LUẬN VĂN: Một số vấn đề về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ai gây thiệt hại thì người đó phải bồi thường - vấn đề này đã được các nhà làm
luật coi đó là một nguyên tắc và cụ thể hóa trong văn bản pháp luật. Xét về nguồn gốc lịch
sử thì chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ra đời từ rất sớm. Qua các
giai đoạn lịch sử khác nhau, mỗi quốc gia đều có những qui định chung về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, bên cạnh đó còn có những qui định cụ thể về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng trong từng trường hợp cụ thể bởi sự đa dạng về chủ thể gây thiệt
hại, đối tượng bị thiệt hại, hoàn cảnh bị thiệt hại...
Bộ luật dân sự năm 1995 được áp dụng để giải quyết cho các tranh chấp dân sự
nói chung, tranh chấp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng kể từ
ngày 1/7/1996. Qua gần 10 năm thi hành, Bộ luật dân sự 1995 đã phát huy tác dụng trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong giao lưu dân sự, góp phần làm ổn định các
quan hệ xã hội. Bên cạnh những thành công đã đạt được, Bộ luật dân sự 1995 còn bộc lộ
nhiều bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Bộ luật dân sự 2005 ra
đời thay thế cho Bộ luật dân sự 1995 với nhiều sự sửa đổi, bổ sung nhất định, trong đó có
chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bộ luật dân sự 2005 qui định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng từ Điều 604 đến Điều 630, trong đó bổ sung qui định về
bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể, bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả, hài
cốt và rất nhiều sự sửa đổi khác trong từng qui định cụ thể.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức
khỏe, tính mạng nói riêng là một trong những loại trách nhiệm gây nhiều tranh cãi về căn
cứ phát sinh, mức bồi thường...; hơn nữa qui định của pháp luật về vấn đề này chủ yếu
dừng lại ở các qui định mang tính "định tính" mà không "định lượng" nên gây khó khăn rất
nhiều cho các cán bộ áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, án kiện về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng chiếm tỉ trọng tương đối lớn trong các án kiện
về bồi thường; sự đối lập về tâm lý của người gây thiệt hại với người bị thiệt hại hoặc gia
đình của người bị thiệt hại... làm cho các án kiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
xâm phạm sức khỏe, tính mạng bị kháng cáo, khiếu nại từ phía đương sự.
Xuất phát từ tình hình trên đây, việc nghiên cứu, tìm hiểu các qui định của pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức
khỏe, tính mạng nói riêng là một trong những vấn đề có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn sâu
sắc.
2. Tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được nhiều nhà khoa học nghiên
cứu pháp luật quan tâm. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, trong đó có đề cập đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng như các bài viết: TS. Phùng Trung Tập: "Lỗi và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-
2004; Đinh Văn Quế: "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe của con người", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004); Tưởng Duy Lượng -
Nguyễn Văn Cường: "Cách tính bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm", Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004); Lê Mai Anh: "Những vấn đề cơ bản về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự", Luận văn thạc sĩ luật học;
Lê Thị Bích Lan: "Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín", Luận văn thạc sĩ luật học...(xem Phụ lục).
Nhìn chung, các đề tài đó đã nêu và phân tích những vấn đề chung về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong luật dân sự; đưa ra các yêu cầu cơ bản trong việc xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại, các quy định của pháp luật dân sự trong việc bồi thường thiệt
hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín, cơ sở để xác định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các hình thức và mức bồi thường, những trường hợp
miễn hoặc giảm trách nhiệm bồi thường...
Tuy nhiên, các đề tài này hoặc đề cập ở dạng khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng hoặc có đề cập chi tiết cụ thể hơn nhưng vào thời điểm
của Bộ luật dân sự 1995 đang tồn tại hiệu lực pháp lý.
Tìm hiểu một cách có hệ thống, chi tiết về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm sức khỏe, tính mạng theo Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản hướng dẫn mới thì
chưa có một công trình khoa học nào cho đến thời điểm hiện tại.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Thông qua việc tìm hiểu các qui định của Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản
hướng dẫn thi hành, giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn hoàn chỉnh dưới lăng kính
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, qua đó phục vụ tốt hơn cho
công việc thực tế của bản thân. Ngoài ra, qua việc nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng do xâm phạm sức khỏe, tính mạng cũng như việc áp dụng vào thực
tiễn sẽ có những kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực thi, sửa
đổi và tuyên truyền pháp luật. Để đạt được mục đính này, nhiệm vụ nghiên cứu của luận
văn là tìm hiểu các qui định của các văn bản pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng; tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật
về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng, qua đó chỉ ra những bất cập trong
các qui định của pháp luật và phương hướng hoàn thiện qui định của pháp luật về bồi
thường thiệt hại nói chung, pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính
mạng nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi giới hạn nghiên cứu đề tài cao học luật, chúng tôi chỉ nghiên cứu
những vấn đề lý luận cơ bản nhất về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do có hành vi trái
pháp luật xâm phạm đến sức khỏe và tính mạng, đồng thời xem xét thực tiễn giải quyết các
vụ án dân sự xâm phạm sức khỏe và tính mạng. Luận văn này cũng đưa ra những giải pháp
nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong giải quyết bồi thường thiệt hại sức khỏe và tính
mạng khi áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác - Lênin, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê...cũng được sử dụng trong
quá trình thực hiện đề tài.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn sẽ đề cập một cách có hệ thống, chi tiết trong qui định của pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng; chỉ ra những khó
khăn, bất cập trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời có những kiến nghị trong việc hoàn
thiện và áp dụng pháp luật trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm sức khỏe, tính mạng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
trong luật dân sự
Chương 2: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe và tính mạng bị
xâm phạm
Chương 3: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do
xâm phạm sức khỏe và tính mạng
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI
HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA CỦA TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Thời kỳ sơ khai, trách nhiệm bồi thường chưa được đặt ra, theo đó người ta
thường áp dụng nguyên tắc "nợ gì trả nấy" khi có hành vi gây thiệt hại. Luật XII bảng
được ban hành vào năm 449 trước Công nguyên có qui định: Kẻ nào làm gãy tay người
khác thì kẻ đó phải chịu lại tương tự như vậy. Khi áp dụng nguyên tắc trả thù ngang bằng,
lợi ích của người bị thiệt hại không được bảo đảm, hơn nữa lại có một thiệt hại khác phát
sinh. Đây chính là lý do để sau đó người ta xem xét vấn đề bồi thường thiệt hại.
Xét về nguồn gốc lịch sử, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một
trong những chế định có lịch sử sớm nhất của pháp luật dân sự. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng là chế định gây nhiều tranh cãi, có nhiều quan điểm
của các nhà nghiên cứu luật pháp cũng như các cán bộ làm công tác thực tiễn.
Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng luôn được hoàn thiện bởi các chuyên gia pháp lý. Ở nước ta, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng đã được qui định trong Quốc triều Hình luật và Hoàng Việt luật
lệ. Pháp luật mỗi nước có thể có những qui định khác nhau liên quan đến xác định mức bồi
thường, tuy nhiên một nguyên tắc cơ bản luôn tồn tại - đó là: "Người gây thiệt hại phải bồi
thường thiệt hại cho người bị thiệt hại". Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long đều chưa
có sự phân biệt rõ nét về trách nhiệm bồi thường dân sự. Sự phân biệt rạch ròi giữa trách
nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự chỉ ra đời trên cơ sở ba bộ luật đầu tiên (Bộ luật Nam
Kỳ ban hành ngày 10/3/1883; bộ Dân luật Bắc Kỳ ban hành ngày 01/4/1931; bộ Dân luật
Trung Kỳ ban hành ngày 31/10/1936) và các nguyên lý chung về trách nhiệm bồi thường
dân sự lần đầu được ghi nhận một cách cụ thể tại Điều 712 đến Điều 716 (Bộ Dân luật Bắc
Kỳ); Điều 761 đến Điều 767 (Bộ Dân luật Trung Kỳ) và cho đến năm 1972 chính quyền
Sài Gòn có ban hành bộ Dân luật Sài Gòn từ Điều 729 đến Điều 739 đề cập về trách nhiệm
bồi thường dân sự.
Cách mạng tháng Tám thành công, đánh dấu một bước ngoặt mới: Nhà nước Việt
Nam dân chủ ra đời, ngay lúc này chúng ta chưa thể ban hành được các văn bản quy phạm
pháp luật ngay. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội diễn ra hàng ngày, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã lần lượt ký Sắc lệnh số 90/SL ngày 10/10/1945 và Sắc lệnh số 97/SL ngày
22/5/1950 thừa nhận luật lệ cũ trên tinh thần không trái với nguyên tắc độc lập và chính
thể dân chủ cộng hòa của Nhà nước ta. Những quy định trong Sắc lệnh số 97/SL đã đặt
nền móng cho sự hình thành và phát triển của luật dân sự. Lần đầu tiên những nguyên tắc
thực sự dân chủ, tiến bộ mang tính nhân dân sâu sắc được pháp điển hóa. Như nguyên tắc:
"Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành xử nó đúng với quyền lợi
của nhân dân" hay "người ta chỉ được hướng dụng và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu
của mình một cách hợp pháp và không gây thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân".
Việc giải quyết các quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trên cơ sở tổng kết
kinh nghiệm của ngành tòa án. Qua thực tiễn xét xử, vận dụng và kế thừa những quy định
pháp luật đã có, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Thông tư 173/UBTP ngày 23/3/1972 hướng
dẫn công tác xét xử, trong đó nói rõ điều kiện phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
nguyên tắc, cách xác định thiệt hại...
Thông tư số 03 ngày 5/4/1983 bổ sung giải quyết bồi thường thiệt hại trong các vụ
tai nạn giao thông... đều là văn bản dưới luật, lại ban hành trong điều kiện nền kinh tế tập
trung bao cấp, tuy đề cập đến nhiều vấn đề xong chỉ mang tính định hướng, chưa cụ thể...
Bên cạnh đó, xu hướng phát triển kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, đòi hỏi phải có bộ luật dân sự điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội rộng lớn.
Bộ luật Dân sự ra đời pháp điển hóa một bước quan trọng tạo ra một văn bản pháp luật
thống nhất nhằm khắc phục những tình trạng tản mạn, trùng lặp, mâu thuẫn của pháp luật
dân sự trước đó.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những trách nhiệm
dân sự, được áp dụng với những người có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại cho người
khác. Chế định "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng’’ được hệ thống ở
chương V, phần thứ 3 với các qui định từ Điều 604 đến Điều 630 làm cơ sở pháp lý quan
trọng trong việc giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, đồng thời giải quyết khách
quan, nhanh chóng, công bằng theo quy định của pháp luật.
Theo khoản 5 Điều 281 Bộ luật dân sự Việt Nam thì một trong những căn cứ làm phát
sinh nghĩa vụ dân sự đó là: "Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật".
Theo qui định tại Điều 604 Bộ luật dân sự thì sự kiện "gây thiệt hại do hành vi trái
pháp luật" là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng. Nhà làm luật
trong trường hợp này đã đồng nghĩa "trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" với
"nghĩa vụ bồi thường do hành vi trái pháp luật" - Điều 604 Bộ luật dân sự đã xác nhận sự
đồng nghĩa này.
Pháp luật nhà nước ta sử dụng nhiều phương thức khác nhau để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức khi bị xâm phạm bởi những hành vi trái pháp luật.
Khi một người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại đối với người khác làm phát sinh
các quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại.
Điều 604 Bộ luật dân sự quy định:
1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân,
xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi
thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.
Như vậy, bồi thường thiệt hại là quan hệ phát sinh từ hậu quả của hành vi trái pháp
luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản các quyền lợi
ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc của
các chủ thể khác. Bồi thường thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có
hành vi gây ra thiệt hại phải bù đắp, đền bù những tổn thất về vật chất, về tinh thần cho
bên bị thiệt hại. Điều kiện để phát sinh trách nhiệm này là phải có thiệt hại, có hành vi trái
pháp luật, có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra có lỗi của
người gây thiệt hại.
Vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là gì? Qua những phân tích trên
đây, có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý,
là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước theo đó người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt
hại do hành vi của mình gây ra khi hành vi đó được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý xâm
hại tới tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, và các quyền nhân thân
khác của cá nhân, tài sản, danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc của chủ thể khác.
1.1.2. Ý nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Là một loại trách nhiệm pháp lý, được áp dụng khi thỏa mãn những điều kiện do
pháp luật qui định, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có ý nghĩa pháp lý và
ý nghĩa xã hội sâu sắc, điều đó được thể hiện trên một số phương diện sau đây:
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Trong các quan hệ xã hội nói chung, giao lưu dân sự nói riêng, chủ thể tham gia
nhằm thỏa mãn những lợi ích vật chất hoặc tinh thần của mình. Để xã hội ngày càng phát
triển, các chủ thể phải tham gia nhiều quan hệ xã hội khác nhau và trong các quan hệ xã
hội mà chủ thể tham gia thì lợi ích luôn là tâm điểm để chủ thể hướng tới. Hiến pháp và
các văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý sau Hiến pháp luôn ghi nhận và bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp của các chủ thể. Đó có thể là lợi ích vật chất, thể hiện ở quyền sở hữu tài sản,
nhưng cũng có thể là lợi ích tinh thần, thể hiện ở các quyền nhân thân được pháp luật bảo
vệ. Bằng việc qui định căn cứ phát sinh, nguyên tắc bồi thường... thì chế định bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ thể trong các quan hệ xã hội khác nhau.
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định góp phần
đảm bảo công bằng xã hội.
Nguyên tắc chung của pháp luật là một người phải chịu trách nhiệm về hành vi
và hậu quả do hành vi đó mang lại. Bằng việc buộc người gây thiệt hại phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra cho người bị thiệt hại, chế định
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã góp phần bảo đảm công bằng xã hội. Đây cũng là
nguyên tắc, là mục tiêu mà pháp luật đặt ra. Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng đã cụ thể hóa và thể hiện rất rõ nguyên tắc công bằng trong bồi thường thiệt hại.
Theo chế định này, ai gây thiệt hại thì người ấy phải bồi thường, tuy nhiên sẽ có những
trường hợp riêng biệt của trách nhiệm bồi thường thiệt hại như nguyên tắc giảm mức bồi
thường, bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng,
bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi...
Thứ ba, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định góp phần
răn đe, giáo dục, phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, gây thiệt hại
trái pháp luật nói riêng.
Ngoài mục đích buộc bên vi phạm phải chịu trách nhiệm do hành vi vi phạm
của mình gây ra - nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự - chế định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại còn thể hiện ý nghĩa nhân đạo, ý nghĩa xã hội sâu sắc. Thông qua chế
định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cùng với việc vận dụng chế định này để giải
quyết các tranh chấp liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn có ý nghĩa răn đe, giáo
dục và phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, hành vi gây thiệt hại trái
pháp luật nói riêng. Ngoài người vi phạm, những người khác cũng sẽ thấy rằng nếu
mình có hành vi gây thiệt hại thì cũng sẽ chịu sự xử lý của pháp luật.
Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng còn có ý nghĩa trong việc tuyên
truyền, giáo dục pháp luật thông qua những biện pháp chế tài nghiêm khắc. Ngoài ra, ý
thức pháp luật của người dân cũng ngày một được nâng cao hơn.
1.2. SO SÁNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM
TÀI SẢN VỚI TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM CÁC
QUYỀN NHÂN THÂN
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng rất đa dạng, một trong những sự
đa dạng đó là đối tượng bị thiệt hại. Đối tượng bị thiệt hại có thể là tài sản, nhưng cũng có
thể là tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín (sự cụ thể hóa các quyền nhân thân
được pháp luật bảo hộ). Chúng ta có thể thấy rõ sự giống và khác nhau giữa trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm các quyền nhân thân qua sự phân tích dưới đây.
1.2.1. Những điểm giống nhau
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm bồi thường
do xâm phạm các quyền nhân thân đều là một loại trách nhiệm pháp lý. Đây chính là thái độ
của Nhà nước đối với hành vi vi phạm và hậu quả của hành vi đó gây ra. Cả hai loại trách
nhiệm này đều là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được áp dụng đối với người vi phạm,
buộc người vi phạm phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm bồi thường
do xâm phạm các quyền nhân thân đều là một loại trách nhiệm pháp lý nên chỉ phát sinh
khi và chỉ khi dựa trên các căn cứ do pháp luật qui định. Những căn cứ đó được xác định
cụ thể như: có thiệt hại, có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại, có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại.
Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền nhân thân còn có những điểm giống nhau liên
quan đến hậu quả (trách nhiệm vật chất), những trường hợp được loại trừ, những trường
hợp không được loại trừ...
1.2.2. Những điểm khác nhau
Bên cạnh những điểm giống nhau, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm
tài sản với trách nhiệm bồi thường do xâm phạm các quyền nhân thân còn có những điểm
khác biệt, chúng ta có thể thấy sự khác biệt này qua bảng so sánh dưới đây:
TRÁCH NHIỆM BỒI TRÁCH NHIỆM BỒI TIÊU CHÍ THƯỜNG THIỆT HẠI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SO SÁNH DO XÂM PHẠM TÀI XÂM PHẠM
SẢN CÁC QUYỀN NHÂN THÂN
1. Căn cứ phát sinh Phát sinh trong hợp đồng Chỉ phát sinh ngoài hợp đồng
hoặc ngoài hợp đồng
2. Đối tượng bị Tài sản (Khái niệm tài sản Các quyền nhân thân được pháp
xâm hại được quy định tại Điều 163 luật qui định và bảo vệ
Bộ luật dân sự: "Tài sản bao
gồm vật, tiền, giấy tờ có giá
và các quyền tài sản")
3. Thiệt hại phải Thiệt hại vật chất - Thiệt hại vật chất; và
bồi thường - Thiệt hại tinh thần.
