác chóng mặt và (23,9%) có triệu chứng buồn nôn. Do đó sau

phẫu thuật cần có các biện pháp chống nôn và giải thích cho người bệnh và người nhà yên tâm về cảm giác chóng mặt sau

phẫu thuật. 2. Có 4 người bệnh trong nhóm nghiên cứu có thang điểm

VAS sau mổ là 9 - 10 điểm do đó người điều dưỡng cần thường xuyên theo dõi người bệnh để đánh giá đúng mức độ đau nhằm

kịp thời báo cáo bác sĩ có biện pháp giảm đau phù hợp. 3. Mức độ hài lòng của người bệnh về công tác rút

Meche và Merocel sau phẫu thuật chưa cao, có 8,3% người bệnh có biểu hiện choáng ngất và 5,6% không hài lòng về công

tác chăm sóc rút Meche cũng như Merocel. Do đó cần phải thực hiện tốt hơn công tác điều dưỡng trong việc giải thích,

động viên cũng như phối hợp với bác sĩ khi thực hiện các thủ thuật này. 4. Số người bệnh đau sau rút Mech chiếm 82,2% và

Merocel 71,1% do đó tôi kiến nghị cần phải dự phòng giảm đau trước khi rút Meche và Merocel cho người bệnh đồng thời phối

hợp với các thuốc tê tại chỗ để giảm thiểu mức độ đau cho người bệnh trước khi thực hiện thủ thuật.

5. Trong nghiên cứu, số lượng người bệnh hài lòng và rất hài lòng với công tác tiêm truyền tại khoa phòng chiếm tỷ lệ lớn. Do đó cần phải tiếp tục phát huy và duy trì hiệu quả của công tác này.