BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Hà Đình Hùng TỤC THỜ CÚNG CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ THAM GIA
HỘI THỀ LŨNG NHAI NĂM 1416 Ở THANH HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Hà Đình Hùng TỤC THỜ CÚNG CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ THAM GIA
HỘI THỀ LŨNG NHAI NĂM 1416 Ở THANH HÓA
Chuyên ngành: Văn hoá học Mã số: 9229040 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học GS.TS Bùi Quang Thanh
Hà Nội - 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận án Tiến sĩ Tục thờ cúng các nhân vật lịch sử
tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa là công trình nghiên cứu của cá
nhân tôi. Các số liệu trích dẫn, tư liệu trong luận án đảm bảo sự tin cậy, trung thực,
chính xác và có dẫn nguồn cụ thể. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả
Hà Đình Hùng
ii
MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN i
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN iii
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ iv
MỞ ĐẦU 1
11
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 11
1.2. Cơ sở lý luận 27
1.3. Khái quát về địa bàn nghiên cứu 36
Tiểu kết 40
42
Chương 2: CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ THAM GIA HỘI THỀ LŨNG NHAI NĂM 1416 2.1. Chân dung các nhân vật qua thư tịch
42 57
2.2. Các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai qua truyền thuyết, sắc phong, gia phả, bia ký Tiểu kết
74 76
Chương 3: HỆ THỐNG THỜ CÚNG CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ THAM GIA HỘI THỀ LŨNG NHAI NĂM 1416 Ở THANH HÓA 3.1. Không gian thực hành thờ cúng 3.2. Thái độ của nhà nước và cộng đồng đối với tục thờ cúng Tiểu kết
76 105 123 125
Chương 4: BẢN CHẤT, GIÁ TRỊ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐANG ĐẶT RA CỦA TỤC THỜ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI 4.1. Bản chất của tục thờ 4.2. Giá trị của tục thờ 125 134
148
4.3. Thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa trong đời sống hiện nay - những vấn đề đặt ra Tiểu kết KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO 155 157 161 162
PHỤ LỤC 175
iii
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
CTQG Chính trị Quốc gia
DSVH Di sản văn hóa
DT LS-VH Di tích Lịch sử- Văn hóa
DTQGĐB Di tích Quốc gia Đặc biệt
KHXH Khoa học Xã hội
NCBSLS Nghiên cứu biên soạn lịch sử
NCS Nghiên cứu sinh
Nxb Nhà xuất bản
Tp Thành phố
Tr Trang
UBND Ủy ban nhân dân
VHDG Văn hóa Dân gian
VHDT Văn hóa Dân tộc
VHNT Văn hóa Nghệ thuật
VHTT Văn hóa Thông tin
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
STT Nội dung bảng thống kê Trang
1 Bảng 3.1. Thành phần, nghề nghiệp những người tham gia dự lễ 117
2 Bảng 3.2. Bảng thống kê các hiện vật cúng lễ phổ biến 121
3 Biểu đồ 3.1. Biểu đồ thể hiện sự linh thiêng của thần ở di tích 114
4 Biểu đồ 3.2. Biểu đồ tỷ lệ về giới khi thực hành tế lễ tại di tích 116
5 Biểu đồ 3.3. Thống kê tần suất người đến di tích 118
6 Biểu đồ 3.4. Biểu đồ đánh giá tần suất tham dự lễ hội 118
7 Biểu đồ 3.5. Nhu cầu của cộng đồng khi thực hành tín ngưỡng tại di 119
tích
8 Biểu đồ 3.6. Đánh giá vai trò của tín ngưỡng đối với cộng đồng địa 120
phương
9 Biểu đồ 3.7. Đánh giá thói quen thực hành tín ngưỡng tại di tích 121
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
1.1. Trong hệ thống tín ngưỡng Việt Nam thì việc phụng thờ các nhân vật
lịch sử như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi,
Quang Trung... đã trở thành truyền thống văn hóa tín ngưỡng đáng tự hào của người
Việt. Thờ cúng các nhân vật lịch sử ở Việt Nam nằm trong hệ thống tín ngưỡng thờ
nhân thần nói chung, có lý do thúc đẩy chủ yếu bởi lòng yêu nước và tự tôn dân tộc
vốn là đặc trưng sâu đậm trong tâm thức dân gian người Việt và đã trở thành một
hiện tượng xã hội phổ biến ở hầu khắp các vùng miền, trên phạm vi cả nước. Những
năm gần đây, bên cạnh các hình thức tín ngưỡng đang được phục hồi và ngày càng
phát triển mạnh mẽ như: thờ cúng tổ tiên, thờ thành hoàng, thờ Mẫu...thì tín ngưỡng
phụng thờ các anh hùng dân tộc, các nhân vật lịch sử vẫn luôn chiếm vị trí thiêng
liêng trong đời sống văn hóa cộng đồng. Vì vậy, việc tìm hiểu sự phụng thờ các
nhân vật lịch sử để nhận diện quá trình tín ngưỡng hóa, sự vận động và biến đổi của
nó trong đời sống xã hội hiện nay là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa thiết thực.
1.2. Nhân vật lịch sử cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nói chung và nhân vật lịch sử
tham gia hội thề Lũng Nhai nói riêng từ lâu đã là chủ đề hấp dẫn với không ít sự
quan tâm của giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Lâu nay, hầu hết các nghiên cứu
mảng đề tài này thường tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sử học, nhân học. Việc
nghiên cứu dưới các góc độ văn hóa học, văn hóa dân gian về hệ thống truyền
thuyết, lễ hội, phong tục, tín ngưỡng gắn với các nhân vật lịch sử tham gia hội thề
Lũng Nhai vẫn còn khá ít ỏi, chưa thành hệ thống. Thực tế cho thấy, trên các khu
vực đã từng là vùng địa bàn hoạt động của khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa, các
dấu tích về nhân vật và sự kiện khởi nghĩa Lam Sơn đến nay vẫn còn khá đáng kể.
Với một hệ thống các phong tục, tín ngưỡng, lễ hội và thực hành văn hóa của dân
gian có chủ đề tôn vinh các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai được cấu
trúc hóa khá lớp lang, bài bản và đã trở thành một hệ thức sinh hoạt tín ngưỡng dân
gian khá độc đáo. Cùng với sự gắn bó chặt chẽ giữa các di tích, lễ hội, nghi lễ, tập
quán trong cộng đồng có liên quan đến thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội
thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa đã cho thấy phạm vi ảnh hưởng, sức lan tỏa của tục thờ
2
cúng trong đời sống tinh thần của nhân dân. Nếu được nghiên cứu kỹ lưỡng sẽ là
điều kiện tốt để lấp đầy một khoảng trống trong nghiên cứu về tín ngưỡng hóa các
nhân vật này ở địa phương.
1.3. Thực tế hiện nay ở Thanh Hóa cho thấy việc sinh hoạt tín ngưỡng liên
quan đến các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 là một trong
những thực hành văn hóa có tính bền vững nhất của địa phương. Với các thực hành
nghi lễ và phong tục, tập quán đã được định hình bằng tục thờ cúng của nhân dân ở
cả cấp độ quốc gia, làng xã và dòng họ. Mặt khác, tục thờ cúng này đã và đang đáp
ứng các nhu cầu tinh thần và tạo dựng nếp sống, đạo hiếu ứng xử nhân văn trong
dòng họ, làng xã và cộng đồng, góp phần hình thành bản sắc văn hóa địa phương.
Tuy nhiên, ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay, sinh hoạt văn hóa này vẫn chưa nhận được
sự quan tâm đúng mức. Đặc biệt là sự nhìn nhận tục thờ cúng như một chỉnh thể
văn hóa liền mạch, được định hình từ lâu đời, vừa có tính hướng đạo của chính
quyền nhưng lại có sự đồng thuận rất lớn của người dân. Những vấn đề này cần
được nghiên cứu kỹ lưỡng để trên cơ sở đó giúp cho các cơ quan quản lý văn hóa,
chính quyền địa phương thực hiện tốt việc quy hoạch, quản lý, bảo vệ, khai thác và
phát huy các di sản văn hóa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ở tỉnh Thanh Hóa. Chính
vì lẽ đó, nghiên cứu về tục thờ cúng nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai
năm 1416 ở Thanh Hóa để xem xét bản chất, giá trị và sự vận động, biến đổi của nó
trong bối cảnh xã hội đương đại từ góc độ văn hóa học trên cơ sở phương pháp
nghiên cứu liên ngành là một việc làm có ý nghĩa cần thiết, thiết thực.
1.4. Từ sự cấp thiết của vấn đề nghiên cứu, trên cơ sở khoa học và thực tiễn,
tiếp thu những công trình khoa học đi trước, NCS lựa chọn đề tài “Tục thờ cúng các
nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa” làm nội dung
nghiên cứu cho luận án của mình.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là nghiên cứu các nhân vật lịch sử tham gia hội thề
Lũng Nhai năm 1416 thông qua các nguồn tài liệu thư tịch, DSVH hiện tồn và các
thực hành nghi lễ trong cộng đồng ở tỉnh Thanh Hóa; nhìn nhận bản chất, giá trị và
3
xu hướng vận động, biến đổi của sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng trong đời sống
đương đại; trên cơ sở đó đặt ra những vấn đề nhằm giữ gìn và phát huy giá trị lịch
sử văn hóa của tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở
Thanh Hóa trong bối cảnh xã hội hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng thuật các tài liệu đi trước có đề cập đến nhân vật lịch sử tham gia hội
thề Lũng Nhai; thờ cúng các nhân vật lịch sử của người Việt nói chung và thờ cúng
nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai nói riêng.
- Làm rõ hệ thống khái niệm, cơ sở lý luận liên quan đến tục thờ cúng các
nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa.
- Phác thảo chân dung các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm
1416 ở Thanh Hóa.
- Miêu tả hệ thống thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai
năm 1416 ở Thanh Hóa thông qua DSVH và các thực hành nghi lễ.
- Nhận diện bản chất, giá trị và những vấn đề đặt ra của tục thờ cúng các
nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa trong đời sống
xã hội hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu về tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề
Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa biểu hiện qua hệ thống thờ cúng và các thực
hành nghi lễ của cộng đồng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian
Không gian nghiên cứu là các khu vực địa lý đã từng là vùng địa bàn hoạt
động của nghĩa quân Lam Sơn ở Thanh Hóa và các làng xã, dòng họ là quê hương
của các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa, trong đó các
địa điểm chính được lựa chọn khảo sát, điều tra gồm địa bàn các huyện: Thọ Xuân,
Ngọc Lặc, Bá Thước, Thường Xuân, Vĩnh Lộc, Đông Sơn, Hoằng Hóa, Nông
4
Cống, Tĩnh Gia, Tp Thanh Hóa…đây được coi là những địa bàn có nhiều dấu tích
lịch sử, truyền thuyết/thần tích, lễ hội, di tích gắn liền với thân thế và sự nghiệp của
các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa.
- Phạm vi thời gian
Luận án tập trung nghiên cứu chân dung các nhân vật lịch sử tham gia hội
thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa thông qua các thực hành nghi lễ để nhận
thức bản chất, giá trị của tín ngưỡng tập trung vào khoảng thời gian từ năm 1986 trở
lại đây trong bối cảnh các chính sách của Nhà nước về văn hóa, tôn giáo, tín
ngưỡng có nhiều thay đổi, dưới sự tác động của quá trình đô thị hóa, sự hội nhập
kinh tế của đất nước.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu
Luận án nghiên cứu toàn diện hệ thống DSVH có liên quan đến các nhân vật
lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa nhưng tập trung chủ yếu
vào sinh hoạt tín ngưỡng và các thực hành nghi lễ.
4. Câu hỏi nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu của đề tài, luận án đặt ra câu hỏi nghiên cứu cần
phải giải quyết là:
- Quá trình chuyển hóa từ nhân vật lịch sử thành nhân vật được phụng thờ
diễn ra như thế nào?
- Thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở
Thanh Hóa có gì khác biệt so với việc thờ cúng các nhân vật lịch sử khác ở địa
phương và trong nước?
- Trong xã hội đương đại, tín ngưỡng phụng thờ các nhân vật lịch sử tham
gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa sẽ vận động và biến đổi ra sao trong
bối cảnh đời sống xã hội hiện nay?
5. Giả thuyết nghiên cứu
Từ thực tế khảo sát cho thấy mức độ phổ biến và tập trung cao các di tích và
thực hành nghi lễ thờ cúng nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh
Hóa được phân bố chủ yếu ở các khu vực đã từng là vùng địa bàn hoạt động của
5
khởi nghĩa Lam Sơn cũng như trên quê hương các nhân vật này tại địa phương
Thanh Hóa, NCS cho rằng sinh hoạt tín ngưỡng này là biểu hiện đại diện nổi bật
cho hình thức sinh hoạt văn hóa bản địa, ý thức về vùng đất và con người của quê
hương mình, do vậy, các chủ thể văn hóa dường như chỉ tập trung tri ân và tôn vinh
những người con của quê hương đã có công xả thân hy sinh vì nghĩa lớn của dân
tộc.
Việc tôn vinh các nhân vật lịch sử của khởi nghĩa Lam Sơn nói chung, nhân
vật tham gia hội thề Lũng Nhai nói riêng đã được triều đại phong kiến thực hiện qua
các thời kỳ lịch sử có thể được xem là yếu tố góp phần dẫn dắt, định hướng việc thờ
cúng này cho cộng đồng người dân ở xứ Thanh? Sự đồng thuận từ cơ chế, chính
sách và ý thức quan phương với cộng đồng đó sẽ là yếu tố tạo nên tính bền vững
cho sự tồn tại của một truyền thống văn hóa mang giá trị nhân văn cao cả của cư
dân thuộc tiểu vùng văn hóa này.
Trên tiến trình vận động của lịch sử văn hóa, sinh hoạt tín ngưỡng thông qua
tục thờ các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai tại các làng quê xứ Thanh
sẽ là hình thức thực hành văn hóa có tính bền vững nhất so với các hệ thống biểu
đạt văn hóa khác trong đời sống xã hội đương đại.
Những giả thuyết khoa học này sẽ được NCS làm rõ trong các tiểu mục thích
hợp theo mục đích đã xác định của đề tài luận án.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Từ hướng tiếp cận liên ngành, luận án tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo
góc độ sử học và văn hóa học. Với khía cạnh tiếp cận văn hóa học, trên cơ sở vận
dụng các quan điểm về nhân vật lịch sử, nhân vật tín ngưỡng, việc tôn vinh các
nhân vật lịch sử; sự chuyển hóa nhân vật lịch sử thành nhân vật tín ngưỡng của các
nhà nghiên cứu đi trước, luận án sẽ tiếp cận việc thờ cúng các nhân vật lịch sử tham
gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa thông qua khảo sát, tìm hiểu các
thành tố như truyền thuyết, thần tích, thần sắc, điện thờ, nghi lễ, phong tục; làm rõ
quan hệ giữa ý thức của cộng đồng và thái độ của nhà nước đối với các nhân vật để
đi đến khẳng định giá trị và bản chất của tín ngưỡng. Bên cạnh đó, luận án cũng sử
dụng phối hợp các tiếp cận khác nhau của các ngành như: nhân học, tâm lý học, văn
6
học dân gian, xã hội học…để nhìn nhận, đánh giá tục thờ cúng dưới góc độ khoa
học liên ngành.
6.2. Ở góc độ phương pháp tiến hành cụ thể, luận án đã sử dụng một số
phương pháp chính:
Phương pháp tập hợp và phân tích tài liệu thứ cấp: tập hợp và nghiên cứu
những tài liệu thứ cấp, bao gồm những tư liệu, tài liệu, sách báo, các công trình
nghiên cứu đã được in ấn, xuất bản và hiện đang được lưu giữ tại các kho thư viện
như các tư liệu lịch sử về cuộc đời và sự nghiệp của các nhân vật lịch sử tham gia
hội thề Lũng Nhai năm 1416; các tài liệu nghiên cứu, truyền thuyết, giai thoại, thần
tích; hệ thống di tích, lễ hội và nghi thức thờ cúng và các số liệu điều tra xã hội học,
tư liệu phỏng vấn trong cộng đồng… Những tư liệu này giúp NCS có một cái nhìn
tổng quan về nhân vật được phụng thờ; về địa bàn phân bố các điểm thờ tự; các
quan điểm đánh giá về những người tham gia hội thề Lũng Nhai và ý thức của
người dân đối với các nhân vật lịch sử này trong đời sống văn hóa của cộng đồng.
Trên cơ sở đó lên kế hoạch chi tiết cho việc đi khảo sát thực địa tại địa bàn nghiên
cứu. Đồng thời kế thừa và vận dụng quan điểm nghiên cứu của những người đi
trước vào trong quá trình triển khai, nghiên cứu những nhìn nhận mới, cách tiếp cận
mới trong luận án.
Phương pháp quan sát tham dự: đây là phương pháp đã được NCS sử dụng
trong quá trình khảo sát thực tế tại địa phương để có được những tư liệu chân thực,
phản ánh đúng thực trạng vấn đề nghiên cứu. Trong quá trình triển khai đề tài
nghiên cứu từ năm 2013 đến nay, NCS đã tiến hành nhiều đợt khảo sát, điền dã
nhằm tham gia trao đổi, phỏng vấn trực tiếp các chủ nhân văn hóa tại di tích như thủ
từ, chủ tế nơi thờ cúng nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai. Đặc biệt chú trọng tới
cư dân địa bàn, quê hương, gia tộc, dòng họ của các nhân vật lịch sử này. Đối tượng
phỏng vấn là những người cao tuổi trong làng xã; con cháu trong dòng họ trên quê
hương của các nhân vật tham dự hội thề Lũng Nhai, các thành viên ban quản lý di
tích, người trông coi di tích và người dân địa phương, khách tham quan nhằm thu
thập những thông tin về lịch sử vùng đất, con người, về nhân vật được phụng thờ
7
(cuộc đời, sự nghiệp, công trạng...), sự hình thành di tích thờ tự (lịch sử xây dựng,
quá trình trùng tu tôn tạo, điện thờ..) và các nghi thức thờ cúng (lịch thờ cúng, thời
điểm tổ chức lễ hội, diễn trình lễ hội, phân công trọng trách...). Phỏng vấn những
người trực tiếp tham gia vào công việc tổ chức lễ hội và thực hiện nghi thức thờ
cúng, kể cả khách thập phương để nhận thức rõ tâm lý, nhu cầu, nguyện vọng và
mong muốn của cộng đồng đối với nhân vật tín ngưỡng. Các tư liệu phỏng vấn này
là nguồn tư liệu định tính có giá trị thực được sử dụng để trích dẫn trong luận án.
Phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua điều tra bằng bảng hỏi:
nhằm có được những số liệu định lượng mang tính khách quan minh chứng cho
những nhận định được đưa ra trong luận án NCS đã sử dụng phương pháp điều tra
bằng bảng hỏi. Bảng điều tra bao gồm 20 câu hỏi, tập trung vào các vấn đề: nhận
thức, hiểu biết của cộng đồng về nhân vật được phụng thờ, niềm tin, mục đích và
cách thực hành nghi thức, nghi lễ của người dân khi đến với các di tích thờ cúng các
nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai. Phiếu trưng cầu ý kiến được phát ra ngẫu
nhiên dịp lễ hội và những đợt NCS đến di tích khảo sát được chia làm 3 đợt, với
tổng số 300 phiếu/10 huyện, thị, thành phố. Cụ thể, đợt 1 (năm 2014) gồm các
huyện Thọ Xuân, Ngọc Lặc, Bá Thước, Thường Xuân với 120 phiếu. Đợt 2 (năm
2016) gồm các huyện Vĩnh Lộc, Nông Cống, Đông Sơn với 90 phiếu. Đợt 3 (năm
2018) gồm các huyện Hoằng Hóa, Tĩnh Gia, Tp Thanh Hóa với 90 phiếu. Tổng số
phiếu phát ra là 300 phiếu. Tổng số phiếu thu về là 287 phiếu. Trong đó số phiếu
hợp lệ là 282 phiếu, số phiếu không hợp lệ là 05 phiếu. Người trả lời phiếu trưng
cầu là các tầng lớp dân cư ở mọi lứa tuổi, giới tính, thành phần khác nhau. Để triển
khai thực hiện chương trình, tác giả luận án đã phối hợp với các cán bộ quản lý ở
địa phương, thành phần gồm lãnh đạo cấp xã, huyện và trưởng các thôn xóm. Địa
điểm thực hiện phát phiếu trưng cầu ý kiến: xã Xuân Lam, Xuân Bái, Thọ Hải, Thọ
Lâm, thị trấn Lam Sơn (huyện Thọ Xuân); xã Ngọc Phụng (Thường Xuân); xã Văn
Nho, xã Kỳ Tân (huyện Bá Thước); xã Kiên Thọ, xã Minh Sơn (huyện Ngọc Lặc);
xã Vĩnh Hòa (huyện Vĩnh Lộc); xã Tân Phúc, Trung Ý (huyện Nông Cống); xã
Hoằng Hải (huyện Hoằng Hóa); xã Đông Lĩnh (huyện Đông Sơn), xã Hải Hòa
8
(huyện Tĩnh Gia) và phường Đông Vệ (Tp Thanh Hóa). Sở dĩ tác giả luận án lựa
chọn các địa bàn này bởi đây là những nơi có nhiều di tích thờ cúng các nhân vật
tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa, gắn liền với những dấu tích quan trọng
trong cuộc đời và sự nghiệp của các nhân vật. Mặt khác, tại các địa bàn này, nhân
vật được phụng thờ đã đi vào đời sống văn hóa và đời sống tín ngưỡng của người
dân một cách bền vững. Sau khi tập hợp các phiếu điều tra khảo sát, NCS đã sử
dụng phần mềm SPSS (Statistical Package for the Social Sciences) 22.0 vào phân
tích và xử lý các số liệu điều tra, vẽ các đồ thị minh họa. Kết quả điều tra với những
số liệu định tính kết hợp với các cuộc phỏng vấn sâu sẽ góp phần minh chứng cho
những nhận định trong luận án.
Phương pháp so sánh:
Trên cơ sở những thông tin thu thập được từ thư tịch, sách báo, bài viết đã
công bố và các tài liệu thu thập được từ cộng đồng sẽ được NCS phân tích, so sánh,
diễn giải nhằm sáng tỏ chân dung lịch sử của các nhân vật lịch sử tham gia hội thề
Lũng Nhai năm 1416 trong chương 2 của luận án.
Từ việc phân tích tài liệu, hồ sơ di tích, tư liệu điền dã kết hợp với các số liệu
điều tra, luận án sẽ mô tả, đánh giá về hiện trạng thờ cúng các nhân vật lịch sử tham
gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa thông qua các di sản văn hóa và thực hành nghi
lễ; khảo sát và đánh giá thái độ, tâm lý của cộng đồng và quan điểm của triều
đình/chính quyền đối với tục thờ (chương 3).
Trên cơ sở phân tích, so sánh, đối chiếu từ các nguồn tài liệu thư tịch cho đến
tư liệu điều tra, khảo sát tại địa bàn sẽ giúp NCS nhận diện rõ giá trị và tâm thức
của tục thờ cúng, đặc biệt giúp NCS củng cố các luận chứng, luận cứ khoa học tin
cậy về bản chất và giá trị của tục thờ (chương 4). Trong quá trình phân tích NCS sẽ
tiến hành so sánh, đối chiếu quá trình thiêng hóa các nhân vật lịch sử tham gia hội
thề Lũng Nhai so với các nhân vật lịch sử khác cũng như sự biến đổi, vận động của
tục thờ trong bối cảnh đời sống xã hội hiện nay. Sự kết hợp giữa những số liệu định
lượng và các thông tin định tính cùng các quan điểm học thuật của các nhà nghiên
9
cứu, các chuyên gia sẽ giúp cho luận án có được cái nhìn khoa học, chân thực và
khách quan về vấn đề nghiên cứu và củng cố những nhận định đã đưa ra.
7. Đóng góp khoa học của luận án
7.1. Luận án là công trình vận dụng cơ sở lý luận về tôn vinh và thiêng hóa
nhân vật lịch sử vào nghiên cứu toàn diện tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham
gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa.
7.2. Luận án trình bày, cung cấp và bổ sung thêm vào hệ thống tư liệu về
nghiên cứu nhân vật lịch sử nói chung, nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai
năm 1416 ở Thanh Hóa nói riêng.
7.3. Từ những kết quả thực tiễn khảo sát hệ thống thờ cúng thông qua di tích,
điện thờ, tập tục, nghi lễ… luận án khẳng định có một hiện tượng tín ngưỡng phụng
thờ các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa đang tồn tại
khách quan trong đời sống văn hóa của nhân dân ở cả hai phạm vi gia tộc và cộng
đồng. Với mức độ tập trung chủ yếu các thực hành nghi lễ ở những khu vực đã từng
là vùng địa bàn hoạt động của khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa cũng như trên quê
hương, bản quán của các nhân vật hội thề Lũng Nhai. Nó cho thấy tính chất đa dạng
và phạm vi ảnh hưởng, sức lan tỏa của tục thờ cúng trong đời sống tinh thần của
nhân dân.
7.4. Thông qua nghiên cứu thực chứng từ các thực hành nghi lễ thờ cúng
nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa đã góp phần nhận diện và
khẳng định giá trị, sự biến đổi của tục thờ. Những kết quả nghiên cứu của luận án
có thể giúp cho các nhà quản lý và hoạch định chính sách ở Thanh Hóa xây dựng
những luận cứ cho các chương trình phát triển kinh tế- văn hóa – xã hội của địa
phương.
8. Kết cấu luận án
Ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (4 trang), Tài liệu tham khảo (12
trang), Phụ lục (68 trang), luận án bao gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát về địa
bàn nghiên cứu (31 trang).
10
Chương 2: Các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 (34
trang).
Chương 3: Hệ thống thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng
Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa (49 trang).
Chương 4: Bản chất, giá trị và những vấn đề đang đặt ra của tục thờ trong
đời sống xã hội đương đại (32 trang).
11
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về thờ cúng các nhân vật lịch sử của
người Việt
Việc phụng thờ nhân thần và các nhân vật lịch sử của người Việt nói chung
và ở Thanh Hóa nói riêng là mảng đề tài được khá nhiều các nhà nghiên cứu quan
tâm, tìm hiểu từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau: văn hóa dân gian, văn hóa học,
nhân học, dân tộc học, ngôn ngữ học...
Nhiều tác giả đã lựa chọn và nghiên cứu về việc phụng thờ các nhân thần,
nhân vật lịch sử cụ thể như Lý Thường Kiệt, Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Không
Lộ Thiền sư, Trần Nguyên Hãn…Dưới góc độ văn hóa dân gian, thông qua truyền
thuyết, điện thần, di tích và lễ hội, luận án Tín ngưỡng Hai Bà Trưng ở vùng châu
thổ sông Hồng năm 2008 [86] tác giả Phạm Lan Oanh đã tìm hiểu về nhân vật Hai
Bà Trưng, sự chuyển hóa từ một nhân vật lịch sử, một anh hùng dân tộc trở thành
đối tượng thờ cúng theo niềm tin dân gian. Từ đó, làm sáng tỏ bản chất tín ngưỡng
Hai Bà Trưng: một nữ thần nông nghiệp, phúc thần và là “nhân vật đặc biệt có
quyền lực và linh pháp trong lịch sử và tâm thức dân gian Việt Nam” [86, tr.14].
Trên Tạp chí Văn hóa học, có bài viết “Truyền thuyết, di tích và việc thờ
cúng Mai Hắc Đế trong dòng chảy thời gian” [4] của tác giả Trần Thị An. Thông
qua chuỗi truyền thuyết gắn liền với nơi sinh, nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ giữa ý
thức và việc thờ tự diễn ra tại cộng đồng. Đồng thời khẳng định sự tồn tại của huyền
tích, tín ngưỡng có vai trò to lớn trong sáng tạo văn hóa của dân gian và lịch sử
vùng đất.
Nhìn nhận mối quan hệ gắn bó mật thiết hữu cơ giữa truyền
thuyết- lịch sử - lễ hội đặt trong bối cảnh triều đại và các nhân vật lịch sử, được giải
mã với một số biểu tượng văn hóa gắn với lịch sử và truyền thuyết, Luận văn Khảo
sát truyền thuyết và lễ hội Đinh Lê ở Ninh Bình [90] của Giang Thị Thu Phương đã
12
tìm hiểu về cách thức huyền thoại hóa lịch sử để lưu giữ ký ức cộng đồng. Đi đến
nhận định khoa học quan trọng rằng các anh hùng văn hóa, nhân vật lịch sử không
chỉ sống trong những lời kể mà còn sống trong những nghi lễ thờ cúng với những
nghi thức, những tập tục sinh động.
Đi theo hướng khảo sát truyền thuyết và lễ hội còn có Khảo sát hiện tượng
Từ Đạo Hạnh ở Hà Nội [48] của Vũ Thị Huế. Nghiên cứu này đã khảo sát hiện
tượng Từ Đạo Hạnh- một nhân vật lịch sử, là một vị thiền sư đời Lý trong văn học
và trong lễ hội dân gian từ đó chứng minh rằng hiện tượng Từ Đạo Hạnh không chỉ
là một truyền thuyết, một lễ hội bó hẹp trong một địa phương nhất định mà nó được
sinh ra và lưu truyền, có sức sống bền bỉ về mặt thời gian và ảnh hưởng rộng lớn về
mặt không gian.
Trong những nghiên cứu về thờ cúng, tín ngưỡng hóa nhân vật lịch sử, có lẽ
các công trình nghiên cứu của tác giả Phạm Quỳnh Phương đối với nhân vật Đức
Thánh Trần (Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn) nhận được sự quan tâm nhất.
Điểm đáng lưu ý trong các nghiên cứu về Trần Hưng Đạo của tác giả là đặt nhân vật
được thờ trong lăng kính đa chiều, với nhiều chiều kích, góc độ khác nhau. Chẳng
hạn các nghiên cứu đi theo hướng truyền thống là khảo sát truyền thuyết, lịch sử và
lễ hội [87]. Trong công trình khác lại nghiên cứu hiện tượng thờ Đức Thánh đặt
trong bối cảnh văn hóa xã hội Việt Nam đương đại [151]. Ở một công trình khác tín
ngưỡng Đức Thánh Trần như một hiện tượng văn hóa đa nghĩa [88]. Các không
gian thiêng về ông gắn liền với hệ thống di tích [89] ở Việt Nam cũng được tác giả
khảo sát dưới khía cạnh nhân học. Trong bài viết Tín ngưỡng Trần Hưng Đạo [154,
155] tác giả Phạm Quỳnh Phương nhấn mạnh vị trí đặc biệt của Trần Hưng Đạo
trong số các anh hùng dân tộc được tôn thờ, bởi ảnh hưởng sâu rộng của nhân vật
lịch sử này trong đời sống dân tộc và tâm linh. Từ một nhân vật lịch sử, Trần Hưng
Đạo trở thành một vị Thánh là do hiện tượng văn hóa này đáp ứng được cả ba
nhu cầu: nhu cầu của những người lãnh đạo quốc gia ở nhiều thời đại (cần một biểu
tượng đề cao tinh thần yêu nước và truyền thống đánh giặc nhằm củng cố sức mạnh
cộng đồng trước mọi biến cố xã hội); nhu cầu của tầng lớp trí thức (cần một biểu
13
tượng về “địa linh nhân kiệt”, một anh hùng lịch sử văn hóa và tấm gương để giáo
dục truyền thống cho các thế hệ nối tiếp); nhu cầu của quần chúng bình dân (cần
biểu tượng một sức mạnh siêu phàm trợ giúp sức khỏe, trừ mọi tà ma bệnh tật).
Một số công trình đáng chú ý khác, chẳng hạn như Góp phần nghiên cứu một
vị thành hoàng Việt Nam: Lý Phục Man (1938) của tác giả Nguyễn Văn Huyên.
Bằng cách tiếp cận dân tộc học/nhân học, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích
từ nhiều góc độ trên cơ sở các nguồn tư liệu truyền thuyết trong thư tịch và truyền
thuyết được truyền miệng trong mối liên hệ với di tích, phong tục, tín ngưỡng [2, tr
22]. Hay trong một số chuyên khảo khác, đáng kể như Truyền thuyết anh hùng
trong thời kỳ phong kiến [43] của tác giả Kiều Thu Hoạch hoặc Mối liên hệ giữa
truyền thuyết người Việt và lễ hội về các anh hùng [63] của tác giả Lê Kỳ đã cho
thấy nghi lễ và các phong tục không chỉ là một bộ phận của tín ngưỡng mà qua đó
còn góp phần làm rõ thêm về lai lịch và ảnh hưởng của nhân vật lịch sử trong đời
sống văn hóa của cộng đồng.
Ngoài ra, trong những năm gần đây, nhiều tác giả đã lựa chọn những phương
pháp nghiên cứu mới, áp dụng các lý thuyết nghiên cứu mới trên thế giới trong
nghiên cứu như đề tài Hệ thống truyền thuyết và lễ hội về võ tướng Dương Tự Minh
ở Thái Nguyên [128] của Nguyễn Thị Phương Thủy. Từ những phân tích theo
khuynh hướng tiếp cận liên ngành và khuynh hướng nghiên cứu ngữ văn, áp dụng
lý thuyết nghiên cứu mới của giới nghiên cứu folklore thế giới, công trình đã phân
tích, tìm hiểu về hình tượng nhân vật, nội dung thi pháp của truyền thuyết, mối quan
hệ giữa truyền thuyết và lễ hội. Đặc biệt đặt nhân vật trong môi trường văn hóa tín
ngưỡng, phong tục và lễ hội để nhận diện đầy đủ hơn đặc trưng và sức sống của
nhân vật.
Nhìn chung, nghiên cứu về phụng thờ các nhân vật lịch sử đã được các tác giả
tiếp cận dưới nhiều bình diện như quá trình vận động, chuyển hóa, nguồn gốc, bản
chất, vai trò của việc thờ cúng trong đời sống văn hóa cộng đồng…Mặc dù không
trực tiếp bàn đến các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai và việc phụng thờ các
nhân vật này nhưng các hướng nghiên cứu của các công trình nghiên cứu nêu trên là
14
những định hướng, gợi mở mà NCS đã kế thừa được rất nhiều trong quá trình thực
hiện luận án, dưới tư cách là tiếp cận về một hiện tượng tín ngưỡng, nghi lễ.
1.1.2. Nghiên cứu về hội thề Lũng Nhai và các nhân vật tham gia hội thề
Lũng Nhai
Các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 nằm trong chủ đề khởi
nghĩa Lam Sơn, vốn từ lâu đã trở thành chủ đề hấp dẫn giới nghiên cứu trong và
ngoài nước. Nhiều vấn đề về nhân vật lịch sử, sự kiện trong khoảng thời gian này
được xem xét, bình luận dưới nhiều góc độ khác nhau. Riêng về những công trình
khảo cứu, tìm hiểu về các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh
Hóa được nghiên cứu trên cả góc độ sử học, địa lý, nhân học, văn học tộc người...
Về phương diện sử học, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng, cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn khởi đầu bằng sự kiện hội thề Lũng Nhai và kết thúc bằng hội thề
Đông Quan. Với hội thề Đông Quan, thư tịch có cổ ghi chép tương đối đầy đủ,
chính xác cũng như thành phần tham gia… Trong khi đó, hội thề Lũng Nhai và
những người tham gia hội thề Lũng Nhai thì thông tin thư tịch cổ ghi chép còn khá
sơ sài.
Cho đến nay, các sử liệu chỉ cho biết rằng, đã có một cuộc hội thề giữa anh
hùng Lê Lợi và 18 người thân tín nhất tại một địa điểm bí mật gọi là Lũng Nhai
thuộc hương Lam Sơn, ẩn sâu trong vùng rừng núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa. Hội
thề đó được tổ chức vào một ngày tháng Hai năm Bính Thân (1416). Mục đích là tế
cáo trời đất, kết nghĩa anh em, nguyện hợp sức đồng lòng chuẩn bị phát động khởi
nghĩa chống ách đô hộ của nhà Minh. Hội thề đó là cơ sở cho việc tổ chức cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn sau đó hai năm (1418). Sau hội thề này, nhiều anh hùng hào
kiệt và những người yêu nước khắp nơi đã theo Lê Lợi tụ nghĩa.
Hiện nay, các ý kiến về sự kiện lễ thề, lời văn thề và người tham gia còn
chưa có sự đồng nhất. Dựa vào thư tịch sớm nhất chép về khởi nghĩa Lam Sơn là
Lam Sơn thực lục [85]. Bản chính biên soạn vào năm Thuận Thiên thứ 4 (1431), tức
là sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi 5 năm do Lễ bộ Thượng thư Đàm Văn Lễ
y sao bản chính thời Thuận Thiên để ban cấp cho hoàng tộc và gia tộc một số công
15
thần thì ở đoạn cuối cùng của quyển 3 bản Lam Sơn thực lục có chép nguyên văn lời
Văn thề như sau:
Thiên Khánh năm đầu, sao Tuế đóng ở Bính Thân, tháng Hai Kỷ Mão,
sóc vượt qua ngày 12, Canh Dần, An Nam, lộ Khả Lam, tôi Phụ đạo
chính, tên là Lê Lợi cùng bọn Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn Linh, Lê Văn An,
Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Lê Nanh, Lê Kiệm,
Võ Uy, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân chú, Trịnh Vô, Phạm Lôi, Lê Lý, Đinh
Lan và Trương Chiến kính cẩn dâng lễ sinh huyết, kết lòng thành [85, tr.
212].
Sau này ta thấy nội dung bài văn thề còn được ghi chép trong gia phả của
một số gia đình công thần Lũng Nhai như: Dòng họ Lưu Nhân Chú xã Vân Yên
(huyện Đại Từ, Thái Nguyên), họ Lê ở phường Đông Vệ (thành phố Thanh Hóa),
họ Đinh ở xã Trung Chính (huyện Nông Cống, Thanh Hóa), họ Nguyễn ở xã Thọ
Diên (huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa)…Qua phân tích cho thấy, lời văn của văn bản
Hội thề Lũng Nhai trong các tư liệu trên tương đối giống nhau; nhưng danh sách 19
người tham gia có đôi chỗ khác nhau.
Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử [142] giúp xác tín sự tin cậy của sự kiện
hội thề cũng như những người có tham gia. Về sau, một số công trình tìm hiểu,
khảo sát về hội thề Lũng Nhai, đặc biệt là những nghiên cứu của các tác giả như
Hoàng Xuân Hãn, Phan Huy Lê…đã một lần nữa khẳng định hội thề Lũng Nhai do
Phụ đạo Lê Lợi và 18 nghĩa sỹ diễn ra vào ngày 1 tháng 2 năm Bính Thân (1416) là
có thật trong lịch sử.