4. Hậu quả pháp Bồi thường thiệt hại - Bồi thường; và/
lý được áp dụng - Xin lỗi; hoặc/
- Cải chính công khai trên các
phương tiện thông tin đại chúng
5. Thay đổi chủ thể Có thể có sự thay đổi chủ thể: Không thể thay đổi chủ thể, không
chuyển giao quyền yêu cầu thể chuyển giao quyền yêu cầu,
hoặc chuyển giao nghĩa vụ Điều 309 khoản 1 điểm a Bộ luật
dân sự quy định: "1. Bên có quyền
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân
sự có thể chuyển giao quyền yêu
cầu đó cho người thế quyền theo
thỏa thuận, trừ những trường
hợp sau đây: a) quyền yêu cầu
cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường
thiệt hại do xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín;…"
Chương 2
XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM
Trách nhiệm bồi thường nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng,
sức khỏe nói riêng là một loại trách nhiệm pháp lý, do đó trách nhiệm bồi thường do xâm
phạm tính mạng, sức khỏe phát sinh khi và chỉ khi thỏa mãn đầy đủ các điều kiện do pháp
luật qui định. Các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại (căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại) do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm là những căn cứ do
pháp luật qui định, khi thỏa mãn các căn cứ đó thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm sức khỏe, tính mạng phát sinh. Pháp luật dân sự không qui định cụ thể căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng mà chỉ qui định
căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung. Do đó, căn cứ
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được áp dụng để xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng.
2.1. CĂN CỨ PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM
Là một loại trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát sinh
khi thỏa mãn các căn cứ do pháp luật qui định. Việc xác định căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại có ý nghĩa hết sức quan trọng: là cơ sở để xác định trách
nhiệm bồi thường, mức bồi thường... Cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
được đề cập tại Điều 307 (Trách nhiệm bồi thường thiệt hại) và Điều 604 (Căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại) của Bộ luật dân sự năm 2005. Như vậy, trên cơ sở
qui định tại hai điều luật này, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác
định gồm 4 điều kiện:
Phải có thiệt hại xảy ra;
Phải có hành vi gây thiệt hại;
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả xảy ra;
Người gây thiệt hại phải có lỗi.
2.1.1. Phải có thiệt hại xảy ra
Đây là điều kiện tiên quyết, điều kiện quan trọng nhất của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, bởi nếu không có thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
không bao giờ phát sinh. Mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là khôi phục, bù
đắp những tổn thất cho người bị thiệt hại, do đó phải có thiệt hại thì mục đích đó mới đạt
được.
Nếu thiệt hại do tài sản bị xâm phạm thì việc xác định "có thiệt hại" là vấn đề
không mấy khó khăn, tuy nhiên trường hợp sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm thì thiệt hại
sẽ khó xác định, bởi chúng ta không thể "lượng hóa" được thiệt hại trong trường hợp này.
Vậy có thể hiểu thiệt hại là gì? Thiệt hại có thể được hiểu theo hai khía cạnh: xã hội và
pháp lý.
Theo ý nghĩa xã hội, mỗi hành vi trái pháp luật đều gây thiệt hại, bởi nó làm ảnh
hưởng đến những quan hệ xã hội nhất định.
Theo luật dân sự Việt Nam thì thiệt hại là những tổn thất thực tế được tính thành
tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản... của cá nhân và
các chủ thể khác. Tổn thất thực tế được đề cập ở đây là sự giảm sút, mất mát về lợi ích vật
chất, tinh thần, hay những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại mà người bị
hại phải gánh chịu.
Những thiệt hại thực tế xảy ra có thể là thiệt hại vật chất hoặc tinh thần. Thiệt hại
vật chất là thiệt hại được biểu hiện cụ thể như tài sản đã mất mát, những chi phí cần thiết
để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế tài sản bị hư hỏng, những khoản thu nhập thực tế
bị mất.
Khi một người có hành vi trái pháp luật gây ra những thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe... của người khác thì thiệt hại được xác định như thế nào? Tính mạng, sức khỏe của
con người là vô giá không thể tính thành tiền, do vậy bồi thường thiệt hại ở đây không phải
là bồi thường về tính mạng, sức khỏe mà nó là những bồi thường thiệt hại vật chất. Những
chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng cho bên bị thiệt hại
hoặc những chi phí cần thiết khác.
Theo thông tư 173/UBTP-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao ngày 23/3/1972
hướng dẫn thì thiệt hại được xác định: "Đó là thiệt hại vật chất, biểu hiện cụ thể là thiệt
hại về tài sản hoặc những chi phí và những thu nhập bị mất, do có sự thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe đưa đến. Thiệt hại đó phải thực sự xảy ra và tính toán được".
Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 ghi nhận việc buộc người
gây thiệt hại "bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần" cho người bị thiệt
hại, người thân của họ.
Pháp luật về dân sự nói chung, chế định bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm nói riêng là những vấn đề rất nhạy cảm và vô cùng phức tạp,
bởi vì những thiệt hại về tinh thần là những thiệt hại phi vật chất, không thể có công thức
chung để quy ra tiền áp dụng cho các trường hợp. Việc giải quyết bồi thường một khoản
tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cũng chỉ nhằm an ủi, động viên làm dịu đi nỗi đau cho
chính nạn nhân. Đây là vấn đề rất khó, nhưng cho đến nay, về căn bản các cơ quan có
thẩm quyền chưa có ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể để áp dụng cho thống nhất, vì vậy
khi vận dụng vào thực tiễn còn gây nhiều tranh cãi, chưa thống nhất.
Trên thế giới, thiệt hại về tinh thần đã được một số nước ghi nhận từ lâu như Liên
Xô, Cộng hóa Liên bang Đức... Trong cuốn "Trách nhiệm phát sinh do gây thiệt hại" (Nhà
xuất bản LGU, Lêningrat, 1973), tác giả Smirnốp T.V khẳng định: "Nhiệm vụ đáp ứng nhu
cầu vật chất, văn hóa, tinh thần của công dân Xô viết, về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ chỉ là thực hiện đầy đủ khi người bị thiệt hại được bồi thường không những
thiệt hại về vật chất mà cả thiệt hại về tinh thần". Tại khoản 3, Điều 307 Bộ luật dân sự
của nước ta quy định: "Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt
hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù
đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại". Như vậy, thiệt hại được hiểu là ngoài
những thiệt hại vật chất còn có những thiệt hại về tinh thần.
Thiệt hại xảy ra được đánh giá một cách khách quan, trung thực, đảm bảo công
bằng xã hội. Trên thực tế, mọi thiệt hại đều mang tính khách quan, tuy nhiên, tiên lượng và
đánh giá tính khách quan của sự thiệt hại lại thông qua ý thức chủ quan của con người.
Điều đó có nghĩa là trong điều kiện, hoàn cảnh thực tế như vậy ai cũng công nhận thiệt hại
là có và mọi người đều chấp nhận việc đánh giá mức độ thiệt hại. Nhưng nhìn chung thì
người bị thiệt hại có thể phức tạp hóa vấn đề lên, như khai tăng giá trị thiệt hại còn người
gây thiệt hại có chiều hướng đơn giản hóa. Vì vậy mà người có vai trò đánh giá thiệt hại,
đại diện cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền là rất quan trọng. Nhìn nhận và đánh giá
thiệt hại dựa trên cơ sở pháp luật quy định để xem xét có thiệt hại xảy ra hay không, mức
độ thiệt hại như thế nào...
Thiệt hại phải tính toán được tương đương với một số lượng tiền xác định mới
đảm bảo đầy đủ cơ sở cho việc bồi thường. Tuy nhiên, đối với thiệt hại về mặt tinh thần
không thể tính toán bằng tiền. Hơn thế đây là khái niệm còn khá trừu tượng, bởi "tinh
thần" thì làm sao có thể cân, đo, đong, đếm cụ thể để xác định thiệt hại, do vậy Tòa án chỉ
có thể căn cứ vào từng trường hợp cụ thể xác định số tiền bù đắp tổn thất về mặt tinh thần,
nhằm đảm bảo quyền lợi của người bị nạn và gia đình họ, khắc phục phần nào hậu quả xảy
ra. Tòa án cũng chỉ chấp nhận những thiệt hại hợp lý mà thôi, những thiệt hại mang tính
suy diễn như: "Tôi là người không bao giờ bị tai nạn, trong tháng này tôi bắt được 5 triệu
đồng" hay "thu nhập của một người nông dân ở vùng quê nghèo là từ 2.000.000 đồng đến
3.000.000 đồng /tháng".
Có thiệt hại tức là những tổn thất thực tế, tồn tại khách quan và phải tính được
bằng một số tiền cụ thể nhất định, còn những thiệt hại mang tính suy diễn, chủ quan sẽ
không được thừa nhận nếu không có căn cứ xác đáng.
Như vậy, thiệt hại về vật chất là những thiệt hại trị giá được bằng tiền, đó là thiệt
hại thông thường trong các vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại. Đó là những thiệt hại vật chất
trong các thiệt hại về tài sản, về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm…
Thiệt hại tinh thần là những thiệt hại phi vật chất, không thể có công thức chung
để quy thành tiền áp dụng cho mọi trường hợp. Việc giải quyết bồi thường một khoản tiền
bù đắp tổn thất về tinh thần tùy vào từng trường hợp cụ thể nhằm mục đích an ủi, động
viên và phần nào đó tạo điều kiện để có thể khắc phục khó khăn, làm dịu đi nỗi đau cho
chính người bị thiệt hại hay cho những người thân thích của họ.
Thiệt hại về tinh thần là sự thiệt hại về giá trị tinh thần, tình cảm hoặc sự suy sụp
về tâm lý, tình cảm của cá nhân. Hình thức biểu hiện thiệt hại về tinh thần rất đa dạng như:
Sự suy sụp tâm lý của người bị thiệt hại sau khi sức khỏe bị xâm phạm làm cho bị tàn tật,
bị biến dạng bề ngoài (ví dụ như bị sẹo ở mặt, bị gãy chân làm cho người bị thiệt hại đi cà
nhắc...).
Ngoài những thiệt hại về tinh thần mà bản thân người bị thiệt hại phải gánh chịu
thì có những trường hợp người thân thích của họ cũng phải gánh chịu tổn thất về tinh
thần này. Ví dụ, đó có thể là sự suy sụp, hoang mang, lo lắng, sự đau thương của những
người thân thích với cái chết của nạn nhân. Khác với thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần
không có tiêu chí chung để xác định cho mọi cá nhân bởi điều kiện, hoàn cảnh của từng
cá nhân là không giống nhau, nhưng thiệt hại về tinh thần thường đi kèm với thiệt hại vật
chất.
Điều 710 Bộ luật dân sự của Nhật Bản quy định: "Một người chịu trách nhiệm về
thiệt hại theo quy định của Điều 709 phải bồi thường cả về thiệt hại phi vật chất bất kể
thiệt hại như vậy xảy ra đối với quyền lợi, uy tín, hoặc tài sản của người khác".
Ngoài ra, muốn bồi thường, sự thiệt hại phải thỏa mãn các điều kiện: thiệt hại phải
chắc chắn, nhất định, thực tế và chưa được bồi thường.
Nói đến sự thiệt hại chắc chắn, nhất định, thực tế là nói đến một sự thiệt hại đã xảy
ra, hoặc chưa xảy ra nhưng nhất định sẽ xảy ra và có thể ước lượng được. Để chứng minh
sự thiệt hại chắc chắn, người bị thiệt hại phải đưa ra những chứng cứ cần thiết và tin cậy
như: hóa đơn chứng từ thanh toán những chi phí hợp lý nhằm cứu chữa, phục hồi sức
khỏe…Một sự thiệt hại không chắc chắn xảy ra hoặc chỉ có tính chất giả định hoặc chỉ là
mất đi một cơ may thì không được bồi thường. (Theo Bộ luật dân sự Nhật Bản thì việc
"mất đi một cơ may" được coi là một yếu tố cấu thành thiệt hại).
Bồi thường thiệt hại chính là nhằm khôi phục lại toàn bộ hoặc một phần tình trạng
tài sản trước khi xảy ra thiệt hại hoặc bù đắp những tổn thất do tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự, bị xâm phạm nên thiệt hại được coi là điều kiện có ý nghĩa quan trọng.
Không thể bồi thường thiệt hại khi không có thiệt hại xảy ra.
Thiệt hại được hiểu là: bị tổn thất, hư hao về người và tài sản và được xác định
bằng một khoản tiền cụ thể. Thiệt hại gây ảnh hưởng đến các quan hệ kinh tế - xã hội được
pháp luật bảo vệ, đồng thời cũng phản ánh hậu quả của hành vi trái pháp luật xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, pháp nhân cũng như của Nhà nước.
Pháp luật dân sự Việt Nam thừa nhận có thiệt hại về tinh thần, tuy nhiên có quan
điểm cho rằng thiệt hại về tinh thần chỉ là khái niệm xã hội và ở phạm vi tình cảm. Nhưng
có quan điểm cho rằng, bồi thường bằng tiền có thể khắc phục phần nào thiệt hại về tinh
thần, không thể dùng tiền bù đắp được. Tuy nhiên, pháp luật dân sự Việt Nam quy định
mức tiền bồi thường thiệt hại về tinh thần tại khoản 2 Điều 609 và khoản 2 Điều 610. Nghị
quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 08
tháng 7 năm 2006 hướng dẫn áp dụng một số qui định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng đã có sự hướng dẫn cụ thể về bồi thường tổn thất
tinh thần.
Buộc người xâm phạm đến sức khỏe người khác phải bồi thường một khoản tiền
bù đắp tổn thất về mặt tinh thần cho người bị thiệt hại và cho những người thân thích của
người bị thiệt hại trong vụ bị xâm phạm tính mạng là phù hợp cả về lý luận và thực tiễn,
phù hợp với phong tục tập quán, truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc Việt Nam.
2.1.2. Phải có hành vi gây thiệt hại
Hành vi gây thiệt hại trước tiên phải là hành vi pháp luật cấm thực hiện, nếu hành vi
đó được thực hiện mà pháp luật không cấm thì người thực hiện hành vi đó không phải bồi
thường thiệt hại. Không thể có người gây thiệt hại khi không có hành vi gây thiệt hại. Hành vi
gây thiệt hại là hành vi có ý thức của con người diễn ra trái với qui định của pháp luật và gây
thiệt hại tới các đối tượng được pháp luật bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại có thể bằng hành động
hoặc không hành động, hành động và không hành động đều là những biểu hiện của con người
ra ngoài thế giới khách quan, được ý thức kiểm soát, lý trí điều khiển và đều có khả năng
làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho quan hệ xã
hội được pháp luật bảo vệ. Hành động gây thiệt hại có thể là tác động trực tiếp của chủ thể
vào đối tượng gây thiệt hại hoặc có thể là tác động gián tiếp của chủ thể vào đối tượng
thông qua công cụ, phương tiện gây thiệt hại. Không hành động gây thiệt hại là một hình
thức của hành vi gây thiệt hại, nó làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác
động, gây thiệt hại cho khách thể bằng việc chủ thể không làm một việc pháp luật quy định
bắt buộc phải làm mặc dù có đầy đủ điều kiện để làm việc đó.
Thực tế thì việc xác định hành vi gây thiệt hại bằng hành động không khó, bởi vì
nó tác động trực tiếp đến đối tượng bị thiệt hại như: bắn, đâm, chém… Nhưng ở dạng
không hành động hoặc được thực hiện thông qua hành vi của người khác thì cần phải xác
định mối quan hệ giữa thiệt hại với hành vi của người gây thiệt hại và trách nhiệm, nghĩa
vụ của họ đối với thiệt hại xảy ra. Ví dụ: người gây thiệt hại do phòng vệ chính đáng, do
tình thế cấp thiết thì không phải bồi thường. Tuy nhiên, nếu hành vi phòng vệ chính đáng
và tình thế cấp thiết đó mà vượt quá giới hạn cho phép thì các hành vi bị coi là trái pháp
luật và phải bồi thường.
Trước khi có Bộ luật dân sự thì ngành Tòa án thường căn cứ vào Thông tư số
173/UBTP-TANDTC ngày 23/3/1972 của Tòa án nhân dân tối cao để giải quyết các quan
hệ pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo tinh thần nội dung
Thông tư thì hành vi trái pháp luật trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: "Có
thể là một việc phạm pháp về hình sự, một vi phạm pháp luật về dân sự, một vi phạm
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước hoặc một vi phạm quy tắc sinh hoạt xã hội".
Như vậy, khi xác định hành vi gây thiệt hại cho người bị thiệt hại để phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, chúng ta có thể thấy có những đặc điểm của hành vi trái
pháp luật gây thiệt hại:
Thứ nhất, hành vi gây thiệt hại phải trái pháp luật, nếu không trái pháp luật thì
không phải bồi thường mặc dù có thiệt hại xảy ra. Hành vi trái pháp luật ở đây được hiểu
là hành vi vi phạm các qui định của pháp luật, ngoài ra những hành vi vi phạm các qui tắc
xử sự sinh hoạt trong đời sống cũng có thể coi là hành vi trái pháp luật nếu gây ra thiệt hại.
Những hành vi gây thiệt hại nhưng do yêu cầu của nghề nghiệp hoặc gây thiệt hại theo bản
án, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì không phải là hành vi trái pháp
luật. Ví dụ: để cứu chữa bệnh nhân tránh vết thương bị hoại tử, bác sĩ phải cắt bỏ chân của
bệnh nhân, những người phá dỡ các công trình xây dựng trái phép, những người thi hành
án tử hình...
Thứ hai, hành vi trái pháp luật có thể được thể hiện dưới dạng hành động hoặc
dưới dạng không hành động.
Thứ ba, hành vi gây thiệt hại là hoạt động có ý thức và ý chí. Không thể có hành vi
gây thiệt hại mà những biểu hiện bên ngoài của nó không được ý thức của chủ thể kiểm
soát hay không được ý chí của họ điều khiển.
