n Thất Thuyết (1839-1913)
Là Phụ chính đại thần của nhà Nguyễn. Ông là một trong những quan nhà Nguyễn chng
Pháp tiêu biểu nhất, cùng vua Hàm Nghi phát động phong trào Cần Vương.
Là Phụ chính đại thần của nhà Nguyễn. Ông là một trong những quan nhà Nguyễn chng
Pháp tiêu biểu nhất, cùng vua Hàm Nghi phát động phong trào Cần Vương.
Xuất thân
n Thất Thuyết sinh ngày 29 tháng 3 năm K Hợi, tức 12 tng 5 năm 1839[1] tại làng
Phú Mộng, bên bờ sông Bạch Yến cạnh Kinh thành Thuận Hóa, nay thuộc thôn Phú
Mộng, phường Kim Long, thành phố Huế. Ông là con thứ hai của Đề đốc Tôn Thất Đính
bà Văn Thị Thu, cũng cháu 5 đời của chúa Nguyễn Hiền vương (Nguyễn Phúc
Tần).
Thời vua Tự Đức
Năm 30 tui (1869), Tôn Thất Thuyết giữ chức Án sát tnh Hải Dương. Đến tháng 7 năm
1870, được sung làm Biện Bộ hộ rồi sau đó (tháng 11) chuyển sang chức Tán tương
giúp Tng thng quân vụ đại thần Hoàng Kế Viêm "dẹp loạn" ở các tnh pa Bắc. Sau
chiến dịch này, Tôn Thất thuyết được phong chức "Quang lộc tự khanh" và làm Tán
quân thứ Thái Nguyên. Kể từ đây, ông chuyên hoạt đng quân sự và ni tiếng dần qua
các cuộc giao tranh vi những cánh quân chống lại triều đình Huế.
Tháng 12 năm 1870, ông ch huy đánh dẹp nhóm Đặng Chí Hùng ở Thái Nguyên.
Tháng 3 năm 1872 ông cùng Trương Văn Để đánh tan quân Tàu Ô ở Hải Dương, giết
chết Hoàng Tề.
Tháng 8 năm 1872, ông đánh thắng toán giặc Khách ở Quảng Yên.
Tháng 12 năm 1873, ông cùng Hoàng Kế Viêm phục binh ti Cầu Giy, Hà Ni giết chết
viên ch huy quân sự trong đợt Pháp đánh min Bắc ln thứ nhất là trung uý Francis
Garnier.
Tháng 7 năm 1874, ông cùng Hoàng Kế Viêm đàn áp 2 cuộc nổi dậy của hai sĩ phu Trần
Tấn và Đặng Như Mai.
Tháng 3 năm 1875, ông dập tắt được khi nghĩa ở Cổ Loa, Đông Anh, bắt chém thủ lĩnh
trận.
Tháng 6 năm 1875, bức hàng nhóm Dương Đình Tín ở Thái Nguyên.
Tháng 9 năm 1875, bắt sống được tướng quân Cờ Vàng là Hoàng Sùng Anh ở Thái
Nguyên....
Với hàng loạt công lao như vậy nên Tôn Thất thuyết được vua Tự Đức cho tng tiến
nhanh. Tháng 3 năm 1872, ông được bổ làm Bchính tỉnh Hải Dương. Năm 1873 làm
Tham tán Đại thần hàm Th lang Bộ binh, rồi lên thự Tham tri Bộ binh. Tháng 3 năm
1874 vẫn là Tham tán Đại thần nhưng Tôn Thất Thuyết được phong là Hữu tham tri Bộ
binh, tước Vệ Chính Nam. Tháng 4 năm 1874, ông giữ chức Tuần Vũ tỉnh Sơn Tây kiêm
Tham tán Đại thần. Tháng 3 năm 1875 ông là thự Tổng đc Ninh-Thái kiêm Tng đốc
các việc quân Ninh-Thái-Lạng-Bằng. Đến tng 10 năm 1875 lại được b làm Hiệp đốc
quân vụ Đại thn, chức tước gần ngang với Tổng thống quân vụ Đại thần Hoàng Kế
Viêm. Với thắng li vào năm 1881, Tôn Thất Thuyết được phong chức Thượng thư Bộ
binh và sang tháng 2 năm 1882 ông kiêm thêm chức Hải phòng sứ Kinh thành Huế. Năm
1883, Tôn Thất Thuyết chính lãnh chức Thượng thư Bộ binh và sau đó được cử vào
Mật Viện vào tng 6 năm 1883.