Năm 1966, tác giả Hoàng Xuân Hãn đã cho công bố các bản văn thề gọi là
Những lời thề của Lê Lợi in trong chuyên khảo đặc biệt trên tập san Sử- địa (Sài
Gòn) trên cơ sở khảo chứng kỹ lưỡng các bản văn thệ được tìm thấy ở làng Kiều
Đại (nay thuộc phường Đông Vệ, Tp Thanh Hóa), trong đó bao gồm 1 bản chữ Hán
và 2 bản chữ Nôm sao năm 1931 (niên hiệu Bảo Đại, thời Nguyễn). Tác giả đã
khẳng định sự thật lịch sử của sự kiện hội thề Lũng Nhai diễn ra năm 1416 và danh
sách người dự được phản ánh qua bản văn thề cụ thể như sau:
16
Năm đầu niên hiệu Thiên Khánh, là năm Bính Thân, tháng Hai, qua ngày
Kỉ Mão là ngày sóc đến ngày thứ mười hai là ngày Canh Dần. Nước Hà
Nam, phụ đạo lộ Khả Lam, tôi Lê Lợi, Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An, Lê
Văn Linh, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Lê Nanh,
Lê Kiệm, Võ Uy, Nguyễn Trãi, Đinh Liệt, Lê Nhân Chú, Lê Bồi, Lê Lí,
Đinh Lan, Trương Chiến, kính cẩn đem lễ vật, sanh huyết thành kính
dâng lời tâu cáo cùng Hạo thiên thượng đế, Hậu thổ Hoàng địa kỳ cùng
các tôn linh thần bậc thượng, trung, hạ coi sông núi ở các xứ nước ta. Cúi
xin rủ lòng soi xét cho [42, tr 12].
Thậm chí, lời văn trong bản thề còn biểu thị ý chí quyết tâm diệt giặc của 18
nghĩa sỹ cùng với Lê Lợi trước thần linh, sông núi: “...Lê Lợi cùng Lê Lai cho đến
Trương Chiến mười chín người đều hiệp lực đồng tâm chống giữ địa phương được
an cư trong cõi xóm. Sống chết cùng nhau không quên lời thề tâm huyết. Tôi cúi xin
trời đất và các thần thiêng giáng trăm tai ương xuống từ thần tôi đến nhà; họ hàng
con cháu đều chịu giết hết...” [42, tr 12- 13].
Năm 2013, nhân sự kiện tổ chức hội thảo bàn về địa điểm tổ chức hội thề
Lũng Nhai do Viện Sử học phối hợp với UBND huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh
Hóa tổ chức. Tác giả Hà Mạnh Khoa có bài viết: Quê hương và các danh tướng
người Thanh Hóa trong danh sách tham gia hội thề Lũng Nhai [144, tr 124]. Trong
bài viết này, dựa trên tổng hợp thông tin từ các thư tịch như Đại Việt sử ký toàn thư,
Đại Việt thông sử, Lam Sơn thực lục và một số gia phả dòng họ, tác giả đã đối chiếu
các thông tin về họ tên, gốc gác liên quan đến những người tham dự lễ thề ở Lũng
Nhai...Trong danh sách này có 3 người quê được xác định không thuộc Thanh Hóa
là Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú và Bùi Quốc Hưng còn đại đa số các nhân vật đều
có quê quán gốc là người ở các huyện Thụy Nguyên, huyện Lương Giang (thuộc
phần đất các huyện Thọ Xuân, Ngọc Lặc ngay nay). Từ những thông tin trên, chúng
ta biết vẫn còn những điều chưa được giải trình cho người đọc được thỏa kiến về
không những họ, tên và quê gốc của các danh tướng, vì sự thay đổi của thời gian,
trình độ của người ghi chép và nhất là tài liệu do đời sau sao lục mà hiện tại chưa có
17
điều kiện để khảo cứu lại. Nhưng có thể từ đó tìm hiểu và sáng tỏ những người mà
sử liệu ghi nơi xuất thân gần gũi với nơi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa.
Trên nguyên tắc đối chiếu thông tin từ tài liệu chính sử kết hợp so sánh với
gia phả các dòng họ công thần, kể cả điền dã thực địa về văn hóa dân gian của các
khu vực xung quanh địa danh đất Lam Sơn ngày nay và đặc biệt là khảo dị các bài
văn thề Lũng Nhai trước đây đã được tác giả Hoàng Xuân Hãn giới thiệu. Tác giả
Phan Huy Lê đã khảo cứu tỉ mỉ, cẩn thận về thời gian sự kiện, địa điểm, người tham
dự hội thề trong chuyên khảo xuất bản năm 2014 với nhan đề: Hội thề Lũng Nhai
trong khởi nghĩa Lam Sơn, văn bản và người tham dự [69]. Về những người đã
tham gia hội thề lịch sử năm 1416, tác giả đã đối chiếu, so sánh 8 bản văn thề Lũng
Nhai được tìm thấy gồm: (1) sách tại đền thờ vua Lê ở làng Kiều Đại, Tp Thanh
Hóa; (2) gia phả dòng họ Lê Nhân Chú ở Đại Từ, Thái Nguyên; (3) sách của dòng
họ Lê Sát ở Định Hải, Yên Định, Thanh Hóa; (4) gia phả dòng họ Đinh Liệt ở
Trung Chính, Nông Cống; (5) gia phả dòng họ Nguyễn Thận ở Thịnh Mỹ, Thọ
Xuân và (6) bản chép trong gia phả dòng họ Đỗ Bí được sách Lam Sơn lịch đại đế
vương sự tích ghi lại. Ngoài 6 bản trên còn có 2 bản mới được phát hiện gồm: (7)
gia phả dòng họ Lê Văn An ở Thọ Lâm, Thọ Xuân và (8) bản Trịnh Tộc gia phả của
dòng họ Trịnh Khả tìm thấy được tại xã Cự Đà, huyện Thanh Oai (nay thuộc Tp Hà
Nội). Tác giả đã thống kê cẩn thận tên tuổi, số người tham gia và đi đến khẳng định
19 nhân vật gồm có: Lê Lợi, Lê Lai, Lê (Nguyễn) Thận, Lê Văn An, Lê (Trần) Văn
Linh, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Lê Lý,
Trương Chiến, Lê Kiệm (hay Lê Hiểm), Đinh Lan, Lưu Nhân Chú, Phạm Lôi, Lê
Nanh, Trịnh Vô [69].
Đề cập về thân thế, sự nghiệp, cuộc đời của 19 nhân vật lịch sử tham gia hội
thề Lũng Nhai và từng cá nhân cũng là mảng đề tài được giới sử học quan tâm. Tuy
nhiên, các sách sử chép về các nhân vật tham gia hội thề này nhìn chung đều gắn
liền với các thông tin liên quan đến các diễn biến, mốc sự kiện trọng đại của khởi
nghĩa Lam Sơn cho nên thông tin về các nhân vật đều hết sức sơ lược, vắn tắt.
Ngoài Bình định vương Lê Lợi được Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử,
18
Lam Sơn thực lục chép khá kỹ về quê hương, xuất thân, gia đình, ngày giờ vua sinh,
thì các nhân vật khác lại không được đề cập chi tiết về các thông tin cá nhân. Người
ta thấy ở các phần Liệt truyện trong sách Đại Việt thông sử [142] và Nhân vật chí
trong Lịch triều hiến chương loại chí [29] có đề cập đến thông tin tiểu sử các nhân
vật tham gia hội thề Lũng Nhai tương đối rõ ràng. Ở các ghi chép về tiểu sử các
nhân vật, đều có những đoạn gần giống nhau như: “Năm Bính Thân (1416) vua
cùng 18 vị tướng thân cận liên danh hội thề, nguyện sống chết có nhau, ông cùng dự
trong số đó” [142, tr 191, 251, 255]. Các nhân vật được chép kỹ gồm có Lê Lợi, Lê
Lai, Nguyễn Thận, Lưu Nhân Chú, Trịnh Khả và danh sách những người tham gia
đôi chỗ còn chưa có sự đồng nhất. Chẳng hạn như Phan Huy Chú còn liệt kê cả
trường hợp Đinh Liệt có mặt trong hội thề hay Nguyễn Trãi có tham gia hội thề
Lũng Nhai trong những ngày đầu tiên của khởi nghĩa hay không thì chưa thấy Đại
Việt thông sử đề cập đến.
Những năm gần đây, do số lượng du khách đến tham quan Lam Kinh ngày
một đông, nhu cầu hiểu biết về cuộc khởi nghĩa, cũng như thân thế, sự nghiệp của
các công thần, danh tướng ngày một nhiều. Năm 2017, Sở VH,TT&DL Thanh Hóa
kết hợp với Ban quản lý DTQGĐB Lam Kinh tổ chức sưu tầm, nghiên cứu và biên
soạn cuốn 35 vị khai quốc công thần Lam Sơn [96] nhằm sáng tỏ thông tin liên quan
đến các nhân vật khởi nghĩa Lam Sơn nói chung, những người dự hội thề Lũng
Nhai nói riêng. Dựa trên các nguồn tài liệu chính sử khá dồi dào về các nhân vật
như: Lê Lai, Nguyễn Trãi, Lê Văn Linh, Lê Văn An, Nguyễn Thận, Trịnh
Khả...Sách đã giới thiệu cho độc giả chân dung 35 gương mặt công thần triều Lê
Sơ, trong đó có đầy đủ những người tham dự hội thề năm 1416. Dù được biên soạn
theo thể loại tiểu sử nhân vật trên cơ sở các nguồn tài liệu chính sử nhưng thông tin
về các vị còn được bổ sung thêm các truyền thuyết, thần sắc, di tích, gia phả và bia
ký liên quan.
Mảng tài liệu lịch sử khá đồ sộ trong đương đại viết về cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn, trong đó có ghi chép tỉ mỉ về những người dự hội thề Lũng Nhai mà chúng tôi
chưa có điều kiện liệt kê hết cũng góp nhiều tư liệu quý cho việc tham khảo của
19
chúng tôi, có thể tạm thống kê một số công trình tiêu biểu như: Khởi nghĩa Lam Sơn
[70], Địa chí Thanh Hóa [125; 126; 127], Lê Lợi (1385- 1433) và Thanh Hóa trong
khởi nghĩa Lam Sơn [67], Hội thề Lũng Nhai trong khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh
Hóa [144], Địa chí huyện Thọ Xuân [52], Địa chí huyện Đông Sơn [36], Địa chí Tp
Thanh Hóa [139], Địa chí huyện Nông Cống [51], Địa chí huyện Hoằng Hóa [39],
Địa chí huyện Bá Thước [49], Địa chí huyện Lang Chánh [50]...
Sách sử địa phương tiêu biểu như Lịch sử Thanh Hóa [7], trong chủ trương
ngợi ca truyền thống anh hùng của vùng đất và con người Xứ Thanh khi viết về
khởi nghĩa Lam Sơn, Thanh Hóa thời Lê, về thời gian nghĩa quân Lam Sơn chiến
đấu ở Thanh Hóa với cảm hứng tự hào, ngợi ca. Đáng chú ý, có đề cập tới vai trò
của đội ngũ công thần, quan lại Thanh Hóa trong thời Lê Sơ. Tài liệu cho biết, sau
khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi đã tiến hành việc xét thưởng công lao của những người
cùng ông tham gia khởi nghĩa. Nhờ vậy bản thân các vị và con cháu các công thần
quan lại được hưởng nhiều ân lộc và những chức vụ quan trọng trong triều đình. Có
tổng cộng 3 đợt định công, phong thưởng, ban tước. Đợt đầu vào tháng 2 năm Mậu
Thân (1428), phong tước cho những hỏa thủ và quân thiết đột vì họ “có công khó
nhọc ở Lũng Nhai”, với tổng cộng 121 người, chia làm 3 hạng, tất cả được mang họ
vua [6, tr 98]. Đợt 2 (tháng 3- 1428) và đợt 3 (tháng 5- 1429) là phong các bậc trên
dưới theo công trạng và phong tước. Trong số này, số lượng quan lại, công thần
người Thanh Hóa chiếm số lượng đông đảo và giữ những chức vụ cao. Phần nhiều
trong số đó có sự góp mặt của những người tham gia hội thề năm 1416 như Lê Văn
Linh, Nguyễn Lý, Lê Văn An, Trương Lôi, Trương Chiến, Trịnh Khả...Chính vai
trò của đội ngũ công thần không chỉ giữ những vị trí quan trọng, những cống hiến to
lớn trong bảo vệ, xây dựng đất nước, mà uy tín của họ còn tác động sâu sắc đến quê
hương Thanh Hóa được lịch sử thừa nhận và biến Thanh Hóa trở thành vùng đất
“căn bản” của nhiều triều đại tiếp nối [7, tr 100].
Nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai chủ yếu là võ tướng, tham gia nhiều
trận đánh, có mặt khắp nơi trong quá trình đi lên thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn.
Tiểu sử và cuộc đời của họ đã trở thành những câu chuyện tiêu biểu và cảm động về
20
lòng yêu nước, gắn bó với nhân dân làm nên chiến thắng vĩ đại trong thế kỷ XV của
dân tộc ta. Nhiều tấm gương chiến đấu, hy sinh và võ công của các nhân vật hội thề
Lũng Nhai như Lê Lai, Trịnh Khả, Trương Lôi, Nguyễn Thận, Võ Uy, Lê Liễu đã
được sách Võ tướng Thanh Hóa trong lịch sử dân tộc [121] phác dựng rõ nét để ta
hiểu rõ hơn chân dung, phẩm chất con người của những người anh hùng hội thề
năm xưa.
Tóm lại, những ghi chép về các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai qua các
nguồn tư liệu lịch sử có thể có nhiều điểm chưa thống nhất (danh sách người tham
dự, tên tuổi và quê hương của từng người…). Tuy nhiên, đó là những thông tin quý
báu cho NCS trong quá trình nghiên cứu về đề tài này, đặc biệt là những vùng đất,
địa phương, quê hương gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp của các nhân vật là những
chỉ dẫn quan trọng cho NCS trong quá trình điền dã, thực địa, khảo cứu.
1.1.3. Nghiên cứu về thờ cúng các nhân vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh
Hóa
Các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai là đối tượng nghiên cứu của
nhiều công trình khác nhau. Với khối lượng đồ sộ của tư liệu, có thể nói, việc
nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp, công trạng gắn liền với khởi nghĩa Lam Sơn của
các nhân vật này chiếm dung lượng khá lớn. Tiêu biểu như: Đại Việt Sử ký toàn thư
[72], Lam Sơn thực lục [85], Đại Việt thông sử [142], Lịch triều hiến chương loại
chí [29], Khởi nghĩa Lam Sơn [70], Lịch sử Thanh Hóa [7]. Những tài liệu này khai
thác các nhân vật chủ yếu dưới khía cạnh danh nhân, tiểu sử, chú trọng đề cập vai
trò của họ trong tiến trình của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Một số công trình về sau
này, trên cơ sở dựa vào những thông tin mà chính sử đã đề cập rồi thẩm định, đối
chiếu với các thông tin trong gia phả và truyền thuyết dân gian để biên soạn các bài
giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp, công trạng của các nhân vật. Tiêu biểu như: Địa
chí Thanh Hóa [127], Võ tướng Thanh Hóa trong lịch sử dân tộc [121], 35 vị khai
quốc công thần Lam Sơn [96]…
Ngoài những công trình nghiên cứu nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai
dưới góc nhìn lịch sử, chúng ta bắt gặp không ít các công trình nghiên cứu về những
21
nhân vật này dưới góc độ văn hóa, văn học dân gian. Đó là những truyền thuyết, cổ
tích, giai thoại, sự tích đang được lưu truyền ở Thanh Hóa mà được cho là có nguồn
gốc ngợi ca khởi nghĩa Lam Sơn và anh hùng dân tộc Lê Lợi tiêu biểu như: Đất
Lam Sơn [56], Lê Lợi và đất Lam Sơn [57], Truyền thuyết và cổ tích Lam Sơn [61],
Nguyễn Trãi trên đất Thanh [60], Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn trong tâm thức dân
gian [46]. Một số công trình khác, khai thác chủ đề quê hương, gia tộc các nhân vật
tham gia hội thề Lũng Nhai, đáng chú ý là Đất và người xứ Thanh [95]. Mặt khác,
việc nghiên cứu những di sản văn tự hiện tồn còn lại trên quê hương, làng xã, dòng
họ các nhân vật như văn bia, gia phả cũng được chú trọng. Các sách Lê triều Ngọc
Phả [64] và gia phả các dòng họ khai quốc công thần tham gia hội thề Lũng Nhai
như họ Lê Lai, Trịnh Khả, Lê Văn An, Võ Uy, Lưu Nhân Chú…đã được các nhà
nghiên cứu giới thiệu đầy đủ cho độc giả.
Về thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai thì ở Thanh Hóa, số
lượng các công trình nghiên cứu về hệ thống di tích, lễ hội, nghi lễ thờ cúng gắn với
từng nhân vật còn khá ít ỏi. Tuy nhiên, những nghiên cứu này lại chứa đựng nhiều
giá trị quý giá về mặt nội dung.
Liên quan đến nghiên cứu việc thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng
Nhai ở Thanh Hóa, qua việc phân tích tư liệu, NCS nhận thấy, có thể tạm chia các
công trình này thành 2 nhóm cơ bản: Nhóm thứ nhất là các công trình nghiên cứu
thờ cúng Lê Lợi. Nhóm thứ hai là các công trình nghiên cứu về những nhân vật còn
lại. Đối với nhóm thứ nhất, nghiên cứu thờ cúng Lê Lợi dành được sự quan tâm chú
ý nhiều hơn và chiếm phần lớn trong số các nghiên cứu có liên quan đến thờ cúng
các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa.
Một điểm đáng lưu ý nữa là, trong các công trình nghiên cứu về thờ cúng anh
hùng dân tộc Lê Lợi thì cơ bản mới chỉ dừng lại việc sáng tỏ về lăng tẩm, đền thờ,
lễ hội tại quê hương ông ở khu vực Lam Sơn là chính và một số dấu vết thờ cúng
ông còn lại ở Thanh Hóa. Những ghi nhận này cho chúng ta thấy được mức độ lan
tỏa của các thực hành nghi lễ cũng như phác họa cơ bản được bức tranh về việc tín
ngưỡng Lê Thái Tổ trong cộng đồng.
22
Đối với các nhân vật khác, có thể thấy mức độ và tần suất nghiên cứu, khảo
sát về tập tục thờ cúng chưa được đầy đủ. Có thể với sự lôi cuốn về thân thế, sự
nghiệp của người đầu lĩnh tạo nên thắng lợi vĩ đại của khởi nghĩa Lam Sơn, sáng lập
vương triều Lê Sơ và đầy dấu ấn huyền thoại ở Thanh Hóa mà việc đẩy mạnh các
nhận thức khoa học liên quan đến Lê Thái Tổ nhận được nhiều ưu ái hơn chăng?.
Một số nghiên cứu tiêu biểu về thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai
như nghiên cứu về Lê Lai được tập trung vào các hoạt động tâm linh, tế lễ và thờ
phụng ở khu vực làng Tép quê hương ông và một số nơi ở Thanh Hóa, sau này là đất
khai cơ lập nghiệp của con cháu ông trong thời Lê Sơ như Hoằng Hóa và Nông Cống.
Với công lao to lớn, mang tính biểu tượng trong khởi nghĩa Lam Sơn, nghiên cứu về
thờ cúng Lê Lai được nhắc đến trong các lễ hội Lam Kinh, lễ hội ở Đền Lê trong mối
liên hệ gắn bó với Lê Lợi một phần trên phương diện đền thờ và lễ hội. Các nhân vật
còn lại thì chỉ dừng lại ở việc khảo tả dấu vết thờ cúng và ghi nhận những tục lệ đời
trước, đến nay vẫn được làng xã, dòng họ và địa phương duy trì.
Trong quá trình điều tra, khảo sát các di tích, lễ hội thờ cúng nhân vật tham
gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa, NCS thấy rằng, trong số 19 nhân vật tham gia
hội thề năm 1416 thì không phải tất cả được phụng thờ mà chỉ ghi nhận được việc
thờ cúng đang được diễn ra tập trung vào các nhân vật như: Lê Lợi, Lê Lai, Lê Văn
An, Lê Văn Linh, Võ Uy, Lê Hiểm, Trịnh Khả, Lê Liễu, Trương Lôi, Trương
Chiến. Riêng hai trường hợp Nguyễn Trãi và Nguyễn Thận thì không có điểm thờ
chính với tư cách thần chủ mà được phối thờ tại một số đền thờ. Các nhân vật khác,
trong danh sách người tham gia hội thề như: Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú, Lê
Nanh, Trịnh Vô, Phạm Lôi, Lê Lý, Đinh Lan thì không ghi nhận được dấu vết các
thực hành tín ngưỡng hiện tồn ở Thanh Hóa. Có thể nói, đối với các nhân vật không
còn dấu vết thờ cúng như đã liệt kê trên ở đây cho thấy tính hướng đạo của chính
quyền cũng như ký ức lịch sử của người dân đối với họ không bằng các nhân vật
còn lại. Một phần do đặc điểm của tính vùng và tính cộng đồng địa phương quy
chiếu nên việc thờ cúng các nhân vật như Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú không
được phổ biến ở Thanh Hóa. Mặt khác, đối với những nhân vật địa phương như Lê
23
Nanh, Trịnh Vô, Phạm Lôi, Lê Lý, Đinh Lan thì vai trò của họ trong toàn bộ tiến
trình phát triển của khởi nghĩa Lam Sơn đang còn ở mức độ vừa phải dù đã tham
gia khởi nghĩa ngay từ giai đoạn đầu tiên nhưng số ít đã trận vọng như Lê Nanh,
Trịnh Vô, số còn lại như các nhân vật Phạm Lôi, Lê Lý, Đinh Lan tuy được tài liệu
chính sử nhắc đến trong một vài sự kiện quan trọng trong thời kỳ khởi nghĩa Lam
Sơn nhưng truyền thuyết và gia phả về các nhân vật này không còn được lưu truyền
tại địa phương. Đây có lẽ là một trong những lý do dẫn đến việc thực hành tín
ngưỡng về các nhân vật này không còn được củng cố, duy trì. Tuy nhiên, vẫn còn
những ngoại lệ như trường hợp Nguyễn Trãi, là một trong số ít người ngoài địa
phương được thờ cúng ở Thanh Hóa. Điều này cũng cho thấy cảm quan lịch sử khá
đặc biệt của người dân đối với nhân vật lịch sử đã trở thành một trong những biểu
tượng của khởi nghĩa Lam Sơn.
Cũng trong quá trình khảo sát, điền dã tại điểm thờ cho thấy, nhiều vị trong
danh sách nhân vật hội thề được thờ ít nhất từ 2 điểm trở lên như Lê Lai, Lê Hiểm,
Võ Uy, Lê Văn An, Lê Văn Linh...Trường hợp được thờ nhiều nhất là Lê Lợi, cả
trên phương diện thờ chính và phối thờ, tính tổng cộng được 9 điểm thờ (chỉ tính
các di tích đã được xếp hạng). Theo thống kê trong Hồ sơ di tích lịch sử kiến trúc
nghệ thuật Lam Kinh [44] thì nơi thờ Lê Lợi ở Thanh Hóa khá nhiều, lên đến 15
điểm thờ (tất nhiên bao gồm cả di tích chưa được xếp hạng), về con số này thì hiện
nay NCS chưa có điều kiện thực tế để kiểm chứng được.
Những thông tin đề cập về việc thờ cúng Lê Lợi đã có nhiều sách sử, thư tịch
chép. Chẳng hạn như sau khi Ông qua đời, chôn cất ở đâu?, thờ cúng như thế nào?
đã được sử ghi chép lại. Các thư tịch này cho biết, việc dựng điện Lam Kinh thực sự
được tiến hành một cách quy mô là kể từ sau khi vua Lê Thái Tổ mất. Đại Việt sử
ký toàn thư chép: “các quan theo hầu về Tây Kinh dựng điện Lam Sơn”, tức là hầu
Lê Thái Tông về Tây Kinh để làm tang lễ cho Lê Thái Tổ. Lê triều Ngọc Phả [64]
thì cho biết: “Năm Thuận Thiên thứ sáu, năm Quý Sửu (1433), ngày 22 tháng 8
nhuận, giờ Mùi, đế băng hà ở Điện Chính Tẩm Đông Kinh, ở ngôi 6 năm, thọ 49
24
tuổi (...) đến ngày 22 tháng 9 thì hỏa táng ở điện Cảnh Phúc, ngày 23 tháng 10 đưa
di cốt về an táng ở Vĩnh Lăng, Lam Sơn...” [64, tr 29-30].
Nơi thờ của Lê Thái Tổ đã được Phan Huy Chú mô tả khá chi tiết. Qua ghi
chép chúng ta biết được quy mô xây dựng Lam Kinh khá to lớn, có các lăng mộ
vua. Vĩnh Lăng là lăng của Lê Thái Tổ. Ông miêu tả về nơi an nghỉ của Lê Thái Tổ
như sau: “Các lăng của nhà Lê đều ở đấy cả. Lăng nào cũng có bia”, kiến trúc điện
“làm 3 ngôi bên nhau, kiểu chữ Công”. Bao quanh Lam Kinh có các hồ nước rộng,
trên có cầu, nền điện cao. Ngoài cửa nghi môn có 2 con chó ngao bằng đá rất thiêng
[81, tr 505]. Từ đó, ta có thể hình dung diện mạo và quy mô của Lam Kinh thực
xứng đáng là nơi an nghỉ ngàn đời của bậc đế vương. Khi hoàng tộc nhà Lê xa giá
về Lam Kinh để tế lễ vua Lê hàng năm, Đại Việt sử ký toàn thư [72] đều chép là
“làm lễ yết lăng miếu”, “tế tổ”, “bái yết sơn lăng”, “làm lễ tấu cáo” hay “bái yết
lăng miếu”. Và thực tế thư tịch cũng cho biết lễ hội Lam Kinh thời nhà Lê thực sự
diễn ra vào “mùa xuân tháng hai âm lịch”, không thấy chép 22 tháng Tám Âm lịch
như truyền ngôn “hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi” như dân gian hiện nay. Có thể
nói, dựa vào những thông tin mà sách sử đã ghi chép thì Lê Lợi là người đầu tiên
trong danh sách những người tham gia hội thề Lũng Nhai được dựng lăng mộ, thờ
trong tôn miếu và có nghi lễ tuân thủ chặt chẽ, mang tính chất cung đình rõ nét.
Theo cuốn Lễ tục, lễ hội truyền thống Xứ Thanh [81], tác giả Hoàng Anh Nhân cho
biết: kể từ sau thế kỷ thứ XVI trở đi, khi Lam Kinh rơi vào hoang phế, bị hủy hoại
thì lễ hội Lam Kinh bị thu hẹp trong đền Cham (ở làng Cham, sát cạnh Lam Kinh).
Đến thời nhà Nguyễn do không thể khôi phục được nữa nên đã cho xây Đền Lê ở
Bố Vệ và lúc này các nghi thức thờ cúng Lê Thái Tổ cũng chuyển hẳn về đây. Ở
Lam Kinh chỉ còn lễ hội Đền Cham của làng Cham và các làng lân cận có mối quan
hệ thờ cúng vua Lê nữa mà thôi [81, tr 512- 513]. Năm 2014, trong luận văn thạc sĩ
Truyền thuyết và lễ hội về Lê Lợi ở Thanh Hóa [84], tác giả Mai Thị Nhung đã liệt
kê 4 lễ hội có liên quan đến tôn vinh Lê Lợi gồm: lễ hội Lam Kinh, lễ hội làng
Xuân Phả, lễ hội Căm Mương và lễ hội Đền Thi. Tuy nhiên, qua thực tế khảo sát
của NCS có thể thấy, chỉ có lễ hội Lam Kinh ở Thọ Xuân và lễ hội Căm Mương ở
25
Bá Thước là có liên quan trực tiếp đến thờ cúng anh hùng Lê Lợi, 2 lễ hội còn lại
chỉ là những nghi thức mang ý nghĩa tôn vinh khởi nghĩa Lam Sơn và triều Lê mà
thôi. Còn trong bài viết: “Văn hóa dân gian các dân tộc vùng Lam Sơn và người anh
hùng dân tộc Lê Lợi” [6, tr 141], có cho biết là nhiều nơi Thanh Hóa, những lễ
tưởng niệm gắn với tục thờ cúng Lê Lợi và các nhân vật khởi nghĩa Lam Sơn đã đi
vào đời sống văn hóa của đồng bào Thái, Mường ở một số địa phương khu vực các
huyện Bá Thước, Lang Chánh, Thường Xuân, Ngọc Lặc. Ở những nơi này người
dân cho rằng, các tục lệ và thờ cúng đó có nguồn gốc từ thời khởi nghĩa Lam Sơn,
với mục đích tôn vinh vua Lê và nghĩa quân trong thời gian nghĩa quân Lam Sơn
hoạt động ở Thanh Hóa. Về nghi thức thờ cúng, bài viết nhận định:
Việc thờ cúng ở những nơi này khá giản dị nhưng cũng rất trang nghiêm.
Ngoài những hương hoa và vật phẩm thông thường như rượu, thịt, đồng
bào còn bày trên cỗ cúng khi thì một đĩa tép, khi thì bát canh rau quì, lúc
thì đĩa gà thui, đĩa măng lam (hoặc không phải giang) tấm chè lam, khi
thì tấm vải, chiếc váy thô…Thái độ trân trọng, thành kính đối với những
vật phẩm dâng lên những người đã khuất đã thành tục lệ và được giải
thích hết sức đơn giản: đó là những món ăn mà nghĩa quân Lam Sơn và
đồng bào dành dụm được nuôi nấng trong những buổi khốn khó, gieo
neo [6, tr 142].
Cũng trong chuyên khảo này, tác giả còn đề cập đến một số tục thờ, kiêng
khem đã đi vào đời sống văn hóa hàng ngày của đồng bào Thái, Mường ở Thanh
Hóa có liên quan mật thiết đến khởi nghĩa Lam Sơn và người anh hùng dân tộc Lê
Lợi như người Mường kiêng ăn thịt ba ba, thịt cuốc, không đốn thân cây xé- một
loại cây cổ thụ vì dân gian quan niệm đây là những “vật thần”, “cây thần” đã có
công che chở cho Lê Lợi [6, tr 142].
Những khảo sát, đánh giá trên của tác giả Vương Anh đã cho thấy tập tục thờ
cúng Lê Lợi không chỉ có trong cộng đồng người Kinh ở các làng xã, địa phương
xứ Thanh mà còn trong tập tục, nghi lễ và đời sống văn hóa của cộng đồng dân tộc
thiểu số ở một số vùng núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa.
26
Trong sách Thanh Hóa chư thần lục [66] chép bách thần xứ Thanh dưới thời
nhà Nguyễn có đề cập đến sự tích và nơi thờ cúng một số nhân vật tham gia hội thề
Lũng Nhai như: Lê Lợi, Lê Văn An, Trịnh Khả, Bùi Quốc Hưng, Võ Uy. Cụ thể
sách chép như sau: Vua Lê Thái Tổ nơi thờ là ở “thôn Dựng Tú, xã Thái Lai thờ”
(nay là xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc) [66, tr 56- 80]. Lê Thận: Sách Vân Am (nay
thuộc huyện Ngọc Lặc) thờ [66, tr 251]. Lê Văn An nơi thờ xã Mục Sơn (nay là thị
trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân) [52, tr 942-949]. Trịnh Khả nơi thờ là thôn Thanh
Điền, huyện Thụy Nguyên. [66, tr 270- 276]. Bùi Quốc Hưng nơi thờ ở “thôn Định
Hòa, huyện Đông Sơn thờ” [66, tr 252- 253]. Võ Uy thờ ở thôn Mai (nay thuộc xã
Định Hòa, huyện Yên Định) [66, tr 81]. Còn nơi thờ của các nhân vật khác thì
không thấy Thanh Hóa chư thần lục đề cập.
Một số công trình địa chí và sách giới thiệu thắng tích Xứ Thanh đã khảo tả
di tích thờ cúng các nhân vật Lê Lợi [15], Lê Lai [16; 17], Trịnh Khả [15], Võ Uy
[15], Lê Văn An [52], Lê Hiểm [18], nhằm làm rõ tiểu sử, quê hương, dòng họ và
tín ngưỡng phục vụ giới thiệu điểm đến du lịch. Chưa phải là các công trình nghiên
cứu chuyên sâu tục thờ cúng dưới góc độ lý thuyết khoa học chuyên ngành.
Từ việc nhìn nhận tổng thể các công trình nghiên cứu về các nhân vật tham
gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa, NCS nhận thấy:
Những công trình ghi chép, nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của các
nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai dưới góc độ lịch sử còn tồn tại khá nhiều: từ
các bộ thư tịch cổ cho đến sử sách ghi chép của các nhà sử học từ thế kỷ XX cho
đến nay, các công trình khoa học, các bài viết… Nhìn chung, các công trình nghiên
cứu của các nhà sử học đều nhìn nhận các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai gắn
liền với giai đoạn lịch sử chống giặc Minh trong thế kỷ XV của dân tộc ta nhằm ghi
nhận công lao, sự đóng góp của họ đối với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc.
Những nghiên cứu về hệ thống di tích, thần tích, truyền thuyết, nghi thức thực hành
thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai còn khá ít ỏi. Chủ yếu là tìm hiểu
nhân vật gắn với dòng họ, quê hương, nơi thờ cúng và các nghi lễ tưởng niệm trong
cộng đồng.
27
Trong tất cả các công trình mà NCS đã tập hợp chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách tổng thể, hệ thống về thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề
Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa. Những nghiên cứu đi trước chưa phản ánh được
toàn diện bản chất, nội dung và quá trình chuyển hóa của tục thờ cúng mà mới chỉ
nhìn nhận như một hiện tượng văn hóa đơn lẻ. Trên thực tế, việc thờ cúng các nhân
vật tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa diễn ra khá phổ biến ở nhiều làng xã,
địa phương trên đất Thanh Hóa và nó đã trở thành sợi dây liên kết tâm thức trong
cộng đồng. Do đó, để nghiên cứu tục thờ cúng này cần có những phương pháp đúng
đắn trên cơ sở lý thuyết khoa học chuyên ngành phù hợp.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Các khái niệm công cụ
- Tín ngưỡng: Theo tác giả Đào Duy Anh, tín ngưỡng là: “lòng ngưỡng mộ,
mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa” [5, tr 283].
Tác giả Ngô Đức Thịnh thì sử dụng khái niệm tín ngưỡng với tư cách như
một hình thức thể hiện niềm tin vào cái linh thiêng của con người, của một cộng
đồng người nào đó ở một trình độ phát triển xã hội cụ thể [119, tr 124].
Xem tín ngưỡng là một bộ phận cấu thành của văn hóa thông qua nghi lễ thờ
cúng, tác giả Nguyễn Chí Bền thì cho rằng: “Tín ngưỡng là một bộ phận cấu thành
của văn hóa thể hiện thông qua nghi lễ thờ cúng, là lòng ngưỡng mộ, thành kính,
với những thế lực có ảnh hưởng trong quan hệ với con người” [24, tr 21].
Trong đề tài luận án, NCS sẽ vận dụng và kế thừa một cách linh hoạt các
quan điểm phát biểu này để nhận thức rõ hơn các khía cạnh khác nhau của thực
hành sinh hoạt văn hóa trong cộng đồng đối với việc tôn vinh và tưởng niệm nhân
vật hội thề Lũng Nhai đang diễn ra trên đất Thanh Hóa.
- Tục thờ: theo sách Văn hóa Việt Nam hỏi và đáp thì tục thờ được định
nghĩa như sau: “tục thờ là thói quen thể hiện lòng thành kính thần thánh, vật thiêng
hoặc linh hồn người chết bằng hình thức nghi lễ, cúng bái đã trở thành lâu đời trong
đời sống nhân dân được mọi người nói chung công nhận và làm theo” [83, tr 83].
28
Còn theo quan điểm của tác giả Hoàng Bá Tường: “Tục thờ là một thành tố
của văn hóa truyền thống. Nó là hiện tượng văn hóa tâm linh phản ánh ước vọng
thiêng liêng của con người trong cuộc sống, đồng thời thể hiện thế ứng xử của con
người với tự nhiên và xã hội, qua đó hình thành nên những giá trị văn hóa” [130, tr
42].
Từ các quan điểm còn khác nhau về tục thờ, NCS cho rằng: tục thờ là một
hiện tượng sinh hoạt văn hóa tâm linh trong đời sống của người dân/cộng đồng, đó
là những hoạt động có ý thức hướng về đối tượng được phụng thờ hoặc các biểu
tượng về những người được tôn thờ, gắn liền với các thực hành nghi lễ được thực
hiện thường xuyên và đã trở thành các tập tục, các sinh hoạt văn hóa mang tính bền
vững trong cộng đồng.
- Nhân vật lịch sử:
Cho đến nay, định nghĩa về “nhân vật lịch sử” vẫn còn chưa thực sự thống
nhất. Nhiều ý kiến cho rằng nhân vật lịch sử phải là những nhân vật chính diện, tức
là con người đó có công trạng gắn liền với một giai đoạn lịch sử cụ thể, được nhìn
nhận tích cực và phân biệt với những nhân vật lịch sử phản diện. Mặc dù tài năng và
hoạt động của những con người được coi là nhân vật lịch sử phản diện đã được lịch
sử đánh giá nhưng trong ý thức cộng đồng họ thường mang ý nghĩa tiêu cực, kìm
hãm sự phát triển của lịch sử. Có thể nói, trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, việc
nhìn nhận và đánh giá về các nhân vật lịch sử cũng đều bị cho phối bởi các quan
điểm chính trị và hoàn cảnh lịch sử- xã hội cụ thể.
Mặc dù còn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về nhân vật lịch sử, nhưng
đặt trong đối tượng nghiên cứu của đề tài, NCS mạnh dạn đưa ra quan điểm của cá
nhân về nhân vật lịch sử như sau: Nhân vật lịch sử là những con người có thật (đích
thực), xuất hiện và tham gia trong các sự kiện lịch sử mà hoạt động cá nhân của họ
có tác động và ảnh hưởng mang ý nghĩa tích cực đến sự phát triển của quốc gia
hoặc địa phương (làng, xã, vùng, miền) trong các thời kỳ lịch sử, được cả nhà nước
và cộng đồng thừa nhận, tôn vinh và ghi nhận công lao đóng góp.
- Tục thờ các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai:
29
Với một thực hành văn hóa có tính chất địa phương và biểu hiện yếu tố
phong tục, tập quán rõ nét gắn với đời sống sinh hoạt văn hóa của nhiều cộng đồng
các dân tộc ở Thanh Hóa liên quan đến việc tôn vinh, tưởng niệm nhân vật hội thề
Lũng Nhai ở địa phương. Từ việc nhận diện các thực hành nghi lễ thông qua các
hình thái văn hóa còn tồn tại, NCS sử dụng thuật ngữ “tục thờ” đối với thực hành
sinh hoạt văn hóa này và cho rằng tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề
Lũng Nhai là một bộ phận trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân dân địa
phương ở Thanh Hóa, nằm trong dòng chảy của tín ngưỡng thờ cúng anh hùng dân
tộc, thể hiện sự tôn vinh của cộng đồng đối với các nhân vật lịch sử có công đóng
góp cho thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, được nảy sinh, tồn tại và phát triển
thông qua các thực hành nghi lễ thờ cúng mang tính ổn định, bền vững.