2.1.3. Mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi gây thiệt hại
Mối quan hệ nhân quả là sự liên hệ giữa hai hiện tượng trong đó có chứa đựng
nguyên nhân và kết quả. Phải có sự vận động của hiện tượng là nguyên nhân trong những điều
kiện hoàn cảnh cụ thể mới nảy sinh hiện tượng là kết quả. Hành vi vi phạm pháp luật là
nguyên nhân dẫn đến thiệt hại là hậu quả. Xét về nguyên tắc, nguyên nhân phải xảy ra trước
kết quả trong khoảng thời gian xác định và hành vi trái pháp luật là nguyên nhân trực tiếp
(nguyên nhân quyết định đối với thiệt hại xảy ra). Có nghĩa là thiệt hại đã có sẵn cơ sở trong
hành vi. Một hành vi vi phạm nhất định trong một điều kiện xác định thì chỉ làm nảy sinh ra
hậu quả này chứ không phải là hậu quả nào khác. Thiệt hại xảy ra phải đúng là kết quả tất
yếu của hành vi vi phạm và ngược lại, nếu không có hành vi thì thiệt hại sẽ không xảy đến.
Nếu không xác định được mối quan hệ này sẽ không xác định được trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của người có hành vi vi phạm và không buộc được người gây thiệt hại phải bồi
thường cho người bị thiệt hại.
Nếu chúng ta làm rõ được mối quan hệ nhân quả, sẽ trả lời được hai câu hỏi được
đặt ra:
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có phát sinh không?
- Mức bồi thường thiệt hại được xác định như thế nào nếu nhiều người gây thiệt hại
cho một người hoặc cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi?
Trong thực tế mối quan hệ giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra biểu hiện
rất phức tạp.
Một hành vi trái pháp luật cũng có thể gây nhiều thiệt hại vừa về vật chất, vừa về
tinh thần. Có trường hợp thiệt hại xảy ra do một hành vi trái pháp luật khác xen vào gây ra
chứ không phải do hành vi có chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh thiệt hại.
Ví dụ: A gây thương tích cho B, B được mọi người đưa vào cơ sở y tế cấp cứu.
Với tình trạng vết thương như vậy thì hoàn toàn có thể cứu chữa được người bị hại. Tuy
nhiên, do tắc trách trong quá trình cứu chữa (bác sĩ đã không vô trùng dụng cụ cứu chữa)
nên vết thương của B bị nhiễm trùng dẫn tới hậu quả là B bị chết.
Cần phân biệt giữa nguyên nhân và điều kiện: nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt
hại, điều kiện không trực tiếp gây thiệt hại nhưng có tác động để cho thiệt hại xảy ra nhanh
hơn. Vậy trong mối quan hệ nhân quả, nguyên nhân là yếu tố quyết định còn điều kiện là
yếu tố quan trọng dẫn đến kết quả. Nguyên nhân và điều kiện trong mối quan hệ nhân quả
có thể là một hay nhiều hiện tượng, nhưng giữa chúng có một điểm khác nhau ở chỗ quan
hệ với hậu quả xảy ra. Nếu không có nguyên nhân thì không có hiện tượng, sự vật xảy ra
và cũng không tồn tại một điều kiện. Nhưng nhiều trường hợp có nguyên nhân xảy ra
nhưng không có kết quả nếu không có điều kiện.
Về nguyên tắc thì không có việc hiện tượng này chỉ là nguyên nhân còn hiện
tượng kia chỉ là điều kiện. Mối quan hệ nhân quả có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác
định thiệt hại.Về mặt lý luận cũng như thực tế để xác định mối quan hệ nhân quả là một
vấn đề tương đối khó khăn. Bởi vì sự thiệt hại thông thường thì do nhiều nguyên nhân chứ
không chỉ do một nguyên nhân gây ra. Các nguyên nhân này không tồn tại độc lập mà phối
hợp với nhau phát sinh ra kết quả, nếu thiếu một trong các nguyên nhân thì không có kết
quả xảy ra. Tuy nhiên, mức độ tác động của từng nguyên nhân đối với kết quả có thể là
khác nhau, sự khác nhau này đã tạo ra vai trò chủ yếu và thứ yếu của từng nguyên nhân.
Trong thực tiễn thì thiệt hại có thể có nhiều nguyên nhân, vậy xác định nguyên nhân nào là
nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp, nguyên nhân nào là nguyên nhân thứ yếu và gián tiếp,
một thiệt hại có thể kéo theo nhiều thiệt hại khác, thiệt hại đầu tiên có coi là nguyên nhân
của thiệt hại sau hay không. Chúng ta không thể căn cứ vào thứ tự trước sau của hành vi
gây thiệt hại để xác định nguyên nhân chủ yếu hay thứ yếu được, nhất là trong các vụ án
có nhiều người tham gia.
Tóm lại, mối quan hệ nhân quả là sự tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý
chí của con người, khi xem xét mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại
xảy ra phải bảo đảm tính khách quan, phải đặt trong mối liên hệ tất nhiên, nội tại của các
hiện tượng chứ không được chủ quan mà xác định quan hệ nhân quả.
2.1.4. Người gây thiệt hại có lỗi
Lỗi thể hiện dưới hai hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Khoản 2 Điều 309 quy định:
Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của
mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy
không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi
của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước
thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi trái pháp luật của mình và đối
với thiệt hại do hành vi gây nên, người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì phải chịu
trách nhiệm dân sự về hành vi vi phạm của mình gây ra khi họ có lỗi. Lỗi được cấu thành
bởi hai yếu tố đó là lý trí và ý chí. Lý trí là sự thể hiện năng lực nhận thức thực tại khách
quan, còn ý chí là yếu tố biểu hiện năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở nhận thức thực tại
khách quan.
Có thể xem xét hành vi của người gây thiệt hại trên các mặt sau:
- Nhận thức của người gây thiệt hại;
- Hành vi gây thiệt hại có đúng pháp luật hay trái pháp luật;
- Hành vi cụ thể của người gây thiệt hại.
Nếu xét lỗi dưới góc độ quan hệ của cá nhân thì lỗi của người gây thiệt hại là sự
biểu hiện quan hệ giữa bản thân người gây thiệt hại và xã hội mà nội dung của nó là sự phủ
định chủ quan những quy tắc ứng xử chung của xã hội, đòi hỏi cá nhân phải tôn trọng được
thể hiện bằng các quy định của pháp luật.
Để bảo vệ triệt để lợi ích của người bị thiệt hại trong quan hệ giữa các công dân
với nhau và đặc biệt là trong quan hệ giữa công dân với Nhà nước, xuất phát từ nguyên tắc
tôn trọng lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác, pháp luật dân sự quy định lỗi có thể được suy đoán từ ba điều kiện trên. Như vậy, có
thể nói rằng: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự hay bất cứ trách nhiệm pháp lý nào
khác nào đều phải dựa trên cơ sở lỗi. Một người gây thiệt hại mà không có lỗi thì dù thiệt
hại tới mức nào cũng không phải bồi thường - đó là nguyên tắc. (trường hợp phòng vệ
chính đáng, sự kiện bất ngờ, tình thế cấp thiết, lỗi hoàn toàn do người bị thiệt hại gây ra).
Lỗi cố ý biểu hiện trạng thái tâm lý của một người biết hành vi của mình là sai,
thấy rõ hậu quả của hành vi đó, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc không mong muốn
nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả của hành vi đó xảy ra. Lỗi vô ý là biểu hiện trạng thái
tâm lý của người gây thiệt hại, thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại đó không thể xảy ra hoặc có thể xảy ra nhưng ngăn ngừa được.
Lỗi có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức độ bồi thường thiệt hại. Trong
trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không
có trách nhiệm phải bồi thường. Mức độ bồi thường phụ thuộc vào mức độ lỗi của người
gây thiệt hại. Khi nghiên cứu về lỗi vô ý có thể chia lỗi vô ý ra làm hai loại:
- Vô ý vì cẩu thả.
- Vô ý vì quá tự tin.
Vô ý cẩu thả là trường hợp người có hành vi vi phạm mặc dù có thể thấy trước và
phải thấy trước thiệt hại có thể xảy ra.
Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người có hành vi vi phạm thấy trước khả năng
hành vi của mình có thể gây thiệt hại và không mong muốn thiệt hại xảy ra nhưng lại tin là
có thể ngăn chặn được.
Sự khác nhau giữa vô ý vì cẩu thả và vô ý vì quá tự tin ở chỗ: người có hành vi vi
phạm với lỗi vô ý vì quá tự tin là họ nhận thấy trước được hành vi của họ có thể gây thiệt
hại, còn người có hành vi vi phạm với lỗi cẩu thả không nhận thức được thiệt hại có thể
xảy ra, trong cả hai trường hợp thì người có hành vi vi phạm không mong muốn thiệt hại
xảy ra.
Trong dân sự thì dù lỗi cố ý hay lỗi vô ý đều phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định:
...3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi trừ các
trường hợp:
a. Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
b. Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp
thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Như vậy, ngoài nguyên tắc "phải có lỗi" Bộ luật dân sự còn quy định cả trường
hợp không có lỗi người gây ra thiệt hại vẫn phải bồi thường.
Khoản 4 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định:
4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng
trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái
pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm
hữu, sử dụng trái luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
Cũng do quy định này mà các Thẩm phán khi xét xử có cách hiểu khác nhau cho
nên dẫn đến có nhiều cách giải quyết khác nhau. Thực tế có việc giải quyết khác nhau là
do cần phải phân biệt trường hợp nào chủ sở hữu người được chủ sở hữu giao chiếm hữu,
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại với trường hợp nào họ không
phải bồi thường cả khi họ không có lỗi. Vậy nên chăng Bộ luật dân sự chỉ nên quy định
việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà không cần phải quy định
chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra thiệt hại cả khi họ không có lỗi.
Như vậy, lỗi là điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Vì vậy, cần phân biệt các hình thức lỗi để xác định mức độ lỗi trên cơ sở đó ấn định
mức bồi thường.
2.2. CÁC CHỦ THỂ TRONG QUAN HỆ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
2.2.1. Pháp nhân - chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại
Khi chưa có Bộ luật dân sự 1995, trách nhiệm của pháp nhân và cá nhân được quy
định tại Thông tư 173/UBTP-TANDTC của Tòa án nhân dân tối cao ngày 23/3/1972. Theo
tinh thần của Thông tư này thì công nhân viên chức hay một người đại diện hợp pháp của
xí nghiệp, cơ quan trong khi thi hành nhiệm vụ, do hành vi liên quan chặt chẽ đến công
tác, được xí nghiệp, cơ quan phân công mà gây thiệt hại theo chế độ trách nhiệm dân sự,
rồi sau đó có quyền đòi hỏi họ hoàn trả việc bồi thường đó theo quan hệ lao động.
Trong trường hợp công nhân viên chức hoặc đại diện của xí nghiệp, cơ quan lợi
dụng nhiệm vụ do hành vi không liên quan đến công việc được phân công, để mưu lợi
riêng mà gây thiệt hại cho người khác thì cá nhân họ phải bồi thường.
Điều 618 Bộ luật dân sự quy định: "Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người
của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao. Nếu pháp nhân đã bồi
thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một
khoản tiền theo quy định của pháp luật".
Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ dân
sự do người đại diện xác lập, thực hiện nhân danh pháp nhân trong giao dịch dân sự. Trong
quan hệ dân sự pháp nhân có thể đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền quyết định hoặc được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người
được đại diện. Pháp nhân chỉ bồi thường thiệt hại trong trường hợp người của pháp nhân
quản lý gây thiệt hại.
Ví dụ: A là lái xe của công ty B, trên đường đi công tác gây tai nạn. Trong trường
hợp này thì công ty B phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Có trường hợp tuy người đó là người của pháp nhân quản lý gây thiệt hại nhưng
không phải bồi thường. Cũng như ví dụ nêu trên, nhưng sau khi hoàn thành công việc công
ty giao cho, A đã lái xe tranh thủ về thăm quê và trên đường về quê đã gây ra tai nạn, trong
trường hợp này thì A phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại, công ty B không
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Người của pháp nhân quản lý không phải chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân đối
với nghĩa vụ dân sự do pháp nhân xác lập, thực hiện. Trong trường hợp người của pháp
nhân quản lý lợi dụng nhiệm vụ được cơ quan chủ quản giao nhưng lại làm một việc vì
mục đích cá nhân mà gây thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại xảy ra.
2.2.2. Cá nhân - chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại
Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia quan hệ dân sự, Bộ luật
dân sự quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân phụ thuộc vào
các mức độ năng lực hành vi dân sự, khả năng bồi thường và tình trạng tài sản của cá nhân.
Khoản 1 Điều 606 Bộ luật dân sự quy định: "Người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt
hại thì phải tự bồi thường".
Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có khả năng bằng
chính hành vi của mình xác lập thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 17 Bộ luật dân sự).
Trên thực tế, khi xét xử đối với người gây thiệt hại từ đủ 18 tuổi trở lên, chưa có việc
làm, không có thu nhập, không có tài sản đáng kể và đang sống chung với cha mẹ, thì Tòa
án vẫn xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với họ và trong quá trình giải quyết
vẫn thừa nhận sự tự nguyện của cha mẹ người gây thiệt hại bồi thường thay cho con,
nhưng về mặt luật pháp thì không thể buộc họ bồi thường. Thực tế xảy ra cho thấy có
người đủ 18 tuổi gây thiệt hại nhưng đang học ở một trường nào đó, chưa có tài sản, không
có thu nhập đang phải sống nhờ vào cha, mẹ chu cấp tiền ăn học thì khi thụ lý cơ quan Tòa
án nên hòa giải, động viên cha mẹ người gây thiệt hại bồi thường.
"Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha,
mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà
con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần
còn thiếu".
Trong cuộc sống phần lớn người dưới mười lăm tuổi không có tài sản và sự tự lập
về kinh tế. Điều đó không có nghĩa là tất cả những người này đều không có tài sản riêng
mà thực tế có nhiều trường hợp những người này đã có tài sản riêng do được hưởng thừa
kế, được tặng cho tài sản. Nhưng về mặt pháp lý thì khi những người này gây thiệt hại thì
cha, mẹ vẫn là những người phải bồi thường thay, chỉ trừ khi việc bồi thường còn thiếu thì
mới lấy tài sản riêng của con bồi thường cho đủ.
"Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi
thường bằng tài sản của mình. Nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi
thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình".
Theo luật Bộ luật lao động thì: Người từ đủ mười lăm tuổi trở lên có thể được
tham gia vào quan hệ lao động để có thu nhập và có tài sản riêng có thể tự mình quản lý tài
sản riêng hoặc nhờ cha, mẹ quản lý và cha, mẹ hoàn toàn có quyền định đoạt tài sản đó vì
lợi ích của con. Tuy nhiên, những người ở độ tuổi này chưa đầy đủ về năng lực hành vi
dân sự nên phải có người đại diện cho mình trong việc xác lập và thực hiện các giao dịch
dân sự; vì vậy, cha, mẹ của người từ đủ mười lăm đến dưới mười tám tuổi vẫn phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại do con mình gây ra.
Xem xét hai trường hợp người dưới mười lăm tuổi và người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại với trường hợp người gây thiệt hại là người mất năng
lực hành vi dân sự thì nếu những người này có cá nhân, tổ chức giám hộ thì cá nhân tổ
chức đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường. Khoản 3 Điều 606 Bộ
luật dân sự quy định:
Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt
hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người
được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc
không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản
của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc
giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Xuất phát từ qui định trên đây của Bộ luật dân sự, một vấn đề nảy sinh là: Nếu
người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy
tài sản của mình để bồi thường. Vậy trong trường hợp này sẽ lấy tài sản ở đâu để bồi
thường, ai là người phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Theo chúng tôi cần có qui định
cụ thể trong trường hợp này, chẳng hạn coi đó là rủi ro và người bị thiệt hại phải gánh chịu
thiệt hại.
2.3. NGUYÊN TẮC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
Khi giải quyết các vụ án liên quan đến sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm các cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải tuân thủ nguyên tắc về bồi thường
thiệt hại. Dưới góc độ lý thuyết thì nguyên tắc là các tư tưởng pháp lý chỉ đạo có ý nghĩa bao
trùm, xuyên suốt trong quá trình ban hành văn bản pháp luật cũng như áp dụng pháp luật các
chủ thể phải tuân theo.
Điều 605 Bộ luật dân sự quy định:
1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể
thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật
hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô
ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của
mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt
hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
Bộ luật dân sự 2005 đã bổ sung nguyên tắc "bồi thường một lần hoặc nhiều lần".
Việc bổ sung điều kiện này tạo cho người gây thiệt hại và người bị thiệt hại tự do thỏa
thuận theo hoàn cảnh kinh tế và khả năng của mình.
Các nguyên tắc bồi thường thiệt hại được qui định tại Điều 605 Bộ luật dân sự thể
hiện sự công bằng hợp lý của pháp luật dân sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức, pháp nhân khi bị xâm phạm, đồng thời cũng thể hiện sự công bằng đối với
người gây thiệt hại, đó là người gây thiệt hại chỉ phải chịu trách nhiệm về mức độ lỗi mà
mình gây ra.
2.3.1. Nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời
Mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là buộc người gây
thiệt hại phải bù đắp, khắc phục những thiệt hại đã xảy ra cho người bị thiệt hại, do đó người
gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị thiệt hại nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích của người bị thiệt hại. Khoản 1 Điều 605 2.3.1. nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp
thời quy định: "Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời". Theo Từ điển giải
thích từ ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà Nội năm 1999 thì cụm từ: "Bồi thường
thiệt hại" được hiểu là: "Hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt
hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất về
tinh thần cho bên bị thiệt hại".
Vậy hiểu thế nào là "toàn bộ" và "kịp thời"?
Theo chúng tôi thì "toàn bộ" là tất cả các phần, bộ phận của một chỉnh thể. Bồi
thường toàn bộ thiệt hại là nguyên tắc công bằng hợp lý phù hợp mục đích cũng như chức
năng khôi phục. Điều này có nghĩa cực kỳ quan trọng khi xác định bồi thường thiệt hại về
tính mạng và sức khỏe trong việc cứu chữa, hạn chế thiệt hại bởi các chi phí cứu chữa
thường rất cao, trong một số trường hợp vượt quá khả năng của người bị thiệt hại.
Bồi thường "kịp thời" là không chậm trễ, có thể người gây thiệt hại phải bồi
thường ngay mà không cần chờ quyết định của Tòa án. Ngành Tòa án cũng nên áp dụng
triệt để nguyên tắc này khi giải quyết các vụ việc liên quan đến tính mạng và sức khỏe bị
xâm phạm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích pháp của người bị thiệt hại một cách nhanh nhất
đồng thời ngăn chặn sự dây dưa, chây ỳ không chịu bồi thường của người gây thiệt hại.