Về sau, trong khi vua Tự Đức quan tâm nhiều đến chuyện "dẹp loạn" hơn là chống Pháp
t đối với Tôn Thất Thuyết chng xâm lược là nhim vụ thiêng liêng ngay cả nhà
vua cũng không cấm đoán ông được. Vào tháng 10 năm 1875, khi ông đang làm Tổng
đốc Ninh-Thái, phái viên Pháp ở Hà Ni vô cùng bực tức đã đề nghị triều đình Huế phải
thay người, vua Tự Đức đã b ông đi ch khác. Chắc hẳn do chán chường thái độ bạc
nhược của triều đình trước sự làm ti ngàyng trắng trợn của thực dân Pháp, từ năm
1876, Tôn Thất Thuyết thường lâm bệnh, muốn thôi đảm đương việc quân và dâng sớ lên
vua Tự Đức bày tý muốn đi tu.
Ngày 19 tháng 7 năm 1883, trước khi chết, Tự Đức đã triệu tập các trung thần để chứng
kiến việc Tự Đức di chúc truyn ni cho Ưng Chân (vua Dục Đức) đồng thời phong
chon Thất Thuyết làm Đệ tam Phụ chính đại thần sau Trần Tiễn Thành và Nguyễn
Văn Tường để giúp cho Dục Đức kế vị ngôi vua vào tháng 7 năm 1883.
Thời vua Dục Đức, vua Hiệp Hoà
Với chức vụ Phụ chính đại thn, cùng Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã nhiu lần
làm việc phế lập. Đầu tiên là việc phế bỏ Dục Đức, đưa Hiệp Hòa lên ni.
Tàu chiến Pháp tấnng cửa Thuận An 1883Tháng 8 năm 1883, Tôn Thất Thuyết được
thăng chức Đin tin tướng quân, Hiệp biện Đại học sỹ, tước Vệ Chính Bá. Nhưng do
ông đã phản đối Hiệp ước Harmand ký ngày 25 tháng 8 năm 1883, nên đã b Hiệp Hoà
đổi sang làm Thượng thư Bộ Lễ rồi Thượng thư Bộ Lại. Do không chấp nhận chủ trương
đầu hàng Pháp nên ông đã tổ chức đảo chính vào cui tháng 11 năm 1883, phế bỏ Hiệp
Hòa đưa Kiến Phúc lên ni và về gilại chức Thượng thư Bộ Binh. Trong triều đình
Huế tt cả những quan từng có quan hệ mật thiết với Pháp đều bị ông tìm cách tr khử.
Ông thâu tóm quyn lực trong tay để chuẩn bị cho công cuộc chng Pháp sắp tới. Việc
đưa Hàm Nghi lên ngôi o đầu tng 8 năm 1884, sau cái chết của vua Kiến Phúc, cũng
xut phát từ ý đồ của Tôn Thất Thuyết nhằm hướng triều đình theo chủ trương chng
Pháp.
Từ lúc về Huế tham dự triều chính, đặc biệt là sau ngày vua Tự Đức mất, Tôn Thất
Thuyết đã làm hết sức mình để biến triều đình Huế thành trung tâm đầu não của cuộc
kháng Pháp. Song lực yếu thế cô, Tôn Thất Thuyết phải chịu cảnh đắng cay khi Hiệp Ho
à
ký hip ước Quý Mùi (25 tháng 8 năm 1883) và phải chấp nhận xuôi tay khi Kiến Phúc
ký hip ước Giáp Thân (6 tháng 6 năm 1884). Đến lúc đưa Hàm Nghi lên ngôi (2 tng 8
năm 1884), Tôn Thất Thuyết mới thực sự nắm được triều đình đã mất gần hết quyền lực
ông c hết sức để đưa nó thoát khỏi những ràng buộc mà người Pháp đang thiết lập.
Người Pháp cũng đã công nhận "triều đình An Nam đã biểu dương một thái độ không
hèn" và "thái độ ấy do Hội đồng Phụ chính đề ra" và n Tht Thuyết trở thành đi
tượng cần thanh toánng đầu của người Pháp.
