
và cải tạo thế giới.
2. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phép biện chứng
Cùng với sự phát triển của tư duy con người, phương pháp biện chứng đã qua ba
giai đoạn phát triển, được thể hiện trong triết học với ba hình thức lịch sử của nó: phép
biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
+ Hình thức thứ nhất là phép biện chứng tự phát thời cổ đại. Các nhà biện chứng cả
phương Đông lẫn phương Tây thời kỳ này đã thấy các sự vật, hiện tượng của vũ trụ sinh
thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Tuy nhiên, những gì các nhà
biện chứng hồi đó thấy được chỉ là trực kiến, chưa phải là kết quả của nghiên cứu và
thực nghiệm khoa học.
+ Hình thức thứ hai là phép biện chứng duy tâm. Đỉnh cao của hình thức này được
thể hiện trong triết học cổ điển Đức, người khởi đầu là Cantơ và người hoàn thiện là
Hêghen. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các
nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất
của phương pháp biện chứng. Song theo họ biện chứng ở đây bắt đầu từ tinh thần và kết
thúc ở tinh thần, thế giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm nên biện chứng của các nhà
triết học cổ điển Đức là biện chứng duy tâm.
+ Hình thức thứ ba là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được thể
hiện trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng, sau đó được V.I.Lênin phát
triển. C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý
trong phép biện chứng duy tâm để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách
là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
3. Chức năng phương pháp luận của triết học
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống các quan điểm chỉ đạo
việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.
Xét phạm vi tác dụng của nó, phương pháp luận có thể chia thành ba cấp độ:
Phương pháp luận ngành, phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất.
- Phương pháp luận ngành (còn gọi là phương pháp luận bộ môn) là phương pháp
luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó.
- Phương pháp luận chung là phương pháp luận được sử dụng cho một số ngành
khoa học.
- Phương pháp luận chung nhất là phương pháp luận được dùng làm điểm xuất phát
cho việc xác định các phương pháp luận chung, các phương pháp luận ngành và các
phương pháp hoạt động khác của con người.
Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò
của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy, triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất.
10
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với
nhau. Phép biện chứng duy vật là lý luận khoa học phản ánh khái quát sự vận động và
phát triển của hiện thực; do đó, nó không chỉ là lý luận về phương pháp mà còn là sự
diễn tả quan niệm về thế giới, là lý luận về thế giới quan. Hệ thống các quan điểm của
chủ nghĩa duy vật mácxít, do tính đúng đắn và triệt để của nó đem lại đã trở thành nhân tố
định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, trở thành những nguyên tắc
xuất phát của phương pháp luận.
Bồi dưỡng thế giới quan duy vật và rèn luyện tư duy biện chứng, đề phòng và
chống chủ nghĩa chủ quan, tránh phương pháp tư duy siêu hình vừa là kết quả, vừa là
mục đích trực tiếp của việc học tập, nghiên cứu lý luận triết học nói chung, triết học
Mác - Lênin nói riêng.
Câu hỏi ôn tập
1. Đặc trưng của tri thức triết học. Sự biến đổi đối tượng của triết học qua các giai
đoạn lịch sử?
2. Vấn đề cơ bản của triết học. Cơ sở để phân biệt chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm trong triết học?
3. Sự đối lập giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình?
4. Vai trò của triết học trong đời sống xã hội?
11
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

Chương II
Khái lược về lịch sử triết họctrước mác
A. triết học phương đông
I- triết học ấn Độ cổ, trung đại
1. Hoàn cảnh ra đời triết học và đặc điểm của triết học ấn Độ cổ,
trung đại
Điều kiện tự nhiên: ấn Độ cổ đại là một lục địa lớn ở phía Nam châu á, có những
yếu tố địa lý rất trái ngược nhau: Vừa có núi cao, lại vừa có biển rộng; vừa có sông ấn
chảy về phía Tây, lại vừa có sông Hằng chảy về phía Đông; vừa có đồng bằng phì nhiêu,
lại có sa mạc khô cằn; vừa có tuyết rơi giá lạnh, lại có nắng cháy, nóng bức...
Điều kiện kinh tế - xã hội: Xã hội ấn Độ cổ đại ra đời sớm. Theo tài liệu khảo cổ
học, vào khoảng thế kỷ XXV trước Công nguyên (tr. CN) đã xuất hiện nền văn minh
sông ấn, sau đó bị tiêu vong, nay vẫn chưa rõ nguyên nhân. Từ thế kỷ XV tr. CN các bộ
lạc du mục Arya từ Trung á xâm nhập vào ấn Độ. Họ định cư rồi đồng hóa với người
bản địa Dravida tạo thành cơ sở cho sự xuất hiện quốc gia, nhà nước lần thứ hai trên đất
ấn Độ. Từ thế kỷ thứ VII trước Công nguyên đến thế kỷ XVI sau Công nguyên, đất
nước ấn Độ phải trải qua hàng loạt biến cố lớn, đó là những cuộc chiến tranh thôn tính
lẫn nhau giữa các vương triều trong nước và sự xâm lăng của các quốc gia bên ngoài.