Trong trường hợp người gây thiệt hại có khả năng về kinh tế nhưng không chịu bồi
thường ngay để chữa chạy cho người bị thiệt hại thì tùy từng trường hợp cơ quan tiến hành
tố tụng có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc người gây thiệt hại
phải bồi thường ngay cho người bị thiệt hại.
Ví dụ: Một người bị thiệt hại đang được cứu chữa trong cơ sở y tế bởi hành vi trái
pháp luật của người gây thiệt hại và có thể phải điều trị thời gian dài, nhưng người bị thiệt hại
do hoàn cảnh khó khăn không thể đáp ứng ngay được. Trong trường hợp này nếu người gây
thiệt hại không tự nguyện bồi thường do hành vi của mình gây ra thì Tòa án có thể áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời buộc người gây thiệt hại phải bồi thường ngay một khoản tiền cho
người bị thiệt hại.
Bồi thường thiệt hại được xác định theo nguyên tắc: người gây thiệt hại bao nhiêu
thì phải bồi thường bấy nhiêu (bồi thường toàn bộ thiệt hại). Thiệt hại xảy ra có thể là tài
sản, sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm (Điều 608; Điều 609; Điều 610 Bộ luật dân sự) tùy
từng trường hợp có thể áp dụng bồi thường thiệt hại về tinh thần (khoản 2 Điều 609; khoản
2 Điều 610 Bộ luật dân sự); chúng ta không chấp nhận những chi phí, thiệt hại không thực
tế và thiệt hại được suy diễn chủ quan.
Nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời cũng đã được hướng dẫn trong Nghị quyết
03/2006/NQ-HĐTP-TANDTC ngày 8/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao. Tuy nhiên, để áp dụng nguyên tắc này trong thực tiễn xét xử phải bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của cá nhân, của toàn xã hội.
Nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời không hạn chế sự tự nguyện thỏa thuận
việc bồi thường giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại. Đồng thời nghiêm cấm sự ép
buộc thỏa thuận và việc thỏa thuận đó không trái luật, tùy theo sự thỏa thuận của các bên
có thể cao hơn mức thiệt hại hoặc thấp hơn mức thiệt hại xảy ra trên thực tế. Đây cũng là
đặc trưng cơ bản trong giao lưu dân sự trên cơ sở tự do ý chí, tự do cam kết thỏa thuận.
2.3.2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý
mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình
Với nguyên tắc này thì người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường
khi có đủ hai điều kiện sau:
- Do lỗi vô ý mà gây thiệt hại
Nếu người gây thiệt hại mà do lỗi cố ý gây thiệt hại thì không được áp dụng
nguyên tắc này bởi vì người gây thiệt hại chủ ý gây ra thiệt hại mà theo lỗi cố ý gây thiệt
hại là người gây thiệt hại nhận thức rõ hành vi của mình là gây thiệt hại, thấy trước thiệt hại
của hành vi đó và mong muốn thiệt hại xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý
thức để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Do vậy người gây thiệt hại phải hoàn toàn chịu trách nhiệm do lỗi của mình về
hành vi đó.
Đối với lỗi cố ý thì người gây thiệt hại không được giảm mức bồi thường. Họ chỉ được
giảm mức bồi thường do lỗi vô ý, còn lỗi cố ý thì phải bồi thường toàn bộ dù người gây thiệt
hại có hoàn cảnh kinh tế khó khăn về trước mắt và lâu dài, trừ trường hợp các bên có thỏa
thận với nhau về mức bồi thường.
Thực tế ở vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu vùng xa... các Tòa án đã tuyên mức án
phù hợp nhưng người gây thiệt hại vẫn không thể bồi thường do kinh tế khó khăn, nhưng
vì pháp luật như vậy nên không thể áp dụng khác.
Nguyên tắc này đặt ra nhằm bảo đảm phán quyết của Tòa án đưa ra được thi hành
ngay và có hiệu quả, vì thực tế rất nhiều các vụ án các bản án, quyết định của Tòa án ban
hành nhưng cơ quan Thi hành án không thi hành được thì cũng không có ý nghĩa.
- Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài
Khi mức độ thiệt hại có thể lớn hơn khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của
người gây thiệt hại thì người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường thiệt hại. Tất
nhiên, điều kiện này luôn đi cùng với điều kiện lỗi vô ý của người gây thiệt hại.
Trong thực tiễn xét xử các vụ án về bồi thường thiệt hại đến sức khỏe và tính
mạng bị xâm phạm, để xác định như thế nào là: "thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế
trước mắt và lâu dài của mình" là một vấn đề khá phức tạp. Theo chúng tôi thì tùy thuộc
vào từng trường hợp cụ thể, căn cứ từng trường hợp cụ thể của vụ án mà quyết định cho
thỏa đáng, tránh trường hợp giảm quá ít thì không có ý nghĩ thiết thực, và ngược lại, không
nên giảm quá nhiều do lo ngại không thể thi hành án được.
Hay cụm từ "khả năng kinh tế" cũng là một vấn đề cần xác định rõ nhằm để xem
xét trường hợp nào thì được giảm mức bồi thường thiệt hại, trường hợp nào thì không
được giảm bồi thường, đồng thời cũng là để bảo vệ quyền lợi, bảo đảm tính công bằng,
tránh sự gian lận, lợi dụng để trốn tránh trách nhiệm bồi thường của người gây ra thiệt hại.
Ví dụ: A trong khi lau súng, do sơ ý không biết súng có đạn và bị cướp cò, đạn nổ
trúng B làm B chết và bị thương C (B là lao động chính, nuôi dưỡng mẹ già và 2 con con
nhỏ). Qua xem xét thực tế hoàn cảnh của A khó khăn, gia đình không có tài sản gì đáng
giá, ngoài ra A còn phải nuôi 1 mẹ già và 4 con còn nhỏ. Vậy trong trường hợp này khi
giải quyết, Tòa án phải coi sự thiệt hại mà A gây ra cho B,C là quá lớn so với khả năng
kinh tế trước mắt và lâu dài và cần thiết giảm mức bồi thường cho A là thỏa đáng, còn
giảm mức bao nhiêu thì còn tùy thuộc vào từng trường hợp, điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Ngoài hai điều kiện, lỗi của người bị thiệt hại cũng là một trong những yếu tố quan
trọng khi chúng ta xác định mức bồi thường. Nguyên tắc này cũng là để áp dụng giảm mức
bồi thường cho người gây thiệt hại trong trường hợp có lỗi của người bị thiệt hại, cũng như
phân tích ở trên, vấn đề xác định mức bồi thường trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi
rất phức tạp, xác định lỗi của người gây ra thiệt hại là bao nhiêu? Hiện nay cũng chưa có
văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về vấn đề này, trong thực tiễn xét xử Tòa án
thường tự ước lượng tỉ lệ % rồi quyết định, cho nên dẫn đến mức bồi thường có khoảng
cách rất xa nhau.
Ví dụ: Bản án số 113/2006/HSPT ngày 24/7/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh CM
xét xử Nguyễn Thị Phượng về tội cố ý gây thương tích.
Nội dung vụ án như sau: Do có mâu thuẫn về điện sinh hoạt nên giữa Phượng và
người bị hại Nguyễn Minh Trí xảy ra cãi chửi và thách đố nhau, Phượng đã dùng dao
chém 3 nhát vào mặt và vai trái Trí, tỷ lệ thương tật 15% vĩnh viễn, Tòa án huyện PT xử
sơ thẩm phạt Phượng 2 năm tù cho hưởng án treo và nhận xét có phần lỗi của bị hại. Sau khi
xử sơ thẩm, anh Trí kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm không cho Phượng hưởng án treo và
tăng mức bồi thường. Cấp phúc thẩm nhận định người bị hại có lỗi nên không có căn cứ
tăng mức hình phạt và mức bồi thường, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Vậy mức độ lỗi của
Trí ở trong vụ án này là bao nhiêu? thực tế không đơn giản. Các Tòa án khi gặp những vụ
án như thế này thường chỉ xem xét và quyết định một cách tương đối và như vậy khó tránh
khỏi việc sau khi tuyên án các bên sẽ kháng cáo không đồng ý cách giải quyết của cấp sơ
thẩm, vì trong vụ án này còn liên quan đến hình phạt tù và mức bồi thường thiệt hại.
Người gây thiệt hại thì yêu cầu giảm hình phạt và mức bồi thường người bị thiệt hại yêu
cầu tăng hình phạt đối với bị cáo và yêu cầu tăng mức bồi thường. Hơn nữa điều luật chỉ
định hình chứ không định lượng, việc giảm mức bồi thường phải phụ thuộc vào điều kiện,
hoàn cảnh, mức độ của người gây thiệt hại mà Tòa án ra quyết định trong những trường
hợp cụ thể.
2.3.3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người gây thiệt
hại, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác thay
đổi mức bồi thường
Nguyên tắc được quy định tại khoản 3 Điều 605 Bộ luật dân sự, theo nội dung của
nguyên tắc này thì người gây thiệt hại, người bị thiệt hại, người đại diện hợp pháp của
người bị thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án can thiệp nhằm thay đổi mức bồi thường, khi
mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế. Nguyên tắc này đã được các nhà làm luật
dự đoán được tác động của thị trường đến cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của con người,
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Ví dụ: Người gây thiệt hại cho rằng mức bồi thường tại thời điểm là quá cao so với
thời điểm xét xử nên yêu cầu cơ quan Tòa án giảm mức bồi thường hoặc ngược lại người
bị thiệt hại cho rằng mức tiền bồi thường hàng tháng quá thấp không bảo đảm cho mức
sinh hoạt hàng ngày nên yêu cầu cơ quan Tòa án tăng mức bồi thường.
Thay đổi mức bồi thường có thể hiểu là việc tăng mức bồi thường, có thể cao hơn,
có thể thấp hơn mức bồi thường thiệt hại. Hay thay đổi về thời hạn bồi thường ngắn hơn
hay dài hơn mức mà trước đây các bên đã thỏa thuận hoặc Tòa án quyết định - đó là yêu
cầu của người bị thiệt hại. Còn người gây thiệt hại có thể thay đổi mức bồi thường đối với
người bị thiệt hại đó là trường hợp người gây ra thiệt hại vì một lý do nào đó không tiếp
tục thực hiện việc bồi thường hoặc vì một lý do khách quan.
Ví dụ: Người bị thiệt hại đã bình phục hoàn toàn sức khỏe, đã tham gia lao động
tích cực và thực tế đã có khoản thu nhập (việc thu nhập cao hay thấp chúng ta không quan
tâm).
Hoặc một trường hợp cụ thể khác: Một người bị người khác đánh vào vùng đầu gây
thiệt hại về sức khỏe 44%, ngoài trách nhiệm hình sự người gây thiệt hại phải chịu, Tòa án
buộc người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại tổng cộng các khoản 5.000.000
đồng, sau một thời gian người bị thiệt hại bị tái phát vết thương, bị liệt nên không tham gia học
tập, công tác, lao động... và cần có một người chăm sóc. Trong trường hợp này người bị thiệt
hại có thể nộp đơn khởi kiện người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường một khoản
tiền về sức khỏe bị giảm sút, bị mất đi và một khoản theo luật cho một người chăm sóc người
bị thiệt hại. Ngược lại người gây thiệt hại cũng có quyền này khi cho rằng thiệt hại mà Tòa án
buộc họ phải bồi thường cho người bị thiệt hại không còn cần thiết và điều kiện của họ không
có khả năng tiếp tục bồi thường.
Dù thay đổi mức bồi thường theo hướng nào đi chăng nữa thì vấn đề mấu chốt vẫn
là bảo đảm cho sự công bằng, hợp lý cho những người yêu cầu.
Khoản 1 Điều 605 Bộ luật dân sự quy định: "Phương thức bồi thường một lần
hoặc nhiều lần". Vậy việc thay đổi mức bồi thường thì chúng ta chỉ áp dụng đối với
phương thức bồi thường nhiều lần còn đối với phương thức bồi thường một lần thì không
áp dụng, bởi lẽ người gây thiệt hại đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường và nghĩa vụ bồi
thường đã chấm dứt. Như vậy, nếu có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại phát sinh đối với
phương thức bồi thường thiệt hại một lần thì Tòa án không chấp nhận yêu cầu này.
2.4. HÌNH THỨC BỒI THƯỜNG VÀ MỨC BỒI THƯỜNG
2.4.1. Hình thức bồi thường thiệt hại
Hình thức bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là cách thức thực hiện nghĩa vụ của
bên gây thiệt hại đối với bên bị thiệt hại. Trong quan hệ pháp luật trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng, hình thức bồi thường thiệt hại do các bên tự thỏa thuận hoặc
pháp luật quy định.
Khoản 1 Điều 605 Bộ luật dân sự quy định: "...các bên có thể thỏa thuận về hình
thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi
thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác".
Đối với những thiệt hại do sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm thì hình thức bồi
thường mà Tòa án thường áp dụng là bồi thường bằng tiền do tính chất đặc biệt của loại
thiệt hại này. Các khoản tiền chi phí hợp lý mà người bị thiệt hại và gia đình của họ đã bỏ
ra khi điều trị tại cơ sở y tế sẽ được tính thành một khoản tiền cụ thể.
Các bên có thể thỏa thuận "phương thức bồi thường một lần" hoặc "phương thức
bồi thường nhiều lần" tùy theo từng điều kiện kinh tế, hoàn cảnh cụ thể. Theo quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong khoản
tiền phải bồi thường cho người thi hành án thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải
chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền chưa thi hành theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân
hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Khoản tiền cấp dưỡng cho những người thân thích gần gũi của người bị thiệt hại
mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng phải được thực hiện hàng tháng. Đối với các
khoản tiền chi phí hợp lý, thu nhập bị mất đi, thu nhập bị giảm sút cho người chăm sóc
người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động cũng phải được bồi thường hàng tháng.
Vậy trong trường hợp người gây thiệt hại và người bị thiệt hại, những người mà
người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng không ở cùng địa phương, thì việc cấp dưỡng có
nên áp dụng hình thức cấp dưỡng hàng tháng hay áp dụng hình thức cấp dưỡng một lần?
Theo chúng tôi là đối với trường hợp này thì Tòa án nên áp dụng hình thức cấp dưỡng một
lần thì có tính khả thi hơn.
Ví dụ: Bản án số 12/2006/HSST ngày 20/2/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh LC xét
xử Sừn Văn Đoàn về tội giết người.
Nội dung vụ án: Đoàn vay anh Nghị 100.000 đồng do đòi nhiều lần Đoàn không
có tiền để trả, Đoàn nảy sinh ý định giết anh Nghị. Đoàn dùng cây rìu chém anh Nghị
nhiều nhát vào đầu, cổ làm anh Nghị chết tại chỗ, Đoàn kéo xác anh Nghị lăn xuống thác
nước.
Ngoài phần quyết định hình phạt, về trách nhiệm dân sự: Tòa án nhân dân tỉnh LC
buộc Đoàn phải bồi thường cho chị Vùi Thị Lần - Người đại diện hợp pháp của bị hại:
55.500.000 đồng, trong đó có số tiền: 20.000.000 đồng là tiền cấp dưỡng 1 lần cho 2 cháu
là con anh Nghị, cháu lớn sinh năm 1994, cháu nhỏ sinh năm 1997.
Điều 417 Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định: "Người có nghĩa vụ phải bồi thường
bằng tiền". Trong các hình thức bồi thường thiệt hại, ngoài việc bồi thường bằng tiền còn
có nguyên tắc khôi phục tình trạng ban đầu.
Bộ luật dân sự Đức thì áp dụng nguyên tắc khôi phục tình trạng ban đầu. Bộ luật
dân sự không quy định rõ như Bộ luật dân sự Nhật Bản nên không rõ là có áp dụng nguyên
tắc khôi phục tình trạng ban đầu hay không nhưng đa số các học thuyết thì chủ trương áp
dụng nguyên tắc bồi thường bằng tiền. Tuy nhiên, cũng có không ít trường hợp trong đó án
lệ và học thuyết thừa nhận sự khôi phục tình trạng ban đầu.
2.4.2. Mức bồi thường thiệt hại
Khi áp dụng các quy định của pháp luật về mức bồi thường thiệt hại, cần phải xem
xét thực tế và tùy vào từng trường hợp cụ thể mà quyết định: mức độ lỗi của người gây ra
thiệt hại và người bị thiệt hại, khả năng kinh tế thực tế của người gây thiệt hại để Tòa án
quan tâm xem có nên giảm mức bồi thường hay giữ nguyên mức bồi thường, như vậy thì
quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự mới được bảo đảm tuyệt đối. Người gây thiệt
hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do lỗi cố ý mà mình gây ra, còn nếu vô ý mà gây thiệt
hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài thì có thể được giảm mức bồi
thường hoặc có thể chỉ phải bồi thường thấp hơn mức thiệt hại hoặc người bị thiệt hại cũng
có lỗi.
Việc xét mức bồi thường thiệt hại như thế nào cũng là một vấn đề cần bàn đến, đó
là khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì các đương sự có quyền làm đơn
yêu cầu thay đổi mức bồi thường. Thông thường những khoản mà đương sự đưa ra đề nghị
được thay đổi là thu nhập bị mất, thu nhập bị giảm sút, tiền cấp dưỡng. Trong luật dân sự
thì tiền cấp dưỡng là khoản tiền kéo dài theo thời gian (có trường hợp cho đến khi trưởng
thành, có trường hợp cho đến khi chết) cho nên không thể tính toán được chính xác trong
một thời gian dài như vậy được, trường hợp yêu cầu thay đổi mức bồi thường có thể xảy ra
do yêu cầu của người gây thiệt hại, có thể do yêu cầu của người bị thiệt hại.
Đối với trường hợp người gây thiệt hại vì một lý do khách quan họ có thể có thu
nhập cao hơn thời điểm xét xử hoặc họ có thể được thừa kế tài sản... nên người bị thiệt hại
có quyền yêu cầu người gây thiệt hại đền bù một khoản tương xứng với hậu quả đã gây ra.