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu
Để làm rõ vấn đề nghiên cứu, luận án áp dụng một số lý thuyết, quan niệm, quan
điểm tiêu biểu của các học giả trong và ngoài nước để tiếp cận nghiên cứu các hiện
tượng văn hóa xã hội cụ thể, đặc biệt là đối với các hiện tượng tín ngưỡng tôn giáo.
* Lý thuyết cấu trúc- chức năng:
Có thể nói, việc tiếp cận các hiện tượng xã hội như tín ngưỡng, tôn giáo đã
được đẩy mạnh ở phương Tây từ lâu và đã sản sinh ra không ít tên tuổi nổi bật như
Bronislaw Malinowski, Claude Lévi-Strauss, Emile Durkheim, Radcliffe-Brown,
Clifford Geertz, Sigmund Freud và kể cả Herbert Spencer với nhiều lý thuyết thực
chứng để nghiên cứu rõ các hiện tượng này.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu theo trường phái lý thuyết chức
năng, mỗi hiện tượng văn hóa hay xã hội đều được cấu thành bởi những bộ phận
hay yếu tố nhất định, trong đó mỗi bộ phận hay yếu tố đều phải đảm bảo một hoặc
nhiều chức năng.
Trên cơ sở tìm hiểu chức năng của các hiện tượng tín ngưỡng tôn giáo, để trả
lời cho câu hỏi tín ngưỡng tôn giáo phục vụ mục đích gì, đáp ứng nhu cầu như thế
nào đối với xã hội. Lévi-Strauss cho rằng tín ngưỡng tôn giáo là “mơ ước của ý thức
tập thể” [31, tr 125]. Ở một quan niệm khác C.Geertz lại nhìn nhận “tôn giáo như
30
một hệ thống văn hóa” [37, tr 321] mà ở đó các biểu tượng của nó là một trong
những chiều kích quan trọng của tín ngưỡng tôn giáo, cũng tức là chiều kích văn
hóa. Từ quan điểm này ông cũng cho rằng khi nghiên cứu về tôn giáo, tín ngưỡng
thì cần phải nhìn nhận theo những biểu tượng với các chức năng tương ứng, cụ thể,
trong niềm tin tôn giáo nó là “những biểu tượng thiêng có chức năng tổng hợp giá
trị tinh thần đạo đức” [140, tr 311]. Xem xét tín ngưỡng tôn giáo từ khía cạnh chức
năng và giá trị của nó. Theo Malinowski thì các niềm tin và lễ nghi là những bước
khởi đầu sớm nhất của cuộc sống con người. Ông cũng nhấn mạnh đến chức năng
của tín ngưỡng tôn giáo là nhằm phục vụ ai, để làm gì và khẳng định là “chúng
ta không thể định nghĩa cúng tế và tín ngưỡng bằng đối tượng của chúng, nhưng có
lẽ chúng ta có khả năng hiểu được chức năng của việc cúng tế và tín ngưỡng này”
[140, tr.165]. Tín ngưỡng hay “niềm tin vào ma quỷ, thánh thần” [74, tr 210] theo
ông là phạm trù siêu nhiên. Phạm trù này thống lĩnh tất cả các hình thái của tín
ngưỡng tôn giáo thuở sơ khai, được nhấn mạnh bởi những nghi thức mà người ta
thể hiện với chức năng làm giảm nỗi lo sợ của con người khi đối mặt với những bất
trắc trong cuộc sống. Và như vậy, theo lý thuyết của Malinowski thì tín ngưỡng tôn
giáo, kể cả ma thuật đều có chức năng mang lại cho con người niềm tin, lòng can
đảm, hy vọng vào chiến thắng đối với sự sợ hãi. Nó đồng thời còn là lý do đem lại
sự tồn tại của mọi tín ngưỡng tôn giáo.
Trong công trình Tôn giáo như một hệ thống văn hóa, Clifford Geertz đã đề
xuất quan điểm nghiên cứu các hiện tượng tín ngưỡng tôn giáo thông qua biểu
tượng. Ông cho rằng văn hóa là “biểu thị một khuôn mẫu được truyền theo lịch sử
của ý nghĩa hàm chứa trong những biểu tượng” [37, tr 310], ở đây tác giả cho rằng
những biểu tượng thiêng đều “có chức năng tổng hợp giá trị tinh thần đạo đức” [37,
tr 311] để từ đó khuyến cáo khi nghiên cứu về các hiện tượng này thì cần được nhìn
nhận theo những biểu tượng với các chức năng tương ứng. Cụ thể, trong niềm tin
tôn giáo, những biểu tượng thiêng (với những đặc tính bản chất của nó) trong tín
ngưỡng tôn giáo “là những dạng biểu đạt hữu thể của ý niệm, sự trừu tượng từ trải
nghiệm thể hiện trong những dạng thức có thể nhận biết được, những thể thức cụ
31
thể của ý tưởng, thái độ, đánh giá, mong muốn và niềm tin” [37, tr 313]. Mặt khác,
từ chức năng biểu đạt ý niệm tôn giáo thành hữu thể của biểu tượng, Geertz đã nhận
diện ra tính tôn giáo qua yếu tố niềm tin được thấy như “một tâm trạng kính sợ cụ
thể nào đó” [37, tr 321], và niềm tin tôn giáo ấy biểu trưng cho một số chân lý tối
cao siêu việt. Qua đây chúng ta thấy được niềm tin chính là yếu tố có vai trò quan
trọng để tạo nên một thực thể tín ngưỡng tôn giáo. Khi niềm tin thể hiện qua các
biểu tượng và trở thành chân lý thì dù biểu tượng đó được sử dụng như thế nào
trong bất cứ một loại hình thiết chế nghi lễ nào nó vẫn hoàn toàn giữ nguyên ý
nghĩa và giá trị của nó.
Trên cơ sở tiến hóa luận, Herbert Spencer cho rằng thiết chế xã hội nào giúp
xã hội có khả năng thích nghi, tồn tại và phát triển được trong môi trường sống đầy
rủi ro, bất trắc thì thiết chế đó được duy trì và củng cố. Từ quan điểm này thì theo
ông ba thiết chế: Gia đình và dòng tộc; Thiết chế nghi lễ; thiết chế tôn giáo là những
thiết chế mang tính bền vững. Việc ông đặc biệt nhấn mạnh: “Thiết chế nghi
lễ để đáp ứng nhu cầu liên kết xã hội và kiểm soát các quan hệ xã hội ở quy mô lớn
thông qua các thủ tục, biểu tượng, kí hiệu, nghi thức” và “chức năng của nghi lễ
trong việc tạo ra sự gắn kết và phối hợp giữa các hoạt động của các bộ phận cấu
thành xã hội; mối tương quan giữa quyền lực và nghi lễ, mức độ tập trung quyền lực
trong xã hội càng cao thì mức độ bất bình đẳng về nghi lễ càng lớn” [47]. Cũng như
vậy, trong quan điểm tín ngưỡng tôn giáo với tư cách là một thiết chế xã hội,
Spencer cho rằng nó: “có yếu tố cơ bản là tập hợp các cá nhân cùng chia sẻ niềm tin
và tham gia hoạt động nghi lễ đặc thù của tôn giáo; có chức năng củng cố chuẩn
mực giá trị, niềm tin tinh thần để duy trì sự ổn định trật tự xã hội” [47]. Từ quan
niệm này có thể thấy rằng việc thờ cúng các vị thần linh trong nhiều trường hợp
cũng là nhằm để các đối tượng thờ cúng tham gia một cách hữu hiệu vào duy trì sự
ổn định trật tự xã hội và thông qua hệ thống nghi lễ nó không chỉ có chức năng đáp
ứng nhu cầu tâm linh của cá thể mà còn củng cố tính liên kết cộng đồng và thực
hiện chức năng liên kết xã hội.
32
Tóm lại cho dù tiếp cận với tín ngưỡng tôn giáo ở giác độ nào từ phân loại
học hay nghiên cứu dựa vào bản chất hoặc chức năng của tín ngưỡng tôn giáo thì
cuối cùng vẫn cho thấy niềm tin tín ngưỡng tôn giáo, thực hành nghi lễ và sự tồn tại
của các đối tượng thiêng và đức tin của cộng đồng vào đối tượng thiêng vẫn là yếu
tố cốt lõi và quan trọng nhất của mọi hiện tượng tín ngưỡng tôn giáo.
Như vậy, trong quan điểm của các nhà lý thuyết cấu trúc- chức năng, họ
quan tâm đến các hiện tượng tín ngưỡng tôn giáo như một chỉnh thể thống nhất giữa
các bộ phận, thành tố như thiết chế, nghi lễ, biểu tượng, niềm tin và giữa chúng có
mối quan hệ qua lại, tác động, phụ thuộc lẫn nhau, không tách biệt.
Từ lập trường của các nhà lý thuyết cấu trúc- chức năng, áp dụng trong đề tài
luận án, NCS nhận thấy việc thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng
Nhai ở Thanh Hóa là một “hiện tượng văn hóa mang tính tổng thể” với các thành tố
DSVH và hệ thống thờ cúng đã được thực hành thường xuyên, bền vững. Giữa các
thành tố này đảm trách những chức năng khác nhau nhưng có tác động chi phối qua
lại với nhau tạo nên hiện tượng thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng
Nhai ở Thanh Hóa. Vì vậy, luận án tiếp cận tục thờ cúng này vừa với tư cách là một
hiện tượng tín ngưỡng nhưng đồng thời cũng xem xét nó trong một phức hợp tổng
thể các thành tố văn hóa liên quan. Việc áp dụng các lý thuyết này trong đề tài sẽ
giúp NCS có thể nhận thức rõ vai trò, ảnh hưởng của các nhân vật trong đời sống
văn hóa của cộng đồng cũng như thái độ, ứng xử của nhà nước và cộng đồng đối
với tục thờ cúng.
* Tiếp cận các luận điểm về hiện tượng thiêng hóa nhân vật lịch sử
Ở Việt Nam, tín ngưỡng là một hiện tượng lịch sử thuộc lĩnh vực tinh thần
của đời sống xã hội. Nó góp phần phản ánh nhận thức, nguyện vọng của con người
trước thực tại của đời sống, có tác dụng giáo dục đạo đức, phát huy tinh thần đoàn
kết và bảo tồn văn hóa dân tộc. Đã có nhiều công trình tiếp cận tín ngưỡng dưới góc
độ của một hiện tượng văn hóa mang tính tổng thể và chỉ ra quá trình thần
hóa/thánh hóa các nhân vật tín ngưỡng của người Việt xuất phát từ các cơ sở văn
hóa- xã hội được củng cố, xác lập một cách bền vững. Nghiên cứu nổi bật nhất
33
trong chủ đề này là tìm hiểu về quá trình Thánh hóa nhân vật lịch sử Trần Hưng
Đạo của tác giả Phạm Quỳnh Phương [87], [88], [89], [151], [154], [155]. Trong
các công trình đã công bố của mình, thông qua khảo sát truyền thuyết, di tích và lễ
hội, tác giả đã chỉ ra khuynh hướng huyền thoại hóa cuộc đời và chiến công của các
nhân vật lịch sử đã góp phần nảy sinh một hiện tượng tín ngưỡng trong đời sống
văn hóa dân gian người Việt, mà ở đây là tín ngưỡng hóa nhân vật lịch sử Hưng
Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Đó là sự đan cài giữa các yếu tố lịch sử và dân gian
trong cùng một hiện tượng tín ngưỡng.
Tác giả Phạm Quỳnh Phương cho rằng, từ một nhân vật lịch sử, Trần Hưng
Đạo trở thành một vị Thánh là do hiện tượng văn hóa này đáp ứng được cả ba nhu
cầu: nhu cầu của những người lãnh đạo quốc gia ở nhiều thời đại (cần một biểu
tượng đề cao tinh thần yêu nước và truyền thống đánh giặc nhằm củng cố sức mạnh
cộng đồng trước mọi biến cố xã hội); nhu cầu của tầng lớp trí thức (cần một biểu
tượng về “địa linh nhân kiệt”, một anh hùng lịch sử văn hóa và tấm gương để giáo
dục truyền thống cho các thế hệ nối tiếp); nhu cầu của quần chúng bình dân (cần
biểu tượng một sức mạnh siêu phàm trợ giúp sức khỏe, trừ mọi tà ma bệnh tật) [88].
Tác giả Ngô Đức Thịnh cũng có quan điểm tương đồng khi lý giải mối quan hệ giữa
triều đình (thế lực phía trên) với dân chúng (thế lực phía dưới) trong các điều kiện
lịch sử- xã hội cụ thể đã dẫn đến quá trình Thánh hóa Đức Thánh Trần như sau:
Hiện tượng sùng bái người anh hùng với việc lập sinh từ khi còn sống,
lập đền thờ sau khi mất là những dạng thức sơ khai của tín ngưỡng. Sau
đó, việc các vương triều cầu khấn sự trợ giúp khi đất nước có họa xâm
lăng, nhân dân kêu cầu khi ốm đau bệnh tật đã dần dần làm cho tín
ngưỡng mang thêm những màu sắc mới. Thái độ cởi mở đối với tín
ngưỡng dân gian của Đạo giáo của các quý tộc vương hầu, kể cả chính
sách của một số vương triều, nhất là sự phát triển nhu cầu tâm linh của
dân chúng trong điều kiện xã hội biến động và ý chí độc lập dân tộc được
đề cao, đã hình thành khuynh hướng dần xác lập một tín ngưỡng hoàn
chỉnh hơn [119, tr 181].
34
Ở đây những hồi ức về lịch sử, đậm màu sắc dân gian được dân chúng bảo
tồn, tiềm ẩn trong cõi sâu thẳm của tâm linh, và được truyền tụng từ đời này sang
đời khác với một vòng hào quang thần thánh. Trong dòng tâm thức sùng kính đến
mức thần hóa những người có công với nước với làng. Cùng với đó là ý thức về
lòng yêu nước và tự tôn dân tộc đã trở thành một đặc trưng sâu đậm của tâm thức
dân gian người Việt và đó chính là lý do chủ yếu của việc hình thành và tồn tại tín
ngưỡng Đức Thánh Trần: “dư âm hào hùng của cuộc kháng chiến chống quân xâm
lược Nguyên Mông và kỳ tích của vị Tiết chế thống lĩnh quân đội Trần Hưng Đạo
đã tạo ra một bối cảnh lịch sử - văn hóa thuận lợi cho khuynh hướng tâm linh muốn
dựng một tín ngưỡng mới thuộc dòng đạo nội, gắn bó chặt chẽ với ý chí độc lập tự
cường của dân tộc” [154].
Từ sự giải mã hiện tượng tín ngưỡng Đức Thánh Trần quy chiếu với việc thờ
cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa, NCS nhận thấy:
đây là tục thờ cúng có từ lâu đời, với đầy đủ loại hình DSVH và các thực hành nghi
lễ để tạo nên một hệ thống thờ cúng được vận hành thường xuyên, liên tục. Từ đó
định hình nên một không gian văn hóa tín ngưỡng đặc sắc, phân bố tập trung trên
các khu vực đã từng là địa bàn hoạt động của khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa
cũng như trên quê hương các nhân vật. Thời gian văn hóa của tín ngưỡng phụng thờ
kéo dài qua nhiều thời kỳ, giai đoạn lịch sử, ngay từ giữa thế kỷ XV, với việc phong
cấp, ban thưởng khi nhân vật lịch sử còn sống cho đến việc lập đền thờ, dựng bia,
cấp tự điền và cho phép cộng đồng thờ cúng sau khi chết dưới các triều đại phong
kiến. Trải qua những biến động, thăng trầm của lịch sử, tục thờ luôn vận động, biến
đổi, tác động qua lại với các hình thức tín ngưỡng dân gian khác nhưng ý thức tôn
vinh, thờ cúng nhân vật lịch sử là chủ yếu. Tục thờ cúng này là kết quả của quá
trình thiêng hóa các nhân vật lịch sử cùng những chính sách của các vương triều Lê
Sơ, Lê Trung Hưng, Nguyễn đối với những anh hùng dân tộc, đặc biệt là chiến công
của các nhân vật trong khởi nghĩa Lam Sơn. Bản thân các nhân vật lại được cộng
đồng ngợi ca về tài năng, khí phách, đức độ, tấm gương trung hiếu và lòng tín
35
nghĩa. Đó chính là những điều kiện lịch văn –xã hội và văn hóa góp phần nảy sinh
và ra đời của tục thờ cúng này.
Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo và vận dụng thêm một số lý thuyết khác
nhằm làm sáng tỏ các nội dung có liên quan đến đề tài luận án như lý thuyết nghiên
cứu về thể loại truyền thuyết trong các công trình nghiên cứu của tác giả Trần Thị
An [2] và những căn cứ thể loại để phân tích truyền thuyết- chuỗi, truyền thuyết có
tính chất dã sử trong nhóm truyền thuyết Lam Sơn đang được lưu hành tại địa
phương có nội dung liên quan đến các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai năm
1416. Ở đây, “bằng các truyền thuyết, người kể chuyện muốn kết nối thiên nhiên
với các nhân vật, sự kiện lịch sử và thông qua đó để thể hiện nhu cầu tinh thần về sự
tôn vinh lịch sử, nhắc nhở thế hệ sau niềm tự hào về truyền thống dân tộc” [2, tr
54]. Đồng thời, các truyền thuyết được gắn chặt với hệ thống thực hành nghi lễ các
nhân vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa cho chúng ta thấy được tính lịch sử đậm
đặc và tính cộng đồng địa phương trong diễn xướng truyền thuyết lịch sử. Đây cũng
là một bằng chứng lý giải tại sao một số nhân vật ngoài địa phương Thanh Hóa
trong danh sách những người tham gia hội thề như Nguyễn Trãi, Bùi Quốc Hưng,
Lưu Nhân Chú lại không được thiêng hóa, thánh hóa cao độ, không được thờ như
những vị nhân thần chính tại các di tích mà mới chỉ có số ít người được phối tự như
trường hợp của công thần Nguyễn Trãi.
Như vậy, nền tảng lý luận mà chúng tôi áp dụng để làm rõ vấn đề nghiên cứu
trong luận án là lý thuyết cấu trúc - chức năng của các học giả nước ngoài và các
luận điểm về thiêng hóa nhân vật lịch sử trở thành nhân vật được phụng thờ; lý
thuyết nghiên cứu về thể loại truyền thuyết và mối quan hệ của nó đối với sự lan tỏa
các thực hành tín ngưỡng; các tiền đề văn hóa- xã hội để nảy sinh và định hình tín
ngưỡng thờ cúng các nhân vật lịch sử đã được các nhà nghiên cứu trong nước tổng
kết, thực chứng. Chúng tôi coi đây là con đường và cách tiếp cận phù hợp để tìm
hiểu và nhận thức đúng đắn về tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề
Lũng Nhai ở Thanh Hóa.
36
1.3. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
Ở Thanh Hóa, các dấu tích của khởi nghĩa Lam Sơn tập trung hầu hết ở
nhiều địa bàn trong tỉnh, trong đó phổ biến và đậm đặc hơn cả là ở khu vực vùng
núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa và xung quanh vùng đất Lam Sơn quê hương Lê Thái
Tổ. Bởi đây vốn là những nơi in dấu hoạt động trong giai đoạn đầu, thời kỳ cầm cự,
nếm mật nằm gai của nghĩa quân Lam Sơn ở Thanh Hóa. Theo các tài liệu sử học
cho biết, trong 10 năm khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược thì có đến gần hai
phần ba thời gian nghĩa quân Lam Sơn hoạt động ở khu vực vùng rừng núi phía Tây
tỉnh Thanh Hóa và khu vực quanh Lam Sơn ngày nay. Điều đó cho thấy các dấu vết
vật chất của cuộc khởi nghĩa này có mức độ tập trung cao chủ yếu ở các địa bàn
từng diễn ra các trận đánh, lui binh, cầm cự, tiến công của nghĩa quân Lam Sơn trên
đất Thanh Hóa.
Trên cơ sở ghi nhận các thực hành nghi lễ liên quan đến tưởng niệm, tôn
vinh và phụng thờ các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở các khu vực,
vùng địa bàn ảnh hưởng của khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa hiện nay. NCS đã
nghiên cứu tập trung gồm 11 huyện: Thọ Xuân, Ngọc Lặc, Thường Xuân, Lang
Chánh, Bá Thước, Vĩnh Lộc, Đông Sơn, Hoằng Hóa, Tp Thanh Hóa, Nông Cống,
Tĩnh Gia. Đây vừa là những địa bàn liên quan trực tiếp đến các sự kiện của khởi
nghĩa Lam Sơn trên đất Thanh Hóa và một số nơi vốn được xem là quê hương,
dòng họ của nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai.
Vùng lõi của địa bàn nghiên cứu được xác định là khu vực nay thuộc về đất
các huyện Ngọc Lặc, Lang Chánh, Bá Thước, Thường Xuân và Thọ Xuân. Với tâm
điểm là khu vực Lam Sơn, nơi có di tích Lam Kinh nổi tiếng. Đây cũng là quê
hương của vua Lê Thái Tổ và nhiều nhân vật khác trong danh sách những người
tham gia hội thề Lũng Nhai như Nguyễn Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh... Trên địa
bàn các khu vực này, có thể nhận thấy một hệ thống DSVH có liên quan đến các
nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai như truyền thuyết, huyền thoại, lễ hội,
nghi lễ, phong tục, tập quán, di tích gắn liền với chủ đề khởi nghĩa Lam Sơn, với
anh hùng dân tộc Lê Lợi và các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai. Đó là các dấu
37
vết thờ cúng và nghi lễ trong cộng đồng về các sự kiện, nhân vật của khởi nghĩa
Lam Sơn nói chung, các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai nói riêng trải dài trên
hầu hết các huyện vùng núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa như Ngọc Lặc, Lang Chánh,
Bá Thước, Thường Xuân. Tác giả Vương Anh, khi nghiên cứu về sức lan tỏa và sự
ảnh hưởng của khởi nghĩa Lam Sơn đến đời sống, tập quán của đồng bào các dân
tộc Thái, Mường khu vực miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa đã cho rằng, toàn bộ
các huyện Thọ Xuân, Thường Xuân, Ngọc Lặc, Lang Chánh, Bá Thước xuống các
khu vực đồng bằng và duyên hải ở một số nơi của tỉnh Thanh Hóa cho thấy sự đậm
đà các dấu vết truyền thuyết và di tích có chủ đề tôn vinh nhân vật và sự kiện khởi
nghĩa Lam Sơn, trong đó có các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai và những
chuyện kể dân gian này đã tạo thành một “vùng truyền thuyết Lam Sơn, phổ biến
không chỉ ở người Kinh mà cả ở người Mường” [6, tr 9]. Các huyện như Bá Thước,
Lang Chánh, Thường Xuân, Ngọc Lặc, vốn được xem là địa bàn gắn bó chặt chẽ
với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong giai đoạn đầu tiên. Sự kiện hội thề Lũng Nhai
đã được diễn ra ở làng Mé, xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân và ngày nay ở đây
đã phục dựng lại di tích kỷ niệm sự kiện hội thề Lũng Nhai để tưởng nhớ sự kiện Lê
Lợi cùng 18 nhân vật cùng đồng tâm thề diệt giặc cứu nước. Khu vực huyện Ngọc
Lặc là quê hương công thần Lê Lai, người có công đổi áo bào cứu chúa trong sự
kiện 1419 đã trở thành biểu tượng bất tử của tinh thần trung nghĩa. Trên quê hương
Lê Lai có 2 di tích nổi tiếng là đền Tép thờ Trung Túc Vương và Đền Lai thờ vua
Lê Thái Tổ ở xã Minh Sơn, huyện Ngọc Lặc. Ngược lên các huyện Bá Thước, Lang
Chánh thì các dấu vết thờ cúng nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai ở đây chủ yếu
gắn với lễ giỗ vua Lê Thái Tổ như đền thờ Lê Lợi ở bản Năng Cát, xã Trí Nang; đền
Tiên Púa (còn gọi là Đền Vua) ở xã Giao Thiện (huyện Lang Chánh). Và đặc biệt là
lễ hội Căm Mương được tổ chức nhằm vào dịp 22 tháng 8 hằng năm của đồng bào
Thái Mường Ký khu vực các huyện Văn Nho và Kỳ Tân của huyện Bá Thước. Có
thể nói, những sinh hoạt tín ngưỡng thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng
Nhai ở đây chủ yếu gắn với đời sống của đồng bào các dân tộc Thái, Mường.
38
Từ tâm điểm Lam Sơn, địa bàn thờ cúng và tưởng niệm các nhân vật lịch sử
tham gia hội thề Lũng Nhai còn lan tỏa tới một số khu vực trung du, đồng bằng và
duyên hải ở Thanh Hóa. Nằm trên triền sông Mã, xã Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh
(nay là xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc) vốn là quê hương của công thần Trịnh Khả,
ngày nay vẫn còn di tích thờ ông tại địa phương. Đây là khu vực cận kề thành Tây
Đô trong khởi nghĩa Lam Sơn và về đường chim bay cũng gần với đại bản doanh
của Lê Lợi ở Lam Sơn.
Một số khu vực đồng bằng của tỉnh như Đông Sơn, Nông Cống, Tp Thanh
Hóa cũng có nhiều di tích quan trọng phụng thờ các nhân vật lịch sử tham gia hội
thề Lũng Nhai điển hình như Thái miếu nhà Hậu Lê; di tích phụng thờ Lê Lợi và
các quận công họ Đàm Lê (dòng chính vua Lê Thái Tổ đổi sang họ Đàm) ở Tp
Thanh Hóa. Đây vốn là những vùng đất được phong cấp cho các công thần, nghĩa
sỹ của triều Lê sơ trước đây và sau này nơi đây cũng là quê hương của các hoàng
hậu triều Lê Trung Hưng. Các sự kiện như việc di dời điện Hoằng Đức ở Thăng
Long về làng Kiều Đại (nay là phường Bố Vệ) thuộc Tp Thanh Hóa để làm nơi thờ
cúng các vua và hoàng hậu triều Lê sau khi Lam Kinh bị hủy hoại đã được các tài
liệu sách sử nhắc tới, càng thêm chứng tỏ vị thế của vùng đất “ngoại thích” của
vương triều đối với các nhân vật tiền triều, bao gồm Thái Tổ Cao Hoàng đế Lê Lợi.
Ở huyện Nông Cống, nơi tập trung rất nhiều di tích thờ cúng nhân vật lịch sử
khởi nghĩa Lam Sơn nói chung như Đinh Liệt, Đỗ Bí thì còn lại các di tích phụng
thờ nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai tiêu biểu là Võ Uy và Lê Hiểm.
Thực tế, đây là đất phân phong của triều Lê dành cho đội ngũ công thần sau các đợt
phong hạng, ban thưởng của vua Lê Thái Tổ sau khi lên ngôi. Các tài liệu như Lam
Sơn thực lục cho biết, Lê Hiểm và Võ Uy vốn là người gốc Mường, Lê Hiểm gốc
quê ở thôn Ngọc Châu, hương Lam Sơn, nay thuộc xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc,
tỉnh Thanh Hóa. Còn Võ Uy là người thôn Thụ Mệnh, hương Lam Sơn, là công
thần nghĩa sỹ trận vong trong khởi nghĩa Lam Sơn. Sau này con cháu ông rất được
Lê Thánh Tông trọng dụng và phong cho thực ấp rất lớn ở làng Ngọc Uyên, xã Tân
Phúc, huyện Nông Cống. Sang đến thời Lê Trung Hưng, gia tộc Võ Uy đã trở thành
39
một dòng họ có thế lực không chỉ ở khu vực đất Nông Cống mà trên bình diện toàn
tỉnh Thanh Hóa với các trang sở kéo dài đến Yên Định, Vĩnh Lộc, Hoằng Hóa, Nga
Sơn, Hậu Lộc và nhiều nơi khác trong tỉnh. Với hệ thống đền thờ, lăng mộ, từ
đường, đình làng có liên quan đến thờ cúng các nhân vật Võ Uy, Lê Hiểm tập trung
ở xã Tân Phúc, huyện Nông Cống. Có thể nói đây là một trong các khu vực hành
chính có mật độ di tích thờ cúng nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai vào dạng
nhiều nhất trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Hai huyện Hoằng Hóa và Nông Cống cũng là những địa phương còn in lại
dấu tích thờ cúng công thần Lê Lai ở nhiều xã trên địa bàn như Hoằng Hải, Hoằng
Tiến (Hoằng Hóa), Trung Ý (Nông Cống), thờ nhân vật hội thề Lũng Nhai Lê Liễu
ở xã Hoằng Sơn (Hoằng Hóa). Đây vốn là đất dựng nghiệp của người cháu nội khá
nổi tiếng của Lê Lai, về sau đã trở thành công thần của các triều vua Lê sơ đó là Lê
Niệm. Dưới thời Lê Thánh Tông, dòng họ Lê Lai ở xã Hoằng Hải đã trở thành một
dòng họ quyền thế, có ảnh hưởng lớn đến vùng đất duyên hải phía Đông Bắc của
tỉnh Thanh Hóa. Công thần Lê Liễu thì quê gốc cũng được xác định không phải ở
Hoằng Hóa mà là người quê nay thuộc xã Xuân Thắng, huyện Thọ Xuân, ông cũng
hy sinh từ sớm trong thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn, mặc dù có tên trong danh sách
tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 nhưng các tài liệu ghi chép về hoạt động
trong khởi nghĩa Lam Sơn còn lại khá ít. Căn cứ vào gia phả dòng họ lập vào năm
1883 thời vua Tự Đức lưu giữ tại nhà thờ ở làng Bản Định, xã Hoằng Sơn, huyện
Hoằng Hóa cho thấy, ít nhất đến thời nhà Nguyễn, con cháu Lê Liễu đã có mặt và
lập cư ở vùng đất Hoằng Hóa ngày nay.
Nằm về phía Nam của tỉnh, thôn Quan Nội, xã Hải Hòa (Tĩnh Gia) là quê
hương hậu duệ con cháu 2 vị khai quốc công thần triều Lê sơ, 2 vị Lũng Nhai công
thần Lê Trương Lôi, Lê Trương Chiến. Cũng như Võ Uy, cha con Trương Lôi,
Trương Chiến vốn là người thôn Thụ Mệnh, lộ Khả Lam (nay thuộc xã Xuân Thiên,
huyện Thọ Xuân). Tham gia khởi nghĩa cùng Lê Lợi từ rất sớm, tài liệu chính sử
mô tả Trương Lôi thân cận với vua như người nhà, được giao các việc cày cấy, sản
xuất trong gia tộc dòng họ Lê Lợi. Sau khởi nghĩa Lam Sơn, con cháu 2 ông được
40
nhà Lê cấp lộc điền, cho khẩn hoang và sinh cơ tại xã Hải Hòa, huyện Tĩnh Gia
ngày nay.
Như vậy, có thể nói, những dấu vết thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia
hội thề Lũng Nhai phân bố trải đều ở các địa phương trong toàn tỉnh Thanh Hóa, từ
vùng núi phía Tây của tỉnh xuống đến khu vực đồng bằng và một số huyện duyên
hải như Hoằng Hóa, Tĩnh Gia. Các dấu tích thờ cúng này có mức độ tập trung nhiều
ở vùng đất Lam Sơn, đại bản doanh hoạt động của quân Lam Sơn trước đây. Về quê
quán các nhân vật, mặc dù các tài liệu đã khẳng định gốc gác thực tế các nhân vật
căn cứ vào tầm tra và san định các thông tin sử liệu. Tuy nhiên, trong đề tài luận án,
NCS chủ yếu tập trung vào nghiên cứu ở các địa bàn đã ghi nhận có các thực hành
tín ngưỡng liên quan đến các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa, đó
là phạm vi 11 huyện đã được trình bày như trên.
Tiểu kết
Với mục đích xác lập nền tảng lý thuyết làm cơ sở nghiên cứu, trong chương
1, NCS đã tập trung vào các vấn đề tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và
khái quát về địa bàn nghiên cứu.
Trên cơ sở hệ thống hóa tư liệu, nhìn nhận và đánh giá tổng thể các công
trình đã công bố, ghi chép về các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai từ
góc độ sử học và văn hóa, NCS nhận thấy rằng: mặc dù đã có nhiều sách vở bàn về
hội thề Lũng Nhai và nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai dưới nhiều góc
độ, song bàn về tín ngưỡng, thờ cúng các nhân vật tham dự hội thề lịch sử này thì
hoàn toàn mới mẻ. Những nghiên cứu đi trước chưa phản ánh được một cách hệ
thống và toàn diện về tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai
ở Thanh Hóa, đặc biệt là diễn biến của tục thờ cúng này trên đất Thanh Hóa, vốn là
nơi khởi phát cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cũng như là nơi đã diễn ra sự kiện hội thề
Lũng Nhai trong lịch sử. Những điều này đã gợi mở cho NCS lựa chọn và xác định
những vấn đề thuộc nội dung luận án mà NCS cần và sẽ tập trung giải quyết, từ đó
có thể đóng góp thêm những thông tin có giá trị về mặt nhận thức khoa học và thực
tiễn.
41
Luận án làm rõ các khái niệm về tín ngưỡng, tục thờ, nhân vật lịch sử, tục
thờ các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai. Trong đó xác định tục thờ
cúng này là một bộ phận trong đời sống văn hóa của cộng đồng nhân dân địa
phương, đã được nảy sinh, tồn tại và phát triển qua các giai đoạn lịch sử với nội
dung chủ yếu là thể hiện sự tôn vinh các nhân vật lịch sử của khởi nghĩa Lam Sơn
nói chung, nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai nói riêng.
Dựa trên lập trường của các nhà lý thuyết cấu trúc- chức năng, áp dụng trong
đề tài luận án, luận án tiếp cận tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề
Lũng Nhai ở Thanh Hóa như một “hiện tượng văn hóa mang tính tổng thể” với các
thành tố DSVH và hệ thống thờ cúng đã được thực hành thường xuyên, bền vững.
Giữa các thành tố như thiết chế, nghi lễ, tập tục đảm trách những chức năng khác
nhau nhưng có tác động chi phối qua lại với nhau tạo nên hiện tượng thờ cúng các
nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa. Đồng thời từ sự tiếp cận
các luận điểm thiêng hóa nhân vật lịch sử của các nhà nghiên cứu trong nước, giúp
NCS nhận thức rõ vai trò, ảnh hưởng của các nhân vật trong đời sống văn hóa của
cộng đồng cũng như thái độ, ứng xử của nhà nước và cộng đồng đối với tục thờ
cúng.
Ở xứ Thanh, việc tôn vinh và phụng thờ các nhân vật lịch sử tham gia hội thề
Lũng Nhai đã trở thành truyền thống văn hóa và đã đi vào đời sống tín ngưỡng của
người dân từ lâu đời. Sau hơn 600 năm đã trôi qua, những âm hưởng hào hùng, bi
tráng của khởi nghĩa Lam Sơn gắn với những nhân vật lịch sử tham gia hội thề
Lũng Nhai năm 1416 vẫn còn đọng lại trong ký ức, tình cảm của cộng đồng nhân
dân địa phương ở xứ Thanh. Và đã để lại cả một hệ thống các di tích, lễ hội, nghi lễ,
diễn xướng và phong tục tập quán phong phú, nhiều loại hình có chủ đề liên quan
đến sự tôn vinh các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai. Do đó, NCS tìm hiểu về
các khu vực đã từng là vùng địa bàn hoạt động của khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh
Hóa và quê hương, dòng họ của các nhân vật lịch sử này để làm rõ cơ sở hình thành
và đặc điểm của sinh hoạt tín ngưỡng gắn với phụng thờ các nhân vật lịch sử tham
gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa.
42
Chương 2
CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ THAM GIA HỘI THỀ LŨNG NHAI NĂM 1416
2.1. Chân dung các nhân vật qua thư tịch
Từ các nguồn sử liệu, chúng ta có thể thấy rằng các nhân vật tham gia hội thề
Lũng Nhai là những nhân vật lịch sử có thực và là những người anh hùng chống
giặc Minh trong thế kỷ thứ XV. Các nhân vật này tham gia khởi nghĩa Lam Sơn
cùng với Lê Lợi từ buổi đầu trong sự kiện hội thề Lũng Nhai năm 1416 đã được các
sách sử chép lại. Các vị đều có tên tuổi, lai lịch rõ ràng, thậm chí ngày đến Lam
Sơn, ngày tham gia hội thề, thứ tự trong cuộc lễ thề, những chiến công và ngày mất
cũng đều được đề cập khá cụ thể. Xét về quê quán, trong 19 nhân vật tham gia hội
thề thì có đến 16 người chắc chắn ở Thanh Hóa, chỉ có 3 người từ nơi khác đến tụ
nghĩa, đó là Nguyễn Trãi, Bùi Quốc Hưng và Lưu Nhân Chú [144, tr 267].
Sau khởi nghĩa Lam Sơn, một số nhân vật thậm chí đã trở thành trụ cột của
triều đình, tham gia hoạt động chính sự trải dài qua các đời vua Lê Sơ như Lê Văn
An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Nguyễn Thận, Nguyễn Trãi, Bùi Quốc Hưng, Lưu
Nhân Chú…Xuyên suốt qua hơn 10 năm “nếm mật nằm gai” cùng với Lê Lợi dựng
cờ khởi nghĩa, các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai đã được triều đình Lê Sơ
phong hạng, ban thưởng, hầu hết đều có tên trong số những người được ban biểu
ngạch công thần vào năm Thuận Thiên thứ 2 (1429) và thậm chí việc thi hành
“chính sách đối với người có công” đối với các nhân vật Khởi nghĩa Lam Sơn nói
chung, các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai nói riêng còn được tiến hành làm
nhiều đợt. Chính sử ghi nhận có đến 3 đợt phong hạng, ban thưởng lần lượt vào
tháng 2/1428, tháng 3/1428 và tháng 5/1429. Trong đợt 1 (tháng 2/1428) còn nói rõ
là “phong chức cho các quân nhân trong đội quân thiết đột vì có công siêng năng,
khó nhọc trong những ngày ở Lũng Nhai” [142, tr 234]. Những nhân vật hy sinh
trước khi khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi như Lê Lai, Lê Liễu, Lê Nanh, Đinh
Lan, Võ Uy hoặc các trường hợp oan sai vì bị hãm hại như Nguyễn Trãi, Lưu Nhân
Chú, Trịnh Khả ...thì đều được các vua sau của triều Lê Sơ sửa sai, truy tặng, trả lại
43
điền sản hoặc lục dụng con cháu “để biểu dương người có công lao cũ” [142, tr
234].