Thời vua Hàm Nghi
Dưới thời vua Hàm Nghi,n Thất Thuyết thực sự trở thànhi gai mà người Pháp
muốn nh ngay lập tức. Đầu tháng 1 năm 1884, Tôn Thất Thuyết lập đội quân Phấn
Nghĩa và giao cho Trần Xuân Soạn trực tiếp chỉ huy để sẵn sàng ứng phó khi có sự cố.
Trong tình thế luôn bị thực dân Pháp mun loại bỏ, ông đã ra tay trước để giành thế chủ
động bằng cuộc tấn công Pháp tại Huế vào đêm 4 tháng 7 năm 1885, khi quân Pháp đang
m tiệc chiêu đãi t Tôn Thất Thuyết cho quân đánh úp vào trại lính và của Tòa Khâm
sứ Pháp, nhưng đã tht bại. Sau đó ông đã đưa Hàm Nghi ra Sơn Phòng Qung Trị, thay
mặt vua hạ chiếu Cần Vương. Hai con trai của Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn
Thất Thiệp cũng đều là chhuy trong phong trào Cần Vương.
Phong trào Cần Vương
Mặc cho ba bà Thái hậu và nhiều quan lại kêu gi quay về triều đình, n Thất Thuyết
vẫn tuyên bố: "Về Huế là tmình đưa chân vào cho ngục thất, mà người cầm chìa khoá
là quân Pháp. Thừa nhận Hiệp ước 1884 là dâng nước Nam cho kẻ địch. Đành rằng hoà
bình là quý, nhưng không lo khôi phục sẽ mang tiếng là đã bỏ giang sơn của tiền triều
dày công gây dựng và còn có tội với hậu thế"
Sau khi giúp vua Hàm Nghi xây dng căn cứ lãnh đạo phong trào kháng Pháp, nhận thấy
tương quan lực lượng khá chênh lệch, vào tháng 2 năm 1886, Tôn Thất Thuyết đã để cho
hai con trai của mình là Tôn Thất Thiệp và Tôn Thất Đạm tiếp tục duy trì "triều đình
Hàm Nghi" chống Pháp, còn mình cùng với Trần Xuân Soạn và Ngụy Khắc Kiều tìm
đường cầu viện, vượt Hà Tĩnh rồi Nghệ An, đến tháng 3 năm 1886 ông tới Thanh Hoá.
Ông dừng chân tại Cẩm Thu một thời gian và cùng Trần Xuân Soạn và em ruột Tôn
Thất Hàm thảo luận về kế hoạch khởi nghĩa rồi phân Soạnli lo phát triển phong trào.
Sau đó ông đến tổng Trịnh Vạn thuộc châu Thường Xuyân hội kiến Cầm Bá Thước và
lại đó cho đến ngày 22 tháng 4 năm 1886. Từ đấy ông qua thượng lưu sông Mã, đến cu
Quan Hoá để gặp tù trưởng người Mường là Hà Văn Mao. Điểm dừng chân lâu nhất của
ông là vào tháng 6 năm 1886 ti nhà tù trưởng nờiờng Điêu Văn Trì, bởi lẽ lúc này
ông mắc bệnh rất nặng, không thể tiếp tục đi được. Ông tiếp tục lên đường đi Vân Nam
đến Quảng Đông vào tháng 2 năm 1887. Ông chủ trương cầu viện nhà Thanh giúp
Vit Nam đánh thực dân Pháp. Cuối năm 1888, vua Hàm Nghi b bắt vì thuộc hạ Trương
Quang Ngọc phn bội,n Thất Thiệp và n Thất Đạm đều chết trong lần đó. Nhưng
cuộc cầu viện bất thành, ông đành tìm các bn lưu vong như Nguyn Thiện Thuật, cố
gắng liên lạc với phong trào trong nước.
Hoạt động tại Trung Quốc
Lúc này ti Thanh Hoá, cuộc khởi nghĩa Ba Đình b dập tắt, căn cứ của Trần Xuân Soạn
b mất, nên ông Soạn đã vượt biên sang Trung Quc gặp ông Thuyết tại Quảng Đông.