Ngược lại, nếu người gây thiệt hại lâm vào hoàn cảnh khó khăn phải nuôi dưỡng bố, mẹ
già, con nhỏ dại… họ có quyền yêu cầu được giảm mức bồi thường để vừa có khả năng
chấp hành bản án vừa đảm bảo được cuộc sống cho gia đình.
Đối với người bị thiệt hại có thể bản thân họ hay phía gia đình họ có nguồn thu
nhập cao trong khi đó thì người phải cấp dưỡng khó khăn hoặc mức cấp dưỡng không còn
phù hợp với thực tế vì thế mà không bảo đảm cho người được cấp dưỡng một mức sống tối
thiểu.
2.5. XÁC ĐỊNH THIỆT HẠI TRONG TRƯỜNG HỢP SỨC KHỎE, TÍNH
MẠNG BỊ XÂM PHẠM
2.5.1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm
Điều 609 Bộ luật dân sự quy định:
1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm gồm:
a. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và
chức năng bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại.
b. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại, nếu
thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định
được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại.
c. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc
người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, nếu người bị thiệt hại mất khả năng
lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí
hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
2. Người xâm phạm sức khỏe của người khác phải bồi thường một khoản
tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù
đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì
mức tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
* Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe và chức năng
bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại.
Điều 71 Hiến pháp 1992 quy định: "Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân
thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe..."
Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị
mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người thiệt hại
đi cấp cứu, tiền vé tàu xe thậm chí cả vé máy bay (nếu cần thiết) đi lại cứu chữa tại các cơ
sở y tế, tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế phục vụ cho việc cấp cứu, chi phí chiếu
chụp Xquang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu… theo chỉ
định của bác sĩ điều trị. Tiền viện phí, tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng, tiền
chăm sóc phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp
chân tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống, khắc phục thẩm mỹ, chi phí cho
việc cấy ghép bộ phận cơ thể bị mất, chi phí giải phẫu về mặt thẩm mỹ do bị bỏng biến
dạng cơ thể… để hỗ trợ thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút
của người bị thiệt hại (nếu có).
Trong trường hợp, ở những địa phương vùng sâu vùng xa, do phương tiện đi lại
khó khăn, chủ yếu bằng xe máy, xe ngựa…, khi thuê các phương tiện này không thể có hóa
đơn, chứng từ, nhưng mặc dầu vậy nếu người bị hại đưa ra chứng cứ chứng minh yêu cầu này
thì đây phải được coi là chi phí hợp lý. Hay hiện nay nước ta có nhiều cơ sở y tế tư nhân hoạt
động, khi người bị thiệt hại được đưa vào những cơ sở này cấp cứu, điều trị thì cũng cần phải
buộc người gây thiệt hại bồi thường những chi phí cần thiết cho việc cấp cứu, điều trị của
người bị thiệt hại tại các cơ sở đó. Ngược lại, có những chi phí mà cơ sở y tế ở địa phương có
đủ điều kiện cấp cứu, chữa trị không cần thiết phải đưa đi cấp cứu, chữa trị ở những cơ sở
khám chữa bệnh tuyến trên nhưng người bị thiệt hại lại yêu cầu, thì những chi phí này phải
được coi là chi phí không hợp lý. Ngoài ra còn có những chi phí mà người bị thiệt hại yêu cầu
vượt quá hoặc không liên quan đến việc chữa trị thương tích thì cũng không được bồi thường.
Ví dụ một người bị gãy chân nếu chữa trị ở trong nước thì chỉ tốn khoảng 6-7 triệu đồng,
nhưng người bị thiệt hại yêu cầu phải được đưa ra nước ngoài điều trị với chi phí lên đến hàng
ngàn đôla, thì những chi phí này không thể coi là hợp lý.
* Thu nhập thực tế bị giảm sút là phần thu nhập tương ứng với thu nhập của
người bị thiệt hại trước khi sức khỏe bị xâm phạm mà người bị thiệt hại không thu nhập
được. Phần thu nhập thực tế bị giảm sút là phần chênh lệch giữa thu nhập trước và sau khi
sức khỏe bị xâm phạm. Nếu người bị thiệt hại có việc làm nhưng không ổn định thì có thể
tính các khoản thu nhập bị giảm sút như sau: Ví dụ, trước khi sức khỏe bị xâm phạm,
người bị thiệt hại có thu nhập 30.000 đồng/ngày; sau khi sức khỏe bị xâm phạm họ chỉ thu
nhập được 20.000 đồng/ngày. Vậy người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường số
tiền chênh lệch là 10.000đồng/ngày.
Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại, nếu trước khi sức
khỏe bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế nhưng do sức khỏe họ phải đi điều
trị và do đó không có được khoản thu nhập đó. Nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại
không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức trung bình của lao động cùng
loại ở từng địa phương. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định thu nhập thực tế của người
bị thiệt hại gặp khó khăn, bởi vì việc cung cấp tài liệu, chứng cứ của các bên rất khác nhau
và một thực tế nữa là việc quản lý thu nhập công dân của nước ta chưa được chặt chẽ, phần
nào khó khăn cho công tác xét xử và giải quyết loại án này. Cần phải xem xét người bị
thiệt hại sau khi điều trị về nhà thì khả năng lao động của họ có còn hay không, nếu còn thì
cần xác minh thu nhập hàng tháng sau đó đối chiếu với thu nhập của họ trước khi sức khỏe
bị xâm phạm để xác định thu nhập bị giảm sút.
Trên thực tế, khi tính thời gian hưởng thu nhập thực tế và thu nhập bị giảm sút
cũng có nhiều quan điểm khác nhau nên dẫn đến cách tính khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Chỉ tính thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút trong
thời gian người bị thiệt hại nằm điều trị để phục hồi sức khỏe.
Quan điểm thứ hai thì cho rằng: Thu nhập thực tế bị mất và bị giảm sút tính từ khi
sức khỏe bị xâm phạm cho đến khi người bị thiệt hại chết, ý kiến này căn cứ vào khoản 1
Điều 612 Bộ luật dân sự: "Trong trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng
lao động thì người bị thiệt hại được hưởng bồi thường cho đến chết".
Theo chúng tôi thì thời gian hưởng thu nhập thực tế được tính theo hai cách sau:
- Trường hợp người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động thì thời hạn bồi
thường thiệt hại được tính từ khi sức khỏe bị xâm phạm cho đến khi người thiệt hại chết
(áp dụng theo khoản 1 Điều 612 Bộ luật dân sự).
- Trường hợp người bị thiệt hại không mất hoàn toàn khả năng lao động thì thời
điểm tính bồi thường thiệt hại từ khi sức khỏe bị xâm phạm cho đến khi thu nhập được
khôi phục bằng thu nhập trước khi bị thiệt hại. Trong thực tiễn, các Tòa án thường quyết
định buộc người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại một khoản tiền và đều
được các bên chấp nhận.
* Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế của người chăm sóc người bị thiệt hại
trong thời gian điều trị
Thông thường chỉ chi phí cho một người, trường hợp đặc biệt không quá hai người
(nạn nhân nằm một chỗ, bị hôn mê sâu, liệt dây thần kinh... phải có người trực tiếp theo
dõi thường xuyên). Nếu người bị thiệt hại về sức khỏe bị giảm sút thiệt hại từ 81% trở lên
thì người gây thiệt hại phải chịu chi phí cho người cấp dưỡng người bị thiệt hại cho đến
khi người bị thiệt hại chết.
Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều
trị do người chăm sóc phải nghỉ việc để chăm sóc người bị thiệt hại.
Nếu người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động (bị liệt, bị chấn thương não
mất trí nhớ…) và cần có người thường xuyên chăm sóc, thì thiệt hại bao gồm cả chi phí
hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại và khoản tiền cấp dưỡng cho những người bị
thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. Chi phí hợp lý và khoản thu nhập thực tế của người chăm
sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị theo chúng tôi thì đó là những khoản chi phí
bù đắp cho người chăm sóc người bị thiệt hại do họ phải nghỉ không làm việc, sản xuất,
lao động... để dành thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, ngoài ra còn các khoản khác như:
tiền tàu xe, tiền thuê nhà nghỉ (theo giá trung bình ở địa phương đó)…mà nếu như không
phải chăm sóc người bị thiệt hại thì họ không phải chi.
Theo chúng tôi thì chỉ nên coi những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ phải
cấp dưỡng và thực tế họ đang được cấp dưỡng là người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng cần căn cứ vào mức thu nhập của người bị thiệt hại và thực tế người đó cấp dưỡng
cho người được cấp dưỡng trước khi bị thiệt hại để quyết định. Ví dụ: A gây thương tích
cho B làm B chết, B nghiện ma túy thường xuyên về nhà gây sức ép với bố, mẹ lấy tiền
hút, chích ma túy. Vậy trong trường hợp này A không phải bồi thường thiệt hại về khoản
tiền cấp dưỡng (phải là người đang trực tiếp thực hiện việc cấp dưỡng).
* Người gây thiệt hại phải bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh
thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu.
Để đưa ra một mức bồi thường về thiệt hại tinh thần theo chúng tôi nên căn cứ vào
những điểm sau:
- Nếu sức khỏe của người bị thiệt hại là trầm trọng, cố tật nặng, tàn phế... thì phải coi
đây là trường hợp người bị thiệt hại và gia đình họ phải gánh chịu đau thương mất mát lớn
về tinh thần vì vậy khoản tiền bù đắp về tinh thần là phải tương đối cao mới hợp lý.
- Ngoài ra còn phải tính đến hoàn cảnh gia đình (là con độc nhất, là lao động
chính), điều kiện kinh tế của người bị thiệt hại và độ tuổi, vị trí, khả năng của họ trong gia
đình, đặc biệt là tác hại của vết thương trên cơ thể, là người chưa thành niên, chưa có gia
đình mà bị gây thương tích xấu xí diện mạo thì phải quyết định một khoản tiền cho thỏa
đáng.
Ví dụ: Bản án số 105/2006/HSST ngày 21/6/2006 của Tòa án tỉnh CM
Nội dung vụ án: Do mâu thuẫn khi chơi bida, Lê Hoàng Đ đã dùng gậy chọc bida
đập nhiều phát vào đầu của Trần Đức T, làm T bị thương nặng, tỷ lệ thương tích 45% vĩnh
viễn. Ngoài việc Đ phải chịu trách nhiệm hình sự, gia đình Đ đã tự nguyện bồi thường tiền
cứu chữa cho người bị hại. Người bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường tổn thất về tinh
thần. Tòa án tỉnh CM đã chấp nhận và buộc Lê Hoàng Đ phải bồi thường cho người bị hại
tiền bù đắp tổn thất về tinh thần: 8.000.000 đồng.
2.5.2. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
Điều 610 Bộ luật dân sự quy định:
1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt
hại trước khi chết;
b. Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c. Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ
cấp dưỡng.
2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại
theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về
tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị
thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực
tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng
khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa
thuận, nêu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng
lương tối thiểu do nhà nước quy định.
Như vậy, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
* Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại
trước khi chết;
Những chi phí hợp lý có thể chấp nhận đó là những chi phí chỉ đặt ra trong trường
hợp người bị thiệt hại sau khi bị người gây thiệt hại xâm phạm đến thân thể nhưng chưa bị
chết ngay vì vậy khoản thiệt hại này rất cần thiết trong việc xác định thiệt hại do tính mạng
bị xâm phạm. Những khoản chi phí cứu chữa người bị thiệt hại trước khi chết xác định
giống như chi phí cứu chữa người bị thiệt hại khi sức khỏe bị xâm phạm (xem thêm Mục
2.5.1).
* Chi phí hợp lý cho việc mai táng
Theo Nghị quyết 03/ HĐTP-TANDTC ngày 8/7/2006 thì các khoản:
Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: Tiền mua quan tài, các vật
dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và
các khoản chi phí khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo
thông lệ chung. Không chấp nhận bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống,
xây mộ, bốc mộ…
Như vậy Tòa án chỉ buộc người gây thiệt hại bồi thường những khoản đã liệt kê ở
trên, thực tế nhiều vụ án gia đình người bị thiệt hại gây áp lực với Tòa án và người gây
thiệt hại bằng cách là: đeo khăn tang và mang ảnh nạn nhân đến Tòa án khi xét xử và
thường đưa ra rất nhiều khoản bất hợp lý nhằm buộc người gây thiệt hại phải chịu trách
nhiệm bồi thường.
Có vụ án khi xét xử Thẩm phán không nghiên cứu kỹ nghị quyết và căn cứ vào nội
dung Nghị quyết hướng dẫn mà tùy tiện quyết định theo cảm tính, các khoản tiền chi phí,
bồi thường quá cao so với mức bình quân thu nhập đầu người ở địa phương. Chấp nhận cả
những khoản tiền mà theo luật không được chấp nhận, dẫn đến bản án không có tính khả
thi, không mang tính thuyết phục cho dù vụ án này được xét xử lưu động ở địa phương nơi
xảy ra việc phạm tội nhằm mục đích tuyên truyền, giáo dục pháp luật.
Ví dụ: Bản án số 76/HSST ngày 14/11/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh LC xét xử
bị cáo Nguyễn Việt Hùng về tội "Giết người".
Nội dung vụ án: Do có mâu thuẫn từ việc vay nợ tiền từ trước với vợ chồng anh
Nguyễn Duy Ngọc và chị Nguyễn Thị Hằng, Hùng đã dùng dao phát dài 90cm (loại dao
phát cỏ) chém anh Ngọc 4 nhát chết tại chỗ, chị Hằng đang nằm trên giường cùng con trai
3 tuổi xem tivi, Hùng chém chị Hằng đứt rời bàn chân phải, 1/3 chân trái, 1/3 cẳng tay phải
và nhiều vết thương khác trên người, khi đang chém tiếp thì mũi dao cắm vào giường và
gẫy cán không chém được nữa.
Phần trách nhiệm dân sự, Tòa án quyết định:
- Buộc bị cáo bồi thường cho bà Phạm Thị Lý (mẹ anh Ngọc) tiền mai táng phí và
làm 3 ngày: 5.000.000 đồng; tiền 49 ngày, 100 ngày giỗ đầu: 1.500.000 đồng. Tiền cải
táng xây mộ: 3.000.000 đồng. Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần: 10.000.000 đồng.
- Bồi thường cho chị Đỗ Thị Hằng:
- Tiền viện phí: 3.500.000 đồng.
- Tiền sàng lọc máu: 530.000 đồng.
- Tiền mua máu và các loại vật tư y tế để cấp cứu: 5.370.000 đồng.
- Tiền thu nhập bị mất (từ lúc cấp cứu cho đến khi xét xử là 100 ngày x 25.000
đồng = 2.500.000 đồng.
- Tiền công chăm sóc: 45 ngày x 2 người x 20.000 đồng = 1.800.000 đồng.
55 ngày x 1 người x 20.000 đồng = 1.100.000 đồng.
- Chi phí cấp cứu, tiền tàu xe thăm nom của gia đình: 1.000.000 đồng.
- Tiền bồi dưỡng cho chị Hằng: 1.000.000 đồng.
- Tiền tổn thất về tinh thần: 15.000.000 đồng.
- Tiền cấp dưỡng cho bà Phạm Thị Lý 66 tuổi, đã hết tuổi lao động mức:
200.000đồng/tháng cho đến khi bà Lý chết.
- Cấp dưỡng và chi phí chăm sóc cho chị Hằng mức: 500.000 đồng/tháng cho đến khi
chị Hằng chết.
- Cấp dưỡng cho 2 cháu con chị Hằng mỗi cháu: 200.000 đồng cho tới khi cháu đủ
18 tuổi.
Qua vụ án nêu trên, khoản tiền làm 3 ngày, 49 ngày, 100 ngày và giỗ đầu rõ ràng
là không hợp lý vì theo Nghị quyết 01/2004/NQ-HĐTP, tại tiểu mục 2.2- mục 2- phần 2
quy định "…không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng lễ, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc
mộ…". Theo chúng tôi thì do nước ta có nhiều dân tộc cùng chung sống và mỗi một dân tộc có
phong tục tập quán khác nhau nên việc giải quyết vấn đề mai táng là không đơn giản, về chi
phí hợp lý cho việc mai táng ngoài những khoản quy định trong Nghị quyết 03/ NQ-HĐTP
nên chấp nhận những khoản sau:
- Chi phí bảo quản xác, vệ sinh xác trước khi chôn cất.
- Chi phí cho việc thuê khâm liệm.
- Chi phí thuê khắc bia, tiền chụp và phóng ảnh thờ.
- Chi phí cho những người đào huyệt.
- Tiền mua đất để chôn người chết (nếu có).
- Tiền xây mộ (nơi không có tục cải táng).
* Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp
dưỡng
Chỉ những người mà khi còn sống người bị thiệt hại thực tế cấp dưỡng, nuôi nấng thì
mới được xem xét vấn đề cấp dưỡng, thông thường đó là những người thân thích gần gũi
với người bị thiệt hại.
Theo Nghị quyết 03/NQ-HĐTP thì những người sau đây được bồi thường khoản tiền
cấp dưỡng:
- Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và
được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động,
không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly
hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không
có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại
đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;
- Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên
không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn
cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con
được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em
đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ
cấp dưỡng;
- Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động,
không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông
bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng;
- Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự
nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung
với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Theo quan điểm của chúng tôi, thì tùy từng trường hợp mà Tòa án buộc người gây
thiệt hại phải bồi thường cho những người thân thích một khoản tiền cấp dưỡng với mức
thu nhập bình quân đầu người ở địa phương đó.
* Khoản tiền bồi thường tổn thất về tinh thần
Không phải trong mọi trường hợp người bị thiệt hại phải bồi thường khoản tiền về
tổn thất về tinh thần và tùy từng trường hợp cụ thể mà áp dụng mức bồi thường cao hay
thấp. Khoản 2 Điều 610 Bộ luật dân sự quy định: "…mức bồi thường bù đắp tổn thất về
tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá sáu
mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định".
Điều luật chỉ quy định bồi thường mức tối đa không quy định mức khởi điểm bồi
thường là bao nhiêu.