Có thể nói, trong hầu hết sách sử thì Đại Việt Sử ký toàn thư, Đại Việt thông
sử, Lam Sơn thực lục và Lịch triều hiến chương loại chí được coi là những tài liệu
chủ yếu ghi chép cụ thể về khởi nghĩa Lam Sơn và những người trong danh sách
các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai. Các sách này mô tả tương đối cụ thể về
chân dung lịch sử các nhân vật hội thề Lũng Nhai. Ở đó, tên tuổi, công trạng, tài
năng và đức độ của từng nhân vật được tái hiện đầy đủ, chân thực. Hầu hết các nhân
vật này đã trở thành những người được lịch sử và nhân dân thừa nhận.
2.1.1. Về Bình Định Vương Lê Lợi
So với các nhân vật trong danh sách tham gia hội thề Lũng Nhai, chân dung
Lê Lợi được đề cập hết sức cụ thể. Phải nói rằng, không một nhân vật nào trong
cuộc lễ thề ở Lũng Nhai được lịch sử ưu ái, ghi chép nhiều như ông. Khách quan có
thể thấy, do vị trí chủ soái, thủ lĩnh của cuộc khởi nghĩa, chủ trì tổ chức hội thề và
các hoạt động của ông đều gắn liền với diễn tiến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Do vậy,
mọi thông tin về ông đều được ghi chép tương đối rõ ràng.
Các sách Đại Việt sử ký toàn thư, Lam Sơn thực lục đều đề cập rõ xuất thân,
gia tộc của Lê Lợi: “Cụ cố ba đời của vua Lê húy tên là Hối…người thôn Như Áng,
hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hóa” [71, tr, 285, 287, 288].
“Một hôm, Lê Hối đi chơi, thấy có đàn chim cứ bay lượn lòng vòng trên một khu
đất dưới chân núi Lam Sơn, trông tựa như một đám người đang tụ hội, liền nghĩ chỗ
đất ấy tất phải là đất lành, bèn dời nhà đến đấy mà ở hẳn, rồi khai phá ruộng vườn,
tự chăm lo cày cấy, được ba năm thì thành sản nghiệp. Từ đấy, đời đời là hùng
trưởng cả một phương” [71, tr, 285, 287, 288]. Đến ông nội là Lê Đinh có được 2
con trai là Lê Tòng và Lê Khoáng. Sau này Lê Khoáng lấy bà Trịnh Thị Ngọc
Thương, người làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương sinh ra được 3 người con là Lê
Học, Lê Trừ và Lê Lợi. Tác giả Lê Quý Đôn cho biết: “Vua sinh giờ Tý ngày 6
tháng 8 năm Ất Sửu (1385) tại làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương. Nguyên trước xứ
Du Sơn, thôn Như Áng hậu thuộc làng này” [142, tr 35-35]. Đại Việt sử ký toàn thư
44
mô tả về dáng vẻ ông như sau: “Vua sinh ra thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc
tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có một nốt ruồi, tiếng nói
như chuông, dáng đi tựa rồng, nhịp bước tựa hổ, kẻ thức giả biết vua là bậc phi
thường” [71, tr 239]. Trong các sách Lam Sơn thực lục, Đại Việt thông sử cũng mô
tả về ông như vậy.
Xuất thân trong một gia đình thuộc tầng lớp địa chủ là một tầng lớp đang
phát triển và đang có vai trò tích cực lúc bấy giờ, lại là một người yêu nước và
cương trực, nên Lê Lợi rất đau lòng trước cảnh nước mất, nhân dân lầm tham cơ
cực. Từ lâu ông đã nuôi ý chí diệt giặc cứu nước. Lê Lợi từng thổ lộ lòng ham muốn
tột bực của ông qua ý chí quyết tâm quyét sạch giặc Minh xâm lược khỏi bờ cõi,
dành lại độc lập, tự do cho dân tộc, những phát biểu này đã được lịch sử ghi lại.
Chính vì vậy ông không ngừng dùi mài kinh sử, nuôi chí lớn chờ ngày đứng lên
đánh giặc cứu nước. Lam Sơn thực lục nhận định về ý chí, cốt cách ông trong giai
đoạn này: “tuy gặp đời rối loạn, mà chí giữ càng bền; lẩn giấu ở núi rừng làm nghề
cày cấy; tự mình vui với Kinh, Sử, nhất là càng chuyên tâm về sách Thao Lược; hậu
đãi các tân khách; chiêu nạp kẻ trốn, kẻ làm phản; ngầm nuôi các kẻ mưu trí; bỏ
của, phát thóc để giúp cho kẻ côi cút, nghèo nàn; hậu lễ, nhún lời, để thu bọn anh
hùng hào kiệt, đều được lòng vui vẻ của họ” [85, tr 212-213]. Tất cả những việc làm
này của ông là nhằm hướng đến một mục tiêu cao cả và duy nhất, là quyết tâm khởi
nghĩa chống quân Minh, đúng như lời ông tự đánh giá: “ta cất công đánh giặc,
không phải là có lòng ham muốn phú quý, mà chính vì muốn để ngàn năm về sau,
người đời biết ta không chịu làm tôi tớ cho bọn giặc tàn ngược” [71, tr, 240].
Kể từ đó, với địa bàn trọng điểm Lam Sơn, Lê Lợi đã trở thành người dẫn dắt
cuộc khởi nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của ông, các anh hùng hào kiệt từ bốn phương bí
mật tìm về Lam Sơn tụ nghĩa, sát cánh cùng Lê Lợi để tập hợp nhân dân đồng lòng
cứu nước.
Đầu năm Bính Thân (1416), dưới sự tổ chức của Lê Lợi, 18 đồng chí thân tín
cùng ông đã làm lễ tuyên thệ chống giặc Minh ở Lam Sơn, sách sử đã gọi sự kiện
này là hội thề Lũng Nhai lịch sử.
45
Từ khi cuộc kháng chiến chính thức bùng nổ vào năm Mậu Tuất (1418) cho
đến ngày thắng lợi hoàn toàn (1427), lên ngôi hoàng đế, lập ra triều đại Lê Sơ, ông
đã cùng với nghĩa quân của mình trải qua hàng trăm trận chiến lớn nhỏ mà mỗi trận
đều là những thử thách sống còn, đặc biệt là trong giai đoạn nghĩa quân đang còn ở
thế trận phòng thủ giai đoạn 1416- 1419. Thời gian này được sách sử chép là có đến
3 lần phải lui binh về vùng rừng núi Chí Linh khi quân Minh vây ráp, chặn hết mọi
ngả đường, đó là lúc: “lương thực ít, tuyệt đường đi về Chí Linh, Mường
Cốc…quân lính chịu khổ, đói rét vất vả hàng trăm ngày liền, đào củ nâu ăn cầm hơi,
tìm mật ong làm nước uống, người ngựa đều đói khốn” [85, tr 241]. Đã có lúc
tưởng chừng sự thấy bại là không thể tránh khỏi, ông phải cùng với nghĩa quân ăn
măng, cây, củ rừng để duy trì sự sống và cầm cự với giặc. Cũng chính trong giai
đoạn khó khăn cực độ của buổi “nếm mật nằm gai” này đã thử thách tài năng, bản
lĩnh của người chủ tướng Lam Sơn Lê Lợi. Phải là một con người có nghị lực phi
thường cùng ý chí quyết tâm cao độ và đương nhiên có cả vận may thì ông mới đưa
quân Lam Sơn vượt qua được giai đoạn sống còn khi tiềm lực và năng lực tác chiến
của quân đội Lam Sơn đang ở trong thế vô cùng yếu so với sức mạnh vượt trội của
quân nhà Minh. Trong thời kỳ này, riêng những trận đánh diễn ra trên đất Thanh
Hóa với các tướng nhà Minh như Mã Kỳ, Lý Bân, Chu Quảng, Trần Trí đã trở
thành một cuộc đấu trí, đấu sức cam go thực sự gắn liền với các địa danh đã đi vào
lịch sử như Lạc Thủy, Mường Cốc, Linh Sơn, Mường Một, Mường Chính, Nga
Lạc, Quan Du…
Kể từ sau sự kiện tiến công vào đất Nghệ An theo đề xuất của Nguyễn
Chích, nghĩa quân Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã phá vỡ thế trận phòng
thủ, chuyển sang thời kỳ phát triển rộng khắp trong cả nước và đi đến ngày thắng
lợi hoàn toàn vào năm 1427. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của ông, hàng loạt các
tướng lĩnh và nghĩa quân Lam Sơn lập hết chiến công này đến thắng lợi khác trong
việc bao vây, diệt giặc, công thành, diệt viện binh của giặc Minh từ Tây Đô, Đông
Quan, Tốt Động, Chúc Động, Chi Lăng, Xương Giang…
46
Khi nhìn lại những người anh hùng lãnh đạo nhân dân diệt giặc ngoại xâm
trong lịch sử của dân tộc ta, có thể thấy Lê Lợi là một con người đặc biệt, ông
không xuất thân từ tầng lớp quý tộc Trần- Hồ, trong bối cảnh “đất nước không có
vua”, vì nhà Trần đã mất, nhà Hồ đã diệt vong. Với xuất thân khiêm tốn so với tầng
lớp quý tộc cùng thời, bằng tài năng và trí tuệ kiệt xuất, với đường lối và chiến thuật
chiến tranh đúng đắn ông đã dẫn dắt và lãnh đạo nhân dân ta chiến đấu, giành chiến
thắng để kết thúc 20 năm thống trị của của giặc Minh, khôi phục nền độc lập lâu dài
cho tổ quốc.
Sau khi đuổi hết giặc Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428,
sáng lập ra vương triều Lê. Mặc dù ở ngôi chỉ 6 năm ngắn ngủi nhưng ông đã có
nhiều cố gắng lớn nhằm khắc phục những hậu quả của thời Minh thuộc, xây dựng
lại đất nước, củng cố nền độc lập và thống nhất như tổ chức lại bộ máy chính quyền
từ trung ương xuống địa phương. Đánh giá về công đức sáng nghiệp của Thái Tổ,
Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Vua hăng hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh, 20
năm mà thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, định luật lệ, chế lễ nhạc, mở khoa thi,
đặt cấm vệ, lập quan chức, lập phủ huyện, thu góp sách vở, mở trường học, có thể
gọi là có mưu lớn, sáng nghiệp” [71, tr 241].
Năm 1433 vua mất, triều đình cho xây dựng Lam Kinh làm nơi an táng, tôn
miếu hiệu là Thái Tổ. Để tôn vinh ông, Nguyễn Trãi đã phụng soạn bia Vĩnh Lăng
vô cùng súc tích về cả gia tộc, thân thế, sự nghiệp và công đức của Thái Tổ Cao
hoàng đế, sự gian khổ trong thời kỳ đánh đuổi giặc Minh cũng như lòng khoan
dung, độ lượng của ông đối với quân giặc khi chúng chiến bại. Chỉ cần đọc lời cuối
của bài văn bia: “Vua thức khuya dậy sớm, phàm thảy sáu năm mà đất nước thịnh
trị, đến nay thì băng hà” [111, tr 136] cũng đã cho hậu thế thấy được hình ảnh một
vị minh quân hết lòng vì giang sơn xã tắc.
2.1.2. Các nhân vật khác
Ngoại trừ trường hợp Bình Định Vương Lê Lợi, 18 nhân vật còn lại trong
danh sách người dự hội thề Lũng Nhai đã được ghi chép trong các tài liệu, sách sử.
Mặc dù, vẫn còn đôi chỗ sai biệt chút ít về tên người dự, thứ tự tham gia trong cuộc
47
hội thề. Đến nay, sau nhiều lần đối chiếu, so sánh và hợp thái trên cơ sở các nguồn
thư tịch như Đại Việt sử ký toàn thư, Lam Sơn thực lục, Đại Việt thông sử và các
bản gia phả dòng họ công thần đã cho danh sách tên người đầy đủ trong 18 nhân vật
tham gia hội thề Lũng Nhai. Và với sự kết hợp với các nguồn tư liệu khác, kể cả
chính sử lẫn dã sử, chân dung các nhân vật lịch sử cùng Lê Lợi tham gia hội thề
Lũng Nhai năm 1416 đã được phác dựng đầy đủ và chi tiết hơn.
Từ các nguồn sử liệu phổ biến hiện nay, có thể thấy những nhân vật như Lê
Lai, Nguyễn Trãi, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân
Chú... được đề cập tương đối cụ thể. Một số nhân vật khác như Trịnh Vô, Phạm
Lôi, Lê Nanh, Đinh Lan, Trương Chiến, Lê Liễu... thì tư liệu viết về những người
này còn lại rất ít ỏi. Một phần vì họ không thể có mặt cùng quân Lam Sơn đến trận
đánh cuối cùng, mặc dù tất cả họ đã được triều Lê Sơ truy phong, phong hạng sau
chiến tranh. Tuy nhiên, qua danh sách xác nhận sự có mặt trong bản văn thề Lũng
Nhai cũng như việc tham gia vào các trận đánh lớn nhỏ từ thuở nghĩa quân còn hoạt
động phòng thủ tại vùng rừng núi Thanh Hóa cho đến năm 1427 toàn thắng và sự
tham gia vào nhiều hoạt động chính trị khác dưới các triều Lê Thái Tông, Nhân
Tông, Thánh Tông đã cho chúng ta thấy được toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp để phác
họa chân dung của các gương mặt lịch sử này.
Trong những người tham gia hội thề ở Lũng Nhai thì Lê Lai được coi là nhân
vật đặc biệt nhất sau Lê Lợi. Bởi lẽ, với thời gian tham gia khởi nghĩa khá ít ỏi
nhưng tên tuổi của ông đã trở thành biểu tượng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Theo
sử liệu cho biết, ông là một trong số ít những người thân tín nhất với Lê Lợi: “kể từ
Lê Đinh, đến Lê Khoáng và sau này đến Lê Lợi, mối quan hệ với dòng họ sinh ra
Lê Lai vẫn được duy trì bền chặt và đạt tới đỉnh cao là quan hệ giữa Lê Lai và Lê
Lợi” [104, tr 96]. Nếu không có mối quan hệ này thì không thể giải thích được lý do
tại sao Lê Lai là nhân vật thứ 2 sau Lê Lợi trong hội thề Lũng Nhai và sau đó: “ông
được trao chức Tổng quản phủ Đô tổng quản, tước Quan nội hầu” [142, tr 191],
chuyên trách việc lo hậu cần cho quân đội, một việc vốn dĩ chỉ được trao cậy cho
người vô cùng thân tín của bất kỳ lãnh tụ cuộc khởi nghĩa nào. Và đặc biệt, ngay từ
48
ngày đầu mới khởi nghĩa, nghĩa quân Lam Sơn bị giặc Minh tập trung lực lượng để
đàn áp và trong một trận chiến đấu không cân sức, Lê Lai đã đóng giả là Lê Lợi để
cứu lực lượng nghĩa quân thoát khỏi nguy cơ bị quân Minh tiêu diệt. Hành động
“quên thân mình vì chủ tướng” của Lê Lai không chỉ nói lên lòng quả cảm, sẵn sàng
hy sinh vì nghĩa lớn mà ở một khía cạnh nào đó còn cho thấy quan hệ vô cùng đặc
biệt giữa 2 người. Sự hy sinh này đã trở thành bất tử và tấm gương Lê Lai về sau
luôn được vua Lê nhắc nhở để răn dạy con cháu và các bậc công thần về một bậc
trung liệt. Trong Khâm định Việt sử thông giám Cương mục, vua Tự Đức nhà
Nguyễn đã đánh giá về Lê Lai: “vua nhà Lê đã có tài như vua nhà Hán là cao tổ, tôi
nhà Lê lại cũng trung liệt như tôi nhà Hán là Kỷ Tín, nghìn năm bất hủ” [71, tr
357]. Sau khi Lê Lai mất, vị minh chủ của khởi nghĩa Lam Sơn đã căn dặn: “chúng
bay phải nhớ công ơn Lê Lai năng hết lòng vì Trẫm đổi áo cho trẫm chẳng có tiếc
mệnh cùng Trẫm mà chịu chết thay. Công ấy chăng cả thay. Trẫm đã táng Lê Lai
trong Đền Lam để mai ngày cho con cháu Lê Lai ở hết lòng cùng con cháu Trẫm
thế vậy cho kẻo lòng thương nó...cho đến con cháu Trẫm mà quên ơn Lê Lai thời
cho trong thảo điện này nên rừng, trong điện này nên nước” [85, tr 257]. Vua Lê đã
phong ông là công thần hạng nhất, còn sai Nguyễn Trãi viết 2 đạo “Tiên ước thệ từ”
và “Lai công thệ từ” cất giấu trong rương vàng để đời đời ghi nhớ công lao của Lê
Lai.
Trong khởi nghĩa Lam Sơn, không chỉ có mình bản thân ông tham gia mà
còn có cả anh trai ông Lê Lâm và các con Lê Lư, Lê Lộ, Lê Lâm và tất cả đã trở
thành những vị võ tướng anh dũng của khởi nghĩa Lam Sơn. Có thể nói tấm gương
Lê Lai cùng với sự tham gia và hy sinh của gia đình ông trong khởi nghĩa Lam Sơn
là một dấu ấn đặc sắc hiếm có trong tất cả các cuộc khởi nghĩa trước đó và sau này,
thể hiện sức mạnh của tinh thần yêu nước, một biểu tượng sáng ngời của sự tận
hiến.
Sau Lê Lai, những người khác trong danh sách hội thề thì phần đa số là
người gốc Thanh Hóa, đó là các ông Lê Thận, Lê Văn Linh, Lê Văn An, Trịnh Khả,
49
Trương Lôi, Lê Liễu, Lê Nanh, Lê Kiệm, Trịnh Vô, Phạm Lôi, Lê Lý, Đinh Lan và
Trương Chiến.
Đối với Lê Thận, ông là người chỉ đứng sau Lê Lai theo thứ tự trong danh
sách, cũng là một trong những nhân vật nổi bật gắn với Lê Lợi trong truyền thuyết
“gươm thần”. Theo Lam Sơn thực lục [85] và Địa chí huyện Thọ Xuân [52] thì ông
là người sách Mục Sơn, huyện Lôi Dương (bên cạnh làng Cham của Lê Lợi) nay
thuộc xã Thọ Xương, huyện Thọ Xuân. Tuổi tráng niên làm nghề chài lưới, từng là
phụ đạo sách Mục Sơn nên nhân dân trong vùng gọi ông là Đạo Mục. Lê Thận có
mối quan hệ thân thiết với Bình Định Vương từ thuở nhỏ. Trong những ngày đầu
chuẩn bị cho việc dựng cờ khởi nghĩa chống giặc Minh xâm lược, đặc biệt là sau
hội thề Lũng Nhai, Lê Thận đã dốc hết lòng giúp vua Lê chuẩn bị lương thực đợi
thời cơ khởi nghĩa. Ngày 2 tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi dựng cờ khởi
nghĩa đánh giặc, Lê Thận được tín nhiệm giao chức Thứ thủ kỵ binh trong quân
Thiết đột [96, tr 26]. Trong suốt những năm nghĩa quân Lam Sơn hoạt động ở vùng
rừng núi miền Tây Thanh Hóa (1418-1424), tuy ít trực tiếp cầm quân đánh trận
nhưng Lê Thận đã góp công to lớn trong việc xây dựng lực lượng cho nghĩa quân,
giữ mối quan hệ giữa quân và dân trong vùng, bảo vệ Lê Lợi thoát khỏi bao phen
nguy hiểm khi bị giặc Minh bao vây. Đến cuối tháng 4 đầu tháng 5 năm 1423, quân
Lam Sơn hòa hoãn để về căn cứ Lam Sơn xây dựng lực lượng, ông trở về sách Mục
Sơn tổ chức khai hoang để tiếp tục cuộc chiến đấu lâu dài với quân Minh. Năm
1426, Lê Thận được giao nhiệm vụ cùng với các tướng Lê Ngân, Lê Văn An, Lê
Văn Linh và một số tướng khác vây hãm thành Nghệ An. Sau khi khởi nghĩa Lam
Sơn thắng lợi, trong buổi luận công xếp hạng những người có công theo vua từ hồi
ở Lũng Nhai, Lê Thận được xếp vào hàng thứ hai. Năm Thuận Thiên thứ 2 (1429)
được phong Á hầu. Đến đời vua Lê Thái Tông (1434) ông được phong là Nhập nội
thiếu úy tham tri việc quân các vệ thuộc Tây đạo [96, tr 28]. Ông làm quan trải qua
nhiều đời vua Thái Tông, Nhân Tông, Thánh Tông với nhiều chức vụ quan trọng
trong triều chính. Năm Hồng Đức thứ 15 (1484), Lê Thận được tặng Thái phó
Hoằng quận công. Con cháu ông đều được hưởng ấm phong, đời đời làm quan võ.
50
Sau khi ông mất, triều đình cho lập đền thờ ông tại quê hương sách Mục Sơn, ngay
bên bờ sông Chu.
So với các nhân vật khác, Lê Văn Linh được sử sách đánh giá là số ít những
người có trình độ học vấn cao “bản tính thông minh, học rộng, hiểu sâu, giỏi đủ cả
y, nho, lý, số” [96, tr 31]. Một số tài liệu cho biết ông là vốn là người gốc họ Trần,
vì được vua ban họ vua nên thường gọi Lê Văn Linh [52, tr 769]. Cũng là số ít nhân
vật không thuộc dòng võ quan được Lê Lợi hết sức trọng dụng, dùng làm mưu sỹ
chuyên bàn việc quân cơ, bàn kế sách đánh giặc. Ông cũng là người được giao soạn
thảo các văn bản quan trọng, như chiếu thư chiêu dụ Ai Lao, chiêu hàng tướng giặc
hoặc nghị hòa với quân Minh, văn tài được đánh giá sánh ngang cả vạn hùng binh.
Trong khởi nghĩa Lam Sơn, ông tham gia nhiều hoạt động quan trọng, là một trong
những người có công mật bàn mưu hạ thành Nghệ An năm 1427. Sau khi lên ngôi,
Lê Lợi xét thưởng khai quốc công thần, ông được phong Khang thượng hầu. Sau
này ông vừa là khai quốc công thần, cũng vừa là nguyên lão đại thần của 3 triều
Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, trải qua nhiều chức vụ trọng yếu. Ông có 3 người
con trai đều làm quan trong triều Lê Sơ. Sau nay còn có nhiều hậu duệ làm quan
dưới hai triều Lê, Nguyễn. Bản tính thâm trầm, giàu mưu lược, được Đại Việt Sử ký
toàn thư đánh giá là người: “am hiểu chính sự, ý kiến bàn bạc ở triều chính thường
rất sáng suốt” [96, tr 34].
Đối với Lê Văn An, các tài liệu cho biết rằng, cùng với Lê Thận (cùng người
sách Mục Sơn) và Lê Lai (thôn Dựng Tú) với Lê Thái Tổ ở làng Cham, được cho là
con người văn võ song toàn, ngay từ thời niên thiếu đã có mối quan hệ bằng hữu
khá thân thiết. Trong danh sách hội thề, ông đứng thứ 5. Khi khởi nghĩa Lam Sơn
nổ ra, Lê Lợi cho ông làm Thứ thủ vệ kỵ binh quân Thiết đột. Ông theo Lê Lợi đánh
nhiều trận lớn nhỏ, lập được nhiều công lao. Một trong những trận đánh ghi danh
thời đầu khởi nghĩa của ông là trận Khả Lưu. Sau đó ông tham gia vây hãm thành
Nghệ An. Sau những chiến công vang dội này, ông được coi là một trong những
tướng lĩnh có công xuất sắc. Trong trận vây hãm thành Xương Giang, ông cùng các
tướng Lưu Nhân Chú, Lê Lý, Lê Vấn…chém đầu được hơn 5 vạn tên, bắt sống các
51
tướng giặc Thôi Tụ và Hoàng Thúc, góp phần giải phóng thành. Sau khởi nghĩa
Lam Sơn, ông được triều đình phong tặng nhiều tước vị cao. Đời vua Lê Thái Tông
(1434), ông được phong tước Đình thượng hầu, Duệ quốc công, trực tiếp lãnh đạo
việc dẹp loạn ở Lạng Sơn. Tháng 4 năm 1437 ông đột ngột qua đời, trải qua hai
triều vua Thái Tổ, Thái Tông, một lòng trung dũng với vua với nước, được Thái Tổ
và Thái Tông hết sức tin dùng. Năm Hồng Đức thứ 15 (1484) Lê Văn An được gia
phong Thái phó Khắc quốc công. Đánh giá về Lê Văn An sách sử chép: “Trong
đám quan võ, Văn An là người hòa nhã, dịu dàng hơn, tiếp đãi các sỹ phu có lễ độ”
[52, tr 776]. Đời Nguyễn, Gia Long năm thứ nhất (1802), ông được liệt vào hàng
khai quốc công thần nhà Lê bậc nhì, miễn lao dịch một người con cháu để thờ tự
[52, tr 776].
Một nhân vật sau này được cho là đã trở thành “cố mệnh đại thần”, nắm giữ
nhiều chức vụ trọng yếu của vương triều Lê là Trịnh Khả, người huyện Vĩnh Ninh
(nay là huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá). Qua hơn mười năm nếm mật nằm gai
cùng Bình Định Vương, Trịnh Khả luôn trực tiếp cầm quân, chiến đấu một cách
dũng cảm và mưu lược, lập được nhiều công lao xuất sắc. Người đã không xá thân
mình, cùng với Bùi Bị liều chết cướp lại linh xa Phật Hoàng, tro cốt tổ tiên Lê Thái
Tổ từ tay giặc Minh đã được Lam Sơn thực lục nhắc tới. Ngoài tài cầm binh, ông là
người có năng lực ngoại giao bởi thông thạo các tiếng các nước lân bang và dân tộc
thiểu số. Giai đoạn cuối khởi nghĩa Lam Sơn, ông tham gia chỉ huy một trong ba
đạo quân tiến ra Bắc năm 1426 với các trận đánh lớn như Ninh Kiều (9- 1426),
Nhân Mục (10- 1426), Xa Lộc (10- 1426). Nói về tài cầm binh, chiến công lớn phá
Mộc Thạch ở Ải Lê Hoa của ông năm 1427 góp phần quan trọng để làm nên thắng
lợi toàn diện của khởi nghĩa Lam Sơn. Nhờ những công lao to lớn, ông đã tham gia
triều chính nhà Lê Sơ với nhiều chức vụ quan trọng. Đáng tiếc, với tính cách cương
trực, lâm vào buổi đầu triều bè đảng, cha con ông đã bị Thái hậu Nguyễn Thị Anh
(mẹ vua Lê Nhân Tông) xử tử năm 1451. Hai năm sau, năm 1453, triều đình thương
ông vô tội, liền minh oan cho ông và ban cho con cháu ông 100 mẫu ruộng hương
hoả [96, tr 73].
52
Khá đặc biệt là trong danh sách những tham gia hội thề Lũng Nhai là trường
hợp 2 cha con Trương Lôi và Trương Chiến. Về trường hợp Trương Lôi, hiện nay
các tư liệu đề cập về quê hương, xuất thân của ông còn chưa thống nhất. Lam Sơn
thực lục cho biết ông là người “Thụ Mệnh thôn nhân” (người ở thôn Thụ Mệnh), có
tài liệu lại cho biết cùng quê với Võ Uy người lộ Khả Lam, một số ý kiến khác cho
rằng ông là người thôn Nguyễn Xá, hương Lam Sơn, huyện Lương Giang [106, tr
97]. Tuy nhiên, các tài liệu đều thống nhất, ông là người cùng với Võ Uy đi theo Lê
Lợi từ rất sớm. Trong khởi nghĩa Lam Sơn, cả hai cha con, Trương Lôi và Trương
Chiến đều là những võ tướng nổi tiếng, tham gia nhiều trận đánh lớn, lập được
nhiều chiến công, sau này khi ban thưởng đều được vua Lê ban quốc tính. Đặc biệt,
Trương Chiến có biệt tài huấn luyện voi chiến, giúp ích rất nhiều cho Lê Thái Tổ
còn Trương Lôi thì nổi tiếng với tài cầm quân “lấy ít địch nhiều”, gây nhiều khó
khăn và bao lần khiến quân Minh run sợ. Trong đợt phong thưởng đầu tiên, cả hai
cha con đều được vua Lê xếp vào hàng công thần hạng nhất, được ban cấp thái ấp
rất hậu. Trương Chiến mất trước cha mình vào năm 1436 còn Trương Lôi vẫn được
các vua sau của triều đình Lê Sơ tín nhiệm, đã từng được phong trấn giữ lộ Hà Bắc,
coi việc phòng thủ biên giới ở vùng Kinh Bắc- Lạng Sơn [96, tr 97].
Về nhân vật Lê Hiểm, mà một số tài liệu khác gọi là Lê Kiệm, chữ này thấy
ghi trong bản văn thề Lũng Nhai, các nhà sử học đã khảo cứu và cho biết, Lê Hiểm
hay Lê Kiệm thực ra chỉ là một người, do tự dạng mà thôi. Có tài liệu nói ông là
người phủ Thiệu Thiên, huyện Ngọc Lặc. Còn theo gia phả dòng họ Lê Hiểm ở
Nông Cống thì quê ông là đại quan lang dưới thời Trần, tham gia khởi nghĩa cùng
Lê Lợi từ thời kỳ ở Lũng Nhai. Trong những ngày đầu gian khó, binh ít, tướng
mỏng, bị giặc Minh thường xuyên truy quét, Lê Hiểm luôn một lòng tận trung với
nước, lập được nhiều chiến công trong sự nghiệp kháng chiến chống giặc Minh xâm
lược, bảo vệ đất nước, sau được phong tước hầu. Sau khi mất được Lê Thánh Tông
ban tên thụy là Trung Định và phong tặng Thượng đẳng Phúc thần đại vương, cấp
cho nhiều lộc điền để con cháu đời đời hưởng bổng lộc [96, tr 77-78]. Hậu duệ Lê
Hiểm sau đều trở thành các vị trọng quan của triều đình nhà Lê.
53
Võ Uy được biết đến là người theo giúp Lê Lợi, được Lam Sơn động chủ tín
cẩn giao trọng trách chuyên lo liệu việc hậu cần, lương thực, ăn uống của nghĩa
quân trong thời gian quân đội Lam Sơn hoạt động trên đất Thanh Hóa. Về quê quán,
sử liệu cho biết ông là người thuộc Lộ Khả Lam, quê hương Lam Sơn. Đã theo sát
cuộc chiến của quân Lam Sơn trong thời kỳ đầu và dành được sự tín nhiệm rất cao
của chủ tướng Lê Lợi. Rất tiếc ông là một trong những nhân vật hội thề Lũng Nhai
vong trận từ rất sớm (1424). Sau chiến tranh, Lê Thái Tổ đã đánh giá rất cao công
lao, sự hy sinh của Võ Uy. Năm 1428, tự tay nhà Vua viết tên của 35 công thần
nghĩa sĩ, đã tham gia cuộc khởi nghĩa từ những ngày đầu tiên. Ông đứng hàng thứ
11: “Võ Uy: vi An Mỹ hầu. Khả Lam lộ. Do phù quốc sự”, nghĩa là Võ Uy xếp thứ
11. Làm An Mỹ hầu. Lộ Khả Lam. Do giúp việc nước. Đến năm Hồng Đức thứ 15
(1484), đời vua Lê Thánh Tông, Võ Uy được phong Tuy tiết hầu, làm Tuy quận
công [85, tr 248].
Một số nhân vật khác như Lê Liễu, Lê Nanh, Trịnh Vô, Lê Lý, Phạm Lôi,
Đinh Lan, đều là những người xuất thân quê hương Thanh Hóa và có mặt trong hội
thề Lũng Nhai năm 1416. Tuy nhiên, không như nhiều nhân vật khác trong khởi
nghĩa Lam Sơn, tiểu sử về các nhân vật này được các sách sử chép lại không nhiều.
Sự tham gia của họ chủ yếu được Lam Sơn thực lục ghi nhận và cho biết sau khi Lê
Lợi lên ngôi, tên tuổi của các vị đã được vua Lê ban tặng hoặc truy phong cấp bậc
công thần. Có lẽ, do một số người hy sinh, trận vong trong thời kỳ đầu của cuộc
khởi nghĩa nên tư liệu chép lại còn ít. Chỉ được điểm tên trong một số hoạt động của
thời kỳ này (hoạt động của quân Lam Sơn ở Thanh Hóa), chẳng hạn Lê Liễu được
nhắc tên trong sự kiện cùng với Trịnh Khả và một số người khác đi cướp lại linh xa
Phật Hoàng, hay cùng với Lê Lợi chạy giặc trên xứ Mường Một, làm “gia thần” cho
gia tộc Lê Thái Tổ từ thời kỳ trước khi dựng cờ khởi nghĩa [96, tr 64]. Trịnh Vô có
mặt trong các truyện thuật về chuyện “trời cho, người đem đến” trong Lam Sơn thực
lục [144, tr 149]. Khi Lê Thái Tổ ban thưởng công thần, ông được phong tước
Hoằng Nghĩa hầu [96, tr 124].
54
Các nhân vật còn lại như Đinh Lan, Lê Nanh, Phạm Lôi...sách sử còn đề cập
khá ít, thậm chí không rõ năm sinh, năm mất như trường hợp của Lê Nanh. Các tài
liệu chính sử nhắc đến Lê Nanh trong lần Lê Thái Tổ giao ông cùng với các tướng
Lê Sát, Trương Lôi, Lưu Trung đi đánh úp thành Tây Đô. Phạm Lôi được xác nhận
tham gia các trận như Quan Da, Khả Lưu thời kỳ đầu khởi nghĩa, lập được công lớn
trong các trận đánh thành Nghệ An, Tốt Động, Ninh Kiều, Chi Lăng, Xương
Giang…Còn Đinh Lan được cho là người giúp Lê Lợi trù hoạch binh lương, xây
dựng chính quyền mới ở những vùng đất được nghĩa quân giải phóng [96, tr 133].
Mặc dù sử liệu cũng cho biết, Đinh Lan đã phục vụ cho 2 đời Thái Tổ, Thái Tông
với các chức vụ quan trọng nhưng các hoạt động này lại không được sử chép chi
tiết. Công thần Lũng Nhai Nguyễn Lý (quốc tính Lê Lý) thì được nhắc nhiều trong
trận Sách Khôi (1422), giúp vua phá tan vòng vây quân giặc. Đã từng được phong
đến chức Kiểm hiệu Tư không vào năm Thuận Thiên thứ 3 (1430). Sau trải qua các
chức Tổng đốc bộ Thanh Hóa, rồi đồng tổng quản lộ Bắc Giang hạ. Năm 1437, cho
giữ chức nhập nội thiếu úy coi sóc việc quân các vệ thuộc Tây đạo (Thanh Hóa,
Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hóa). Mất năm 1443, đến đời Hồng Đức thứ 15 (1484),
truy tặng Thái bảo Phúc quốc công [96, tr 21- 22].
Trong số những người dự hội thề ở Lũng Nhai năm 1416, chỉ có 3 người từ
nơi khác, không phải quê quán Thanh Hóa là Nguyễn Trãi, Bùi Quốc Hưng và Lưu
Nhân Chú. Ghi nhận sự kiện tham gia khởi nghĩa Lam Sơn của Nguyễn Trãi, Lam
Sơn thực lục cho biết: “Năm Mậu Tuất, tháng Giêng ngày mùng 2 (Vĩnh Lạc nhà
Minh năm thứ 16). Vua sắp đặt màng lưới đón mời hào kiệt, lấy ít đánh nhiều, bèn
khiến công thần là bọn Lê Khang, Lê Luân, Lê Luân, Lê Nanh, Lê Sao, Lê Lễ, Lê
Hiêu... Võ Uy, Trịnh Vô, Lưu Trung, Trần Trĩ, Đỗ Bí, Nguyễn Trãi, Lê Văn Linh,
Lê Thận và Lê Văn An đều làm tướng văn, tướng võ, chia đường đem quân đối địch
với giặc Ngô” [85, tr 191-192]. Mặc dù, nhiều tài liệu hiện nay có nhiều điểm chưa
được đồng nhất về thời gian tham gia khởi nghĩa Lam Sơn của Nguyễn Trãi, nhưng
đa số đều cho rằng, ông là một người có công lớn và luôn sát cánh cùng Lê Lợi
trong những trận chiến cam go của quân Lam Sơn thời kỳ đầu. Trong Lịch triều
55
Hiến chương loại chí phần “Người phò tá có công lao tài đức” khi viết về Nguyễn
Trãi, Phan Huy Chú cho rằng ông gặp Lê Lợi ở Lỗi Giang, nhưng trong phần viết
về Lê Văn Linh ông lại cho rằng Nguyễn Trãi tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ
những ngày đầu: “Năm Mậu Tuất [1418] vua dấy nghĩa binh, ông cùng Nguyễn
Trãi ở luôn bên cạnh, bàn mưu thần trong màn trướng, tính toán vận trù quyết
thắng, thường tỏ công lao” [29, tr 277]. Với tư cách một văn thần, cánh tay đắc lực
về mặt lý luận chiến tranh cho Lê Lợi trong khởi nghĩa Lam Sơn, ông được giao
soạn thảo những văn bản quan trọng, có giá trị quân sự, triết học, tư tưởng lớn như:
Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Lam Sơn thực lục, Phú núi Chí Linh,
Văn bia Vĩnh Lăng...Tương tự như các công thần khác, sau thắng lợi, Nguyễn Trãi
được triều Lê phong tặng và ban thưởng với tư cách các công thần khai quốc. Tuy
nhiên, rất tiếc những mâu thuẫn trong triều chính thời kỳ hậu chiến đã khiến cho
một người tài đức như ông vướng vào vòng oan sai trong vụ án “Lệ Chi Viên” bi
thảm. Đến thời Hồng Đức, vua Lê Thánh Tông đã minh oan cho ông. Gia Long, vị
vua khai sáng triều Nguyễn có những đánh giá rất cao đối với một số nhân vật lịch
sử khởi nghĩa Lam Sơn trong đó có ông như sau: “Công thần bình Ngô khai quốc,
bực nhất là Thái úy Phúc Quốc công Lê Lai, Thái phó Đạt Quốc công Lê Văn Linh,
Thái sư Cương Quốc công Nguyễn Xí, Thái bảo Khuê Quốc công Nguyễn Trãi”
[144, tr 145].
Bùi Quốc Hưng cũng là một nhân vật văn võ toàn tài, được đánh giá là một
nhân vật lịch sử lớn của thế kỷ XV, không chỉ là công thần Lũng Nhai, công thần
Bình Ngô khai quốc mà còn là vị đại thần có nhiều công trạng trong giai đoạn đầu
của triều Lê Sơ: “Ông Bùi Quốc Hưng, vị công thần khai quốc triều Lê Sơ, đã tham
gia hội thề Lũng Nhai (1416), là nhân vật đầu tiên của bộ chỉ huy nghĩa quân Lam
Sơn, là người văn võ toàn tài mưu lược. Ông không chỉ có công lao to lớn trong
việc đuổi giặc cứu nước mà còn là vị công thần tận tâm với hai triều vua để phục
hồi đất nước sau nhiều năm chiến tranh” [106, tr 269].