Vic cầu viện của Tôn Thất Thuyết bất thành nhưng ông đã dựa vào tình c
ảm cá nhân của
một số quan lại Mãn Thanh chống Pháp nên Tôn Thất Thuyết đã cùng các đồng sự của
ông tchức liên lc với các cuộc chống Pháp bên trong nước, mua sắm vũ khí, đạn dược
v cho nghĩa quân. Trâu bò, lúa gạo từ Việt Nam được chuyn sang Trung Quốc và đổi
lấy vũ khí đưa về. Việc tiếp tế này duy trì mãi đến năm 1894 thì kết thúc do biên giới
Vit - Trung b khoá. Tống Duy Tân sau khi thất bạiThanh Hóa đã sang Quảng Đông
gặp ông, nhưng năm 1888 ông lại cử Tống Duy Tân về xây dựng căn cứ chống Pháp ở
Hùng Lĩnh.
Năm 1889, Tôn Thất Thuyết cử người về Hà Tĩnh và phong cho Phan Đình Phùng làm
Bình Trung tướng quân. Hầu hết các tướng nh vùng Đông Bắc và Bắc Kỳ đều có sự liên
lạc với Tôn Thất Thuyết. Ông đã tchức nhiều hoạt động chng Pháp ở vùng Đông Triều
liên tục trong những năm 1891 - 1892. Những năm 1892 - 1895, do b mất liên lạc trong
nước, ông đã xây dng nhiều toán quân vũ trang mà chủ yếu là người Hoa và dân tc
thiểu số. Tháng 6 năm 1892, ông đã ch đạo cho Lương Phúc đưa quân xâm nhập tổng
Hoành Mô thuộc Móng Cái, phát tuyên ngôn dưới danh nghĩa Hàm Nghi để đánh Pháp.
Đầu năm 1893, ông đã ch đạo cho Vũ Thái Hà tiến vào nh Hcũng thuộc Móng Cái
để tấn công Pháp cũng dưới danh nghĩa Cần Vương.
Tháng 3 năm 1895, ông cho mt đạo quân tiến đánh Cao Bằng, chiếm vùng Lục Khu
nhưng bị Pháp đẩy lui. Từ năm 1895, chiến tranh Trung - Nhật n ra, biên giới Việt -
Trung b kiểm soát chặt chẽ, người Pháp yêu cầu nhà Mãn Thanh quản thúc Tôn Thất
Thuyết, theo dõi Lưu Vĩnh Phúc nên các hoạt động của ông chm dứt. Ông bị cấm túc,
không được ra khỏiitrú. Trong những năm cui đời, ông thường có cơn điên dại và
thường múa gươm chém o những tảng đá trong vườn. Có lẽ do lòng khát khao cứu
nước và đánh thực dân Pháp vẫn còn trong ông cho đến phút lực tàn sức kiệt. Nhânn
vùng Long Châu, Quảng Đông, Trung Quốc rất trân trọng vị thân vương nước Nam và
gọi ông là "Đả thạch lão" hay ng già chém đá". Ông đã mất tại Trung Quốc vào ngày
22 tháng 9 năm 1913.
Tên ông và hai con trai, Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp, được đặt cho nhiều đường
phố ở Việt Nam.
Những mất mát trong gia đình
Gia sản bị tch biên, gia đình ly tán, còn Tôn Thất Thuyết bị làm phần thưởng nếu ai bắt
sống được sẽ thưởng 1.000 lượng bạc, nếu chém chết thì cũng được 800 lượng bc.
Cha ông là Tôn Thất Đính bị bắt tại Quảng Bình khi đang tìm đường theo vua Hàm Nghi,
b đày đi n Đảo và mất ny 5 tháng 7 năm 1893.
Mẹ ông là Văn Thị Thu theo hộ giá vua Hàm Nghi đến cùng, nhưng do khí độc rừng rú
nên đã chết tại Mường Bò, Hà Tĩnh vào ngày 19 tháng 9 năm 1887.
Vợ ông là Lê Thị Thanhng theo chng phò vua, bất chấp khó khăn gian khổ đã chết
tại núi rừng Hà Tĩnh vào ngày 26 tháng 9 năm 1885.