Theo chúng tôi thì để quyết định trường hợp nào phải bồi thường tổn thất tinh thần
thì có thể dựa trên một vài căn cứ như sau:
- Khoản bồi thường tổn thất về tinh thần dựa trên lứa tuổi của người bị thiệt hại,
chẳng hạn việc bồi thường tổn thất về tinh thần do việc gây thương tích ở vùng mặt cho
một người trẻ rõ ràng phải hơn khoản bồi thường này cho một người già.
- Khoản bồi thường tổn thất về tinh thần cũng có thể dựa trên mối quan hệ thực tế
trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại với những người thân thích, ruột thịt của người bị
thiệt hại, chẳng hạn việc bồi thường tổn thất tinh thần này cho gia đình người bị hại mà
người bị hại là con duy nhất trong gia đình phải cao hơn trường hợp người thiệt hại là con
trong một gia đình đông anh em….
Về mức bồi thường cần phải căn cứ vào quan hệ của người bị thiệt hại với người
thân thích, ruột thịt của người bị thiệt hại và vị trí của người thiệt hại trong cuộc sống tinh
thần của những người thân thích, ruột thịt của người bị thiệt hại, theo tinh thần của điều
luật thì bồi thường tổn thất về tinh thần phải được quyết định một lần và ấn định một mức
cụ thể trong bản án. Điều cần thiết là nên có một văn bản quy phạm pháp luật quy định
mức tối thiểu đối với khoản tiền tổn thất về tinh thần là phù hợp với thực tế.
Chương 3
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO XÂM PHẠM SỨC KHỎE, TÍNH MẠNG
3.1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM
3.1.1. Thực trạng giải quyết các vụ án về bồi thường thiệt hại do sức khỏe và
tính mạng bị xâm phạm
Bộ luật dân sự năm 1995 với các qui định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng đã tạo cơ sở pháp lý cho các cấp Tòa án giải quyết các tranh chấp liên
quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng, bồi thường thiệt hại do xâm phạm
sức khỏe, tính mạng nói chung. Qua một thời gian áp dụng vào thực tiễn, mặc dù đã có
hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 nhưng Bộ luật dân
sự 1995 còn bộc lộ một số khiếm khuyết nhất định. Đây chính là lý do để Bộ luật dân sự
2005 ra đời với những sửa đổi, bổ sung cho sát với tình hình thực tiễn. Tuy vậy, kể từ khi
có Bộ luật dân sự 1995 cho đến trước khi Bộ luật dân sự 2005 ra đời thì các tranh chấp về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được giải quyết triệt để. Theo số liệu của ngành
Tòa án, các vụ xâm phạm về tính mạng và sức khỏe mà ngành Tòa án thụ lý và giải quyết
trong các năm, diễn biễn như sau:
- Năm 2002: 1.964 vụ
- Năm 2003: 4.427 vụ
- Năm 2004: 3.470 vụ
- Năm 2005: 2.915 vụ
Qua số liệu trên cho thấy:
Thứ nhất, các vụ án xâm phạm về sức khỏe và tính mạng hàng năm chiếm số
lượng khá cao.
Thứ hai, có thể nói rằng,các cán bộ Tòa án đã vận dụng các quy định của Bộ luật
dân sự để giải quyết các yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, góp phần to lớn
khắc phục những tổn thất mà người bị hại phải gánh chịu, giúp họ dần dần ổn định cuộc
sống, duy trì hoạt động bình thường sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, Bộ luật dân sự cũng mới chỉ quy định những vấn đề chung nhất, cụ thể
chi tiết như thế nào thì mỗi Thẩm phán lại hiểu và áp dụng khác nhau, cách giải quyết
thiếu nhất quán, chưa có sự thống nhất, có nhiều trường hợp cùng một loại yêu cầu đòi bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhưng mỗi Thẩm phán lại giải quyết một cách, vì vậy dẫn
đến mức bồi thường khác nhau, do đó quyền, lợi ích của các chủ thể không được đảm bảo,
nhiều trường hợp người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại cũng không
thỏa đáng theo sự phán quyết của Tòa án. Vấn đề này sẽ được trình bày cụ thể tại những
phần tiếp theo khi xem xét thực trạng xét xử về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm sức khỏe, tính mạng ở những vụ án cụ thể.
3.1.2. Thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân đối với những yêu cầu bồi
thường thiệt hại về vật chất
Như đã phân tích chương 2, bồi thường thiệt hại về vật chất là khoản bồi thường
có thể "lượng hóa" được, mặc dù ở mức độ tương đối. Theo quy định tại Điều 307 Bộ luật
dân sự thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất về tài
sản, chi phí hợp lý cho việc ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, thu nhập
thực tế bị giảm sút của người bị thiệt hại và tùy từng trường hợp có thể được tính cho cả
người chăm sóc người bị thiệt hại.
Trên thực tế các vụ án hình sự, phần dân sự trong các bản án này bị kháng cáo,
kháng nghị rất ít, nếu có kháng cáo kháng nghị thì chủ yếu là kháng cáo và kháng nghị về
phần hình phạt, còn về trách nhiệm bồi thường theo quyết định của Tòa án thì người gây
thiệt hại chấp nhận, trong một số vụ án thì bản thân người bị thiệt hại hoặc gia đình người
bị thiệt hại với người gây thiệt hại đã thỏa thuận về phần bồi thường nên không yêu cầu
Tòa án giải quyết.
Ví dụ: Bản án số 21/2005/HSST ngày 28/4/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh LC xét
xử bị cáo Nguyễn Hữu Kiệm về tội: "Giết người". Nội dung vụ án như sau: Do nghi ngờ
vợ có quan hệ ngoại tình với một người Trung Quốc, khuyên vợ không được, 4 giờ sáng
ngày 11/6/2004 khi đang quan hệ tình dục thì chị Ký tuyên bố chỉ ngủ với Kiệm đêm nay,
còn từ mai chị Ký ngủ với ai là quyền của chị Ký. Nghe thấy thế Kiệm dùng hai tay bóp cổ
chị Ký cho đến chết. Sau đó Kiệm bỏ trốn đến ngày 3/12/2004 bị bắt giữ. Tại cơ quan điều
tra và tại phiên tòa anh Nguyễn Văn Huấn (anh trai chị Ký) yêu cầu bị cáo Kiệm bồi
thường toàn bộ số tiền mai táng phí cho chị Ký là 6.777.000 đồng. Về tổn thất tinh thần
anh không yêu cầu vì xét thấy gia đình bị cáo khó khăn. Đối với hai cháu là con chung của
bị cáo và chị Kiệm, anh Huấn cũng không yêu cầu bồi thường. Sau khi xét xử, bị cáo chấp
nhận khoản tiền bồi thường này mà không kháng cáo về phần bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng này.
Căn cứ vào tình hình kinh tế tại địa phương vào thời điểm xảy ra vụ án, mức bồi
thường tiền mai táng phí là 6.777.000 đồng là phù hợp với thực tế. Do đó, khi đại diện gia
đình người bị hại yêu cầu, Tòa án chấp nhận buộc bị cáo phải bồi thường tiền mai táng phí
và bị cáo đồng ý, không kháng cáo là hoàn toàn có cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế.
Bên cạnh đó, có những vụ án cấp sơ thẩm quyết định mức bồi thường quá thấp so
với thực tế chi phí gia đình người bị thiệt hại đã bỏ ra, không bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp cho đương sự, cấp phúc thẩm đã khắc phục thiếu sót, sửa bản án sơ thẩm, tăng mức
bồi thường.
Ví dụ: Bản án số 827/2006/HSPT của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử Phạm Ngọc Bảo, Phạm Trần Ngân về tội giết người. Cấp
sơ thẩm buộc các bị cáo bồi thường cho người đại diện người bị hại cụ thể: Phạm Ngọc
Bảo bồi thường: 20.922.000 đồng; Phạm Trần Ngân bồi thường: 12.460.000 đồng. Sau khi
xét xử, đại diện gia đình người bị thiệt hại đã kháng cáo đòi tăng mức bồi thường. Tòa án
cấp phúc thẩm đã sửa bản án sơ thẩm buộc các bị cáo phải bồi thường: Phạm Ngọc Bảo
26.600.000 đồng; Phạm Trần Ngân 13.400.000 đồng. Lý do Tòa án cấp phúc thẩm đưa ra
để sửa một phần trong bản án sơ thẩm khi có kháng cao tăng mức bồi thường, gia đình
người bị thiệt hại đã bỏ ra các chi phí cho việc cứu chữa người bị thiệt hại trước khi chết,
tiền mai táng... với đầy đủ hóa đơn chứng từ hợp lệ và phù hợp với tình hình thực tế tại địa
phương. Qua vụ án này, chúng ta thấy rằng đối với thiệt hại về vật chất, mặc dù chúng ta
có thể "lượng hóa" được nhưng không phải lúc nào cũng có thể tính toán một cách chính
xác nếu không cân nhắc cả tình hình thực tế.
Nhiều vụ án giữa bị cáo và bị hại tự nguyện thỏa thuận về vấn đề bồi thường thiệt
hại như mức bồi thường, thời gian bồi thường... Tòa án đã ghi nhận sự tự nguyện này và
không xem xét khi xét xử vụ án.
Ví dụ: Bản án số 10/2006/HSST ngày 14/2/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh TG xét
xử bị cáo Trần Văn Khoa về tội: "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ" theo qui định tại khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự 1999. Các bị hại và bị cáo
đã thỏa thuận với nhau, cụ thể: Bồi thường cho chị Ngô Thị Chinh - người đại diện hợp
pháp của bị hại Lê Anh Kiệt 3.000.000 đồng, thực hiện việc bồi thường mỗi tháng 200.000
đồng cho đến khi bồi thường xong; Bồi thường cho anh Lưu Văn Oảnh 3.000.000 đồng,
thực hiện mỗi tháng 100.000 đồng cho đến khi thực hiện xong.
Có nhiều vụ án xâm phạm về sức khỏe và tính mạng, người bị thiệt hại hoặc người
đại diện hợp pháp người bị thiệt hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại do giữa người gây
thiệt hại và người bị thiệt hại có quan hệ thân thích như vợ, chồng, con, anh, em ruột thịt…
Ghi nhận nguyên tắc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự, Tòa án cũng không xem
xét.
Ví dụ: Bản án số 159/2006/HSST của Tòa án nhân dân tỉnh NA xét xử bị cáo
Trịnh Văn Tuấn về tội "Cố ý gây thương tích". Người bị hại là chị Lữ Thị Phá (vợ bị cáo
Tuấn).
Nội dung vụ án: Nghi ngờ vợ ngoại tình trước đó, Tuấn sai con mua rượu về uống,
uống xong Tuấn xách dao tìm vợ để chém, thương tích Tuấn gây ra cho chị Phá là 36,18%.
Sau khi điều trị ra viện, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa chị Phá không yêu cầu anh
Tuấn phải bồi thường những chi phí trong thời gian điều trị.
Cũng có trường hợp người đại diện hợp pháp của người bị thiệt hại không kháng
cáo về phần hình phạt mà chỉ kháng cáo về phần bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sau
khi xét xử sơ thẩm, cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm tăng mức
bồi thường.
Có rất nhiều bản án mà khi xét xử các Thẩm phán hầu như không đề cập đến chi
tiết từng vấn đề mà người bị thiệt hại, người đại diện người bị thiệt hại yêu cầu bồi thường,
những yêu cầu nào hợp lý thì được chấp nhận, những yêu cầu nào không được chấp nhận
mà chỉ đưa ra tổng cộng số tiền phải bồi thường, không đưa ra tên từng khoản cụ thể dẫn
đến cả những người gây thiệt hại, người bị thiệt hại, người đại diện hợp pháp của người bị
thiệt hại không hiểu những khoản nào mình đưa ra đã được các cấp tòa chấp nhận, những
khoản nào không được chấp nhận mà chỉ đề cập một cách chung chung.
Ví dụ: Bản án số 12/2006/HSST ngày 20/2/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh LC xét
xử Sừn Văn Đoàn về tội "Giết người". Bị cáo Đoàn giết anh Đinh Văn Nghị, phần trách
nhiệm dân sự chỉ ghi: Toàn bộ chi phí gia đình bị hại đã phải thuê như công đi tìm xác,
chở xác, tiền mai táng tổng cộng: 25.000.000 đồng (không ghi rõ tiền công tìm xác, chở
xác, tiền mai táng phí từng khoản là bao nhiêu). Chính vì không có sự cụ thể, chi tiết này
mà dẫn đến sự hiểu lầm của người gây thiệt hại nên không khỏi có những băn khoăn từ
phía người gây thiệt hại.
Có nhiều bản án, Tòa án đã tính toán các khoản tiền bồi thường khá chi tiết.
Ví dụ: Bản án số 46/2006/HSST ngày 18/8/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh LC xét
xử bị cáo Lý Quang Thịnh về tội "Giết người".
Nội dung vụ án: Giữa bị cáo Thịnh và người bị hại Triệu Văn Chung có mâu thuẫn
nhỏ từ trước, khoảng 18h ngày 22/2/2006 Thịnh đi lấy cành sắn về trồng, Thịnh gặp và
chửi Chung, Chung chửi lại và lấy đoạn nứa vụt Thịnh, Thịnh cầm dao phát dài 84 cm
chém Chung gục tại chỗ. Chung được đưa di cấp cứu tại cơ sở y tế. Qua xem xét, Tòa án
cấp sơ thẩm đã chấp nhận các khoản chi phí sau:
- Tiền thuê xe cấp cứu đi về: 200.000 đồng.
- Tiền soi kiểm tra não: 200.000 đồng.
- Tiền mua máu: 1.260.000đồng.
- Tiền thử máu: 100.000 đồng.
- Tiền mua thuốc, tiền viện phí nằm viện: 13.000.000 đồng.
- Chi phí ca mổ: 1.000.000 đồng.
- Tiền thu nhập bị mất của người bị hại (từ ngày 22/2/2006 đến ngày xét xử):
3.000.000 đồng.
- Thu nhập bị mất của người chăm sóc người bị hại từ ngày 22/2/2006 đến ngày
xét xử): 4.800.000 đồng.
- Tiền mua thuốc điều trị sau khi ra viện: 1.900.000 đồng.
- Tiền bồi dưỡng: 3.000.000 đồng.
- Tiền tổn thất về tinh thần: 5.000.000 đồng.
Tổng cộng: 33.460.000 đồng.
Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử, bị cáo không kháng cáo về hình phạt và cũng
không kháng cáo về mức bồi thường. Như vậy, có thể thấy bằng việc liệt kê cụ thể các
khoản bồi thường thì bị cáo (người gây thiệt hại) đã nhận thức rõ mức bồi thường theo
đúng qui định của pháp luật.
3.1.3. Thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân đối với những yêu cầu bồi
thường thiệt hại về tinh thần
Như đã phân tích, theo qui định tại Điều 307 Bộ luật dân sự thì việc người gây thiệt
hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác thì
ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công khai còn phải bồi thường một
khoản tiền bù đắp về tinh thần cho người người bị thiệt hại. Thiệt hại này bao gồm: những
đau đớn về mặt thân thể, những đau đớn về mặt tinh thần, những tổn thương về mặt thẩm
mỹ…
Nhiều trường hợp người bị thiệt hại là người chưa thành niên, là con trai duy nhất
trong gia đình, là lao động chính trong gia đình, nhiều người chết để lại con nhỏ, cha mẹ
già yếu... nhiều gia đình bị mất hai hoặc ba người thân trong cùng một vụ án... hậu quả của
những trường hợp này là vô cùng nghiêm trọng. Nó gây ra những mất mát, đau thương về
tình cảm, tinh thần to lớn không có gì bù đắp được cho vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị
em... của người bị thiệt hại. Khó có thể xác định được sự đau đớn của họ khi nhìn thấy
người thân của mình bị giết một cách dã man, bị dập nát cơ thể, bị cắt ra từng mảnh; hoặc
cha mẹ mất khả năng sinh đẻ lại chỉ có một đứa con duy nhất bị chết, những đứa trẻ thơ
dại khi bị mất cha mẹ, mất đi những người thân là nguồn gốc sự đau buồn, phiền muộn và
còn kéo theo nhiều tác động tiêu cực khác như: khó khăn về đời sống, ảnh hưởng đến học
tập, lao động, sức khỏe, công tác của những người còn sống. Những đau đớn nói trên chính
là thiệt hại về tinh thần mà Bộ luật dân sự quy định được bồi thường.
Khi sức khỏe bị xâm phạm - biểu hiện cụ thể là các hành vi gây thương tích và gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác - thì mức độ thương tật có thể có sự khác nhau trong
mỗi vụ án. Thực tế xem xét qua hoạt động xét xử thấy rằng người bị thiệt hại thường phải
gánh chịu mức độ tổn hại sức khỏe với tỷ lệ thương tật khác nhau từ 1% đến 90%. Người
bị thiệt hại bị thương tích ở nhiều dạng khác nhau, phải cấp cứu điều trị, phẫu thuật, phải
chịu nhiều đau đớn về thân thể (phải giải phẫu, vết thương nặng gây đau đớn, bị tái phát
khi "trái gió trở trời"...). Nhiều trường hợp người bị thiệt hại bị mất một phần cơ thể như
mất một mắt, một chân, một tay, phải cắt bỏ cơ quan nội tạng, bị bệnh thần kinh do não bị
tổn thương, bị tàn tạ biến dạng như những người bị thiệt hại bị tạt axít vào mặt, vào người,
mất khả năng thực hiện chức năng bình thường của con người... Theo đó, người bị thiệt hại
hầu như bị tàn phế, không còn khả năng tham gia các hoạt động xã hội, vui chơi giải trí,
ảnh hưởng đến thẩm mỹ. Nhiều người bị thiệt hại là trẻ em, phụ nữ hoạt động ở các lĩnh
vực văn hóa, nghệ thuật... Những tổn hại nêu trên đều gây ra những đau đớn về thân thể và
tâm hồn cho những người bị thiệt hại, sự đau đớn về thể xác còn kéo theo sự đau đớn,
buồn chán, phiền muộn, lo lắng, ức chế, thay đổi bản chất, suy giảm niềm tin trong cuộc
sống, đó chính là những tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu.