Đặc điểm nổi bật của điều kiện kinh tế - xã hội của xã hội ấn Độ cổ, trung đại là
sự tồn tại rất sớm và kéo dài kết cấu kinh tế - xã hội theo mô hình "công xã nông thôn",
trong đó, theo Mác, chế độ quốc hữu về ruộng đất là cơ sở quan trọng nhất để tìm hiểu
toàn bộ lịch sử ấn Độ cổ đại. Trên cơ sở đó đã phân hóa và tồn tại bốn đẳng cấp lớn:
tăng lữ (Brahman), quý tộc (Ksatriya), bình dân tự do (Vaisya) và tiện nô
(Ksudra). Ngoài ra còn có sự phân biệt chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo.
Điều kiện về văn hóa: Văn hóa ấn Độ được hình thành và phát triển trên cơ sở điều
kiện tự nhiên và hiện thực xã hội. Người ấn Độ cổ đại đã tích lũy được nhiều kiến thức
về thiên văn, sáng tạo ra lịch pháp, giải thích được hiện tượng nhật thực, nguyệt thực... ở
đây, toán học xuất hiện sớm: phát minh ra số thập phân, tính được trị số π, biết về đại
số, lượng giác, phép khai căn, giải phương trình bậc 2, 3. Về y học đã xuất hiện những
danh y nổi tiếng, chữa bệnh bằng thuật châm cứu, bằng thuốc thảo mộc.
Nét nổi bật của văn hóa ấn Độ cổ, trung đại là mang dấu ấn sâu đậm về tín
ngưỡng, tôn giáo. Văn hóa ấn Độ cổ, trung đại được chia làm ba giai đoạn:
12
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

a) Khoảng từ thế kỷ XXV - XV tr. CN gọi là nền văn minh sông ấn.
b) Từ thế kỷ XV - VII tr. CN gọi là nền văn minh Vêda.
c) Từ thế kỷ VI - I tr. CN là thời kỳ hình thành các trường phái triết học tôn
giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là chính thống và không chính thống.
Hệ thống chính thống bao gồm các trường phái thừa nhận uy thế tối cao của Kinh
Vêda. Hệ thống này gồm sáu trường phái triết học điển hình là Sàmkhya, Mimànsà,
Védanta, Yoga, Nyàya, Vai'sesika. Hệ thống triết học không chính thống phủ nhận, bác
bỏ uy thế của kinh Vêda và đạo Bàlamôn. Hệ thống này gồm ba trường phái là Jaina,
Lokàyata và Buddha (Phật giáo).
Triết học ấn Độ cổ đại có những đặc điểm sau:
Trước hết, triết học ấn Độ là một nền triết học chịu ảnh hưởng lớn của những tư
tưởng tôn giáo. Giữa triết học và tôn giáo rất khó phân biệt. Tư tưởng triết học ẩn giấu
sau các lễ nghi huyền bí, chân lý thể hiện qua bộ kinh Vêda, Upanisad. Tuy nhiên, tôn giáo
của ấn Độ cổ đại có xu hướng "hướng nội" chứ không phải "hướng ngoại" như tôn giáo
phương Tây. Vì vậy, xu hướng trội của các hệ thống triết học - tôn giáo ấn Độ đều
tập trung lý giải và thực hành những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh tôn
giáo nhằm đạt tới sự "giải thoát" tức là đạt tới sự đồng nhất tinh thần cá nhân với tinh thần
vũ trụ (Atman và Brahman).
Thứ hai, các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết học có
trước.
Thứ ba, khi bàn đến vấn đề bản thể luận, một số học phái xoay quanh vấn đề "tính
không", đem đối lập "không" và "có", quy cái "có" về cái "không" thể hiện một trình độ tư
duy trừu tượng cao.
Nhận định về triết học ấn Độ cổ, trung đại
Triết học ấn Độ cổ, trung đại đã đặt ra và bước đầu giải quyết nhiều vấn đề của
triết học. Trong khi giải quyết những vấn đề thuộc bản thể luận, nhận thức luận và nhân
sinh quan, triết học ấn Độ đã thể hiện tính biện chứng và tầm khái quát khá sâu sắc; đã
đưa lại nhiều đóng góp quý báu vào kho tàng di sản triết học của nhân loại.