Đối với Lưu Nhân Chú, trong khi nhiều người khẳng định ông xuất thân từ
An Thuận (Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên ngày nay) thì Lam Sơn thực lục lại cho biết
56
ông quê ở sách Thủy Chú, huyện Lôi Dương [85, tr 166], chưa rõ sinh năm nào.
Sách Đại Việt thông sử đã khẳng định, ông cùng với Nguyễn Trãi, Bùi Quốc Hưng
và nhiều danh tướng khác về Lam Sơn “cùng bí mật mưu việc khởi nghĩa” [142, tr
37]. Khi hội thề Lũng Nhai được tổ chức, ông là một trong 18 người tham gia cùng
chủ tướng Lê Lợi: “năm Bính Thân (1416), Thái Tổ cùng tướng văn tướng võ 18
người liên danh thề ước cùng vui cùng lo có nhau, ông cũng được dự” [142, tr 251].
Về lý do đến Lam Sơn đầu quân cho Lê Lợi, Lịch triều Hiến chương loại chí của
Phan Huy Chú chép: “Lê Nhân Chú lúc trẻ nghèo khổ làm nghề buôn bán. Một hôm
ông ngủ trọ ở đền thờ thần, nằm mộng được điềm tốt, rồi sau đó ông vào Lam Sơn
thờ Lê Thái Tổ” [29, tr 385-387]. Sau hội thề Lũng Nhai, Lưu Nhân Chú đã tham
gia trực tiếp các đánh lớn của quân Lam Sơn ở các trận Khả Lưu (1424), Tây Đô
(1425), chặn đánh các tướng giặc Minh Phương Chính, Lý An ở các lộ Trường Yên,
Thiên Trường, Kiến Xương (1426), chém Liễu Thăng và Lương Minh tại ải Chi
Lăng, tham gia giải phóng thành Xương Giang (1427)...Xét về công lao, Đại Việt
thông sử đánh giá: “Lưu Nhân Chú cứu nguy phù suy, giành lại cơ đồ trong những
ngày cháo rau cơm hẩm, trừ hung dẹp bạo, quét thanh trời đất khỏi tai ương bằng
ngựa sắt gươm vàng...là người đứng đầu về hàng võ trong triều kiêm coi chính sự
nhà nước” [142, tr 254]. Sau khi đất nước thái bình, bờ cõi sạch bóng ngoại xâm,
ông lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình Lê Sơ, đến thời Thái
Tông bị “Đại Tư đồ Lê Sát ghen ghét, ngầm đánh thuốc độc giết chết” [142, tr 254],
sau đó được truy tặng chức Thái phó, tước Vinh quận công [96, tr 120].
Tóm lại, phải khẳng định các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai là những
nhân vật lịch sử đã được sách sử ghi nhận, họ hiện diện ngay từ buổi đầu dựng cờ
khởi nghĩa và chiến đấu đến ngày thắng lợi cuối cùng, ngoại trừ một vài trường hợp
“trận vong” (hy sinh trước khi toàn thắng) như Lê Lai, Võ Uy, Lê Liễu, Đinh
Lan...Một điểm chung giữa họ là sau khi Lê Lợi lên ngôi, tên tuổi đều được ghi
trong bản “Ngự danh tam thập ngũ danh” (phong hạng cho 35 công thần do vua đề
tên), ban quốc tính họ Lê, tặng hoặc truy tặng các tước hầu, công thần hạng nhất.
Các sách sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử, Lam Sơn thực lục đã
57
nêu rõ công trạng, vai trò của họ trong và sau khởi nghĩa Lam Sơn cũng như các
sinh hoạt chính trị của triều Lê Sơ thời kỳ đầu.
2.2. Các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai qua truyền thuyết, sắc
phong, gia phả, bia ký
2.2.1. Truyền thuyết
Thông qua các sử liệu, ta biết các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai năm
1416 là những nhân vật lịch sử gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Cùng với các
chi tiết đặc biệt trong tiểu sử, các nhân vật đã bước vào đời sống văn hóa dân gian
và qua từng giai đoạn lịch sử, dường như các nhân vật lại được bồi đắp thêm các chi
tiết khác, đậm sắc màu huyền thoại. Qua khảo sát các truyền thuyết được ghi lại và
các truyện kể đang được lưu hành trong dân gian ở Thanh Hóa cho thấy, trong số
các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai thì nổi bật hơn cả là các truyền thuyết về
Lê Thái Tổ. Một số nhân vật như Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An, Nguyễn Trãi, Lê
Văn Linh...xuất hiện trong một số truyền thuyết về “gươm thần”, “tìm minh chúa”,
“đuổi hổ” và một số truyền thuyết khác có liên quan đến sự tích địa danh, làng xã,
sự kiện trong thời kỳ nghĩa quân hoạt động ở khu vực rừng núi Thanh Hóa. Mặc dù,
trong các truyền thuyết này, đa số các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai không
xuất hiện trực tiếp, nhưng qua tình cảm và sự đánh giá của nhân dân, các nhân vật
hiện lên là những người phi thường, góp công to lớn vào việc đánh đuổi giặc ngoại
xâm.
Về Lê Thái Tổ, theo khảo sát của tác giả Nguyễn Thị Nhung thì có đến 4
nhóm truyền thuyết gắn liền với ông được lưu hành ở Thanh Hóa gồm: (1) các
truyền thuyết về nguồn gốc xuất thân của Lê Lợi; (2) các truyền thuyết về quá trình
Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa, thu phục hào kiệt; (3) quá trình Lê Lợi lãnh đạo khởi
nghĩa Lam Sơn được nhân dân giúp sức và (4) Lê Lợi trả ơn những người dân đã
cưu mang mình và nghĩa quân trong quá trình đánh giặc [84, tr 32]. Và trong đó,
phần lớn các truyền thuyết gắn đến ông có đặc điểm là vừa mang tính bình dị, vừa
mang tính chất thiêng liêng. Bởi vì, các truyền thuyết này có cốt truyện hết sức giản
dị như các truyện núi Mục, núi Dầu, gươm thần, hội thề, Lê Lai cứu chúa, ngôi đền
58
Quốc Mẫu.. Trong những truyện này, hình tượng Lê Lợi hiện lên với tư cách một
con người bình thường, nhưng bất cứ những gì liên quan đến ông, trong tâm thức
dân gian đều hàm ý sự trân trọng, nâng niu, gìn giữ bởi vì nó như một cuốn sử riêng
để nhân dân kỷ niệm về những tháng ngày gian nan, vất vả xây dựng cơ đồ của
Bình Định Vương. Một số truyền thuyết khác gắn với ông lại có “chất liệu” tâm linh
đầy lôi cuốn gắn liền với các yếu tố thiêng như chuyện Hồ Ly phu nhân (thần Cáo
trắng). Truyền thuyết kể lại như sau: “Một lần quân Minh xua chó ngao đuổi bắt Lê
Lợi, chạy đến bên sông, ông thấy một người con gái mặc áo trắng và cầu khấn xin
cứu giúp, hứa sẽ báo đền. Ông phải ẩn trốn trong hốc cây đa, bị chó ngao phát hiện.
Bỗng nhiên một con chồn trắng chạy ra, chó ngao đuổi theo, nhờ đó ông thoát nạn.
Sau khi lấy lại thiên hạ, ông phong người con gái gọi là Bạch Y công chúa đó làm
Hoàng Hữu đại vương, cây đa làm Hộ Quốc đại vương” [69, tr 194]. Trong nhiều
truyền thuyết khác, vua Lê thường được thần linh báo mộng, có khi là hiển linh phù
giúp cho vua Lê thắng một trận đánh, khi lại đòi hỏi ông phải hiến tế một người
thiếp để được thắng trận như truyện về sự hy sinh của bà Phạm Thị Ngọc Trần,
truyền thuyết này có lưu truyền trong các sách sử và cũng được Đại Việt thông sử
của Lê Quý Đôn chép lại. Chuyện kể về một người thiếp của Lê Lợi trong sự kiện
tiến công thành Nghệ An. Nội dung nêu: “Khi Lê Thái Tổ đến thành Triều Khẩu
(Hưng Nguyên, Nghệ An), nơi này có đền thờ thần Phổ Hộ. Ban đêm vua mộng
thấy có một vị thần đến bảo rằng: tướng quân cho tôi một người thiếp, tôi sẽ phù hộ
tướng quân diệt giặc Ngô, làm nên nghiệp đế”. Hôm sau vua gọi các bà vợ đến hỏi:
có ai chịu làm vợ vị thần không? Sau này khi ta lấy được nước sẽ lập con của người
ấy làm Thiên tử, Các bà không ai nói gì, chỉ có Hoàng hậu quỳ thưa: nếu minh công
giữ lời hứa thì thiếp nguyện xả thân. Ngày sau làm nên nghiệp lớn chớ phụ con
thiếp. Nhà vua khen ngợi và thương cảm, nói với các bề tôi, nhận lời hẹn đó” [106,
tr 288]. Trong nhiều truyền thuyết về Lê Thái Tổ, thì theo các nhà nghiên cứu, có
không ít truyền thuyết về ông gắn với những người phụ nữ, có cả nhân vật lịch sử
và huyền thoại như Bà Phạm Thị Ngọc Trần, Trịnh Thị Ngọc Lữ, công chúa Huy
Trân, Bà Chúa Trầm, Bà Quốc Mẫu...Các truyền thuyết này mô tả những người này
59
có công ơn với vua Lê và sau khi lên ngôi, Lê Lợi đã tôn họ trở thành các vị thần
linh.
Một mảng truyền thuyết về Lê Thái Tổ cũng rất quan trọng là các truyện
miêu tả về sự ra đời và quê hương của ông. Các truyện này đều miêu tả những chi
tiết “lạ thường” có tính chất thiêng liêng về nơi sinh, ngày giờ sinh, diện mạo và
tính cách của Bình Định Vương. Trong tâm thức dân gian, ông là người con được
tạo hóa sai xuống trần gian để giúp dân, hộ quốc “lúc vua sinh ra ánh sáng đỏ đầy
nhà, mùi hương lạ bay khắp xóm”, hay “ở xứ Du Sơn, sau rừng quế có một con hổ
đen rất thân với người, đến khi vua sinh ra, vào giờ tý ngày 6/8 năm Ất Sửu thì
không thấy con hổ đen đâu nữa” [61, tr 7]. Và từ khi mới sinh ra, sớm đã biểu lộ
hình ảnh của một nhân vật kỳ vĩ, khác thường. Ngay từ bé vua đã có dáng vẻ tinh
anh, nghiêm nghị, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, mặt rồng, vai tả có bảy nốt ruồi,
đi như rồng, bước như hổ, lông tóc mọc đầy người, tiếng như chuông lớn, ngồi xổm
như cọp...Đến khi lớn thông minh, trí dũng, vượt hẳn bậc tầm thường, làm phụ đạo
sách Khả Lam. Đến ngay cả nơi ông sinh ra (đất Khả Lam) trong cách cảm của dân
gian, cũng là chốn địa linh sinh nhân kiệt, nên khi phụ đạo Khả Lam chọn huyệt đất
để táng linh xa của tổ tiên ở động Chiêu Nghi thì đêm ấy thần núi đến thăm mộ,
sáng hôm sau còn thấy dấu vết. Bài minh trên động thiêng còn ghi rõ: “Trời cho
người đem đến/đức lớn quỷ thần kinh/Thần như về chầu chực/Đúng thật thánh nhân
sinh”. Có thể nói, không một nhân vật nào trong danh sách những người tham gia
hội thề Lũng Nhai có hệ thống truyền thuyết đầy đủ, đa dạng và nổi bật hơn Lê Thái
Tổ.
Đối với các nhân vật khác, các truyện về họ tương đối ít, ta biết được nhiều
hơn cả là các truyền thuyết: hội thề Lũng Nhai; gươm thần; Lê Lai cứu chúa; truyền
thuyết “hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi, hăm ba giỗ mụ hàng Dầu”...Đây được
xem là các truyền thuyết không chỉ gắn với bản thân Lê Lợi mà còn miêu tả nhiều
nhân vật hội thề Lũng Nhai khác.
Truyền thuyết gươm thần Lê Lợi kể lại rằng: bấy giờ quân Minh xâm chiếm
nước ta, nhân dân ai cũng căm ghét...một ngày kia, người em họ của ông là Lê Thận
60
đánh cá trên bờ sông, gần chỗ bến đò Mục Sơn. Hôm đó Thận thả lưới thấy nặng
nặng, mừng vì được cá to nhưng khi kéo lên thì hóa ra một thanh sắt. Chàng vứt
xuống rồi đi kéo một chỗ khác, đến lần thứ 3, Lê Thận đem thanh sắt ấy về đánh
sạch mới biết là lưỡi gươm quý. Trên gươm có khắc 4 chữ, 2 chữ mờ không rõ, 2
chữ còn lại nổi lên rõ chữ: Thuận Thiên. Đêm hôm sau, Lê Lợi và một vài người
khác đến chơi nhà Lê Thận. Thận kể lại câu chuyện được gươm và chỉ cho khách
thấy gươm đang dắt ở xó nhà. Mọi người xem đều rất ngạc nhiên, vì thanh sắt hôm
đó tự nhiên sáng quắc, hào quang rực rỡ chiếu khắp cả gian nhà” [61, tr 7-8].
Truyền thuyết này về sau cũng được kể lại trong gia phả một số dòng họ công thần
như gia phả Lê Văn An ở Thọ Xuân. Mặc dù vậy, các chi tiết về truyền thuyết
gươm thần lại được thêm thắt chút ít, trong đó có nói chính Lê Thận và Lê Văn An
tìm được gươm báu và đến nhà Lê Thái Tổ dâng cho vua.
Ở Thanh Hóa, câu chuyện về 18 nghĩa sỹ cùng vua kết nghĩa anh em, đồng
lòng diệt giặc luôn được nhân dân thán phục và được kể lại ở nhiều nơi. Mặc dù các
chi tiết có thể khác nhau nhưng thời gian, địa điểm và số người tham gia hội thề,
tinh thần của quân Lam Sơn...giữa các dị bản này lại khá đồng nhất. Truyền thuyết
về hội thề Lũng Nhai được kể lại như sau: “Trại họ Lê ở Như Áng vào dịp cuối năm
nay (1416) thật là náo nhiệt. Khắp nơi những người giang hồ, hảo hán kéo về. Đất
Lam Sơn nhanh chóng trở thành nơi tụ tập của hàng ngàn nghĩa sỹ...Sáng ngày
mùng 1 tháng 2 năm Bính Thân (1416) trên thao trường Lũng Nhai, cờ xí rợp trời,
bàn thờ thiên địa được bày trang nghiêm trên một đàn cao mà quân sỹ đã đắp
xong...Chúa Lê Lợi khăn áo chỉnh tề cùng 18 nghĩa sỹ đã được hội quần anh cử ra
thay mặt, khoan thai bước lên đàn. Lê Lợi thắp hương, vái bốn phương trời và nói:
“tôi cùng Lê Lai cho đến Trương Chiến thay mặt cho hàng ngàn tráng sỹ tụ nghĩa ở
Lam Sơn, dù quê quán họ hàng có khác nhau. Nhưng đã kết nghĩa anh em thì cũng
như chung một...chung sức đồng lòng giữ vững đất nước, làm cho dân chúng được
yên lành, thề sống chết phải cùng nhau, không dám quên lời thề ước...” [61, tr 22-
23]. Trong truyền thuyết này, các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai được nêu tên
61
và biểu thị một quyết tâm vô cùng hảo sảng để cùng thề chết quét sạch giặc ngoại
xâm.
Kể về tấm gương hy sinh anh dũng của Lê Lai cũng như nguồn gốc sự tích
“hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi hăm ba giỗ mụ hàng Dầu”. Truyện kể rằng: Thời
điểm ấy là trận bao vây của quân Minh ở núi Chí Linh vào năm 1419. Trước tình
thế hiểm nghèo, Lê Lợi họp các tướng và nói: “Bây giờ ai có thể làm được như Kỷ
Tín ngày xưa, thay ta chịu cho giặc bắt thì mới giải được nguy này. Công đức ấy
sau này sẽ có sử xanh ghi chép. Chưa dứt lời thì một tướng đã đứng ra khảng khái
tình nguyện, đó là Lê Lai rồi mang 500 trăm quân với hai thớt voi xông ra mặt trận,
tự xưng là chúa Lam Sơn. Hôm Lê Lai chết vì nạn nước, trời sầu đất thảm, mưa gió
không thôi. Bọn giặc vui mừng vì đã bắt được thủ lĩnh nghĩa quân, nhờ đó Lê Lợi
và các tướng đã rút được ra ngoài. Lê Lợi vạch gươm lên núi mà thề sẽ báo thù cho
Lê Lai và sẽ nhớ ơn ông mãi mãi. Sau này, trước khi mất, Lê Lợi dặn dò con cháu
phải làm lễ giỗ Lê Lai trước ông một ngày nên có câu thành ngữ “hăm mốt Lê Lai,
hăm hai Lê Lợi” và ông còn nhớ tới mụ hàng Dầu nên còn dặn con cháu phải giỗ
Mụ hàng Dầu sau ngày giỗ ông vì vậy mà tiếp theo câu thành ngữ trên, còn có câu:
“hăm ba giỗ Mụ hàng Dầu” [61, tr 32- 33].
Ngoài câu chuyện trên, bà con vùng Ngọc Lặc còn kể tiếp về ông như sau:
Khi Lê Lai bị giặc bắt, chúng đưa ông tới một cái cầu thì ông đã kiệt sức. Chúng
chém chết và bêu đầu ông ở một gốc cây đa để uy hiếp tinh thần nghĩa quân và nhân
dân. Nhưng đêm ấy, dân làng đã bí mật lấy trộm lại đầu và thây ông. Họ đem về
mai táng trong một khu rừng rậm cách đấy không xa. Đêm đưa đám, bất chấp đồn
giặc gần kề, nhân dân đã tới rất đông, chen chúc nhau khắp cả mặt đường và thôn
xóm. Chỗ ấy sau này dân làng gọi là làng Chen, còn chiếc cầu đã chứng kiến lũ giặc
giết ông thì được gọi là cầu Lai.
Trong truyền thuyết “núi Dầu” có ghi lại chuyện Nguyễn Trãi dò đường tìm
đến Lam Sơn để đầu quân cho Lê Lợi. Trong vai một anh hàng dầu và một cậu thư
sinh, ông cùng Trần Nguyên Hãn đến được Lam Sơn rồi ra mắt Bình Định Vương,
được Lê Lợi thu dụng và từ đó đi theo nghĩa quân, lập được nhiều công trạng. Còn
62
truyền thuyết “Nguyễn Trãi đi tìm minh chủ” có ghi: Một hôm ông và Trần Nguyên
Hãn gặp nhau thì trời đã tối, vào ngủ ở đền Chèm. Nửa đêm họ mộng thấy ông
Thánh Chèm trò chuyện với mấy vị thần khác. Các thần mời thánh Chèm đi dự hội
trên thiên đình, bàn việc nhân gian. Thánh Chèm từ chối, lấy cớ rằng ở nhà có
khách là 2 vị quan Hành Khiển và quan Quốc công đến trọ, đi vắng sợ thất lễ. Khi
ấy vị thần kia trở về, lại ghé thăm đền. Thánh Chèm hỏi ông việc nhà trời hôm nay
có gì mới thì các vị đều đồng thanh trả lời: - Thượng đế thấy nước Nam không có
chủ, nên đã sai Lê Lợi làm vua rồi. Sáng mai ngủ dậy, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên
Hãn cho là linh thiêng, nên càng quyết tâm đi tìm vị động chủ đất Lam Sơn” [61, tr
11- 12].
Ngoài ra, ở Hải Lịch, Thọ Xuân ngày nay vẫn còn lưu truyền câu chuyện về
tài năng của Lê Văn Linh, người có thể trò chuyện, giao tiếp với muông thú. Truyền
thuyết kể lại rằng: hồi ấy ở Lam Sơn xuất hiện một con cọp dữ luôn luôn vào trại ấp
bắt lợn gà và vồ người. Con cọp tinh ranh bao lần thoát khỏi bẫy của phường săn.
Lúc bấy giờ có một nho sinh là Lê Văn Linh là học trò nghèo, nổi tiếng văn giỏi thơ
hay ở thôn Hải Lịch xin bà con cho mình đi trừ cọp. Ông chỉ xin với dân ấp tổ chức
một buổi tế lễ linh đình để đọc bài văn đuổi cọp cho trang trọng... Đến buổi tế, ông
trang trọng đọc bài văn với lời lẽ gay gắt, nhịp điệu hùng hồn, tiếng nói dõng dạc
làm cho những người đứng xung quanh náo nức, phấn chấn. Làm lễ xong, ông cho
ném tất cả cỗ bàn vào những lối đi thường ngày của cọp. Kỳ lạ thay, từ hôm ấy đến
mãi về sau không hề thấy bóng dáng của chúa sơn lâm đâu nữa [61, tr 17- 18].
Qua các truyền thuyết có liên quan đến các nhân vật hội thề Lũng Nhai, NCS
nhận thấy: nhìn chung, nét đặc trưng của nhóm truyền thuyết liên quan đến các
nhân vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa thể hiện tính chuỗi đậm, tính hư cấu nhạt
và là một bộ phận trong chuỗi truyền thuyết Lam Sơn đang được lưu hành tại địa
phương. Chính bởi tính hư cấu nhạt cho nên các truyền thuyết này gần hơn với dã
sử và phạm vi lan tỏa cũng ít hơn, hẹp hơn. Đồng thời, do bị chi phối bởi tính cộng
đồng địa phương và đặc điểm của tính vùng, cho nên có thể thấy đa phần các truyền
thuyết về các nhân vật hội thề Lũng Nhai có xuất xứ quê hương xứ Thanh được
63
người dân lưu truyền nhiều hơn, có mức độ lan tỏa cao hơn so với các nhân vật
người ngoài địa phương trong danh sách người tham gia hội thề năm 1416. Qua các
thời kỳ lịch sử, các truyền thuyết này không ngừng được lưu truyền và củng cố, gắn
chặt với hệ thống thờ cúng, các nghi lễ và tập tục tạo nên tính chất lịch sử đậm đặc
cũng như tính cộng đồng địa phương trong diễn xướng truyền thuyết lịch sử. Mặc
dù vậy, có thể nói các truyền thuyết này là một cách thể hiện cảm quan về lịch sử
của cộng đồng và nó góp phần đưa đến một cái nhìn sâu vào lịch sử.
2.2.2. Sắc phong
Các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai sau khi mất đã được các
vương triều cấp sắc, phong thần, hoạt động này diễn ra mạnh mẽ dưới thời Lê,
Nguyễn. Qua khảo sát cho thấy, các thần sắc này được phong nhiều vào thời Lê
Trung Hưng dưới các triều vua Lê Anh Tông, Lê Thần Tông, Lê Hiển Tông, Lê
Chiêu Thống cho các vị như Lê Hiểm, Trương Lôi, Trương Chiến, Lê Văn
An…Chắc chắn nhà Lê đã sắc phong cho không ít nhân vật tham gia hội thề Lũng
Nhai. Tuy nhiên, theo thời gian, di vật đã mất mát, chúng tôi không có điều kiện để
kiểm chứng và khảo cứu được. Các sử liệu cho biết, nhiều nhân vật tham gia hội thề
Lũng Nhai sau khi mất được nhà Lê cho phép con em lập đền thờ, ghi công trạng và
do vậy việc cấp sắc cho các vị là có cơ sở thực tiễn. Chẳng hạn như rất nhiều công
thần khởi nghĩa Lam Sơn cùng với các nhân vật hội thề Lũng Nhai đã được vua Lê
Thái Tổ phong tước, ban thưởng rất hậu hĩnh và xuyên suốt các triều vua từ Hồng
Đức về sau, đặc biệt dưới thời Lê Trung Hưng, việc cấp ruộng mộ điền và ruộng tự
điền cho nhiều nhân vật như Trịnh Khả, Võ Uy, Lê Thận, Lê Văn Linh, Lê Văn An,
Lê Hiểm, Trương Lôi…đã được nhắc đến.
Trong số các sắc phong thần cho nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai thì sắc
cho Lê Lai và Trịnh Khả có lẽ là sớm nhất. Các sắc phong này được cấp dưới thời
Hồng Đức. Sắc phong thời Hồng Đức ở đền An Lạc nay vẫn giữ được. Còn sắc
phong Lê Văn Linh vào năm Hồng Đức thứ 2 (1489) thì đến nay không còn, chỉ có
thể ghi nhận là được tài liệu sử sách có nhắc đến. Ngoài ra, phần lớn các sắc phong
64
còn lại là ở thời nhà Nguyễn dưới các triều vua Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái,
Khải Định.
Các sắc phong có đặc điểm luôn ghi danh hiệu “bình Ngô khai quốc”, “khai
quốc công thần” hoặc “công thần” đối với các nhân vật và ghi rõ tước vị như
“huyện thượng hầu”, “thượng đình hầu”, “quốc công” hay “thái úy”…
Qua khảo sát tại các di tích thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai, còn lại một
số sắc phong đáng lưu ý như sau:
- Sắc cho công thần Lê Hiểm: còn giữ được đến 25 đơn vị đạo sắc, trong đó
gồm có: 1 đạo sắc ngày 17 tháng 5 niên hiệu Chính trị nguyên niên (1557) đời vua
Lê Anh Tông; 1 sắc phong ghi ngày 11 tháng 11 năm Vĩnh Tộ thất niên (1625) đời
vua Lê Thần Tông; 9 đạo sắc thời Lê Cảnh Hưng; 2 đạo sắc thời Lê Chiêu Thống và
12 đạo sắc thời Nguyễn.
- Lê Lai: 1 sắc ghi niên hiệu Hồng Đức và 1 sắc phong ngày 25 tháng 7 năm
Khải Định thứ 9 (1925).
- Trịnh Khả: 1 sắc phong niên hiệu Tự Đức thứ 3 (1850), 1 sắc phong niên
hiệu Thành Thái thứ 2 (1890), 1 sắc phong niên hiệu Khải Định thứ 2 (1917) và 2
sắc phong niên hiệu Khải Định thứ 9- 1924 (năm Khải Định thứ 9 được sắc phong 2
lần).
- Lê Văn An: 3 đạo sắc, trong đó có 1 đạo sắc phong thần thời vua Lê Hiển
Tông (1740), 2 đạo sắc thời Nguyễn, một ghi niên hiệu Duy Tân và 1 sắc cấp vào
ngày 30 tháng 3 niên hiệu Thành Thái thứ 3.
- Trương Lôi, Trương Chiến: 2 đạo sắc được cấp cùng ngày 2 tháng 7 năm
Cảnh Hưng thứ 14 (1753) cho Lê Lôi và Lê Chiến (quốc tính vua Lê ban).
Các sắc phong cho nhân vật hội thề Lũng Nhai với nhiều cấp như “trung
đẳng thần”, “thượng đẳng thần”, “đại vương” như sắc cho Lê Lai dưới thời Nguyễn.
“Công thần…Thái bảo hồng quốc công” như sắc cho Lê Hiểm. “Thượng đẳng phúc
thần” cho Lê Văn An dưới triều Lê Hiển Tông.
Một số tài liệu, chủ yếu sách Địa chí địa phương còn cho biết thêm: Lê Văn
Linh được triều Lê Sơ gia phong là: “Thượng đẳng phúc thần, minh nghị quảng
65
bác, kinh văn dĩ võ, mậu đức phong công, hồng lược anh linh, tế thế an dân, bảo
chính đại vương, ban thụy là Trung Hiếu” [96, tr 34]. Đáng tiếc là trong quá trình
điều tra, khảo sát tại xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân, chúng tôi không còn thấy bản
sắc phong quý giá này còn lưu giữ tại đền thờ của dòng họ. Còn trong khi khảo sát
tại đền thờ Trương Lôi, Trương Chiến, những người trong dòng họ cho biết, thời
Nguyễn đền thờ còn được cấp 4 đạo sắc phong, song đến nay đã bị thất lạc, do ông
trưởng tộc khi đó làm lý trưởng đã đưa cho quan tri huyện Tĩnh Gia và ông này đã
không đưa lại. Hai sắc phong còn lại từ thời Cảnh Hưng nay thì có một số chỗ bị
rách nhưng phần gia phong và chữ lạc khoản vẫn rất sắc nét, hiện vật vẫn còn đặc
trưng giấy bản và hoa văn thời Hậu Lê.
Có thể nói, mặc dù số lượng sắc phong cho các nhân vật lịch sử tham gia hội
thề Lũng Nhai đến nay đã bị thất lạc phần lớn. Song những sắc phong thuộc loại
sớm như thời Hồng Đức hoặc các thời vua Lê Anh Tông, Lê Hiển Tông, Lê Thần
Tông đã cho thấy đến thời kỳ này, các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai
đã được triều đình ghi nhận đóng góp của họ và cấp sắc phong thần để giao trách
nhiệm cho địa phương, làng xã phụng thờ như bậc thánh linh an dân, hộ quốc. Và
đó cũng là những căn cứ xác thực về thời điểm xuất hiện trong di tích thờ cúng của
các nhân vật.
Nhìn chung, thông qua hệ thống thần sắc của các triều đại gia phong cho
nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai cho thấy. Sau khi các vị mất đi đều được triều
đại tôn vinh, truy tặng tước hiệu và cấp sắc phong thần, cho phép con cháu lập đền
thờ cúng tại bản quán. Nội dung cơ bản của các bản sắc phong này là ngợi ca công
trạng của các nhân vật công thần, ca ngợi sự trung thành với vương triều Lê, với
nhiều mỹ tự được phong tặng dành cho sự can đảm, chính trực, trung dũng của nhân
vật.
2.2.3. Gia phả
Trong số các tư liệu lưu trữ về các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai năm
1416 ở Thanh Hóa thì mảng gia phả chiếm một số lượng khá tương đối. Đến ngày
nay, những gia phả này vẫn còn được gìn giữ, bảo lưu trong làng xã, dòng họ con
66
cháu các vị công thần khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa như gia phả dòng họ Lê
Thái Tổ, Lê Lai, Nguyễn Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Võ Uy, Lê
Hiểm, Lê Liễu. Một số nhân vật khác như Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Bùi Quốc
Hưng, Trương Lôi- Trương Chiến, Nguyễn Lý...còn gia phả ở các địa phương trong
nước như Hà Nội, Thái Nguyên, Hà Tĩnh...Ngoài ra, vẫn còn phải kể đến gia phả
một số dòng họ công thần khác như gia phả họ Đinh Liệt, Đinh Lễ, Đỗ Bí ở Nông
Cống, họ Lê Sát ở Yên Định...mặc dù không phải là nhân vật hội thề Lũng Nhai
nhưng các thông tin chứa đựng trong đó cũng một phần gián tiếp đề cập đến các
nhân vật có liên quan đến hội thề Lũng Nhai và các sự kiện khởi nghĩa Lam Sơn.
Phần lớn các gia phả về các nhân vật hội thề Lũng Nhai được vâng sao hoặc
tập sao dưới đời các vua Tự Đức, Đồng Khánh, Khải Định thời nhà Nguyễn. Một số
gia phả được có niên đại khá sớm như: gia phả dòng họ Lê Lai ở Hoằng Hóa sao
năm Cảnh Hưng thứ 5 (1745), Lê triều Ngọc phả (dòng họ Lê Thái Tổ) soạn năm
Cảnh Hưng thứ 45 (1784), gia phả họ Võ Uy (Thanh Hóa chư trang Vũ tộc thế phả)
được cho là soạn vào tháng 9 năm Cảnh Trị thứ 2 (1664) đời vua Lê Huyền Tông,
tuy nhiên đây chỉ là bản chữ Nôm, bản chữ Hán hiện nay không còn.
Qua khảo sát của NCS, các bản gia phả này có nội dung cơ bản là chép về
nguồn gốc tộc họ của các nhân vật đã tham gia hội thề Lũng Nhai. Khác với tộc giả
nhiều dòng họ khác, các gia phả này còn có nội dung ghi lại một số sự kiện của khởi
nghĩa Lam Sơn có liên quan đến vị thủy tổ của dòng họ mình. Đặc biệt là, sự kiện
hội thề Lũng Nhai cũng như vị trí, thứ tự của vị thủy tổ và các nhân vật khác trong
hội thề cũng được miêu tả đầy đủ. Không những vậy, thông qua thông tin đề cập
trong gia phả, còn thấy được sự phát triển của dòng họ các nhân vật khởi nghĩa Lam
Sơn nói chung, các nhân vật hội thề Lũng Nhai nói riêng xuyên suốt từ khởi nghĩa
Lam Sơn đến thời Lê- Trịnh về sau. Nhiều nội dung thông tin trong các bản ghi phả
này, sau khi đối chiếu với các nguồn tư liệu chính sử cũng thấy có sự đồng nhất như
tên họ, xuất thân, quê hương, quốc tính, tước hiệu vua đã Lê ban thưởng.
Bản Lê Triều ngọc phả, soạn năm Cảnh Hưng thứ 41 (1780) thời Lê Hiển
Tông chép từ Thái Tổ Cao hoàng đế Lê Lợi đến đời vua Lê Hiển Tông. Sang thời
67
Nguyễn thì được chép thêm vua Lê Chiêu Thống. Ngoài việc chép đầy đủ thế thứ
hoàng tộc, các ngày kỵ giỗ những người trong họ của hoàng triều. Bản gia phả ghi
nhận công đức to lớn của Lê Lợi, vị tiên tổ khai sáng vương triều. Điều này được
chính vua Lê Hiển Tông viết: “Hoàng triều ta từ khi dấy binh ở Lam Sơn, sự nghiệp
thật gian nan, được nước thật chân chính, công tích bày tỏ trong Thực lục sáng tỏ
khắp trước sau” [64, tr 92]. Qua gia phả chép về Lê Lợi trong Lê Triều Ngọc Phả
cho thấy, có nhiều thông tin trùng lặp đã được Lam Sơn thực lục và Đại Việt sử ký
toàn thư chép lại như Đế nhận được gươm thần, ấn báu; tìm đất táng tổ tiên ở xứ
Phật Hoàng, động Chiêu Nghi; chuyện thần Cáo trắng; truyện Lê Lai chết thay vua;
chuyện đế lên ngôi, sai Nguyễn Trãi viết Bình Ngô Đại Cáo...Sự miêu tả từ gia phả
cho thấy sự hòa quyện giữa các thông tin chính sử lẫn giả sử- một điều gắn chặt với
quá trình khởi binh, dựng nghiệp trong cuộc đời ông.
Gia phả họ Lê công thần của hậu duệ dòng họ Lê Lai ở xã Hoằng Hải
(Hoằng Hóa) cho biết nhiều thông tin quý giá. Ngoài ghi chép thế thứ và những
người trong họ tộc. Gia phả cũng miêu tả kỹ về hội thề Lũng Nhai và lời thề của các
tướng sỹ (đồng chí), con cháu công thần khai quốc đồng lòng nhớ ơn Lê Lai. Ngoài
ra, gia phả còn cho biết, thời Lê Thánh Tông, Lê Niệm là cháu nội công thần Lê Lai
và các con cháu được triều đình ân sủng, ban cho 100 quân sỹ về đóng trại ở Hoa
Sơn (nay là núi Linh Trường, huyện Hoằng Hóa) để khai khẩn và lập trang ấp bảo
vệ đường thủy từ Sơn Nam đến Quảng Nam. Từ đó con cháu ông mới chọn đất
Hoằng Hóa làm nơi lập cư. Về công thần Lê Lai, gia phả chép: “Tiên tổ nguyên
sách Dựng Tú, thôn Bộ Đạo, cha là Lê Kiều, mẹ là Thị Kiệu, sinh 2 con trai, Lê Lai
là con thứ, cùng Thái Tổ khởi nghiệp ở đất Lam Sơn, chống quân Minh, sau bị trận
vong” [65, tr 120- 121]. Nói chi tiết về cái chết của Lê Lai, gia phả ghi lại: “Ngày
9...bị bức vây. Vua và quân ở núi Lạc Thủy, trong lúc đánh nhau với giặc ở xứ Mỹ
Mỹ, tình thề bức bách gian nan phải phá vòng vây, vua khiến Lê Lai mặc áo bào
thay vua, về sau lệnh vua có lời thề về sau này con cháu đều được hưởng phú quý”
[65, tr 122]. Đồng thời cho biết các con ông Lê Lư, Lê Lộ, Lê Lâm cả ba đều nối
nghiệp nhà, theo chí người đi trước, tận trung hết lòng vì việc nước giúp Thái Tổ
68
Cao hoàng đế bình dẹp giặc Ngô, về sau con cháu các ông đều được nhà Lê hết sức
ân sủng.
Về công thần Võ Uy, một người theo Lê Thái Tổ rất sớm, sau bị trận vong,
được vua Lê cho thờ ở đền Cham. Về sau, ông là một trong số ít công thần có con
cháu được các các vua Lê nâng đỡ, trọng dụng. Nội dung gia phả cho biết, đến đời
Võ Thời An (thời Lê- Trịnh), con cháu ông là một trong những dòng họ công thần
được ban cấp nhiều lộc điền, trang ấp nhất trong số những công thần khởi nghĩa
Lam Sơn ở Thanh Hóa với trên 47 trang ấp khắp Thanh Hóa như Nga Sơn, Hậu
Lộc, Hà Trung, Hoằng Hóa, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc, Nông Cống, Yên Định...Về vị
thủy tổ dòng họ Võ, gia phả chép: “Thủy tổ (Võ Uy) theo giúp Lê Thái Tổ khởi
nghĩa Lam Sơn, có công bình Ngô khai quốc, được phong Thiếu úy Tuy quốc
công...” [144, tr 150]. Theo Thế phả họ Vũ các trang ở Thanh Hóa còn cho rằng Võ
Uy trước là người gốc Chiêm Thành, sau theo giúp Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn,
đánh đuổi giặc Minh [144, tr 150- 151]. Tuy nhiên, tài liệu dẫn từ gia phả họ Võ ở
Nông Cống được Địa chí huyện Nông Cống khảo sát lại cho thấy gia phả không
thấy ghi ông là người gốc Chiêm. Tài liệu ngờ rằng ông có lẽ là người Việt ở đất
Chiêm lâu đời, sau trở về Vĩnh Lộc [51, tr 530].
Trong gia phả họ Lê- Trần ở Hải Lịch (Thọ Xuân) cho biết khai quốc công
thần Lê Văn Linh vốn gốc họ Trần, sau được Lê Thái Tổ ban quốc tính nên mang
họ Lê. Dòng họ Lê Văn Linh phát đạt và phân chi ở nhiều nơi, mỗi chi có một đền
thờ và gia phả riêng.