Nhìn chung, thiệt hại về tinh thần bao gồm:
- Sự đau đớn về thân thể và tinh thần, sự tác động về tâm lý. Người bị thiệt hại
phải chịu đựng đau đớn khi phải nằm hàng giờ để phẫu thuật, bị mất một phần cơ thể của
mình, bị mang thương tích suốt đời, bị tàn phế...
- Thiệt hại do mất khả năng lao động xã hội bình thường, mất khả năng giải trí, vui
chơi... Đó là sự tước đoạt tinh thần của người bị thiệt hại, mất đi niềm vui lạc quan trong
sự tồn tại, làm giảm mất chất lượng cuộc sống. Người bị thiệt hại bị mất bộ phận khứu
giác, mất cảm giác mùi vị mất khả năng hoạt động thể thao, khiêu vũ, không còn khả năng
mang vác vật nặng, mất toàn bộ chức năng sinh dục hoặc những khó chịu trong đời sống
tình dục...
- Thiệt hại về thẩm mỹ: Người bị thiệt hại bị biến dạng hoặc phải chịu đựng nhiều
vết sẹo ở trên mặt, trên thân thể hoặc phải cắt bỏ một phần thân thể. Thiệt hại này còn gây
ra những hậu quả về nghề nghiệp cho những người bị thiệt hại, nó có thể gây ra những rắc
rối đối với khả năng thành đạt trong hoạt động nghề nghiệp của họ. Yếu tố thẩm mỹ đóng
vai trò không thể phủ nhận được trong một số hoạt động nghề nghiệp nhất định như: tiếp
viên hàng không, văn nghệ sĩ, bác sĩ, nhà giáo, các nhà hoạt động chính trị, thẩm phán...
Một ca sĩ, một tiếp viên hàng không... sẽ đau khổ biết bao khi khuôn mặt xinh đẹp bị đầy
sẹo không thể lên sân khấu biểu diễn, không thể lên máy bay bay phục vụ hành khách
được nữa, thẩm phán bị biến dạng khuôn mặt do bị tạt axít và không thể thực hiện hoạt
động xét xử...
Qua nghiên cứu các bản án của các Tòa án địa phương cho thấy vấn đề bồi thường
thiệt hại về tinh thần là vấn đề phức tạp trong việc xác định mức bồi thường cũng như diện
được bồi thường. Nhiều vụ án xảy ra, người gây thiệt hại cho người bị thiệt hại để lại hậu
quả nghiêm trọng không có gì hàn gắn được, để lại những đau thương mất mát về người và
của nhưng khi xét xử có Tòa án đã áp dụng bồi thường một khoản tiền về tinh thần cho
người bị thiệt hại và gia đình người bị thiệt hại, có Tòa án không áp dụng, nếu có cũng chỉ
là một mức tiền không đáng kể, điều này đương nhiên sẽ không bảo vệ được quyền và lợi
ích hợp pháp cho đương sự.
Ví dụ: Bản án số 160/2006/HSST ngày 31/5/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh NA
xét xử bị cáo Chế Đình Thu phạm tội: "Giết người".
Nội dung vụ án: Chế Đình Thu và chị Hoàng Thị Duyên có quan hệ yêu đương và chị
Duyên có thai, chị Duyên hẹn gặp Thu và đề nghị cưới nhưng Thu tìm cách từ chối, chị
Duyên chửi Thu, Thu nảy sinh ý định giết chị Duyên. Thu dùng khăn quàng cổ của mình cuốn
quanh cổ chị Duyên rồi xiết mạnh, chị Duyên thả lỏng người (không có phản ứng gì), sau đó
Thu còn đẩy chị Duyên ngã đập đầu vào ghi đông xe máy và hai lần đập đầu vào thành cầu,
lúc đó có ánh đèn xe máy, sợ bị phát hiện, Thu bỏ chạy về nhà cởi quần áo ngâm vào chậu,
tắm rửa rồi đi ngủ. Chị Duyên được mọi người đưa đi cấp cứu và điều trị, sau đó sức khỏe đã
hồi phục. Gia đình bị cáo đã bồi thường: 4.190.000 đồng. Tại phiên tòa, chị Duyên yêu cầu
bồi thường thêm các khoản gồm: tiền nạo thai, tiền phục hồi sức khỏe, tiên công lao động bị
mất…tổng cộng là 9.500.000 đồng (cấp sơ thẩm không tính cho người bị thiệt hại tiền tổn
thất về tinh thần mà trong bản án lại nhận định rằng cộng với các khoản chi phí trước đây
chưa được bồi thường tổng cộng là 11.846.400 đồng. Khoản tiền này không biết ở đâu?
Trong bản án không có dòng nào nói tới, rất chung chung…!) Chúng tôi cho rằng, trong vụ
án này, người bị thiệt hại phải được bồi thường tiền tổn thất về tinh thần bởi vì chị Duyên
là người phụ nữ trẻ, đang có thai… sau sự việc xảy ra thì còn có thể lấy chồng được nữa
hay không? nên sự việc xảy ra đối với chị là nỗi đau và mất mát quá lớn, sự việc lại xảy ra
đối với người mà mình đang yêu, ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt và ảnh hưởng
tới tương lai của chị Duyên. Tòa sơ thẩm đã thiếu sót trong việc xác định thiệt hại trong vụ
án này, do đó đưa ra mức bồi thường như vậy là không thỏa đáng.
Có vụ án khi xét xử Tòa sơ thẩm không quyết định mức bồi thường thiệt hại về
tinh thần. Sau khi xét xử sơ thẩm, người bị hại, người đại diện cho người bị thiệt hại kháng
cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét mức bồi thường, cấp phúc thẩm đã quyết định buộc
người gây thiệt hại phải bồi thường thêm khoản tiền tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt
hại.
Ví dụ: Bản án sơ thẩm số 1155/2006/HSPT ngày 18/8/2006 của Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử bị cáo Trịnh Văn Công về tội
"Giết người". Cấp sơ thẩm không buộc bị cáo bồi thường tổn thất về tinh thần cho đại diện
người bị hại, sau khi xét xử sơ thẩm đại diện người bị hại kháng cáo đề nghị cấp phúc
thẩm buộc bị cáo phải bồi thường số tiền này. Cấp phúc thẩm đã sửa án sơ thẩm buộc bị
cáo phải bồi thường tổn thất về tinh thần cho người đại diện người bị hại 10.000.000 đồng.
Qua một số ví dụ trên đây, chúng ta thấy rằng, thiệt hại về tinh thần là thiệt hại
không mang tính tài sản, không thể cân đong đo đếm được, không thể tính được giá trị
thành tiền. Bởi vậy, không thể nêu ra nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại về tinh thần
như đối với thiệt hại về vật chất được. Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tinh thần tạo
thành một yêu cầu độc lập bên cạnh yêu cầu đòi bồi thường các thiệt hại về vật chất. Có
những trường hợp, kết hợp bồi thường cả hai loại thiệt hại đó, nhưng có trường hợp không
có bồi thường thiệt hại về vật chất mà chỉ có bồi thường thiệt hại về tinh thần.
Việc bồi thường thiệt hại về tinh thần có cùng mục đích là bồi thường thiệt hại cho
người bị thiệt hại: người bị thiệt hại bằng việc nhận một khoản tiền, có cơ hội lập lại sự
thoải mái, dễ chịu, trạng thái cân bằng nhẹ nhàng thay cho sự đau đớn, bức xúc về tinh
thần mà người đó phải chịu đựng do có hành vi xâm hại. Chắc chắn khoản tiền bồi thường
không xóa đi được sự đau đớn, nhưng bù lại cho người bị thiệt hại ít nhiều niềm an ủi.
Như vậy có thể đưa ra ba đặc điểm chính của bồi thường thiệt hại về tinh thần đó
là:
- Không thể khắc phục được toàn bộ thiệt hại (sự đau đớn...).
- Không thể xóa bỏ được toàn bộ sự thiệt hại (sự buồn chán, khoảng trống về tình
cảm, tinh thần...).
- Không thể lấy lại trọn vẹn cái đã mất (thân thể bị biến dạng, mất đi một phần cơ
thể, bị mất đi sắc đẹp...)
Thiệt hại về tinh thần trong trường hợp sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm có sự
khác nhau:
- Người bị thiệt hại được quyền đòi bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về
tinh thần mà người đó gánh chịu do sức khỏe của mình bị xâm phạm (Điều 609 Bộ luật
dân sự).
- Người thân thích của người bị thiệt hại được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn
thất về tinh thần do người bị thiệt hại chết (Điều 610 Bộ luật dân sự).
Thật khó có thể tính toán và đánh giá thiệt hại về tinh thần theo phương pháp toán
học được. Vấn đề đặt ra là khi người bị thiệt hại mất một hoặc hai mắt, mất một hoặc hai
cánh tay, mất một hoặc hai chân… những tổn hại khác về thân thể thì đáng giá bao nhiêu
tiền? Sự đau đớn được trị giá bao nhiêu? Giá của những giọt nước mắt cao hay thấp... Đó
là điều khó có khả năng tính toán một cách chính xác. Khoản 2 của các Điều 609, 610
cũng chỉ đưa ra mức bồi thường tổn thất về tinh thần tối đa chứ không quy định mức tối
thiểu. Vì vậy, có thể nói rằng tất cả những thiệt hại về tinh thần hay những vật không xác
định được chính xác giá trị bằng một số tiền cụ thể thì Luật cho phép các Thẩm phán khi
giải quyết loại án này được quyết định, được quyền suy xét nhưng phải trên cơ sở xem xét
đánh giá một cách khách quan, toàn diện tất cả các yếu tố của vụ án, và phải chú ý đến
nguyên tắc hợp lý, bình đẳng, bảo đảm được mục đích của việc bồi thường thiệt hại.
Những yếu tố để xác định mức tiền bồi thường tổn thất về tinh thần có thể được
xác định: mức bồi thường có quan hệ với tình trạng thể chất và tinh thần của ngươi bị thiệt
hại, thể hiện ở mức độ và tính chất nghiêm trọng của sự tổn hại về tâm lý và về thân thể,
lứa tuổi, quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người bị thiệt hại và của người gây thiệt
hại.
Khi xem xét tổn thất về tinh thần phải xem xét đến mức độ tổn hại đến đời sống
của người bị thiệt hại, mức độ, thời gian, tính chất dữ dội của sự đau đớn, thiệt hại, sự
thương tổn, biến dạng thân thể, thời gian phải nằm điều trị, thời gian mất khả năng lao
động, phải xa cách gia đình, hậu quả diễn biến tiếp theo của thương tật, sự nghi ngờ về khả
năng có thể khắc phục chữa chạy điều trị khỏi thương tích hay không, mức độ lỗi của
người bị thiệt hại…
Để hiểu rõ hơn, chúng tôi có thể phân tích một số yếu tố làm rõ mối liên hệ giữa
chúng với mức tiền đền bù về tinh thần trong trường hợp sức khỏe và tính mạng bị xâm
phạm:
- Tuổi của người bị thiệt hại có ảnh hưởng đến mức bồi thường, sự đau đớn do
thương tích, sự biến dạng của cơ thể rõ ràng có ảnh hưởng lớn, nặng nề đối với một người
trẻ tuổi hơn là người lớn tuổi. Về nguyên tắc thì ảnh hưởng của tuổi tác có ý nghĩa đối với
việc bồi thường thiệt hại về thẩm mỹ, bị biến dạng (mặt bị bỏng, sẹo…) khi còn trẻ tuổi có
hậu quả khác hơn nhiều so với ở vào thời điểm đã cao tuổi.
Ảnh hưởng, tổn hại đến đời sống tâm lý, sinh lý của người trẻ tuổi khá nhiều so
với người lớn tuổi hoặc cái chết của người con chưa thành niên gây ra sự đau đớn nhiều
hơn so với người con đã thành niên; lớn tuổi. Cái chết của cha mẹ đối với người con còn
nhỏ tuổi, thơ dại cũng như vậy. Tất nhiên đây chỉ là vấn đề có tính chất ước lượng bởi sự
tổn hại tinh thần của mỗi người khác nhau là khác nhau.
- Tình trạng của người bị thiệt hại, hậu quả, mức độ đau đớn, nạn nhân nhiều khi
rơi vào tình trạng hôn mê sâu kéo dài, mất đi sự tỉnh táo minh mẫn, khả năng thực hiện các
quan hệ xã hội, thân thể tàn phế... Cha mẹ tuổi đã cao mất đi người con duy nhất chắc chắn
họ phải chịu đau khổ trong suốt thời gian còn lại.
- Hoàn cảnh nghề nghiệp cũng là yếu tố không kém phần quan trọng trong sự tổn
thất về tinh thần: Người bị thiệt hại là những người đang hoạt động ở những lĩnh vực như:
giáo viên, ca sĩ, thẩm phán, bác sĩ…
- Người bị thiệt hại cũng có lỗi (Điều 617 Bộ luật dân sự). Lỗi của người bị thiệt hại
cũng cần thiết phải có văn bản hướng dẫn những trường hợp cụ thể, mức độ lỗi của người bị
thiệt hại để có căn cứ giải quyết vụ án chính xác, tránh trường hợp có những vụ án khi xét xử
thẩm phán nhận định coi cả lỗi của gia đình người bị thiệt hại để giảm mức hình phạt và mức
bồi thường cho người gây thiệt hại. Nguyên tắc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là ai gây
thiệt hại thì phải bồi thường và họ chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường do hành vi của họ
mang lại chứ không chịu trách nhiệm bồi thường về hành vi của người khác.
Ví dụ: Bản án số 880/2006/HSST ngày 6/7/2006 của Tòa án nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử Trịnh Văn Công về tội "Giết người".
Nội dung vụ án: Trịnh Văn Công và Trịnh Văn Nù (bố bị hại Trịnh Thị Thanh
Thảo) chơi đánh bạc với nhau và xảy ra mâu thuẫn, Công chạy về nhà cầm rựa sang nhà
Nù chém vào tay và đầu Thảo dẫn đến tử vong. Bản án sơ thẩm nhận định: trong vụ án
này, người bị hại cũng có lỗi, tham gia đánh bạc và theo đó giảm hình phạt và giảm mức
bồi thường cho người gây thiệt hại. Nhận định của Tòa án trong trường hợp này là không
đúng bởi hành vi đánh bạc của cả bị cáo và của bố người bị hại là hành vi vi phạm pháp
luật nói chung chứ không hề liên quan đến hành vi gây thiệt hại của bị cáo đối với người bị
hại. Do đó việc Tòa án căn cứ vào đó để giảm hình phạt và giảm mức bồi thường là không
đúng.
3.2. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM SỨC KHỎE, TÍNH MẠNG
3.2.1. Kiến nghị
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định có nội dung phức tạp, thực hiện
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là nhằm khôi phục lại các quyền tài sản,
quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, tổ chức, pháp nhân, Nhà nước. Quá trình nghiên
cứu chúng tôi tập trung đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn về bồi
thường thiệt hại do tính mạng và sức khỏe bị xâm phạm, từ đó rút ra những kết luận sau:
- Cơ sở lý luận và thực tiễn khẳng định nguyên tắc người gây thiệt hại phải bồi
thường thiệt hại là một vấn đề quan trọng của chế định bồi thường thiệt hại. Bộ luật dân
sự đã ghi nhận và đề cao nguyên tắc đó quan điểm, đường lối giải quyết cũng như qui
định của pháp luật của Nhà nước ta và kế thừa tinh hoa pháp luật dân sự quốc tế. Nguyên
tắc bồi thường thiệt hại thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, mang tính khoa học, bảo đảm tính
chính xác, hợp tình, hợp lý nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại, góp phần quan trọng vào việc củng cố, phát
triển các quan hệ xã hội trong tất cả các lĩnh vực cũng như trong việc giải quyết các tranh
chấp về bồi thường thiệt hại xảy ra, bảo vệ lợi ích cho các chủ thể tham gia quan hệ, bảo
đảm công bằng xã hội, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của những người bị thiệt hại,
giáo dục mọi người có ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, tập thể và của công dân.
Bộ luật dân sự quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần, cùng với
trách nhiệm bồi thường về vật chất tạo thành một tổng thể hoàn chỉnh của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm cho chế định bồi thường thiệt
hại phát huy hiệu quả trong thực tế đời sống, đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của xã
hội bảo đảm sự công bằng và bình đẳng xã hội.
Qua nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến sức khỏe,
tính mạng bị xâm phạm, chúng tôi xin đưa ra một vài kiến nghị:
Thứ nhất, về mức độ lỗi của người gây thiệt hại.
Mức độ lỗi của người gây thiệt hại không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà còn có ý nghĩa quyết định mức bồi thường thiệt
hại, vì vậy các hình thức lỗi được nêu ra trong Bộ luật dân sự chưa đủ để đánh giá thiệt hại
để qua đó ấn định mức bồi thường trong trường hợp nhiều người gây thiệt hại. Trường hợp
do lỗi hỗn hợp hay trong trường hợp xét miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra cần phải có sự phân biệt chi tiết các hình thức lỗi vô ý.
Thứ hai, về mức bồi thường tối thiểu bù đắp tổn thất về tinh thần.
Khoản 2 Điều 609 và khoản 2 Điều 610 Bộ luật dân sự đã quy định về tổn thất về
tinh thần nhưng mới chỉ quy định mức bồi thường tối đa không quá 30 tháng lương tối
thiểu do Nhà nước quy định đối với bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm và
không quá 60 tháng lương tối thiểu đối với bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm.
Như vậy, điều luật chỉ quy định mức tối đa mà không quy định mức tối thiểu là bao nhiêu
cho nên khi quyết định mức bồi thường cho từng vụ án là rất khó khăn, một vụ án khi
quyết định mức bồi thường khởi điểm là bao nhiêu? 100.000 đồng; 200.000 đồng; 300.000
đồng; 400.000 đồng... dẫn đến nhiều vụ án có mức bồi thường chênh lệch nhau rất xa. Các
Thẩm phán cũng chỉ ước lượng một mức tiền nào đó mà thôi. Do vậy theo chúng tôi cần
phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định mức bồi thường tối thiểu bù đắp tổn
thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm từ 1 tháng lương đến tối đa không quá 30 tháng
lương tối thiểu. Mức bồi thường tối thiểu bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm
phạm từ 6 tháng lương đến tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu.