Em ruột là Tham biện Sơn phòng Tôn Thất Lệ đã cầm đầu cánh quân tấn công tòa Khâm
sứ đêm 5 tháng 7, sau đó hộ giá vua Hàm Nghi và đã hy sinh trong trận đánh ở Mai Lĩnh,
Quảng Tr để bảo vệ cho vua chạy thoát.
Người em Tôn Thất Hàm, tri huyện Nông Cống cũng đã ch cực tham gia phong trào
Cần Vương và đã tuyệt thực chết khi bị bắt đưa vào Đà Nẵng.
Người con Tôn Thất Thiệp, cùng tui với vua Hàm nghi đã hy sinh thân mình để bảo vệ
vua ti núi rừng Tuyên Hóa.
Con trai tởng Tôn Thất Đàm, trcột của "triều đình Hàm Nghi" kháng chiến, đã thắt c
t tử khi biết tin vua bị bắt sau khi gửi một bài biu cho vua Hàm Nghi tạ tội đã không
bo vệ được ngài.
Con trai Tôn Thất Hoàng b bt ở Cam Lộ, Quảng Trị và bị đày lên Lao Bảo, ở đó cho
đến chết.
Con trai thứ cn Tôn Thất Trọng lúc mới 8 tui đã b Pháp bắt cùng với thủ lĩnh nghĩa
quân Cần Vương Quảng Bình là Nguyễn Phạm Tuân (tháng 4 năm 1887) và v sau lại
hưởng ứng phong trào Đông Du và mt tích ở nước ngoài.
Cha v của n Thất Thuyết là Tán tương Nguyễn Thiện Thuật, thủ lĩnh nghĩa quân Bãi
Sậy, chiến đấu đến cùng và khi thất thế đã chạy sang Trung Quốc cùng ông hot động.
Con rlà Hoàng giáp Nguyn Thượng Hiền cũng tham gia cách mng. Ông cưới coni
của Tôn Thất Thuyết khi còn chưa đến 20 tui, đỗ Hoàng giáp năm 1892, rồi được bổ
nhiệm làm việc trong Quốc sử quán. Sau đó ông được cử làm đốc hc ở Ninh Bình, rồi
Nam Định. Năm 1907, khi Pháp phế truất vua Thành Thái, ông tquan rồi trốn sang
Nht theo Phan Bội Châu và hoàng thân Cường Để.
Gia đình Tôn Thất Thuyết đã được người đời xưng tặng là "Toàn gia yêu nước".
Đánh giá của người đời sau
Cuộc đời của Tôn Thất Thuyết mt lòng vì nước quên mình, xthân hy sinh tất cả để
mưu cầu giành độc lập cho dân tộc, nhưng còn có nhiều người xem xét những đóng góp
của ông theo hướng kc:
Nguyễn Nhược Thị thì xem việc bỏ Dục Đức, phế Hiệp Hoà, lập Kiến Phúc,n Hàm
Nghi của Tôn Thất Thuyết là hành động của kẻ "quên li sách xưa", "chẳng giđạo
trung", "vì thân", "quyền thần sâu hiểm"...
Trần Trọng Kim thì xem thái độ né tránh tướng de Courcy ở Toà Khâm sứ của Tôn Thất
Thuyết là nhát gan và cuc tấn công Huế sáng ngày 7 tháng 5 năm 1885 ở Kinh thành
Huế là "làm loạn".
Phan Trần Chúc t xemn Thất Thuyết nnời độc đoán hiếu sát tàn bạo gần như
mất nhân tính.
Ch. Gosselin (Pháp) t xếp ông vào loại thù địch, kém thức thời và xem việc ông đi
Trung Hoa tìm cầu viện là mt hành động đào ngũ.
Còn đối với những nhà nghiên cứu lịch sử sau năm 1954 thì đánh giá cao nn cách Tôn
Thất Thuyết, trân trọng tấm lòng yêu nước nhiệt thành của ông; song vẫn chê trách ông
không biết dựa vào dân trong cuc tấn công quân Pháp ở Huế ngày 5 tháng 7 năm 1885,
chỉ trích sai lầm của ông về ảo tưởng cầu viện nhà Thanh chng Pháp và xem hoạt động
đàn áp khởi nghĩa nông dân của ông trong khoảng 10 năm trước khi về Huế là li lầm
khá nghiêm trọng...