Gia phả dòng họ Khắc quốc công Lê Văn An, chép thế thứ dòng họ ông và
không quên đề cập sâu về sự kiện hội thề Lũng Nhai năm 1416 cũng như các trận
đánh mà ông tham gia. Nhắc về sự kiện năm 1416, gia phả cho biết ông cùng với
các tướng và Lê Lợi bí mật tụ họp ở một nơi hẻo lánh gọi là Linh Sơn. Gia phả họ
Lưu Nhân Chú (Vân Yên, Đại Từ) thì cho biết: ba cha con Lưu Trung, Lưu Nhân
Chú và Phạm Cuống từ Thái Nguyên lặn lội tìm vào Lam Sơn từ rất sớm. Khi ba
người đến gặp Lê Lợi, lúc ấy Lê Lợi mới khoảng 25 tuổi (khoảng năm 1409-1410).
Được Lê Lợi đón tiếp nồng hậu và coi như người nhà, ba người quyết định ở lại đất
69
Khả Lam (Lam Sơn) cùng Trương Lôi cày ruộng để làm kế sinh nhai và cùng Lê
Lợi mưu việc lớn [144, tr 158- 159]. Thuật lại chuyện được minh chủ thu dùng, gia
phả kể lại như sau: Hôm sau, ba người đến yết kiến (Lê Lợi), nói thác rằng: “Nghe
lời đồn đại quan nhân là người nhân nghĩa, có lượng cả bao dung, xin làm bề tôi, có
chỗ dung thân, mong được nhờ cậy”. Vua mới hỏi tên tuổi, quê quán ở đâu? Làm
sao mà đến đây? Bọn Lưu Trung tình thực trình bày: “Vốn trước kia cha ông chúng
tôi là quan phiên trấn, quê ở hai xã Văn Lãng và Thuận Thượng, vì bị quân Ngô bạo
ngược, cho nên ẩn giấu tông tích làm nghề bán dầu, tìm thẳng đến quan nhân, mong
được dung nạp”. Vua nói chuyện với ba người rất vui, tiếp đãi rất hậu. Từ đó ba
người thường qua lại, khi thì ở với vua, lúc lại cày ruộng ở động Chiêu Nghi với
Trương Lôi. Trong nhà có việc gì tin cẩn đều giao phó cho hết. Sau này Lê Lợi tổ
chức lễ ban thưởng công thần, gia phả cho biết, Lưu Trung được ban 100 mẫu lộc
điền, còn Phạm Cuống và Lưu Nhân Chú mỗi người được ban 500 mẫu. Đây là
bổng lộc rất lớn so với mức ban thưởng lúc bấy giờ mà không phải bất cứ bậc công
thần nào cũng có được [144, tr 168].
Ngoài một số gia phả nhân vật hội thề Lũng Nhai đã được NCS khảo sát, còn
lại không ít gia phả của các dòng họ công thần Lũng Nhai khác đang được lưu giữ
trong dòng họ con cháu hậu duệ các công thần ở Thanh Hóa và các địa phương
trong nước như: gia phả họ Đinh, họ Đỗ Bí, họ Lê Hiểm ở Nông Cống, gia phả họ
Lê Sát ở Yên Định, gia phả dòng họ Nguyễn Mậu (con cháu hậu duệ Lê Thận) ở
Thọ Xuân, gia phả dòng họ Lê Liễu ở Hoằng Hóa...Một số địa phương khác trong
nước còn có gia phả dòng họ Nguyễn Nhị Khê (con cháu Nguyễn Trãi), gia phả họ
Bùi Quốc Hưng ở thôn Đạo Ngạn, Chương Mỹ (Hà Nội), gia phả họ Trịnh Khả
(Trịnh tộc gia phả) ở Cự Đà, Thanh Oai (Hà Nội)...cũng như không ít gia phả các
dòng họ nhân vật khởi nghĩa Lam Sơn khác còn đề cập đến nhiều thông tin hết sức
quý giá, có liên quan đến cuộc đời, hoạt động của các nhân vật hội thề Lũng Nhai
năm 1416. Nhìn chung, các bản tộc phả này có những điểm tương đồng là, ngoài
việc ghi lại các thông tin quan trọng về nguồn gốc xuất xứ gia tộc, thủy tổ và thế
thứ, ngày sinh, húy kỵ của những người trong tộc họ, việc cúng bái, tế tự, văn khấn,
70
khu mộ,... Các gia phả này đều dành một dung lượng đáng kể để ghi chép các thông
tin liên quan đến các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai (phần nhiều thông
tin tương đồng nhau, nhưng cũng có không ít sai biệt, cần được kiểm chứng thêm
chẳng hạn như thời gian, danh sách người tham gia hội thề trong các gia phả mỗi
bản mỗi khác). Các thông tin này đều chú trọng vào một số nội dung như: đề cập về
ngày sinh, mất, chiến công, tước hiệu của tổ tiên. Đặc điểm dễ nhận thấy trong các
bản gia phả này là không thể thiếu được các ghi chép về hội thề Lũng Nhai năm
1416 và các truyền thuyết khác như: chuyện gươm thần, ấn báu; Lê Lai liều mình
cứu chúa, thời kỳ hoạt động của quân Lam Sơn ở vùng rừng núi Thanh Hóa…việc
ban tước, thưởng công của vua Lê Thái Tổ cho các công thần sau Khởi nghĩa Lam
Sơn.
2.2.4. Bia ký
Cho đến nay, những bia ký liên quan đến các nhân vật tham gia hội thề Lũng
Nhai năm 1416 còn lại khá ít ỏi. Trong 19 nhân vật thì chỉ ghi nhận có 4 người
được thờ cúng còn lại bia ký gồm: Lê Lợi, Trịnh Khả, Lê Văn Linh và Võ Uy.
Riêng đền thờ và lăng mộ Võ Uy có đến 3 văn bia. Tuy văn bia về mặt số lượng
không nhiều, song giá trị và nội dung bia ký lại là nguồn tài liệu vô giá góp phần
khẳng định công trạng, cuộc đời và sự nghiệp của các nhân vật.
Nổi tiếng về giá trị tư liệu có thể kể đến văn bia Vĩnh Lăng ở Lam Sơn. Toàn
bộ nội dung văn bia ghi về ngày mất, ngày an táng và ca ngợi công lao của Lê Lợi
bình định giặc Minh trong 10 năm. Về nguồn gốc xuất thân của Lê Lợi. Văn bia
viết: “vua họ Lê, tên húy là Lợi, tổ ba đời tên húy là Lê Hối, người phủ Thanh Hóa.
Thường ngày đến chân núi Lam thấy chim bay lượn giống vẻ đông người tụ họp,
bèn rời nhà đến ở, sau ba năm thì thành sản nghiệp” [111, tr 134, PL3, tr 181].
Đồng thời văn bia cũng cho biết, Lê Lợi vốn là một người khác thường, có chí
hướng giải phóng đất nước quê hương: “Tuy gặp thời loạn mà chí lại càng bền, giấu
mình chốn núi rừng, lấy việc cấy cày làm nghiệp. Vì phẫn nỗ lũ cường tặc hung
bạo, càng chuyên tâm vào thao lược binh thư, dốc hết nhà cửa khoản đãi tân khách”
[111, tr 135, PL3, tr 181]. Đoạn sau của văn bia nói về hoạt động của Lê Lợi, kể từ
71
lúc khởi binh năm Mậu Tuất (1418) đến khi Vương Thông đầu hàng (1427) với vô
vàn chiến công anh dũng. Văn bia cũng đánh giá về tầm nhìn thao lược của ông, sau
chiến tranh, giữ tình hòa hiếu lân bang với quân Minh, cấp hàng trăm thuyền, lương
ăn và ngựa cũng như tha tội chết cho hàng ngàn tù binh đầu hàng. Uy quyền của
vua làm cho các chư hầu Ai Lao, Chiêm Thành nể sợ, quy phục. Đó chính là tính
cách khoan dung, độ lượng mang tầm vóc của đấng quân vương. Điểm đặc biệt của
văn bia là lời ca ngợi đó xuất phát từ những người đồng chí cùng vào sinh ra từ với
ông, một nhân vật hội thề Lũng Nhai nổi tiếng là Nguyễn Trãi. Cảm thán trước công
đức to lớn của một vị vua khai sáng, giành lại giang sơn từ quân giặc tàn bạo, văn
bia kết luận: “vua thức khuya, dậy sớm phàm thảy sáu năm mà đất nước thịnh trị,
đến nay thì băng hà” [111, tr 136, PL3, tr 182]. Có thể nói, sau hơn 600 năm kể
ngày Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, những thông tin đề cập trong văn bia
Vĩnh Lăng phản ánh khá chân thực các thông tin mà trước đó các sách sử như Đại
Việt sử ký toàn thư, Lam Sơn thực lục, Đại Việt thông sử đã đề cập. Đó là nguồn
gốc xuất thân, quê hương, gia đình và vai trò lãnh đạo các trận đánh của ông trong
khởi nghĩa Lam Sơn.
Trong số các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai, số bia ký có liên quan
đến công thần Võ Uy còn lại đến nay gồm 3 đơn vị gồm: Thanh Ban bi ký, Đa Căng
lăng mộ bi chí và Đa Căng miếu bi. Đây có lẽ là số bia nhiều nhất được ghi nhận có
đề cập trực tiếp về một nhân vật của hội thề Lũng Nhai. Trong Thanh Ban bi ký
dựng ở xã Vạn Hòa (huyện Nông Cống) lập ngày mồng 1 tháng 2 năm Cảnh Trị thứ
5 (1664), đời vua Lê Huyền Tông với nội dung ghi từ Tiền tổ nhập nội Thiếu úy Võ
Uy có công bình Ngô khai quốc, đến 6 thế hệ tiếp theo đều có công phù Lê diệt
Mạc, được phong tước hầu. Mở đầu Văn bia viết như sau:
“Nhâm Thìn niên, Đặc tiến Khai phủ doãn đồng tam ty Nhập nội Bình
chương Thái phó kiểm hiệu quân quốc trọng sự, tiền cổ khai quốc trung hưng công
thần, Thiếu úy Tuy quốc công Võ Uy, tứ quốc tính Lê Uy.
Sinh Bổ Thịnh hầu Võ Thời An: Sinh nhị nam Chấn Dũng hầu Võ Đình
Tung, Khánh Khê hầu Võ Đình Thắng: sinh Hào Lục hầu Võ Đình Tiến: sinh Triêu
72
Lễ hầu Võ Đình Lâm: sinh Triêu Định hầu Võ Đình Nghiêm ốc cư Nông Cống, Lôi
Dương,Thụy Nguyên, Yên Định đẳng huyện tôn tính Trưởng chi Võ Đình Đạt, Thứ
chi Võ Đình Trọng, Võ Đình Nghị đẳng..”
Tạm dịch: Năm Nhâm Thìn, Đặc tiến khai phủ doãn đồng tam ty nhập nội
bình chương Thái phó kiêm hiệu quân quốc trọng sự, trước đây khai quốc trung
hưng công thần, Thiếu úy Tuy quốc công Võ Uy được ban quốc tính là Lê Uy. Võ
Uy sinh ra Võ Thời An, Võ Thời An sinh ra Võ Đình Tung, Võ Đình Thắng…[51,
tr 475- 476].
Văn bia ghi lại vai trò của Võ Uy thời kỳ hoạt động ở Lam Sơn như sau:
Tiền cao tổ cố thiếu úy Tuy quốc công vâng hầu Thái Tổ Cao hoàng đế năm Thìn
(1424), nhiều lần sai phái lên trước, phá trận Trấn Năng, vâng lệnh bắt được voi,
ngựa, chiêng trống, cờ quạt, khí giới, bắt được tướng ngụy, lại đuổi chúng đến hết
các huyện Thụy Nguyên, Nông Cống, Lôi Dương, Yên Định...quét sạch giặc Ngô,
hy sinh trước trận tiền, có công ở triều đình [51, tr 476]. Còn trong Đa Căng lăng
mộ bi chí dựng năm Thành Thái triều Nguyễn năm 1892 có nhắc đến mộ gốc của
Võ Uy ở Lam Sơn, về sau con cháu nối nghiệp mở mang nên dời họ về vùng Vạn
Hòa (Nông Cống), bia ghi: “Mộ chí tỵ tổ ta ở Đa Căng là cổ lắm. Từ xưa đến nay
hàng năm lễ đón xuân, có người trong họ than thở, kính cẩn xét Văn tổ Võ quốc
công ta lớn mạnh, buổi đầu dụng binh thuộc Lê Thái Tổ được nhận phong Nhập nội
Thiếu úy. Về sau đánh giặc Minh ở Trấn Năng, định chí Nông, Thụy, Yên, Lôi các
huyện. Riêng dùng sức mạnh bẻ gãy quân địch, báo đền ơn nước. Triều đình phong
tặng là bậc công thần mở nước thượng tướng quân, Thiếu úy, Thái quốc công, tính
trung tiết” [51, tr 478]. Tấm bia thứ 3 là Đa Căng miếu bi thì chủ yếu lược ghi gia
phả họ Võ từ khi con ông là Võ Thời An gặp chúa Trịnh Kiểm, dẹp giặc Mạc, được
phong thưởng số lượng lớn các lộc điền, trang ấp ở Thanh Hóa.
Bia Đại Nam quốc Thái úy từ đường bi minh ở xã Vĩnh Hòa (huyện Vĩnh
Lộc) soạn năm 1447 đời vua Lê Nhân Tông cho biết các thông tin về quê quán, tên
tuổi của công thần Trịnh Khả. Ông còn có tên gọi khác là Trịnh Công Khả. Dòng
dõi trước có công chống quân Nguyên Mông. Nghe tin Thái Tổ phất cờ tụ nghĩa,
73
ông đến xin gia nhập, vua cho nhận chức Trì khu, ban thêm cho chức Thái giám nội
ngoại đi sứ các lộ Nghệ An, Diễn Châu, Tây Kinh. Văn bia cũng đánh giá Trịnh
Khả là bậc nguyên lão đại thần dưới ba triều Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông. Được
ban cho túi vàng, phù hiệu bạc, tước Quận thượng hầu, rồi lại tước Liệt quốc công
[111, tr 156- 157, PL3, tr 182]. Trong bia Tặng thư quận công thần đạo bi dựng đời
Hồng Đức thứ 28 (1497) ghi về ông Trịnh Công Đán, người huyện Vĩnh Ninh, trấn
Vĩnh Lộc, là con trai của khai quốc công thần Trịnh Khả. Văn bia có một phần đề
cập về công đức, sự nghiệp và xuất thân của công thần Trịnh Khả như sau: “cha tên
húy là Khả, thuở bấy giờ Lê Thái Tổ sáng nghiệp ông quyết chí theo nghiệp binh
nhung cùng xông pha trận mạc, giúp cho thiên hạ thái bình, được vua Lê Thái Tổ-
Thái Tông thăng thưởng nhiều chức tước trong triều cũng như ngoài chiến trận. Khi
vua Thái Tông tuần phủ phương Đông, mất ở ngoài, ông được trông coi mệnh lớn
lập vua Lê Nhân Tông lên kế vị” [111, tr 162].
Bia công thần Lê Sao là Hoàng Việt khai quốc công thần bi ký ở Xuân Lam
(Thọ Xuân) có nhắc đến một sự kiện liên quan đến nhân vật hội thề Lũng Nhai là
Lê Văn Linh, văn bia viết: “Thái Tổ Cao hoàng đế phất cờ dậy nghĩa, tụ họp anh tài
để trừ ác diệt tà...vua biết được lòng trung thành của ông (Lê Sao) nên rất mực mến
nhường. Giao cho cùng Thái phó Lê Văn Linh, Thị trung Lê Lễ, lập tức qua các
trang ấp sách dân mà lâu nay các vị thần quân chưa phục, kêu gọi tụ nghĩa, đóng
góp lương thực và họ đều một lòng nguyện theo” [111, tr 159]. Qua nội dung đề cập
trong đoạn văn bia này, có thể thấy ngoài việc họp bàn chính sự, bày mưu kế phá
giặc thì còn một vai trò khác của Lê Văn Linh trong khởi nghĩa Lam Sơn cũng quan
trọng không kém, là cùng các tướng khác chịu trách nhiệm “tuyên huấn”, thu phục
nhân tâm và kêu gọi sự đóng góp, ủng hộ về hậu cần của nhân dân cho nghĩa quân.
Năm 1962 ở chân núi Mục Sơn thuộc xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, bà
con nhân dân đã phát hiện một tấm bia mộ ghi “Mục Sơn Lê tộc từ chỉ bi ký” được
soạn năm Tự Đức thứ 3 (1850). Nội dung chính của văn bia này ghi về một người
họ Lê, gốc Nguyễn có tên húy là Lai, tên tự là An: “thủy tổ húy là Lai, tự là An
được ban họ Lê”. Theo bài văn bia thì người này “đã lấy thân thay Thái Tổ trong
74
cơn nguy hiểm, gần chết mà sống lại”, về sau được phong là “Suy thành tán trị hiệp
mưu bảo chính công thần trấn quốc đại tướng quân, tiến nhập nội kiểm hiệu đại tư
không thượng trụ quốc bình chương quân quốc trọng sự”, chết năm Thiệu Bình thứ
4 (1437), táng ở chân núi Mục Sơn. Mặt bên kia của tấm bia là bài sắc phong thần
cho Lê Văn An đề ngày 20 tháng 3 năm Tự Đức thứ 4 (1851) [65, tr 27]. Chúng tôi
ngờ rằng đây là tấm bia ghi công tích, sự nghiệp của Lũng Nhai công thần Khắc
quốc công Lê Văn An, bởi đối chiếu với chức tước và năm mất của Lê Văn An ghi
trong chính sử thì thấy phù hợp với bài văn bia.
Một số bia khác về các công thần khai quốc triều Lê Sơ ở Thanh Hóa như
Quốc triều tá mệnh công thần chi bi (bia công thần Nguyễn Chích) ở Đông Ninh
(Đông Sơn), Đại Việt khai quốc Khánh quận công chi bi ở xã Thọ Diên (Thọ
Xuân), Cung Vũ thạch bi (bia công thần Lê Lộng) ở Triệu Sơn ...mặc dù nội dung
chính là ghi lại công tích các công thần Nguyễn Chích, Lê Sao, Lê Lộng nhưng các
thông tin đề cập luôn nhắc đến Lê Lợi với tư cách một vị minh chúa sáng suốt, biết
thu phục nhân tâm, đồng lòng tướng sỹ cùng diệt giặc. Hơn nữa, các thông tin về
những sự kiện quan trọng trong khởi nghĩa Lam Sơn được đề cập cũng cho ta hình
dung được sự tham gia và công lao của nhiều công thần khởi nghĩa Lam Sơn khác,
trong đó có các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai.
Tiểu kết
Trên cơ sở phân tích, so sánh thông tin ghi chép về các nhân vật tham gia hội
thề Lũng Nhai năm 1416 có trong các tài liệu sách sử để đi đến phác thảo chân dung
lịch sử của các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416, chủ yếu dưới góc độ
khảo sát tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp của nhân vật. Đặc biệt là các hoạt động của
họ trong thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn. Đồng thời, có một số nhân vật sau này đã
tham gia sâu vào hoạt động chính trị thời Lê Sơ như các ông Trịnh Khả, Nguyễn
Trãi, Lưu Nhân Chú, Bùi Quốc Hưng, Lê Văn An, Lê Văn Linh...Có thể khẳng định
các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 là những nhân vật lịch sử đích
thực, họ là những người đã tham gia trực tiếp vào tiến trình phát triển của khởi
nghĩa Lam Sơn và sau này là các hoạt động chính trị của triều Lê Sơ. Đại đa số
75
những người tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416, sau này đã trở thành các tướng
lĩnh trụ cột của bộ chỉ huy quân đội Lam Sơn, sát cánh cùng Bình Định Vương Lê
Lợi lập nên những chiến công hiển hách, vang dội trong lịch sử chống ngoại xâm
của dân tộc ta. Dưới góc nhìn của các sử gia, nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng
Nhai là những con người tài năng, khí phách, cùng với tài năng lãnh đạo thao lược
của Lê Lợi và sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân trong thế kỷ thứ XV thì hoạt
động cá nhân của những nhân vật này có vai trò to lớn, trực tiếp tham gia chỉ huy
nhiều trận đánh, góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển mạnh mẽ của khởi nghĩa
Lam Sơn đến thắng lợi cuối cùng. Họ chính là những đại diện tiêu biểu để cổ súy,
đề cao tinh thần độc lập dân tộc.
Dưới góc độ khảo sát các tài liệu truyền miệng, văn bia, sắc phong và gia phả
đã cho thấy rõ thái độ đánh giá, ứng xử của nhà nước và cộng đồng đối với các nhân
vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai. Khác với các tư liệu chính sử chủ yếu đề
cập về hoạt động của các nhân vật trong khởi nghĩa Lam Sơn, truyền thuyết về các
nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai chứa đựng nhiều yếu tố ly kỳ gắn với hình
tượng vua Lê Thái Tổ và một số nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai như Lê Lai,
Nguyễn Trãi, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Nguyễn Thận…Còn các tư liệu khác như
sắc phong, văn bia cho thấy hoạt động cấp sắc, phong thần, lập đền thờ, dựng bia ký
đối với các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai sau khi các vị qua đời được nhà
nước phong kiến hết sức quan tâm. Có thể nói cùng với việc củng cố ý thức đề cao
nho giáo và coi trọng đội ngũ công thần của triều Lê cùng với sự tri ân, tôn vinh các
vị anh hùng hy sinh vì đất nước, quê hương đã dẫn đến quá trình thiêng hóa các
nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai trong cộng đồng và đây chính là tiền đề
quan trọng để định hình diện mạo của sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng.
76
Chương 3
HỆ THỐNG THỜ CÚNG CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ THAM GIA
HỘI THỀ LŨNG NHAI NĂM 1416 Ở THANH HÓA
3.1. Không gian thực hành thờ cúng
3.1.1. Các di tích thờ cúng
Các hình thức tôn vinh nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh
Hóa có biểu hiện khá phong phú, đa dạng. Đó có thể là sự hình thành và sáng tạo
các loại hình di sản văn hóa vật thể (đình, đền, miếu, lăng mộ, từ đường, sắc phong,
thần tích, văn cúng…) và di sản văn hóa phi vật thể như truyền thuyết, điện thần, lễ
hội, phong tục, kiêng kỵ khác nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của nhân dân song
cũng là một hình thức để bày tỏ lòng biết ơn, sự tự hào về công lao to lớn của các
bậc anh hùng vì dân, vì nước.
Ở Thanh Hóa, loại hình thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai
biểu hiện tập trung trong hệ thống di tích với nhiều loại hình khác nhau như lăng
mộ, đình, đền, nhà thờ (từ đường) của dòng họ, có mặt ở nhiều làng xã [PL2, tr 177-
179]. Các điểm thờ phân bố trên một không gian khá rộng, trải từ khu vực quê
hương cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (thuộc các huyện Thọ Xuân, Ngọc Lặc ngày nay)
kéo dài xuống một số khu vực các huyện vùng đồng bằng, ven biển của tỉnh [PL1, tr
176]. Ngoài ra, ở một số vùng đồng bào dân tộc Thái, Mường các huyện Bá Thước,
Lang Chánh cũng có di tích thờ cúng Lê Lợi gắn liền với các nghi lễ tưởng niệm
riêng. Trong những di tích trên, các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai được thờ
riêng hay phối thờ với các thần linh khác. Tùy thuộc vào tính chất, mức độ của đối
tượng thờ cũng như điều kiện kinh tế của từng địa phương mà có sự khác nhau về
quy mô, diện mạo của từng di tích. Về cơ bản có thể nhận thấy, các di tích thờ cúng
nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa đều mang đậm dấu ấn kiến trúc
truyền thống của người Việt từ vị trí xây dựng, bố cục mặt bằng, đặc điểm kiến trúc
đến thần điện. Mỗi loại hình di tích đều có những đặc điểm chung, đồng thời lại có
nét riêng biệt, độc đáo. Cùng với di tích, bao chứa trong đó là cả một hệ thống các
77
hiện vật, tài liệu vật thể như sắc phong, văn cúng đã góp phần tạo lập, củng cố cho
việc phụng thờ trở nên hoàn bị và duy trì bền vững.
Về loại hình lăng mộ, duy nhất chỉ có lăng Lê Lợi trong khu điện miếu Lam
Kinh là còn nguyên vẹn và quy mô hơn cả. Lăng Lê Thái Tổ hay còn gọi là Vĩnh
Lăng, nằm ngay sau điện Lam Kinh dưới chân núi Dầu. Mặt bằng của khu lăng rộng
khoảng chừng 500m2, kích thước lăng là 24,7m x 24m, nằm trên đường thần đạo
của khu điện miếu Lam Kinh. Với các linh thú bằng đá rất ngộ nghĩnh như voi, hổ,
lân, tê giác, ngựa và quan hầu đăng đối hai bên có tỷ lệ khá nhỏ [PL8, ảnh 3, tr 227;
ảnh 23, tr 237]. Lăng Lê Thái Tổ có niên đại khởi dựng đầu thời Lê Sơ và được
đánh giá là một trong các lăng mộ thuộc loại sớm có phong cách nghệ thuật độc đáo
còn lại đến ngày nay. Ngoài lăng Lê Lợi thì trong quá trình khảo sát, NCS ghi nhận
được khá ít lăng mộ của các nhân vật hội thề Lũng Nhai khác. Hai trong số các
nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai có phần mộ là Võ Uy và Lê Văn Linh. Phần
mộ Tuy Quốc công Võ Uy tọa lạc ở làng Đa Căng, xã Vạn Hòa, huyện Nông Cống.
Theo các cụ cao niên trong làng cho biết, phần mộ trước kia tọa lạc trên một mặt
bằng khá rộng nhưng hiện nay chỉ còn gần 2000m2. Hiện nay trong khu lăng mộ
còn một miếu thờ nhỏ mới được con em dòng họ hưng công xây dựng lại, 3 tấm bia
cùng 3 bát hương đá. Khu lăng mộ này vừa mới được bà con dòng họ tôn tạo lại
[PL8, ảnh 18, tr 234]. Khác với phần mộ Võ Uy ở Nông Cống vẫn còn giữ được
dấu vết tàn tích cũ như bia đá cổ, bát hương đá, khu mộ Lê Văn Linh nằm trên cánh
đồng xã Thọ Hải (huyện Thọ Xuân) vừa mới được con cháu hậu duệ tôn tạo lại năm
2012. Khu mộ được dựng với quy mô khiêm tốn, chỉ 200m2, hiện vật sơ sài, trước
mộ có một hương án bằng xi măng dùng đặt bát hương. Ở đây ngoài phần mộ Lê
Văn Linh còn có 3 mộ khác con cháu ông, các mộ đều được ốp đá granit, giữa thân
mộ khắc cả chữ Hán lẫn chữ quốc ngữ dạng bia, trên bia ghi rõ: “Lê triều bảo chính
đại vương Lê Văn Linh”.
Trong số các di tích thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai thì loại hình đền
thờ có số lượng lớn và mang tính phổ biến hơn cả. Các đền thờ này được xây dựng
nhiều nơi trên đất Thanh Hóa gắn với kỷ niệm sự kiện như di tích hội thề Lũng
78
Nhai ở huyện Thường Xuân hoặc gắn với các truyền thuyết dân gian của đồng bào
dân tộc thiểu số như đền Đon Ban (huyện Bá Thước), đền Năng Cát (huyện Lang
Chánh) còn lại đa phần là các đền thờ được xây dựng trên quê hương, dòng họ con
cháu những người anh hùng. Ngoài ra có thêm kể thêm một số đền thờ khác có phối
thờ những nhân vật đã tham gia hội thề Lũng Nhai như Lê Lợi, Lê Lai, Nguyễn
Trãi, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Nguyễn Thận…
Các đền thờ này cũng có sự phân biệt nhau về quy mô cấp độ, từ những đền
thờ to lớn, nhiều đơn nguyên, hạng mục như Lam Kinh ở Thọ Xuân, đền thờ Lê Lai
ở Ngọc Lặc, Thái miếu nhà Lê ở Tp Thanh Hóa… cho đến những đền thờ có quy
mô nhỏ, trong phạm vi làng xã mà chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp ở các đền thờ Võ
Uy, đền Lê Hiểm (Nông Cống), đền Trương Lôi- Trương Chiến (Tĩnh Gia), đền
Trịnh Khả (Vĩnh Lộc), đền An Lạc (Hoằng Hóa)…
Các đền thờ này cũng phân chia thành 2 dạng riêng biệt, đó là những đền thờ
mang ý nghĩa thờ cúng, tưởng niệm Lê Lợi và loại còn lại là chỉ dành để thờ cá
nhân từng nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai.
Theo khảo sát của NCS, tại Thanh Hóa, những đền thờ chính và phối thờ Lê
Lợi là nhiều hơn cả. Ngoài Lam Kinh, hiện có đền thờ Lê Thái Tổ ở làng Cham
(Xuân Lam, Thọ Xuân), đền thờ Lê Lợi ở bản Năng Cát (Trí Nang, Lang Chánh),
đền Lai (Minh Sơn, Ngọc Lặc), đền Tiên Púa (đền vua) ở Giao Thiện (Lang
Chánh). Ở các di tích này đều “lấy hình tượng đức vua để làm thành hoàng của làng
mình” [106, tr 383]. Cơ sở để xây dựng các công trình thờ phụng đức vua này được
căn cứ từ những nguồn tài liệu sắc phong của nhà nước phong kiến trước đây và hệ
thống các truyền thuyết dân gian liên quan đến Lê Lợi có nội dung liên quan chặt
chẽ đến giai đoạn 10 năm tiến hành khởi nghĩa của Bình Định Vương trên đất
Thanh Hóa. Về hiện trạng của các di tích này, trên cơ sở điều tra thực địa cho thấy,
có những di tích xác định được niên đại dựng đền lần đầu thông qua các tài liệu thư
tịch hoặc dấu vết vật chất (đồ thờ, nền móng, vật liệu xây dựng) nhưng cũng có
những di tích chỉ xác định được niên đại gần nhất- tức là niên đại mới được khởi
dựng, sau lần xây dựng mới hoàn toàn. Nguồn tư liệu thư tịch Hán Nôm còn lại ở
79
những di tích này chủ yếu là các sắc phong, câu đối, đại tự, ngoài ra còn có những
sự tích, truyền thuyết liên quan đến di tích.
Đền Cham là di tích thờ cúng Lê Lợi quan trọng sau Lam Kinh, đây là di tích
của làng, được dựng lại từ nửa đầu thế kỷ XX sau khi Lam Kinh bị hoang hóa để
làm nơi thực hành tín ngưỡng cho bà con trong vùng. Đến điền dã tại di tích, người
dân nơi đây vẫn còn lưu hành câu chuyện: Năm 1933, một người dân ở xã Hành
Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định sau khi cầu tự tại lăng vua, do được toại
nguyện đã cùng dân quyên góp tiền của xây dựng đền thờ. Buổi đầu đền có quy mô
bé nhỏ, được dựng bằng tranh, tre nứa lá, nhân dân thường gọi là “đền thờ vua Lê
Thái Tổ” [97, tr 108]. Sau đó được nhân dân dựng lại theo kiến trúc kiểu chữ Đinh
trên nền móng cũ, bằng gạch vồ trát vữa bên ngoài, gồm có tiền đường và hậu
cung.Tiền đường là nhà ngang 2 gian, hậu cung xây hình vòm cuốn. Năm 1996, di
tích được tôn tại lại theo lối kiến trúc gỗ gồm tiền đường, trung đường (nhà cầu kiểu
ống muống) và hậu cung. Đặc biệt trong di tích hiện còn bức tượng Lê Thái Tổ quý
giá bằng chất liệu đồng rất quý giá [PL8, ảnh 29, tr 240].
Về cơ bản, các di tích thờ chính của Lê Lợi tập trung ở Lam Kinh và Thái
miếu. Tuy nhiên trước đây Lam Kinh bị hủy hoại, các điện thờ đã bị cháy rụi, các
thực hành tín ngưỡng được chuyển về Thái miếu dưới thời Nguyễn. Hiện nay, khu
di tích Lam Kinh cơ bản đã được phục dựng lại trên nền móng cũ với nhiều hạng
mục như thuở ban đầu. Tái hiện lại một phần quy mô kiến trúc to lớn với cầu bạch,
giếng cổ, ngọ môn, thềm rồng, chính điện và lăng vua...
Ngoài Lam Kinh thì đền Lê Bố Vệ hay Thái miếu nhà Hậu Lê ở Tp Thanh
Hóa cũng là một di tích quan trọng gắn liền với Lê Thái Tổ. Di tích là nơi đang lưu
thờ tất cả bài vị của 27 vua (21 vua tại vị và 6 vua được truy phong) (1428 – 1789),
đứng đầu là Lê Lợi và các bà Hoàng thái hậu nhà Lê [PL8, ảnh 4, tr 227]. Trải quan
thời gian, nhân dân đã dân giã hóa và bổ sung thêm các thần linh khác, ở đây là các
công thần, tướng lĩnh gắn bó chặt chẽ với cuộc đời hoạt động của Bình Định Vương
trong khởi nghĩa Lam Sơn, đó là hai nhân vật trong danh sách người tham gia hội
thề Lũng Nhai khi xưa: Lê Lai và Nguyễn Trãi [PL8, ảnh 25, tr 238].
80
Song song với các đền chính nêu trên, còn xuất hiện không ít đền thờ Lê Lợi
ở quy mô cấp làng, gắn liền với sinh hoạt tín ngưỡng và văn hóa truyền thống của
bà con các dân tộc ở Thanh Hóa. Đền thờ Lê Lợi ở bản Năng Cát (Trí Nang, Lang
Chánh) đã được khôi phục gắn liền với sự kiện Lê Lợi hành quân đến bản, về sau có
truyền thuyết thác Ma Hao nổi tiếng. Kiến trúc đền thờ có kiểu thức khá đơn giản,
chỉ có một gian nhà vuông với chiều dài 5m, chiều rộng 5m, gồm có 4 cột quân và
một cột cái. Không có vách bao quanh, nhà để trống. Kiến trúc phần trên có hai vì
kèo luồng, rải đều đòn tay và rui mè, trên mái lợp bằng kè. Giữa nhà được đặt một
bàn nhỏ bằng gỗ, trên bàn đặt bát hương bằng sứ. Còn ở các đền thờ vua như đền
Đon Ban (huyện bá Thước), đền Lai (xã Minh Sơn, huyện Ngọc Lặc), đền Tiên Púa
(đền vua) ở Giao Thiện (Lang Chánh) thì hình thức thờ vua và diện mạo của đền
thờ có nhiều nét khá tương đồng. Đó là việc thờ cúng Lê Lợi gắn liền với tập tục và
nghi lễ của cộng đồng các dân tộc Thái, Mường các huyện Ngọc Lặc, Lang Chánh,
Bá Thước. Ngoài ra, ở nhiều nơi, tuy không xây dựng riêng đền để thờ vua nhưng
trong một số di tích như đền thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ (Xuân Bái, Thọ Xuân),
đền thờ Lê Trung Giang (Hoằng Ngọc, Hoằng Hóa), nhà thờ họ Đàm Lê (Đông
Lĩnh, Tp Thanh Hóa) cũng có ban thờ vua riêng tại di tích.
Bên cạnh các đền thờ Đức Vua là hệ thống đền thờ, miếu thờ các nhân vật
tham gia hội thề Lũng Nhai. Các đền thờ này hoặc thờ chính hoặc phối thờ một đến
nhiều các vị công thần như đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai ở xã Kiên Thọ (Ngọc
Lặc), đền An Lạc thờ Lê Lai và con cháu ông ở Hoằng Hải (Hoằng Hóa), đền thờ
Võ Uy ở Nông Cống, đền thờ Trịnh Khả ở Vĩnh Lộc, đền thờ Trương Lôi, Trương
Chiến ở Tĩnh Gia, cho đến các nhân vật hội thề Lũng Nhai được thờ trong các di
tích đền thờ Ngọc Lan, đền thờ Trịnh Thị Ngọc Lữ ở huyện Thọ Xuân hoặc được
thờ tập trung với tư cách tưởng niệm tại khu di tích hội thề Lũng Nhai ở xã Ngọc
Phụng (Thường Xuân). Trong số các di tích này, đền Tép ở Ngọc Lặc được cho là
nổi bật hơn cả về quy mô kiến trúc, lịch sử xây dựng và các thực hành tín ngưỡng.
Được cho là di tích vệ tinh quan trọng và có mối liên hệ đặc biệt với di tích Lam
Kinh [PL8, ảnh 2, tr 226]. Di tích được xây dựng tại chính làng Tép, quê hương
81
sách Dựng Tú xưa của công thần Lê Lai. Mặc dù đã bị hủy hoại nhiều lần nhưng
đến nay, công trình vẫn cho thấy tính chất bề thế, to lớn trong số các đền thờ công
thần khai quốc triều Lê ở Thanh Hóa. Với đầy đủ các hạng mục như hồ bán nguyệt,
cổng nghi môn, tiền đường, hậu cung, đền Mẫu. Đặc biệt, theo gia phả Họ Lê Lai ở
xã Kiên Thọ (Ngọc Lặc) cho biết, trước đây đền thờ theo lối kiến trúc “Thượng
sàng hạ mộ” hay “ thượng miếu hạ mộ”. Bên trên là điện thờ Lê Lai bên dưới là mộ
của ông (phần tương đương với phần móng nhà). Nhân dân ở đây đến nay vẫn còn
lưu truyền câu chuyện được cho là Lê Lai đã dặn từ trước khi huy sinh: trước khi
lên Linh Sơn (căn cứ khởi nghĩa Lam Sơn) ông đã tập trung 500 quân sỹ ở khu bìa
rừng làng Tép (đền thờ hiện nay) và lấy gươm chích vào đầu ngón tay, nhưng gươm
sắc nên đầu ngón tay bị đứt luôn. Ông đem đầu ngón tay chôn ở chân gò sành và hạ
lệnh cho quân lính là nếu ông có mệnh hệ gì thì đưa thi hài ông về đây mai táng. Do
vậy sau khi bí mật lấy được thi hài của Lê Lai; Lê Lợi đã ra lệnh mang thi hài về
táng tại Lam Sơn khi đền được xây dựng thì đưa về táng ở Hậu cung. Câu chuyện
này không rõ thực hư thế nào, bởi vì kể cả các tài liệu cổ sử như Lam Sơn thực lục,
Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử và nhiều tư liệu khác đều cho thấy, đến
nay không thể xác định được phần mộ của công thần Lê Lai đã hy sinh năm 1419.