Thứ ba, về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, chỉ nên quy
định ở Điều 623: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà không cần
quy định chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra thiệt hại cả khi họ không có lỗi. Theo chúng tôi, nên bổ sung vào điểm a
khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự một ý về việc bồi thường của chủ sở hữu, người được
chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đó là trường hợp thiệt hại
xảy ra hoàn toàn do lỗi vô ý nặng của người bị hại.
Thứ tư, ngoài những kiến nghị trên đây, theo chúng tôi cần chú ý một số vấn đề cụ
thể khác:
- Khoản tiền tuất, tiền được hưởng từ chính sách của Nhà nước được coi là khoản
tiền có thu nhập ổn định để giải quyết trong trường hợp đối với người được cấp dưỡng.
- Những khoản tiền mà người bị thiệt hại, gia đình người bị thiệt hại có chi thực tế
nhưng do khách quan nên không có hóa đơn chứng từ vẫn được coi là chi phí hợp lý.
- Quy định rõ về khoản 3 Điều 606 Bộ luật dân sự trong trường hợp nếu người giám
hộ chứng minh là mình không có lỗi trong việc để người giám hộ gây thiệt hại thì không phải
lấy tài sản của mình để bồi thường. Vậy lấy tài sản ở đâu để bồi thường cho người bị thiệt
hại, ai là người phải bồi thường cho người bị thiệt hại hay coi đây là rủi ro mà người bị
thiệt hại phải gánh chịu?
3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như những giải pháp khác
để nâng cao chất lượng xét xử về bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm
phạm
Qua việc nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp
luật cũng như các giải pháp khác để nâng cao chất lượng xét xử về bồi thường thiệt hại nói
chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng như sau:
- Rà soát lại toàn bộ các qui định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói chung, qua đó xem xét đến sự thống nhất của các văn bản pháp luật
khi quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để từ đó có sự sửa đổi, bổ
sung, hoàn thiện pháp luật.
- Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể đối với các qui định của Bộ luật
dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Mặc dù trước đây ngành Tòa
án đã có nghị quyết hướng dẫn các qui định của Bộ luật dân sự năm 1995 và mới đây đã có
nghị quyết hướng dẫn về bồi thường thiệt hại trong Bộ luật dân sự 2005 nhưng nhìn chung
hướng dẫn vẫn còn dừng lại ở mức chung chung, nhắc lại các điều luật của Bộ luật dân sự mà
chưa có hướng dẫn cụ thể. Tòa án nhân dân tối cao cần hướng dẫn cụ thể các vấn đề còn
nhiều quan điểm, dễ dẫn tới sự tùy tiện khi vận dụng pháp luật như mức bù đắp tổn thất
tinh thần tối thiểu, nếu vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì bồi thường phần vượt
quá hay bồi thường toàn bộ thiệt hại...
- Cần nâng cao chất lượng của hoạt động xét xử, trong đó trình độ chuyên môn của
đội ngũ thẩm phán là yếu tố không kém phần quan trọng.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến mọi đối tượng
để người dân hiểu rõ hơn các qui định của pháp luật, qua đó hạn chế đến mức thấp nhất những
hành vi gây thiệt hại hoặc khi có hành vi gây thiệt hại thì người gây thiệt hại, người bị thiệt hại
hiểu rõ hơn về mức bồi thường... để họ có thể thỏa thuận hoặc chấp nhận mức bồi thường
nếu Tòa án ấn định.
KẾT LUẬN
Pháp luật dân sự là công cụ pháp lý quan trọng thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển
nhưng cũng là công cụ pháp lý để xử lý những hành vi vi phạm pháp luật, trong đó có các
hành vi xâm phạm sức khoẻ, tính mạng.
Đề tài: "Bồi thường thiệt hại trong trường hợp sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm
- Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn" đã tập trung phân tích các qui định của Bộ luật dân sự
và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng nói chung, trách nhiệm bồi thường do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng. Đây được
coi là vấn đề có ý nghĩa to lớn khi nghiên cứu, tìm hiểu luật thực định bởi có hiểu rõ các qui
định của pháp luật thì việc vận dụng vào thực tiễn để giải quyết các tranh chấp về bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng mới được chính xác, khách quan.
Thông qua việc tìm hiểu các qui định của pháp luật, xem xét thực tiễn vận dụng
các qui định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại do
xâm phạm sức khỏe, tính mạng, đề tài đã chỉ ra được những khó khăn, bất cập xung quanh
các qui định của pháp luật cũng như việc hiểu và vận dụng vào thực tiễn giải quyết tranh
chấp về bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khoẻ, tính
mạng nói riêng.
Những giải pháp trong việc hoàn thiện pháp luật cũng như các giải pháp khác nhằm
nâng cao hơn nữa chất lượng giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
sức khỏe, tính mạng mà đề tài đưa ra mặc dù có thể chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng cũng là
những giải pháp thiết thực, nên áp dụng.
Tất cả các luận giải, giải pháp mà đề tài đưa ra đều tuân thủ một nguyên lý duy nhất:
bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng - cả
người gây thiệt hại và người bị thiệt hại. Tuy nhiên, nguyên tắc bình đẳng, tính nghiêm
minh của pháp luật cũng là điều mà tất cả chúng ta đều phải chú trọng và tuân theo.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Mai Anh (1997), Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, Luận văn thạc sĩ luật Học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
2. Bình luận Bộ luật dân sự Nhật Bản (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931.
4. Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936.
5. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Bộ luật Nam Kỳ giản yếu 1883.
7. Bộ Tư pháp (2002), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Dân luật Việt Nam - Nghĩa vụ (1973), Sài Gòn.
9. Trần Thị Thu Hiền (1996), Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong luật dân sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
10. Dương Quỳnh Hoa (2006), "Xác định thiệt hại trong bồi thường thiệt hai do tính mạng
bị xâm phạm", Nhà nước và pháp luật, (3).
11. Hoàng Việt luật lệ (1995), Nxb Văn hóa thông tin, Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Lê Thị Bích Lan (1999), Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín, Luận văn thạc sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
13. Vũ Thành Long (1999), "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tính
mạng bị xâm phạm", Tòa án nhân dân, (8).
14. Nguyễn Đức Mai (1997), "Bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm", Nhà nước
và pháp luật, (9).
15. Vũ Văn Mẫu (1963), Việt Nam dân luật lược khảo, Sài Gòn.
16. Vũ Văn Mẫu (1972), Bộ Dân luật, Sài gòn.
17. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2006), Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp, Hà Nội.
18. Quốc hội (1995), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
19. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
20. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
21. Quốc hội (2002), Bộ luật lao động, Hà Nội.
22. Quốc hội (2003), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
23. Quốc triều Hình luật (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng (1996), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Phùng Trung Tập (2005), "Cần bổ sung một số quy định trong dự thảo Bộ luật dân sự
(sửa đổi) về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng", Dân chủ và pháp luật, (4).
26. Thanh Thủy (2004), "Xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm theo quy định của
Bộ luật dân sự", Tòa án nhân dân, (10).
27. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án nhân dân
năm 2002, Hà Nội.
28. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án nhân dân
năm 2003, Hà Nội.
29. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy dịnh
của Bộ luật dân sự năm 1995 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Hà Nội.
30. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án nhân dân
năm 2004, Hà Nội.
31. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án nhân dân
năm 2005, Hà Nội
32. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy dịnh
của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Hà Nội.
33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật dân sự, Hà Nội.
34. Từ điển luật học (2006), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
35. Thanh Tú (2003), "Cơ sở pháp lý của việc xác dịnh thiệt hại do tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm", Dân chủ và pháp luật, (4).
36. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1996), Bộ luật dân sự Cộng hòa Liên bang Đức năm
1896, Tài liệu dịch tham khảo, Hà Nội.
37. Quách Thành Vinh (2004), "Một số nhận xét và chú ý đối với việc bồi thường thiệt hại
do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm", Tòa án nhân dân, (11).
38. Văn Xuân (1996), "Một số vấn đề bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe", Dân
chủ và pháp luật, (11).
PHỤ LỤC
t×nh h×nh nghiªn cøu ®Ò tµi
Liên quan đến đề tài: "Bồi thường thiệt hại trong trường hợp sức khỏe và tính
mạng bị xâm phạm - một số vấn đề lý luận và thực tiễn", trước đó đã có nhiều tác giả là
Giảng viên trong Trường Đại học Luật Hà Nội, các tác giả là Thẩm phán trong ngành Tòa
án nhân dân và các ngành khác quan tâm đến lĩnh vực này với những bài viết, luận văn về
vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung.
Trong bài viết đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 10 tháng 5/2004: "Lỗi và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" tác giả đã phân tích hành vi lỗi theo
Điều 309 Bộ luật dân sự 1995. Theo tác giả là phải làm rõ những quan hệ và yếu tố có liên
quan đến phạm vi lỗi của người gây thiệt hại.khi xác định lỗi cố ý gây thiệt hại ngoài hợp
đồng, cần phải phân biệt với những hành vi gây thiệt hại khác, không thuộc hành vi do lỗi
cố ý hoặc vô ý gây ra. Đó là hành vi gây thiệt hại được xác định là sự kiện bất ngờ (Điều
11 Bộ luật hình sự) vì điều luật này không những được áp dụng trong lĩnh vực luật hình sự,
mà còn có ý nghĩa trực tiếp trong việc xác định trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại ngoài
hợp đồng. Sự kiện bất ngờ được hiểu là sự kiện pháp lý nhưng hậu quả của nó không làm
phát sinh trách nhiệm dân sự của người có hành vi tạo ra sự kiện đó.
Khi xác định và phân tích chi tiết yếu tố lỗi cố ý và lỗi vô ý trong trách nhiệm dân
sự ngoài hợp đồng cần thiết phải đặt yếu tố đó trong mối liên hệ với những sự kiện pháp lý
khác. Tác giả cho rằng sự biến pháp lý tương đối và sự biến pháp lý tuyệt đối là những căn
cứ làm phát sinh, thay đổi và chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Sự biến pháp lý tương
đối là một sự kiện pháp lý mà sự khởi phát của nó do hành vi của con người tác động dưới
hình thức lỗi vô ý, do vậy người có hành vi tạo ra sự kiện đó phải bồi thường thiệt hại theo
nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại. Có thể nhận định rằng, lỗi vô ý luôn tồn tại trong
sự biến pháp lý tương đối, còn lỗi thuộc mọi hình thức không thể tồn tại trong sự biến pháp
lý tuyệt đối.Có thể nhận định lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
không phải do suy đoán mà do pháp luật quy định trước, người có lỗi phải bồi thường thiệt
hại, nhất là đối với ngành Tòa án cần thiết phải hiểu rõ cơ sở lý luận về lỗi để áp dụng
chuẩn xác các quy phạm pháp luật, qua đó đưa ra những nhận định và quyết định chuẩn
xác, đúng pháp luật.
Trong bài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe của con người" tác giả phân tích và lấy các ví dụ để chứng minh về các căn cứ để
xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe là
hành vi gây thiệt hại phải có thật, bao gồm cả hành động và không hành động, nếu không
có hành vi gây thiệt hại thì dù người bị coi là có lỗi đối với thiệt hại xảy ra cũng không
phải bồi thường thiệt hại. Người bị thiệt hại phải có lỗi (cố ý hoặc vô ý), lỗi trong trách
nhiệm dân sự khác với lỗi trong trách nhiệm hình sự và các trách nhiệm khác, người gây
thiệt hại có lỗi mới phải bồi thường, đó là nguyên tắc. Tuy nhiên, tác giả còn phân tích
trường hợp lỗi của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ theo khoản 3 Điều 627 Bộ luật dân sự. Về năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, tác giả nêu ra những trường hợp phải chịu trách nhiệm bồi thường theo
Điều 611 Bộ luật Dân sự. Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại, tác giả đã phân tích các
nguyên tắc được quy định tại Điều 610 Bộ luật dân sự, trường hợp nào thì được giảm mức
bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt cũng
như lâu dài, người bị thiệt hại cũng có lỗi và khi mức bồi thường không còn phù hợp với
thực tế thì người gây thiệt hại, người bị thiệt hại hoặc người đại diện hợp pháp của người
bị thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi mức bồi thường, qua thực tiễn xét xử của
Tòa án còn một số những vướng mắc gặp phải mà chưa có hướng dẫn cụ thể của cấp có
thẩm quyền. Những chi phí hợp lý do sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm mà tác giả nêu
ra ngoài những chi phí được quy định tại Điều 613, Điều 614 Bộ luật dân sự và Nghị quyết
01/NQ-HĐTP tác giả còn đưa ra những chi phí khác cũng có thể coi là hợp lý, thời hạn
người bị thiệt hại được hưởng bồi thường do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe con
người gây nên. Các trường hợp gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng,
trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, trường hợp do người dùng chất kích
thích gây ra, trường hợp nhiều người cùng gây ra thiệt hại và trường hợp do người của
pháp nhân, do công chức, viên chức nhà nước gây ra.
Bài "Cách tính bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm" đã lựa chọn
50 bản án dân sự và hình sự của các Tòa án địa phương đã xét xử thì đại đa số các bản án
này đều không thể hiện chi tiết từng khoản bồi thường hoặc chỉ buộc người gây thiệt hại
phải bồi thường khoản tiền điều trị, mà không đề cập đến khoản tiền bồi thường khác và
mức bồi thường cũng chênh lệch nhau khá rõ. Các tác giả cũng nêu những bản án cụ thể
còn có những thiếu sót, đưa ra những nhận xét về những thiếu sót còn tồn tại trong các bản
án. Đồng thời các tác giả đã đưa cách tính chi tiết, cụ thể các khoản bồi thường trong các
vụ án xâm phạm sức khỏe gồm: các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc
người bị xâm phạm sức khỏe, chi phí hợp lý đối với bồi thường thiệt hại do tính mạng bị
xâm phạm, bồi thường tổn thất về tinh thần khi tính mạng và sức khỏe bị xâm phạm.
Đề tài luận văn thạc sĩ: "Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín". Trong chương 1, tác giả đã làm
sáng tỏ khái niệm cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật dân sự và khái
niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín nói riêng với những đặc điểm pháp lý chủ
yếu của chế định trách nhiệm này, có so sánh với một số chế định trách nhiệm dân sự
khác. Đồng thời, tác giả còn phân tích chi tiết các quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam
trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ở từng trường hợp xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín của các cá nhân trong xã hội. Trong
chương 2, tác giả làm rõ cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa trên những
căn cứ có tính điều kiện đó là: có thiệt hại xảy ra; có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại; có
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và các thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín; phải có lỗi của người gây thiệt hại. Luận văn cũng so sánh
liên hệ với pháp luật của một số nước trên thế giới về việc quy định các yêu cầu cơ bản để
xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại này. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến các hình
thức và mức bồi thường cũng như các trường hợp được miễn hoặc giảm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự. Trong chương 3, tác giả tập trung tổng
kết, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật của ngành Tòa án nhân dân trong những năm
qua. Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân và các khó khăn vướng mắc trong thực tiễn
áp dụng pháp luật của ngành Tòa án nhân dân trong lĩnh vực này, đề xuất các giải pháp.
Đề tài luận văn thạc sĩ luật học: "Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự". Trong chương 1 của luận văn, tác giả đi
sâu phân tích làm sáng tỏ khái niệm cơ bản về trách nhiệm dân sự nói chung và khái niệm
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng với các đặc điểm pháp lý chủ
yếu, so sánh với một số chế định trách nhiệm dân sự khác. Chương 1 tác giả còn nêu rõ
nguyên tắc giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng như việc xác định rõ năng
lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân để từ đó có tiền đề lý luận giải quyết một số
nội dung trong chương 2, đó là vấn đề xác định và tính toán bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Trong chương 2, tác giả đề cập đến những căn cứ của việc xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại dựa trên những yếu tố có tính điều kiện như có thiệt hại xảy ra; hành vi
gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật; có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi
trái pháp luật và hành vi gây thiệt hại là hành vi có lỗi, từ đó xác định các loại thiệt hại về
tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Qua phân tích các căn cứ để xác định
những thiệt hại nêu trên luận văn còn nêu rõ các hình thức bồi thường và mức bồi thường
theo quy định của Bộ luật dân sự. Trong chương 3, tác giả chủ yếu tập trung phân tích một
số trường hợp cụ thể của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của Bộ luật
Dân sự là trường hợp bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành
tố tụng gây ra (giải quyết phần bồi thường và việc hoàn trả khoản tiền bồi thường) và bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Đề tài luận văn: "Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong luật dân sự Việt Nam".
Trong chương 1 của luận văn, tác giả tập trung phân tích làm sáng tỏ nội dung, yêu cầu
của nguyên tắc bồi thường thiệt hại, mối liên quan giữa nguyên tắc bồi thường thiệt hại và
các nguyên tắc khác của Bộ luật dân sự (mối liên hệ giữa nguyên tắc bồi thường thiệt hại
với các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền, mối quan hệ giữa nguyên tắc bồi thường
thiệt hại với các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích cho các chủ thể trong quan
hệ dân sự, mối quan hệ giữa nguyên tắc bồi thường thiệt hại với nhóm nguyên tắc tuân thủ
pháp luật, bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể, nguyên tắc bồi thường thiệt hại có mối
quan hệ mật thiết với các nguyên tắc bảo vệ truyền thống bản sắc dân tộc, mối quan hệ
giữa nguyên tắc bồi thường thiệt hại với nguyên tắc đặc thù của pháp luật dân sự). Đồng
thời đi sâu phân tích khái niệm bồi thường thiệt hại và các mối liên hệ của nó. Trong
chương 2, tác giả phân tích nguyên tắc bồi thường trong một số trường hợp cụ thể, đó là
các nguyên tắc: nguyên tắc bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng, nguyên tắc bồi
thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng, do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, do vị thành niên gây
ra, do người không có năng lực hành vi gây ra và trường hợp nhiều người cùng gây ra.