Một xu hướng khá đậm nét trong triết học ấn Độ cổ, trung đại là quan tâm giải
quyết những vấn đề nhân sinh dưới góc độ tôn giáo với xu hướng "hướng nội", đi tìm
cái Đại ngã trong cái Tiểu ngã của một thực thể cá nhân. Có thể nói: sự phản tỉnh nhân sinh
là một nét trội và có ưu thế của nhiều học thuyết triết học ấn Độ cổ, trung đại (trừ trường
phái Lokàyata), và hầu hết các học thuyết triết học này đều biến đổi theo xu hướng từ vô
thần đến hữu thần, từ ít nhiều duy vật đến duy tâm hay nhị nguyên. Phải chăng, điều đó
phản ánh trạng thái trì trệ của "phương thức sản xuất châu á" ở ấn Độ vào tư duy triết
học; đến lượt mình, triết học lại trở thành một trong những nguyên nhân của trạng thái
trì trệ đó!
13
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

2. Tư tưởng triết học của Phật giáo (Buddha)
Đạo Phật ra đời vào thế kỷ VI tr. CN. Người sáng lập là Siddharta (Tất Đạt Đa).
Sau này ông được người đời tôn vinh là Sakyamuni (Thích ca Mâu ni), là Buddha (Phật).
Phật là tên theo âm Hán - Việt của Buddha, có nghĩa là giác ngộ. Phật giáo là hình
thức giáo đoàn được xây dựng trên một niềm tin từ đức Phật, tức từ biển lớn trí tuệ và từ
bi của Siddharta. Kinh điển của Phật giáo gồm Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Phật
giáo cũng luận về thuyết luân hồi và nghiệp, cũng tìm con đường "giải thoát" ra khỏi vòng
luân hồi. Trạng thái chấm dứt luân hồi và nghiệp được gọi là Niết bàn. Nhưng Phật giáo khác
các tôn giáo khác ở chỗ chúng sinh thuộc bất kỳ đẳng cấp nào cũng được "giải thoát".
Phật giáo nhìn nhận thế giới tự nhiên cũng như nhân sinh bằng sự phân tích nhân -
quả. Theo Phật giáo, nhân - quả là một chuỗi liên tục không gián đoạn và không hỗn
loạn, có nghĩa là nhân nào quả ấy. Mối quan hệ nhân quả này Phật giáo thường gọi là
nhân duyên với ý nghĩa là một kết quả của nguyên nhân nào đó sẽ là nguyên nhân của một
kết quả khác.
Về thế giới tự nhiên, bằng sự phân tích nhân quả, Phật giáo cho rằng không thể
tìm ra một nguyên nhân đầu tiên cho vũ trụ, có nghĩa là không có một đấng Tối cao
(Brahman) nào sáng tạo ra vũ trụ. Cùng với sự phủ định Brahman, Phật giáo cũng phủ
định phạm trù([Anatman], nghĩa là không có tôi) và quan điểm "vô thường".
Quan điểm "vô ngã" cho rằng vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự "giả hợp" do hội đủ
nhân duyên nên thành ra "có" (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể con người
chẳng qua là do "ngũ uẩn" (5 yếu tố) hội tụ lại là: sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng
(ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Như vậy là không có cái gọi là "tôi" (vô ngã).
Quan điểm "vô thường" cho rằng vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận:
sinh - trụ - dị - diệt. Vậy thì "có có" - "không không" luân hồi bất tận; "thoáng có", "thoáng
không", cái còn thì chẳng còn, cái mất thì chẳng mất.
Về nhân sinh quan, Phật giáo đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự "giải
thoát" (Moksa) khỏi vòng luân hồi, "nghiệp báo" để đạt tới trạng thái tồn tại Niết
bàn [Nirvana]. Nội dung triết học nhân sinh tập trung trong thuyết "tứ đế"- có nghĩa là
bốn chân lý, cũng có thể gọi là "tứ diệu đế" với ý nghĩa là bốn chân lý tuyệt vời.
1. Khổ đế [Duhkha - satya]. Phật giáo cho rằng cuộc sống là khổ, ít nhất có tám nỗi
khổ (bát khổ): sinh, lão (già), bệnh (ốm đau), tử (chết), thụ biệt ly (thương yêu nhau phải
xa nhau), oán tăng hội (oán ghét nhau nhưng phải sống gần với nhau), sở cầu bất đắc
(mong muốn nhưng không được), ngũ thụ uẩn (năm yếu tố uẩn tụ lại nung nấu làm khổ
sở).
2. Tập đế hay nhân đế (Samudayya - satya). Phật giáo cho rằng cuộc sống đau khổ
là có nguyên nhân. Để cắt nghĩa nỗi khổ của nhân loại, Phật giáo đưa ra thuyết "thập nhị
nhân duyên" - đó là mười hai nguyên nhân và kết quả nối theo nhau, cuối cùng dẫn đến
các đau khổ của con người: 1/ Vô minh, 2/ Hành; 3/ Thức; 4/ Danh sắc; 5/ Lục nhập; 6/
14
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