Ngoài đền Tép ở Ngọc Lặc, Lê Lai còn được thờ và phối thờ trong một số đền thờ ở
Thanh Hóa. Đền An Lạc ở Hoằng Hóa được dựng để thờ ông và các con đã hy sinh
trong khởi nghĩa Lam Sơn. Căn cứ các tài liệu cho biết, đền thờ có kiến trúc khá to
lớn, tiêu biểu cả một vùng. Lý do là bởi, dưới thời cháu nội ông là Lê Niệm, đây là
vùng đất khai phá và là đất ban phong của triều đình dành cho các đại thần. Theo
gia phả của dòng họ, đền được dựng vào thế kỷ XVI gồm nghi môn, bình phong,
sân bái đường, tiền đường, trung đường và hậu cung, tả vu, hữu vu. Dấu vết thời
khởi dựng chỉ còn lại nền móng. Kiến trúc hiện tại của đền thờ gồm: tiền đường,
trung đường và hậu cung. Hậu cung và trung đường của đền còn lại dấu vết kiến
trúc thời Nguyễn, căn cứ vào niên đại trùng tu, trung đường được sửa chữa vào thời
nhà Nguyễn (khoảng 1982-1985), còn tiền đường phía ngoài mới được dựng lại vào
82
năm 2005. Đây được xem là di tích thờ cúng Lê Lai và các hậu duệ 9 đời của ông ở
đất Hoằng Hóa [PL8, ảnh 8, tr 229].
Ngoài những đền thờ như trên đã nêu, các di tích đền thờ các vị công thần
Lũng Nhai khác thường có quy mô kiến trúc nhỏ bé hơn, được dựng trên quê hương
bản quán hoặc đất khai phá, di cư của con cháu dòng họ công thần như đền Võ Uy ở
Nông Cống [PL8, ảnh 9, tr 230]. Theo sử liệu thì Võ Uy cùng với Lê Lai và một vài
tướng khác bị trận vong trong khởi nghĩa Lam Sơn và Lê Lợi đã cho tìm hài cốt để
mai táng, đem vào thờ trong đền Lam. Tiếc là đền Lam hiện nay không còn tìm thấy
dấu vết. Nhưng có thể đoán định, đó là ngôi đền thờ chung các công thần trận vong
của cuộc chiến, nó tương tự như một “nghĩa trang liệt sỹ” vậy. Chính vì ngôi đền
Lam xưa đã bị hủy hoại, phần mộ lưu tán. Cho nên đến con ông Võ Thời An, một
công thần khai quốc nhà Lê- Trịnh, mộ và đền thờ Võ Uy mới được di chuyển về
vùng đất “Đại Bàng Tộc” ở huyện Nông Cống, vốn là trang sở chính của dòng họ
con cháu Võ Uy thời Lê- Trịnh. Gia phả dòng họ Võ Uy cho biết, bởi do sự phát
triển của các chi họ và các trang sở kéo dài trên khắp vùng đồng bằng, trung du tỉnh
Thanh Hóa cho nên còn có đền thờ Võ Uy ở thôn Lễ Động, làng Phúc Lai, xã Định
Hòa, huyện Yên Định nữa.
Đền thờ Trịnh Khả ở xã Vĩnh Hòa (Vĩnh Lộc), vốn trước đây là một kiến
trúc cổ tương đối giá trị với khu thờ chính kiểu chữ Đinh cùng nghi môn, tả vu, hữu
vu và bia ký, di vật phục vụ thờ cúng của một trong những nguyên lão đại thần, khai
quốc công thần và Lũng Nhai công thần có nhiều công lao là Trịnh Khả. Song theo
thời gian tồn tại, di tích đã bị hủy hoại một phần lớn. Kiến trúc hiện tại đã bị thu hẹp
một phần, chỉ còn lại các hạng mục thờ chính là tiền đường và hậu cung, với vì kèo
gỗ kiểu chồng rường, trát vữa cùng một vài hiện vật, đồ thờ gắn liền với di tích
[PL8, ảnh 12, tr 231]. Hiện vật quý giá nhất còn lại hiện nay là tấm bia Đại Nam
quốc Thái úy từ đường bi minh có niên đại thời Lê Sơ vẫn còn lại đến nay.
Một số các đền thờ khác có thờ cúng công thần Lũng Nhai như đền thờ cha
con Trương Lôi và Trương Chiến ở Tĩnh Gia, đền thờ công chúa Ngọc Lan (phối
thờ Lê Văn An, Lê Thận) ở Thọ Xuân và đền thờ Lũng Nhai ở Thường Xuân có
83
quy mô kiến trúc hết sức khiêm tốn. Đây chủ yếu là những đền thờ được nhân dân
dựng lại trên nền cũ hay căn cứ vào tư liệu lịch sử để phục dựng lại làm chốn lui tới
tín ngưỡng cho bà con. Mặc dù vậy, bản thân một số di tích có giá trị tư liệu rất cao
như đền thờ Trương Lôi, Trương Chiến ở Tĩnh Gia còn lưu giữ các đạo sắc do nhà
Lê Sơ phong tặng. Hay như đền Chiêu Anh gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ Phật
và các nhân vật lịch sử. Tại di tích này có ban thờ các vị công thần khai quốc triều
Lê như Nguyễn Nhữ Lãm, Lê Đạt, Lê Phần, Lê Bổng, Nguyễn Xí và đặc biệt còn có
2 ông trong danh sách hội thề là Lê Văn An, Lê Thận [PL8, ảnh 5, tr 228].
Về loại hình từ đường, qua thực tế khảo sát cho thấy, khác với di tích thờ các
nhân vật như Lê Lợi, Lê Lai thường được thờ hoặc phối thờ trong các đền thờ quy
mô lớn như Lam Kinh, Thái miếu nhà Lê, đền Tép. Các kiến trúc từ đường dòng họ
nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai khác không có kiến trúc độ sộ, lộng lẫy mà
thường xây khiêm tốn, giản dị. Được xây dựng trên chính làng xã, quê hương và đất
khai phá, định cư của con cháu hậu duệ các vị. Những di tích này nhìn chung được
xây cất và bảo vệ khá quy củ với kiểu thức mặt bằng phổ biến kiểu chữ Nhất, chỉ
gồm 1 gian thờ chính. Có nơi cũng tách biệt cung cấm ngăn cách với nơi thờ phía
ngoài. Các từ đường này là trung tâm thực hành tín ngưỡng của bà con họ tộc hậu
duệ các vị trong những dịp lễ giỗ, tế tổ tiên hàng năm và trong từ đường phổ biến
hơn cả là các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai không được thờ riêng biệt mà
cùng phối thờ với nhiều nhân vật khác trong dòng họ, thân tộc.
Từ đường họ Lê Duy ở làng Kim Đính, xã Hoằng Tiến (huyện Hoằng Hóa),
là một nhánh của dòng họ công thần Lê Lai, đây là nhà thờ họ có mối liên hệ khá
mật thiết với đền An Lạc thờ Lê Lai ở Hoằng Hải (Hoằng Hóa). Ở Nông Cống cũng
có một từ đường thờ cúng Lê Lai gọi là “từ đường Lê Tướng Công” ở xã Trung Ý,
huyện Nông Cống. Chi họ này vẫn lấy tên là Lê Duy, có lẽ đây là một nhánh họ Lê
Duy di cư từ vùng đất Hoằng Hóa về đây sinh cư lập nghiệp. Hiện trong từ đường
này vẫn còn lưu giữ được sắc phong, thần phả và một số đồ thờ.
Ở làng Vân Nhưng, xã Đông Lĩnh (Tp Thanh Hóa) hiện nay có nhà thờ họ
Đàm Lê. Gọi là họ Đàm nhưng thực tế đây là nhánh họ chính tông của vua Lê Thái
84
Tổ. Sau sợ nhà Mạc truy diệt nên đổi sang họ Đàm. Đây là di tích thờ các vị tôn thất
nhà Lê. Theo tư liệu thì được khởi dựng từ năm Thuận Thiên thứ 2 rồi được trùng
tu lại vào thời Lê Trung Hưng. Kiến trúc hiện nay được tu bổ lại khá khiêm tốn so
với trước đây. Qua thời gian, nhà thờ vẫn lưu giữ được nhiều hiện vật cổ của dòng
họ như sắc phong, gia phả, lệnh chỉ của các đời vua trước ban. Khảo sát tại di tích
cho thấy, ở gian giữa di tích đặt hương án và tranh thờ Lê Lợi, các nhang án 2 bên
tả hữu thờ các vị quận công trong họ. Đây là di tích có mối gắn kết rất lớn với các
chi họ Lê Lợi ở Thanh Hóa.
Một số từ đường dòng họ nhân vật hội thề Lũng Nhai trong tỉnh còn lại có
quy mô khiêm tốn như các nhà thờ họ Lê Văn Linh, Lê Văn An ở Thọ Xuân, nhà
thờ họ Lê Hiểm ở Nông Cống, nhà thờ họ Lê Liễu ở Hoằng Hóa. Trong các nhà thờ
họ này, đáng chú ý hơn cả là nhà thờ dòng họ Khắc quốc công Lê Văn An. Sau
nhiều thế kỷ tồn tại, ngôi từ đường vẫn giữ được diện mạo kiến trúc ban đầu. Điều
đặc biệt là, ở đây còn bảo lưu tương đối nguyên vẹn các di vật, đồ thờ bằng đá hết
sức giá trị. Nhà thờ theo kiểu chữ Đinh, có Tiền đường và Hậu cung. Tiền đường là
một ngôi nhà gỗ 4 gian, 3 vì kèo theo lối truyền thống. Hậu cung có diện tích
19,8m2 được bố trí làm hai cung: cung ngoài thờ hội đồng tổ tiên, cung trong thờ
Khắc Quốc Công Lê Văn An [PL8, ảnh 11, tr 231]. Hiện nay trong nhà thờ còn lưu
giữ được nhiều hiện vật vô cùng quý giá như: ngai thờ, thánh vị bằng đá, trên thánh
vị còn dòng chữ Hán ghi “thánh tổ Lê Văn An”, hai cây đèn đá, ba đài thờ đá, đôi
nến, mâm bồng đá…cùng với nhiều đồ thờ bằng gỗ như bài vị, mâm bồng.
Nhà thờ họ Lê Văn Linh là di tích mới tu tạo lại trên nền móng di tích cũ.
Trương truyền kiến trúc xưa kia khá quy mô, gồm có cả hậu cung thờ Phật. Một số
hiện vật minh chứng cho niên đại của di tích là 15 chân tảng đá còn xót lại. Vào
năm 1990 nhà thờ được bà con dòng họ tu sửa lại, trong di tích vẫn còn lại một số
lư hương, chân đèn bằng đồng, một số bát hương đá, mâm bồng gỗ, khay trầu, chấp
kích, lộng tàn, long ngai và bài vị [PL8, ảnh 10, tr 230].
Các nhà từ đường họ Lê Liễu (Hoằng Hóa), họ Lê Hiểm (Nông Cống) trải
qua thời gian tồn tại, đã bị xuống cấp khá nhiều, đây là những di tích đã được tu sửa
85
lại, kiến trúc khá đơn giản. Tuy nhiên trong các từ đường này lại lưu giữ được
không ít hiện vật và đồ thờ giá trị. Đặc biệt là nhà thờ họ Lê Hiểm, ở đây gìn giữ
được đến 25 đạo sắc các thời phong cho dòng họ và nhân vật Lê Hiểm, các kiệu
rước, ảnh thờ vẽ trên lụa mà theo nhiều nhà nghiên cứu có niên đại và giá trị nghiên
cứu mỹ thuật thời Lê Trung Hưng.
Có thể nói, các từ đường dòng họ của các nhân vật lịch sử tham gia hội thề
Lũng Nhai thường được tạo lập bởi dòng họ là chính, nguồn lực kinh tế hạn chế cho
nên kiến trúc thường nhỏ bé, khiêm tốn nhưng đó chính là bảo vật vô giá của các
dòng họ để tưởng nhớ các bậc liệt tổ, liệt tông, thủy tổ dòng họ mình. Và đây chính
là không gian thực hành tín ngưỡng thường xuyên đối với các nhân vật.
Ngoài những loại hình di tích như trên đã đề cập, đình làng được xem là loại
di tích tương đối ít bắt gặp trong thờ cúng các nhân vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh
Hóa. Theo khảo sát của NCS, chỉ ghi nhận có 2 di tích thờ cúng nhân vật hội thề
Lũng Nhai ở đình làng. Tại các di tích này, các nhân vật tham gia hội thề được thờ
với tư cách thành hoàng của làng. Mỗi dịp hội làng, thường tổ chức rước thần từ
nhà thờ họ ra đình làng để nhân dân chiêm bái. Theo các cụ cao niên thôn Thái Sơn
(xã Tân Phúc, Nông Cống) cho biết, trước đây, đền thờ Lê Hiểm vốn là đình làng,
nay nhân dân vẫn hay gọi đình- đền lẫn lộn. Còn đình Phương Chính (xã Đông
Lĩnh, Tp Thanh Hóa) dân vẫn quen gọi là đình Vân Nhưng. Theo thư tịch, nơi đây
(làng Vân Nhưng) trước vốn là nơi thao luyện binh mã, do hai người cháu ruột của
Lê Lợi được vua cử đến để trấn ải vùng phía Đông trong khởi nghĩa Lam Sơn. Nơi
đây đã diễn ra nhiều trận quyết chiến oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn. Về sau trở
thành đất ban phong của vua Lê dành cho con cháu 2 ông Lê Thạch, Lê Khôi. Đến
thời Mạc, do lo sợ bị tàn sát, tôn thất nhà Lê chạy loạn đổi thành họ Đàm, hợp binh
mã dẹp loại nhà Mạc lập lại triều chính. Đình Phương Chính được xây dựng năm
Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) thời vua Lê Thần Tông, đến thời Nguyễn nằm trong khu Văn
miếu của xã, được tu sửa lần cuối năm 1936, bị phá dỡ trong thời kỳ hợp tác xã,
được khôi phục lại năm 2000. Đình thờ thành hoàng gồm: “Bạch Kê Đại vương, Đa
Kê Đại vương” người giúp đô đốc Đàm Cảnh Tường chinh phạt giặc phương Nam,
86
các đô đốc văn võ quận công, quận chúa họ Đàm là những vị có công với làng
nước. Đền thờ các đại công thần Lê Thạch, Lê Khôi, Lê Khang và Lê Thành, sau
thờ vọng vua Lê Thái Tổ [PL8, ảnh số 7, tr 229].
Nhìn chung, từ các loại hình di tích thờ tự như đã nêu cho thấy diện mạo nơi
thờ tự tập trung vào các nhân vật lịch sử hội thề Lũng Nhai là rất lớn, ở đó nó chứa
đựng các giá trị quan trọng về nhiều mặt như nhận diện rõ hơn về sự nghiệp của các
nhân vật lịch sử, niên đại khởi dựng và các lần hưng tạo và bổ sung thêm các nguồn
sử liệu vô cùng quan trọng mà chính sử cho có điều kiện để ghi chép như các bản
thần tích, thần phả, sắc phong, câu đối, đại tự, văn bia ghi chép về xây dựng di tích.
3.1.2. Bố trí điện thờ
Việc bố trí điện thờ thể hiện vị thế của thần chủ, nhân vật được phụng thờ.
Sự khác biệt chính, phụ và ngôi vị trong thần điện là đặc điểm phản ánh diễn biến
của quá trình thờ cúng cũng như những biến động của nó trong lịch sử tồn tại của di
tích. Việc thờ cúng từng cá nhân hay phối thờ nhiều thần linh với các nhân vật tham
gia hội thề Lũng Nhai trong nhiều di tích cho thấy ý thức, thái độ của cộng đồng đối
với các nhân vật. Đồng thời, quá trình khảo sát cũng cho thấy, việc sắp xếp, bố trí
thứ tự và ngôi thứ trên dưới là một đặc điểm nổi bật trong việc thờ cúng các nhân
vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai.
Qua tìm hiểu các điểm di tích thờ cúng nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai
ở Thanh Hóa, NCS nhận thấy các di tích có bố cục khá đa dạng, gồm nhiều kiểu
thức khác nhau như: chữ Đinh (đền Tép), chữ Công (đền vua Lê Thái Tổ- Thọ
Xuân), chữ Nhất (từ đường Lê Văn Linh- Thọ Xuân, đình Phương Chính- Tp Thanh
Hóa, đền thờ Trương Lôi và Trương Chiến- Tĩnh Gia, đền thờ Võ Uy, từ đường họ
Lê Hiểm- Nông Cống, nhà thờ họ Lê Liễu - Hoằng Hóa; đền thờ Lũng Nhai-
Thường Xuân…) hay kiểu chữ Nhị (Thái miếu nhà hậu Lê –Tp Thanh Hóa, đền thờ
Lê Hiểm- Nông Cống…). Kiểu chữ Tam điển hình như đền An Lạc (Hoằng Hóa).
Tại những nơi thờ này, ngoài các di tích kiểu chữ Nhất thì đại đa số các nhân vật
luôn được thờ ở hậu cung, vốn là nơi trang trọng, linh thiêng nhất. Thậm chí nhiều
di tích chữ Nhất còn cố gắng tạo ra thêm một chuôi vồ để thành chữ Đinh làm tẩm
87
thờ đặt nhang án. Nhiều di tích thờ riêng các nhân vật nhưng cũng có di tích gộp thờ
nhiều nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai hoặc các những người anh hùng hội thề
Lũng Nhai được phối thờ với các vị thần khác.
Các di tích có sự phối thờ giữa các nhân vật hội thề Lũng Nhai với nhau,
như: di tích hội thề Lũng Nhai (Thường Xuân) thờ 19 nhân vật nghĩa sỹ hội thề; đền
thờ Lê Thái Tổ (huyện Thọ Xuân) và Thái miếu nhà Hậu Lê (Tp Thanh Hóa) thờ Lê
Lợi và phối thờ Lê Lai, Nguyễn Trãi, nay tại đền Cham ở Xuân Lam (đền Lê Thái
Tổ) lại còn bổ sung thêm bài vị các công thần khác như Lê Văn An, Lê Văn Linh.
Trong nhiều di tích có sự phối thờ nhân vật hội thề Lũng Nhai với họ hàng,
thân tộc: tại nhà thờ họ Đàm (xã Đông Lĩnh, Tp Thanh Hóa) có thờ Lê Lợi với các
quận công họ Đàm Lê (vốn là các ông Lê Khôi, Lê Thạch, cháu ruột của vua Lê
Thái Tổ, đến thời Trịnh- Mạc vì sợ trả thù mà đổi thành họ Đàm Lê). Trong di tích
này, ban thờ Lê Lợi được đặt ở chính giữa, các gian bên là con cháu họ Đàm Lê
[PL8, ảnh 26, tr 238]. Thái miếu ở Lam Kinh hay Thái miếu nhà Hậu Lê ở Tp
Thanh Hóa đều thấy xuất hiện nhang án và tượng Lê Lợi được đặt ở gian giữa chính
điện, bên cạnh và phía sau thường là các vị vua và hoàng hậu triều Lê. Còn trong
đền thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ (chính thất của Lê Lợi), tượng vua Lê Thái Tổ
được đặt trang trọng ở gian chính giữa tiền đường, còn cung cấm ở hậu cung là nơi
thờ thần phi. Đối với các di tích thờ Lê Lai ở Hoằng Hóa có thể nhận thấy sự phối
thờ với các họ hàng thân tộc diễn ra theo mô thức thống nhất mà ở đó ông (Lê Lai)
luôn giữ vị trí trung tâm, cao nhất. Như ở đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai (Ngọc
Lặc) cung thờ Lê Lai và vợ ông được bố trí làm 2 không gian riêng biệt [PL8, ảnh
2, tr 226]. Hậu cung của đền chính, tại gian chính giữa thờ công thần Lê Lai còn
gian bên thờ bà vợ ông bà Nương A Thiện mà dân gian quen gọi là Đền Mẫu, Cung
Mẫu. Ở đền An Lạc (Hoằng Hóa) di tích thờ dòng tộc Lê Lai, ở đây bố trí hai
hướng thờ chính. Hướng thứ nhất là những vị khai quốc công thần dòng họ Lê Lai.
Hướng thứ hai là những thế hệ kế tiếp dòng họ Lê Lai có công trực tiếp và gián tiếp
khai phá ra vùng đất Hoằng Hải ngày nay. Không gian thờ cúng chính là ở hậu
cung. Thần điện ở hậu cung được bố trí như sau: gian chính giữa là nơi đặt hương
88
án, long ngai, bài vị thờ Trung Túc Đại Vương, bên tả đặt ngai thờ Lê Lâm. Gian
hữu thờ Lê Niệm và Lê Khủng.
Những hiện tượng này thấy phổ biến trong hầu hết di tích thờ cúng nhân vật
hội thề Lũng Nhai. Như ở từ đường họ Lê Duy ở làng Kim Đính (xã Hoằng Tiến,
Hoằng Hóa) ở vị trí gian giữa trang trọng nhất thờ 3 vị tổ dòng họ là Lê Lai, Lê
Lâm (con), Lê Niệm (cháu). Phía trên nhang án có bức đại tự cổ chữ Hán khắc nổi
chữ “Lê công thần” treo ở gian chính giữa. Đây là di tích thuộc chi 3 dòng họ con
cháu Lê Lai ở huyện Hoằng Hóa. Ở di tích đền thờ Võ Uy (xã Tân Phúc, Nông
Cống), gian giữa bố trí long ngai, giao ỷ, thần vị Võ Uy, gian hữu thờ con ông là Võ
Thời An; gian tả bên là nhang án thờ chung các vị tổ khác trong dòng họ.
Thần điện ở đền thờ Trịnh Khả ở xã Vĩnh Hòa (Vĩnh Lộc) lại phân bố không
theo hàng ngang mà theo lớp dọc gồm phía trên thân phụ của ông là Trịnh Quyện
được tôn phong Thượng đẳng thần và thân mẫu là bà Trịnh Xuân Dung được gia
phong Chinh uyển rực báo Trung hưng tôn thần và Trịnh Khả, Thượng đẳng phúc
thần.
Nhà thờ họ Lê công thần (còn gọi tên khác là đền thờ Lê Liễu) ở xã Hoằng
Sơn (Hoằng Hóa) thờ anh hùng hội thề Lê Liễu và con ông Lê Yến. Trong đền thờ
nay vẫn còn khám thờ và nhiều câu đối ca ngợi công đức của Lê Liễu, Lê Yến và
dòng tộc họ Lê công thần.
Tại điện thờ Lê Hiểm (Nông Cống) và đình Phương Chính (Đông Sơn) nơi
thờ các nhân vật Lê Hiểm, Lê Lợi với tư cách thành hoàng làng. Ở những nơi này,
theo tục lệ của làng, mỗi khi tổ chức lễ hội thì phải rước thần từ nhà thờ họ ra đền
thờ hoặc đình làng (rước Lê Hiểm từ nhà thờ họ Lê Hiểm ra đền thờ Lê Hiểm, rước
Lê Lợi từ nhà thờ họ Đàm Lê ra đình Phương Chính).
Mặt khác, việc bố trí điện thần ở các di tích thờ cúng các anh hùng hội thề
Lũng Nhai ở Thanh Hóa đều tuân thủ các nguyên tắc chặt chẽ mang tính tôn ty, trật
tự, thứ bậc của nho giáo từ cách sắp xếp nhang án, bài vị, ngai thờ, tượng thần…cho
phép chúng ta nghĩ rằng, văn hóa gia tộc là một đặc điểm nổi trội, chi phối việc thờ
cúng.
89
Điều đáng chú ý là sự xâm nhập của đạo Tứ phủ vào điện thờ của một số
nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai. Trong không gian thờ tự các nhân vật như Lê
Lợi, Lê Lai như di tích đền thờ Lê Thái Tổ, đền Ngọc Lan công chúa (Thọ Xuân),
đền Tép (Ngọc Lặc), đền An Lạc (Hoằng Hóa), nhà thờ họ Đàm (Đông Sơn) thì bên
cạnh đền thờ chính, luôn có gian thờ Mẫu. Mặc dù vậy, việc phối thờ trên không
làm phai nhạt ý thức tôn vinh nhân vật lịch sử, anh hùng dân tộc của cộng đồng,
nhân vật về các những người anh hùng hội thề Lũng Nhai.
Việc phối thờ, gộp thờ đã trở thành hình thức phổ biến. Điều này có nhiều
nguyên do, thứ nhất do di tích thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai chủ yếu trong
các tộc họ nên ngoài việc thờ các ông trên tư cách thủy tổ, còn có các vị tổ khác của
họ ở nhiều đời khác nhau. Mặt khác, một số công thần Lũng Nhai sau khi mất
không có nơi thờ, nhân dân đã gộp thờ các ông vào một di tích chung, điển hình như
di tích đền thờ Ngọc Lan ở Thọ Xuân. Nhiều nơi, các di tích được dân lập ra mang
ý nghĩa kỷ niệm sự kiện và danh nhân Lê Lợi, như các đền thờ Lê Lợi ở vùng đồng
bào Thái, Mường các huyện Ngọc Lặc, Lang Chánh, Bá Thước. Cho nên ở đây, đền
thờ vua còn lồng vào thờ cúng các thần linh khác của riêng đồng bào. Sự diễn dịch
này thể hiện sự uyển chuyển, linh hoạt trong tâm thức thờ cúng của dân gian, đồng
thời cũng cho thấy, việc thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai
trong quá trình tồn tại và phát triển đã có sự dung hợp nhiều hình thức tín ngưỡng
dân gian khác. Qua đó có thể thấy, mức độ dung hợp, đan xen và hòa đồng trong tín
ngưỡng, tôn giáo của người Việt.
Trong di tích phụng thờ nhân vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa, ngoài việc
bố trí nội thất biểu thị mạnh mẽ tính chất ngôi thứ, tôn ty, trật tự trên dưới nhiều đời
của dòng họ nhân vật hội thề Lũng Nhai trên thần điện thì hệ thống di vật và đồ thờ
tự gắn liền với tục thờ cúng này có trong thần điện còn lại đến nay cũng khá đồ sộ,
với nhiều loại hình khác nhau, nhiều trong số đó có giá trị lịch sử, nghệ thuật và đều
được các dòng họ, địa phương trân trọng, giữ gìn. Các hiện vật như bát hương đá
mặt hổ phù có niên đại thế kỷ XVIII- XIX ở đền An Lạc (Hoằng Hóa) và vô số hiện
vật, đồ thờ làm bằng đá trong từ đường họ Lê Văn An ở Thọ Xuân cho thấy trong di
90
tích tín ngưỡng của nhiều dòng họ nhân vật hội thề Lũng Nhai còn lưu giữ khá tốt
các hiện vật, đồ thờ tự. Ở từ đường này, các hiện vật như thánh vị, đèn, hương, đài
thờ, độc bình, nến, mâm bồng, khay, bát hương…đều làm bằng đá có niên đại hàng
trăm năm. Một số kiệu rước ở đền Lê Hiểm (Nông Cống), đền Trịnh Khả (Vĩnh
Lộc), Lam Kinh (Thọ Xuân), đình Phương Chính (Tp Thanh Hóa) cho đến các long
ngai, giao ỷ, thần vị được sơn thếp lộng lẫy và chạm khắc vô cùng công phu, tỷ mỷ.
Đền thờ Lê Hiểm có 1 chiếc kiệu có phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê và một bức
tranh thờ chưa thẩm định được niên đại còn khá nguyên vẹn cùng với nhiều y phục
tế lễ và nhiều sập thờ hội đồng. Đền thờ Lê Văn Linh lưu giữ được khá nhiều hiện
vật như trống, chiêng, chuông bằng đồng, hạc và kiếm thờ. Đặc biệt là các tượng
thờ xuất hiện khá nhiều trong di tích thờ cúng. Các tượng Lê Lợi, Lê Lai, Nguyễn
Trãi ở Lam Kinh; Thái miếu; tượng Lê Lai ở đền Tép và đền An Lạc; tượng Lê Lợi
ở đền thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ…đã cho thấy tính chất đa dạng của chủng loại đồ
thờ tự. Ngoài ra, những hiện vật đồ thờ rất phổ biến bắt gặp trong các di tích thờ
cúng nhân vật hội thề như hòm đựng sắc, chuông khánh, chấp kích, y môn, đại tự,
câu đối với các chất liệu vải, gỗ, đá, đồng…còn lại khá nhiều, phần nhiều có niên
đại cổ kính.
Tóm lại, nhìn từ cách thức bố trí thần điện trong các di tích phụng thờ nhân
vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa nổi lên những đặc điểm có tính chất tương đồng
đó là, mặc dù quy mô hiện vật, đồ thờ, sắp đặt hay bài trí có sự khác nhau nhưng
luôn biểu thị sự tôn vinh nhân vật hội thề Lũng Nhai, lấy hình tượng các nhân vật
lịch sử làm trung tâm của thần điện.
3.1.3. Lễ hội, nghi lễ thờ cúng
3.1.3.1. Lịch thờ cúng
Nhìn chung, ở các di tích thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai ngoài lịch
cúng thường kỳ rơi vào các ngày lễ tiết thông thường trong năm theo truyền thống
văn hóa của người Việt, đặc biệt ở các di tích là từ đường, đền thờ của dòng họ. Cứ
mỗi khi có dịp lễ trọng của dòng họ theo gia phả chép lại là bà con dòng họ lại tổ
chức nghi lễ tại di tích. Điểm chung có thể dễ nhận thấy là các nghi thức cúng tế
91
lớn, mang tư cách lễ hội và tế tổ các họ tộc diễn ra vào một dịp cụ thể trong năm thì
phần lớn thời điểm lễ hội liên quan đến các nhân vật này diễn ra vào 2 thời điểm
gồm: lễ giỗ vua Lê và lễ giỗ các công thần, nhân vật khác.
Đối với lễ giỗ vua rơi vào 21, 22 tháng Tám âm lịch hằng năm với các nghi
thức tế lễ trang trọng và quy mô trong lễ hội Lam Kinh, lễ hội ở Thái miếu nhà Hậu
Lê. Ở đồng bào dân tộc thiểu số, trong dịp này, đáng lưu ý hơn cả là lễ hội Căm
Mương của bà con dân tộc Thái Mường Ký ở Bá Thước, lễ giỗ Vua của bà con dân
tộc Mường ở Minh Sơn (Ngọc Lặc) và người Thái ở xã Trí Nang (Lang Chánh).
Điểm đặc sắc là, mặc dù nhiều tộc họ công thần Lũng Nhai không lấy dịp 21, 22
tháng Tám âm lịch là ngày giỗ trọng của mình thì cũng có mối liên hệ ít nhiều với lễ
hội vua Lê. Nhiều dòng họ công thần đến nay vẫn còn giữ tục, dịp này phải cử
trưởng tộc về Thái miếu (trước đây) và Lam Kinh (hiện nay) để dự lễ và dâng lễ tế.
Điều đó cho thấy sự gắn kết giữa các nhân vật hội thề Lũng Nhai không những
trong sách sử, sự kiện mà còn cả trong đời sống văn hóa tâm linh.
Ngoài ra, ở mỗi di tích thờ nhân vật hội thề luôn có ngày tế lễ chính riêng
biệt, thông thường đó có thể là lễ hội hoặc lễ tế kỷ niệm ngày mất của các vị công
thần. Những ngày này đã được sử sách và gia phả chép lại hoặc cũng có thể lễ tế
được lấy nhằm ngày kỷ niệm sự kiện con cháu di cư đến vùng đất mới. Xung quanh
lịch giỗ của các công thần, vẫn còn nhiều điều phải bàn thêm, chẳng hạn như đối
với lễ giỗ Lê Lai thì bà con và dòng họ ở làng Tép, bà con xã Kiên Thọ lấy ngày 8
tháng Giêng làm ngày giỗ chính, trong khi ở Hoằng Hóa, con cháu lại giỗ ông vào
ngày 9 tháng 4 âm lịch, mặc dù cả hai di tích ở Ngọc Lặc và Hoằng Hóa vẫn duy trì
lễ tế Lê Lai vào dịp 21 tháng 8 âm lịch hằng năm nhằm vào lễ hội Lam Kinh.
Qua khảo sát các từ đường, nhà thờ dòng họ của các nhân vật hội thề như Lê
Văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Lê Hiểm, Trương Lôi, Trương Chiến, Lê
Liễu...đều cho thấy con em trong các dòng họ cử hành đều đặn vào dịp kỷ niệm
ngày mất của các vị. Vào ngày 16 tháng 2 Âm lịch diễn ra lễ tế yết Lê Văn An tại
nhà thờ ở xã Thọ Lâm (Thọ Xuân). Ngày 26 tháng 7 Âm lịch người dân xã Vĩnh
Hòa (Vĩnh Lộc) vẫn theo thói quen đến thắp hương, tưởng niệm tại đền thờ để kỷ
92
niệm ngày mất của công thần Trịnh Khả. Một số di tích có phối thờ các nhân vật
tham gia hội thề Lũng Nhai như đền Ngọc Lan (thị trấn Lam Sơn, Thọ Xuân), đền
thờ thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ (xã Xuân Bái, Thọ Xuân), đình Phương Chính và
nhà thờ họ Đàm Lê (xã Đông Lĩnh, Tp Thanh Hóa) không có ngày lễ chính mà lấy
ngày tế lễ trọng trùng với dịp lễ hội Lam Kinh 21- 22 tháng Tám Âm lịch hàng
năm.
Có thể thấy tại các di tích thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai
ở Thanh Hóa đều có lịch thờ tự chính được thực hiện liên quan đến thân thế, sự
nghiệp và cuộc đời của các nhân vật, chủ yếu vào dịp kỷ niệm ngày mất của các
nhân vật. Quy mô và tính chất tôn vinh các nhân vật hoàn toàn không giống nhau,
nếu như các dịp lễ hội ở Lam Kinh và Thái Miếu đã trở thành những lễ hội của cộng
đồng thì dịp tế giỗ, tế tổ ở các di tích công thần khác chỉ có ý nghĩa trong phạm vi
làng xã, dòng họ con cháu các nhân vật là chính. Tuy nhiên, có một điểm đặc biệt
là, mặc dù lễ hội, tế lễ các nhân vật này diễn ra ở đâu trên đất Thanh thì đều có tính
gắn kết, lấy giỗ vua Lê làm biểu tượng.
3.1.3.2.Nghi thức thờ cúng
Nghi thức thờ cúng các nhân vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa biểu thị rõ
nét qua các lễ hội/tế lễ vừa có phạm vi cộng đồng, vừa có cả phạm vi gia tộc đang
được thực hành trong đời sống của người dân ở xứ Thanh. Các lễ hội mang tính
chất cộng đồng, được đông đảo nhân dân tham dự như lễ hội Lam Kinh, lễ hội ở
Thái miếu nhà Hậu Lê, lễ hội đền Tép, lễ hội Căm Mương... Các lễ hội này có điểm
chung là được tổ chức vào dịp giỗ vua, kéo dài từ 21-22 tháng 8 âm lịch hàng năm.
Một tuyến nữa là các lễ tế, lễ giỗ nhân vật hội thề Lũng Nhai, nhiều nơi đã trở thành
hội làng, có phạm vi ảnh hưởng và lan tỏa trong các làng xã, dòng họ quê hương
của nhân vật. Những lễ hội/lễ giỗ này có quy mô nhỏ hơn và thường diễn ra ở cấp
độ làng xã là chủ yếu như lễ hội làng Tân Phúc (tôn vinh Lê Hiểm), lễ hội làng Vân
Nhưng (tưởng nhớ Lê Thái Tổ). Đa số còn lại là các lễ tế tổ trong phạm vi dòng họ,
gia tộc của con cháu hậu duệ các nhân vật như Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An, Lê Văn
93
Linh, Trịnh Khả, Trương Lôi, Trương Chiến, Lê Liễu, Lê Hiểm, Võ Uy ở các địa
phương Hoằng Hóa, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc, Tĩnh Gia, Nông Cống.
Mặc dù lễ hội Lam Kinh hay lễ hội đền Lê (Thái miếu) từng được coi là lễ
hội mang tính “quốc tế” theo các điển lễ cung đình đời xưa nhưng đến nay đã được
cộng đồng hóa. Lễ hội Lam Kinh, lễ hội đền Lê nay được phục dựng lại là sự trộn
giữa các nghi thức cung đình và dân gian.
- Lễ hội Lam Kinh hiện đại là tổng thể các nghi lễ tại 3 địa điểm gồm: Đền
thờ Trung Túc Vương Lê Lai (đền Tép) ở Ngọc Lặc, đền thờ Lê Thái Tổ (Xuân
Lam, Thọ Xuân) và chính điện Lam Kinh với nhiều nghi thức cáo yết, rước kiệu,
dâng hương, tế lễ Lê Lai, Lê Lợi rất trọng thể. Trong đó, lễ chính là vào ngày 22
tháng 8 nhưng các nghi thức rước kiệu Lê Lai từ đền Tép ra đền Lê để chuẩn bị cho
đại lễ Lam Kinh. Trong đợt rước này, đội hình rước kiệu Lê Lai phải là các trai
tráng, dân binh, nam nữ sắc phục Mường đảm trách. Đại lễ trước sân rồng được cử
hành vào giờ Sửu là các nghi thức tế lễ long trọng và ca ngợi công đức vua Lê Thái
Tổ. Rồi đến hội với các chương trình sân khấu hóa tái hiện cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn cùng các trò chơi dân gian như Xuân Phả, múa rồng, trống hội, dân ca, dân
vũ…Điểm đáng lưu ý là, không như các lễ hội khác, phần hội trong dịp này được
song song tổ chức tại 3 điểm di tích Lam Kinh, đền Lê và đền Tép với nhiều hoạt
động văn hóa cộng đồng đặc sắc.
- Lễ hội Thái miếu nhà hậu Lê: hiện nay lễ hội ở Thái miếu là một phần của
lễ hội Lam Kinh bởi nó được tổ chức đúng dịp 22 tháng 8 âm lịch hằng năm, trùng
với lễ hội Lam Kinh nhưng chỉ diễn ra trong phạm vi tổ chức của phường Đông Vệ,
Tp Thanh Hóa. Trước đây khi Lam Kinh chưa được phục hồi và đặc biệt dưới triều
Nguyễn, đây là nơi tổ chức các nghi thức chính để tưởng nhớ công lao của Lê Thái
Tổ và vương triều Lê. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày, từ ngày 20-22 tháng 8 âm lịch,
ngày 21 lễ giỗ Lê Lai còn 22 là ngày đại tế giỗ vua Lê Lợi. Hiện nay lễ hội được tổ
chức tương tự các lễ hội cổ truyền với nhiều nghi thức như tế lễ, đọc chúc. Đặc biệt,
không thể thiếu được trong ngày hội ở đền là các trò “chạy chữ”, “phá trận”. Qua
thời gian, những nghi lễ diễn xướng này vẫn còn được bảo lưu đến tận ngày nay.
94
Ngoài vua Lê với các nghi thức cúng tế mang tính điển lễ cung đình, được xếp vào
hàng “quốc tế” dưới các triều Lê Sơ, Lê Trung Hưng, thời Nguyễn đã được sách sử
chép lại trong lễ hội Lam Kinh, lễ hội ở Thái miếu. Các nhân vật khác của hội thề
được thờ trong các làng xã, dòng họ nên nghi thức tế lễ có nhiều điểm tương đồng
với việc thờ cúng thần linh mang đặc trưng của làng xã cổ truyền người Việt. Điểm
nổi bật ở đây là, dù nghi thức mang ý nghĩa “quốc tế” hay dân dã thì luôn luôn đảm
bảo tính quy củ, trang nghiêm và thiêng liêng. Các nghi thức có thể chặt chẽ như lễ
hội Thái miếu xưa hay đơn giản như các lễ tế, lễ hội công thần Lũng Nhai mới được
khôi phục hiện nay thì bao giờ cũng đảm bảo các nghi thức truyền thống. Trong đó
có những nghi thức mang tính chất bắt buộc như lễ mộc dục, lễ tế gia quan, lễ rước
trong hội chính, lễ tế và đọc chúc ca ngợi công trạng và một phần không thể thiếu là
các trò diễn, tục lệ liên quan đến thờ cúng được tái hiện trong những dịp này.
Trong mỗi lễ hội nói trên, tuy có chủ đề chung là thể hiện cảm quan lịch sử,
tôn vinh nhân vật hội thề Lũng Nhai nhưng vẫn có những nghi thức riêng gắn với
từng điểm thờ tự. Như ở Thái miếu trước đây theo lệ trước ngày vào lễ chính, các
cao niên làng Bố Vệ phải cúng xôi lợn ở bàn thờ Lê Lai trước, rồi thắp hương cáo
yết ở các lăng thờ trong đền. Khi đến đại tế Lê Lợi trong ngày 22, nhất thiết cử
hành, chủ sự (gồm chủ tế và bồi tế) phải do các quan Tổng đốc, Bố chánh, Án sát
thực hiện. Vì là “quốc tế” nên nghi thức rất coi trọng, các năm tế luôn có phần đón
rước quan đầu tỉnh rất trọng thể. Các quan và những người dự tế phải mặc y phục
trang nghiêm, chỉnh tề. Đến giờ Thìn bắt đầu vào đại tế. Các quan thay mặt dân làng
tiến hành đầy đủ các bước theo nghi lễ triều đình.
Còn lễ hội Lam Kinh nay mới được khôi phục, luôn luôn phải tổ chức tế lễ
trước ở đền Tép rồi rước kiệu Lê Lai về Lam Kinh vào chính hội 22 tháng 8 âm
lịch. Ở đền Tép vào ngày 21 âm lịch, các cụ làm lễ Rước sắc vô cùng long trọng.
Đoàn rước gồm 30 người gồm thủ từ và các cụ trong ban tế lễ có đội chấp kích, cờ
lọng, dàn nhạc cùng chiêng trống đi kèm. Sau rước kiệu Lê Lai ra đền vua Lê là đội
hình rước kiệu lên đến 300 người, trong đó 100 cô gái mặc sắc phục Mường, 100
trai tráng mặc áo dân binh và các vị lãnh đạo trong làng, xã đại diện cùng với dân
95
làng theo dự với đầy đủ kiệu bát cống, cờ xí, chấp kích, bát âm, dàn cồng...Đến
ngày chính hội (22 tháng 8), lúc này cờ tiết, cờ hội, lễ đài và đội cấm vệ đã được
chuẩn bị nghiêm túc để chuẩn bị cho phần đại lễ diễn ra vào giờ Sửu tại sân rồng.
Màn trống hội sẽ mở đầu cho đại tế. Đoàn rước kiệu Lê Lợi, kiệu bát cống, kiệu Lê
Lai, quân kiệu, quân cờ xuất phát đền Lê Thái Tổ theo đúng nghi thức cổ truyền về
trước sân điện Lam Kinh. Tại đây kiệu được rước lên kì đài trong âm vang màn
trống hội, trống đồng: Màn trống hội cùng với cồng chiêng, xập xiềng do 49 người
thanh niên trai tráng khỏe mạnh làng Cham và làng Tép đảm nhiệm để phối hợp với
lễ rước kiệu. Đội hình rước hai kiệu Lê Lợi, Lê Lai gồm đến 18 người với trang
phục áo đỏ, quần vàng, khăn vàng, trên kiệu có bài vị và ngai thờ. Đoàn kiệu Lê Lai
đi trước, đến trước cầu dừng lại để đoàn kiệu Vua Lê lên trước. Hai đoàn kiệu chạy
vòng (ngược kim đồng hồ) trong sân rồng rồi hạ kiệu trên điện vua Lê Lợi và sau đó
hai đoàn rước xếp đội hình tại sân rồng [PL8, ảnh 16, tr 233]. Tiếp theo diễn ra Đại
tế gồm 45 người do ba đội tế Nam làng Cham, Làng Tép, Xuân Lam phối hợp. Sau
phần đọc chúc ca ngợi công đức khai sáng của vua Lê đến cuối buổi lễ là phần hội
với các hoạt động nghệ thuật, diễn xướng dân gian cổ truyền đặc sắc như: trò Xuân
Phả, phá trận, múa đèn (dân ca Đông Anh), chạy chữ (Thiên hạ thái bình) theo tích
xưa và nhiều trò chơi dân gian khác. Nhìn chung, hầu hết các làng xã ở Thanh Hóa
có thờ cúng các nhân vật hội thề Lũng Nhai thì nghi thức tế lễ thường không có
nhiều khác biệt lớn. Các nghi thức có sự tuần tự theo quy tắc của lễ hội, tế lễ truyền
thống. Sự khác nhau cơ bản chỉ là những chi tiết nhỏ như các tục lệ, kiêng kỵ riêng
gắn với đời sống tâm linh lâu đời và được lưu truyền của bà con. Như trong lễ hội
làng Thái Bình ở Nông Cống, mỗi khi đến ngày lễ hội là bà con phải hương khói bái
vọng về từ đường dòng họ Lê Hiểm gần kề và đến ngày chính hội thì phải rước kiệu
mời thần ra đền/đình làng để dân làng chiêm bái.
3.1.3.3.Văn cúng
Quy định cúng bái của người Việt nói chung, mặc dù còn có những điểm
“đại đồng tiểu dị” nhưng trong văn cúng thần chủ thì vẫn có sự thống nhất cơ bản.
Đó là đều phản ánh những nội dung liên quan đến tướng nhớ, tôn vinh người đã
96
khuất. Theo khảo sát của NCS, tại các nơi thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề
Lũng Nhai ở tỉnh Thanh Hóa đều có văn cúng, văn chúc riêng của từng nhân vật.
Nội dung trong những bài văn khấn này có những đặc điểm khá tương đồng. Chẳng
hạn như, ngoài mô thức chung của một bài văn tế gồm các phần như: thưa gửi thần;
ca ngợi công nghiệp, đức tính, công trạng của nhân vật; than tiếc người đã khuất và
bày tỏ lòng xót thương/tự hào của con cháu/cộng đồng đối với thần. Các bài văn
cúng, văn tế này tuy có khác nhau như tên nhân vật hoặc bố cục thay đổi đôi chút
nhưng nhìn chung vẫn giữ được mẫu thức chung của một bài văn đọc lúc tế người
chết.
Trong quá trình khảo sát thờ cúng những người tham gia hội thề Lũng Nhai ở
Thanh Hóa, NCS nhận thấy nội dung chính của các bài văn tế này có đặc điểm
thống nhất với các tài liệu chính sử ghi chép về nhân vật như: tên tuổi, ngày sinh,
ngày hóa, vị trí, vai trò trong khởi nghĩa Lam Sơn và hội thề Lũng Nhai, danh hiệu
tôn phong dành cho thần. Các nội dung này thường được ghi lại cặn kẽ trong gia
phả dòng họ hoặc có “thêm thắt” đôi chỗ từ các huyền thoại, truyền thuyết đang
được lưu hành phổ biến trong dân gian. Ngoài ra, có thể thấy, hầu hết các bài văn
cúng không chỉ đề cập mỗi nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai mà còn liệt
kê rất chi tiết những người trong họ hàng, thân tộc. Qua phân tích cho thấy, khác
với văn tế các nhân vật lịch sử khác như Bà Triệu, Bà Trưng, Lý Nam Đế, Trần
Hưng Đạo...thì các bản văn tế các nhân vật hội thề Lũng Nhai thường rất dài, phần
liệt kê về thế thứ đã chiếm đến trên 2/3 tổng dung lượng nội dung, lời văn của các
bản văn tế này có bố cục thông thường là: đoạn kể về nguồn gốc, xuất thân của
nhân vật lịch sử và các sự tích, sự kiện mà nhân vật tham gia trong khởi nghĩa Lam
Sơn. Trong đó, gần như tất cả luôn đề cập về hội thề Lũng Nhai, có nhiều văn tế
khác lại mô tả thêm các trận đánh lớn mà vị thủy tổ dòng họ mình có mặt, lập chiến
công. Nhìn chung, nội dung chính là ca ngợi công nghiệp, vai trò của nhân vật trong
khởi nghĩa Lam Sơn và qua lời văn chúc, hình ảnh của nhân vật luôn gắn bó mật
thiết với Bình Định Vương Lê Lợi. Trong ngày lễ giỗ hoặc lễ hội, các bài văn tế này
sẽ được đọc một cách trang trọng trước hương án trong buổi tế. Người đọc bắt buộc
97
phải là chủ tế. Và các chủ tế thường là những trưởng tộc hoặc một số nơi phải cử
người có tâm, có tài, có đức được cộng đồng và làng xã tín nhiệm, giao trọng trách.
Ở Thanh Hóa, các chủ tế trong dòng họ, từ đường nhân vật hội thề Lũng Nhai
thường là các trưởng họ, trưởng tộc.
Ở một số nơi có duy trì việc cúng tế vua Lê ở Lang Chánh, Bá Thước, lời
văn cúng vua của bà con nơi đây in đậm sâu sắc truyền thống tín ngưỡng của cộng
đồng. Như trong văn tế Lê Lợi trong lễ hội Căm Mương của người Thái Mường Ký
(Bá Thước) cho thấy, nội dung bài văn tế này có cấu trúc, bố cục hoàn toàn khác
với những bài văn cúng khác trong số các vị tham gia hội thề Lũng Nhai mà NCS
có dịp khảo sát được. Lời văn trong bản văn cúng này hết sức giản dị, mộc mạc.
Đầu tiên là báo cáo thần linh sông núi, báo cho các Mo biết. Mời gọi các thần linh
với biểu thị tôn kính: “Các thần đến ngồi chiếu hoa, trai làng, gái làng trải sẵn. Mời
các thần ăn cau, ăn trầu” rồi kế đến tiếp tục kể: “Hôm nay ngày lành tháng tốt là 20
tháng 8 âm lịch, bản Mường Ký tổ chức lễ hội Căm Mương cúng các thần ở Đon
Ban và vua Lê Lợi…Mo xin khấn lấy người, lấy trâu, bò đầy gầm sàn, lấy gà, vịt
đầy sân, lấy lúa đầy đồng… [46, tr 179]. Có thể nói, hành văn trong lời văn cúng
của đồng bào Thái trong lễ hội Căm Mương có nhiều nét tương đồng với các lời văn
tế khác của các tộc người thiểu số ở Tây Bắc, Tây Nguyên trong các lễ hội đâm
trâu, bỏ mả của đồng bào.
3.1.3.4. Lễ vật dâng cúng
Dâng lễ vật hay hiến tế là một cách bày tỏ sự tôn kính đối với thần linh và là
một trong những nghi lễ quan trọng, thiêng liêng nhất trong ngày hội. Quan niệm về
sắm lễ vật như thế nào được quy định hết sức chặt chẽ, theo những nguyên tắc riêng
đối với cả lễ mặn, lễ chay hay lễ vật bằng đồ vàng mã.
Vật phẩm trong ngày lễ tại các di tích thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai ở
Thanh Hóa không có nhiều nét riêng khác biệt mà thường khá giống nhau. Cỗ mặn
được chú trọng và ưu tiên hơn trong các dịp đại tế, chính lễ, lễ giỗ. Cỗ chay được
dùng vào những ngày sóc, vọng và các tuần tiết khác trong năm. Lễ vật dâng cúng
phổ biến là xôi thịt, hoa quả, trầu, rượu, đèn nến, bánh kẹo, vàng mã...nhưng được
98
chuẩn bị rất công phu, kỹ lưỡng. Trong quan niệm của các dòng họ hậu duệ công
thần, họ cho rằng không phải vật lễ kỳ công thế nào mà quan trọng là tâm thức
người hành lễ biểu thị sự thành kính, biết ơn đối với tổ tiên của họ.
Cỗ sống (dân quen gọi là cỗ tam sinh) xuất hiện trong một số đền thờ gồm 3
động vật còn sống như dê- bò- lợn (đền Lê- Thái Miếu). Ở các dòng họ khác, cỗ
tam sinh có thể được đơn giản hóa hoặc “tiết kiệm” hơn bằng lợn- dê- gà. Đền An
Lạc duy trì lễ tam sinh để cúng bằng trâu- dê- lợn trong các đại lễ năm chẵn. Những
năm gần đây, nhân dân trong vùng có thể làm xôi thủ lợn hoặc xôi gà để cúng. Mặt
khác, do con cháu hậu duệ Lê Lai cư trú nhiều nơi trong tỉnh Thanh Hóa như Nông
Cống, Hoằng Hóa nên trong ngày lễ các chi họ dâng lễ vật cúng lễ về đền chủ yếu
thành tâm là chính. Cụ trưởng tộc dòng họ Lê Lai ở làng An Lạc (Hoằng Hóa) cho
biết, cỗ bàn thường rất đa dạng, có chi tế lễ cả lợn nguyên con, có chi tế thủ lợn
hoặc chỉ đơn giản là cỗ chay trà, vàng hương, bánh kẹo, hoa quả. Và sau buổi tế,
các lễ vật này thường được thụ lộc, tổ chức ăn uống ngay ở sân đền.
Lệ xưa ở đền Lê, ngoài lễ vật dâng cúng do tỉnh đường phân công những
người trong ban tế lễ phụ trách thì còn có lễ vật dâng cúng của các dòng họ công
thần trong các làng xã tỉnh Thanh Hóa đem về để cúng giỗ Lê Lai, Lê Lợi. Cỗ bàn
và đồ dâng cúng do trưởng tộc và những người trong dòng họ chuẩn bị. Có cả cỗ
mặn như xôi, thịt và cả cổ chay trà, nến, hương hoa. Các lễ vật phục vụ cho lễ chính
ở đền tỉ mỉ đến mức gạo nếp thổi xôi cũng được bộ phận phụ trách ở Đốc bộ đường
chuẩn lựa kỹ càng [138, tr 131]. Ngày nay, một số cỗ mặn các tộc về dâng lễ ở đền
Lê đã không còn bắt buộc nhưng vẫn có không ít con cháu dòng họ công thần Lũng
Nhai trong tỉnh về dâng lễ, cúng vái tại đền.
Ở đền Tép trước đây để có vật lễ dâng cúng, dân làng Dựng Tú (Kiên Thọ,
huyện Ngọc Lặc) phân định theo giáp chuẩn bị. Các giáp trong làng khi vào lễ phải
có mâm cỗ nhất định như: đầu lợn, xôi gà, oản, hoa quả do năm nào cũng sắm lễ
nên phân bố theo vòng tròn trong giáp trong gia đình. Quy định này thực hiện rất
nghiệm ngặt buộc mọi người tuân theo quy định nếu không sẽ bị phạt tội. Ngày nay
lễ vật dùng trong tế lễ thường là xôi thịt, hoa quả, trầu, rượu. Lễ vật này giao cho
99
các làng chuẩn bị. Ngoài ra, thường thì mỗi làng sẽ dâng một con lợn, một mâm xôi
và mâm hoa quả để đem ra Thái miếu (Lam Kinh) cúng tế vào ngày 22 tháng 8.
Lễ hội Lam Kinh trước đây quy định rất cẩn trọng về lễ vật tế. Sách sử cho
biết: “tháng hai năm Bính Tý (1456), vua Lê Nhân Tông về bái yết Lam Kinh đã chỉ
huy cho các quan coi lăng ở Lam Sơn rằng phàm các việc ở đền thờ cần phải thành
kính, tinh khiết, như việc chặt cây tre, kiếm lấy củi đóm. Tế tẩm miếu đường dùng 4
con trâu, đánh trống đồng, quân lính hò reo ứng theo” [81, tr 508].
Một số điểm thờ còn có tổ chức lễ tế chúng sinh (đền An Lạc) thì phải chuẩn
bị kẹo bánh, hoa quả như một lễ chúng sinh thông thường để tế lên cung thờ Mẫu
trong di tích, kết thúc buổi lễ thì chia phát cho mọi người. Còn ở đền Lê Hiểm, do
tổ chức lễ khao quân nên phải chuẩn bị đầy đủ cháo hoa, rượu thịt, xôi chè cho dân
làng đến thụ hưởng khi lễ tất.
Trong nghi lễ của người Thái Mường Ký ở Bá Thước ngày nay vẫn còn duy
trì việc dâng cúng lễ vật lên vua Lê trong ngày giỗ do đồng bào tổ chức. Các lễ vật
dâng lên vua trong ngày này ngoài các vật phẩm thông thường thì không thể thiếu
được đồ lễ gồm thịt chó thui, xôi, gà nướng, măng luộc, canh uôi, rượu cần, mà theo
người dân nơi đây truyền lại rằng, đó là những đồ ăn mà bản làng dâng lên vua Lê
để tỏ lòng thành kính.
Ngày nay, khi các lễ hội Lam Kinh, lễ hội đền Tép, Thái miếu nhà Lê đã trở
thành lễ hội cộng đồng thì vật lễ cho các buổi tế được chuẩn bị kỳ công, vẫn tuân
theo các tục xưa phổ biến trong các lễ hội truyền thống. Ngoài các lễ vật được
chuẩn bị sẵn sàng trong ngày tế lễ, do chính quyền, đoàn thể ở địa phương vận động
nhân dân hoặc phân công cho ban tổ chức chịu trách nhiệm thì đến chính hội, nhân
dân và bà con thập phương vẫn nô nức tự chuẩn bị các lễ riêng của mình dâng lên
các Ngài. Theo khảo sát của NCS tại lễ hội Lam Kinh hằng năm, số các lễ vật dâng
cúng lên ngai thờ ở các cung trong đền Lê Thái Tổ nhiều đến mức kín đặc, thậm chí
không còn chỗ đặt [PL8, ảnh 28, tr 239]. Tại một số di tích, trong những ngày lễ
hội, tế lễ nhân vật hội thề Lũng Nhai, ngoài cỗ và đồ lễ được ban quản lý di tích tại
địa phương hoặc dòng họ chuẩn bị, người dân còn dâng lên vị thần của mình các đồ
100
lễ và vật phẩm dâng cúng khá phong phú. Ghi nhận qua quá trình khảo sát tại một
số di tích cho thấy, đồ lễ chay như hoa quả, trái cây được người dân mang đến khá
nhiều (chiếm 93,3%). Nhiều người được hỏi cho biết dâng lễ cá nhân hoặc gia đình
có cả đồ lễ chay và đồ lễ mặn chiếm 52,8%, còn đồ lễ mặn thường bắt buộc đối với
việc tế lễ các nhân vật trong dòng họ, chiếm 54,6%. Những người hành hương cốt
thể hiện lòng thành kính bằng cái tâm thì dâng lên các vị bằng vàng, sớ (chiếm
45,7%) [PL5, tr 198]. Như lễ tế tại đền An Lạc ở xã Hoằng Hải (Hoằng Hóa), theo
các cụ cao niên trong họ cho biết, có năm các chi còn dâng lên Ngài (Lê Lai) bằng
cả thủ lợn hoặc gà nguyên con được luộc chín đặt trên xôi nếp và có cả vật lễ chay
như hương nến, bánh kẹo, hoa quả. Vị đại diện dòng họ cũng cho biết, việc vật dâng
lễ ở đền không có quy định bất di bất dịch mà tôn trọng cái tâm và lòng thành kính
của con em dòng họ và các chi về dự. Từ nhiều lễ tế và một số lễ hội tôn vinh nhân
vật hội thề Lũng Nhai mà NCS được tham gia, có thể nói mặc dù lễ vật dâng lễ của
người dân đến di tích có khi khá đơn giản nhưng khi nào cũng đề cao sự thành kính,
tôn nghiêm.
3.1.3.5. Các tập tục, kiêng kỵ trong lễ hội, tế lễ
Trong việc thực hành tín ngưỡng thờ cúng các nhân vật hội thề Lũng Nhai ở
Thanh Hóa thì những tập tục, kiêng kỵ gắn với đời sống và sinh hoạt văn hóa của bà
con, đồng bào đã trở thành những dấu ấn riêng của cộng đồng, góp phần tạo nên
tính đặc sắc và giá trị đặc biệt của tín ngưỡng.
Theo các tài tài liệu thư tịch chép lại cho biết, gắn với mỗi lễ hội, lễ tế liên
quan đến thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai trong các dòng
họ, làng xã ở Thanh Hóa có không ít các nghi lễ, tập tục mang tính chất kiêng kỵ
độc đáo. Đó là những kiêng kỵ trong nghi thức hành tế lễ, tuyệt đối nghiêm cẩn
trong lễ hội Lam Kinh và lễ hội Thái miếu xưa. Đồng thời, với mỗi làng xã, dòng họ
thờ các nhân vật lịch sử hội thề Lũng Nhai của làng xã và dòng họ mình, lại có
những tập tục mang tính chất địa phương. Có khi lại còn cả thêm dấu ấn sinh hoạt
văn hóa tộc người nữa.
101
Theo khảo cứu của tác giả Hoàng Anh Nhân, trong lễ giỗ vua ở Thái miếu
xưa có nhiều quy định nghiêm ngặt. Đó là tục “trai giới”, nó bắt buộc phải được
tuân thủ nghiêm túc đối với chủ tế, bồi tế, chức dịch và những người phục vụ tại
đền: “Trước đây, trước 3 ngày bước vào lễ hội thì thì ở kinh đô (nhà Nguyễn) bộ lễ
đưa thị vệ dâng lên vua Lê (Lê Lợi) một tượng nhỏ bằng đồng, hai tay chắp vào
ngực cầm một chiếc bài trên khắc hai chữ “trai giới”. Cũng trước 3 ngày bước vào
ngày hành lễ thì quan lớn đầu tỉnh và các chức dịch ở địa phương phục vụ tại đền
phải thực hiện trai giới nghĩa là phải ăn chay, giữ mình thật thanh tịnh, trong sạch”
[138, tr 114]. Lễ hội Lam Kinh xưa cũng xem trai giới là trách nhiệm tự nhiên từ
vua cho đến các quan dự tế. Ngoài vua ra, ai sai phạm dù là lỗi nhỏ đều có quan
Đàn hặc giám sát và bị biếm truất hay phạt tiền [81, tr 516]. Luật tục trai giới đảm
bảo cho những người trực tiếp cử hành buổi tế và các chấp sự, giúp việc phải thực
hiện tắm gội sạch sẽ, ăn chay, không uống rượu, thậm chí không được tự ý quan hệ
nam nữ...để giữ mình được thuần khiết trước khi cúng lễ thần. Chắc chắn, các lễ hội
Lam Kinh và đền Lê Bố Vệ khi xưa được cử hành theo các nghi thức cung đình cho
nên những yêu cầu này được thực hiện rất quy củ và bất di bất dịch.
Ngoài ra còn có “lễ quán tẩy”, đó là quy định làm sạch sẽ, vệ sinh chân tay
trước khi vào lễ tế được duy trì và thực hiện ở nhiều điểm cúng nhân vật hội thề
Lũng Nhai ở Thanh Hóa. Ở đền Lê bắt buộc trước khi vào tế, chủ tế, bồi tế và các
chấp sự làm lễ quán tẩy trong một cái chậu mới [138, tr 121], tục này nay vẫn còn
được duy trì trong lễ hội. Ở đền An Lạc (Hoằng Hóa), quy định việc lau dọn ban
thờ, nhang án, thần vị để đảm bảo vệ sinh trước ngày tế giỗ Lê Lai 29/4 được chuẩn
bị từ 3 hôm trước, người thực hiện việc này không ai khác là trưởng tộc. Dịp hội
đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai, trước 1 ngày (20/8 ÂL), các cụ trong ban thờ tự
và lễ nghi của làng Tép tiến hành lau chùi, đánh bóng các đồ thờ, rửa tượng. Công
việc lau chùi được giao cho những người có uy tín trong làng. Trước khi tiến hành
lau dọn người ta phải thắp hương, dâng lễ. Nước lau chùi, rửa tượng phải là nước
ngũ vị hương, trầm hương. Những việc làm này cốt để cho tượng thần, đồ thờ và
102
những gì liên quan đến thần và di tích được trong sạch, tinh khiết, đảm bảo tính
thiêng cho lễ hội.
Cũng có một số tục hiện nay đã không còn, chỉ thấy được chép trong sách sử
và các tài liệu lưu truyền trong dân gian. Như tục “gieo quẻ xin âm dương” bằng
cách 3 que nứa, nghi thức ngày được cử hành để xin phép trước khi khai hội. Nay
thì việc xin quẻ bằng que nứa đã được thay bằng đài âm dương thông thường.
Nhưng chúng tôi ngờ rằng, cách thức gieo quẻ “độc đáo” này có lẽ bắt nguồn từ
phong tục của người Mường sống ở vùng Ngọc Lặc trước đây.
Tục lệ “ban thưởng” trong ngày hội cũng được nhắc đến trong các tài liệu
khi mô tả về lễ hội Lam Kinh xưa. Theo mô tả, nghi thức này thường tổ chức vào
cuối lễ hội. Vua đương triều về dự lễ “bái yết sơn lăng” sẽ ban thưởng cho các quan
theo hầu, ban thưởng cho người trong gia tộc, ban thưởng cho dân chúng theo sự
tâu trình của địa phương và ban bố các điều cấm kỵ bổ sung vào việc tu sửa tôn tạo
hay các điều cấm kỵ về Lam Kinh [81, tr 516]. Rất tiếc nay việc “ban thưởng” như
lễ xưa nay không còn nữa. Trong lễ hội Lam Kinh ngày nay mới phục dựng, người
ta có phần vinh danh, khen thưởng cho con cháu họ Lê học hành, thi cử đỗ đạt, nghi
thức được tổ chức sau phần Đại tế. Phải chăng nghi thức này nhằm mô phỏng lễ tục
xưa của các vua nhà Lê?.
Một số tục lệ khác trong lễ hội, tế lễ gắn với việc thờ cúng các nhân vật tham
gia hội thề Lũng Nhai hoặc đã bị thay đổi, hoặc chỉ còn thực hiện một phần, có khi
được lược bớt cho phù hợp hơn với đời sống hiện đại. Chẳng hạn như theo tục xưa,
mỗi lần lễ giỗ Lê Lợi được tổ chức ở đền Lê thì một số dòng họ con cháu các công
thần như Đinh Liệt, Võ Uy, Lê Hiểm ở Nông Cống, dòng họ Lê Lai ở Hoằng Hóa,
họ Đàm Lê ở Đông Sơn trước đây (nay là Tp Thanh Hóa) phải cử trưởng tộc về dự
và dâng lễ Lê Lai, Lê Lợi ở Thái miếu. Những tục này đến nay không còn bắt buộc
thực hiện nữa, nhưng qua khảo sát tại các lễ hội như Lam Kinh, Thái miếu hiện nay
thì vẫn có một số con em các dòng họ trên đi dâng lễ một cách tự nguyện trong dịp
lễ hội được tổ chức.
103
Trong lễ hội Căm Mương của đồng bào dân tộc Thái vùng Mường Ký (Kỳ
Tân, Bá Thước), vào dịp lễ giỗ Vua 22 tháng 8 âm lịch, trước ngày vào lễ hội thì
“Tạo bản” cử một người nhanh nhẹn, tháo vát xách cồng đi rao trong bản nhắc nhở
mọi người không được vi phạm những điều cấm kỵ trong 3 ngày lễ. Trong lời rao
tiếng Thái có câu: “Làu bàu đáy hắm, Nắm bàu đáy tặc, Phặc bàu đáy xóc, Phải bàu
đáy pìa, Mia bàu đáy cót” (Củi không được đốn, Nước không được vác, Rau không
được hái, Vải không được dệt, Vợ chồng không được ôm ấp) [46, tr 176]. Nay thì
tục này cũng không còn nhưng các nghi thức và đồ dâng cúng vua Lê vẫn được tuân
thủ chặt chẽ. Còn hiện nay, đồng bào dân tộc Thái ở Giao Thiện (Lang Chánh) vẫn
còn giữ tục “dâng lễ vật thịt lợn luộc chín dở” [106, tr 349] trong dịp cúng vua tại
đền Pù (hay đền Tiên Púa) để tưởng nhớ những ngày gian khó của Bình Định
Vương và nghĩa quân phải dùng cả thịt chưa kịp chín để gấp rút hành quân.
Còn trong lễ hội làng Thái Sơn ở Tân Phúc (Nông Cống), mỗi khi làng tổ
chức tưởng nhớ công thần Lê Hiểm. Người ta tổ chức nghi thức “lễ xuất quân” và
“lễ khao quân mừng chiến thắng”. “Buổi tế xuất quân phải có đồ mã bằng giấy cắt
hình chiến sĩ có vũ khí, gươm giáo, cung nỏ, voi ngựa và chiến thuyền. Trong buổi
khao quân chủ tế đọc văn bản mừng chiến thắng rồi chia cháo hoa, rượu thịt, xôi
chè cho dân làng” [70, tr 138]. Tuy nhiên hiện nay, tục này chỉ còn lại nghi thức
cúng tế mang tính chất biểu tượng, việc tế các đồ mã mô phỏng chiến binh, gươm
giáo, cung nỏ, voi ngựa, chiến thuyền bằng giấy nay đã được thay thế bằng đồ cúng
mặn.
Không ít những tập tục mang tính kiêng khem nay đã trở thành nét đẹp sinh
hoạt văn hóa gắn với lễ hội tưởng nhớ nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai ở một
số nơi trong tỉnh. Chẳng hạn như, từ khi lễ tế ở Thái miếu nhà Hậu Lê được khôi
phục lại, việc cử hành nghi lễ trong chính hội hoàn toàn do phụ nữ điều hành. Điều
này có nguyên do là trước khoảng năm 1990, các bà ở hội khuyến thiện địa phương
đứng ra tổ chức khi Thái miếu còn chưa được tu sửa lại nên sau dần thành lệ. Ngày
nay, đến dịp lễ vẫn thấy các bà, các chị trong áo thụng, hia hài phân công nhau các
chức việc như chủ tế, bồi tế, chấp sự, đông xướng, tây xướng cử hành theo đúng
104
trình tự của một buổi tế. Còn trong lễ hội đền Tép, nay đến hội chúng ta vẫn có thể
nhận thấy đội hình rước kiệu gồm các trai gái trong sắc phục dân tộc Mường cùng
với biểu diễn múa kiếm, đánh cồng rất đẹp mắt. Tinh thần Việt- Mường còn được
thể hiện thông qua nghi thức đón tiếp giữa hai làng “kết chạ”. Đến nay vẫn còn giữ
lệ, bô lão làng Tép phải ra đầu làng thực hiện nghi lễ tiếp đón đại biểu của làng
Cham. Sáu đó mới rước kiệu Lê Lai từ làng Tép (quê Lê Lai) về làng Cham (quê Lê
Lợi).
Một số trò diễn trong lễ hội, hội làng có thể gắn trực tiếp với di tích thờ cúng
nhân vật hội thề Lũng Nhai hoặc ở những làng xã chỉ tổ chức để tưởng nhớ công ơn
Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn dịp tháng 8 âm lịch hằng năm đến nay sau một thời
gian mai một đã dần được phục hồi lại và xuất hiện trong lễ hội Lam Kinh ở Thọ
Xuân, lễ hội đền Lê ở Tp Thanh Hóa như các trò “chạy chữ”, trò “phá trận”. Ở trò
phá trận người ta tái hiện cuộc đấu giữa quân Minh và quân Lam Sơn, chia làm 2
phe và kịch bản luôn luôn là: kết thúc phần đấu quân ta chiến thắng, quân Minh
thua chạy. Hay trò “chạy chữ”, thực ra là kéo chữ “thiên hạ thái bình” nhằm mục
đích ca ngợi công ơn của Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn thắng giặc ngoại xâm, đưa
đất nước trở nên thanh bình. Mặc dù không có di tích thờ cúng nhân vật hội thề
Lũng Nhai nhưng dân làng Chuộc ở xã Thiệu Tiến (huyện Thiệu Hóa) hàng năm ở
đây vẫn duy trì tục diễn trò múa rối “Lam Sơn khởi nghĩa” trong hội làng. Trò được
biểu diễn gồm các tích như: Lê Lợi đi cày, Lê Lợi đánh Liễu Thăng, Lê Lợi dạo
chơi trên hồ Hoàn Kiếm…Các nghệ nhân làm những con rối người to bằng em bé
10 - 11 tuổi, con rối ngựa cũng to bằng con dê. Ở đoạn “Lê Lợi đánh Liễu Thăng”,
bà con vẫn thường gọi là trò “Đấu Mã”. Trên sân rối, nghệ nhân đưa ra các tạo hình
Lê Lợi và Liễu Thăng. Hai bên xưng danh rồi hỏi đáp nhau, thách thức, đoạn xông
vào giáp chiến. Liễu Thăng bị chém đứt đầu. Lê Lợi thắng trận. Còn trong lễ hội
Lam Kinh ngày nay, các trò thuộc hệ thống “Xuân Phả” nổi tiếng với các tích:
Chiêm Thành, Ai Lao, Ngô Quốc, Tú Huần...biểu diễn những hình người đeo mặt
nạ, với các nghi thức tiến cống vua Lê nhằm mục đích tái hiện không khí cung đình
triều Lê được tổ chức đều đặn trong dịp chính hội hằng năm.
105
Tục lệ xưa được tuân thủ đến ngày nay có lẽ là tục kiêng gọi tên húy của các
nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai. Ở Thanh Hóa, việc làm này được coi là
“phạm thượng”, vượt mặt của người dưới đối với các bậc tiền nhân. Có lẽ chính vì
lý do đó cho nên đây là một trong những tập tục kiêng kỵ được bảo tồn và tuân thủ
bền vững nhất. Khi hành lễ, người ta tránh gọi tên húy của thần mà gọi là các Ngài
hoặc phải bằng tên vua ban, tên phong tước như Thái Tổ Cao Hoàng đế (Lê Lợi),
Trung Túc Đại vương (Lê Lai). Ở một số làng xã và dòng họ (ngoại trừ Lê Lợi)
người ta gọi các vị là “cụ tổ” hoặc nếu đọc chính tên thì luôn kèm theo họ quốc tính
(Lê) được ban như: cụ Lê Lôi, Lê Chiến, Lê Khả, Lê Uy...và đây cũng là một cách
xưng tên thần phổ biến không những đối với các vị công thần Lũng Nhai mà còn là
các nhân vật khởi nghĩa Lam Sơn khác ở Thanh Hóa.
3.2. Thái độ của nhà nước và cộng đồng đối với tục thờ cúng
3.2.1. Thái độ của nhà nước
Thông qua các tài liệu, sách sử đã chép lại, có thể thấy, từ nhà nước quân chủ
phong kiến Lê Sơ, Lê Trung Hưng, nhà Nguyễn đều đã có những chính sách mạnh
mẽ để ghi nhận công lao, sự đóng góp của các nhân vật lịch sử đối với dân tộc.
Minh chứng là, sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ đã tổ chức đến 3 đợt phong thưởng,
ban tước cho các công thần, với bổng lộc và đặc ân rất lớn, kể cả “những người hy
sinh trong chiến trận như Lê Lai, Võ Uy, Đinh Lễ cũng được truy tặng” [85, tr 36].
Việc Lê Lợi ban phong quốc tính “Lê” cho đại đa số các công thần trong hàng ngũ
quân đội Lam Sơn thời đó cũng bắt đầu cho thấy tâm lý họ tộc bắt đầu trong thời kỳ
được đề cao. Các công thần, tướng lĩnh trở thành những người cùng họ với vua. Để
từ đó, sự thúc đẩy việc xây dựng từ đường, lăng mộ dòng họ trở nên mạnh mẽ.
Trước đó, sử cũ đã chép việc Lê Lợi cho quy tập các anh hùng, nghĩa sỹ như
Lê Lai, Võ Uy và những người khác để thờ chung trong đền Lam ở Lam Sơn. Rất
tiếc đến nay đền Lam đã không còn nhưng chắc hẳn đó phải là một “miếu thờ liệt
sỹ” được vua Lê hết sức xem trọng và được làm khá cấp tập sau khi lên ngôi. Như
vậy, rõ ràng Lê Lợi trước đây và nhà Lê về sau rất quan tâm đến vấn đề tâm linh đối
với những người vì nước chống giặc mà hy sinh.
106
Thái độ, chính sách của triều Lê Sơ hoàn toàn không tự phát mà đã có cơ sở
thực tiễn từ trước khi Lê Lợi lên ngôi. Lam Sơn thực lục và Đại Việt thông sử còn
ghi lại nhiều câu chuyện chạy giặc ly kỳ của Lê Lợi thuở mới khởi binh và trong
thời gian cầm cự ở vùng rừng núi Thanh Hóa. Các truyện về thần cáo trắng (Hồ Ly
phu nhân), bà Quốc Mẫu, bà chúa Trầm và nhiều vị thần linh khác có công giúp đỡ
vua trong lúc hoạn nạn. Truyện lời hứa với bà Phạm Thị Ngọc Trần để hiến tế vợ
mình cho thần Phổ Hộ ở cửa biển Triều Khẩu (Hưng Nguyên, Nghệ An) trong sự
kiện tiến công thành Nghệ An...Nhớ ơn những người vì mình mà xả thân, vì mình
mà giúp rập. Sau này lên ngôi vua, ông cho lập đền thờ và phong những nhân vật
này lên hàng quốc mẫu, phu nhân. Được tôn phong làm thần linh, thành hoàng, cấp
sắc phong, xây đền thờ và cho nhân dân quanh năm hương khói. Những điều đó vừa
thể hiện lòng biết ơn và lời hứa của bậc quân vương vì nước, vì mình mà xả thân.
Sách sử cũng ghi lại việc sau ngày lên ngôi, vua sai công thần Nguyễn Trãi
viết các lời thề tướng sỹ, con cháu công thần cùng đồng lòng nhớ ơn Lê Lai, cho cất
vào “kim quỹ” (rương vàng) để làm gương răn dạy con cháu về một tấm gương
trung liệt [142, tr 157]. Ông từng nói: “Lê Lai có công đổi áo. Sau này Trẫm cùng
con cháu, và các tướng tá, hay con cháu các công thần, nếu không thương đến công
ấy, thì đền cờ này hóa thành rừng núi, ấn báu hóa thành cục đồng, lưỡi gươm thần
này hóa thành dao mác thường” [65, tr 30]. Tháng 12 năm 1429 vua chiếu chỉ cho
thôn Dựng Tú lập đền thờ tại làng Tép và cắt cho 10 mẫu điền để phục vụ tế lễ tứ
thời bát tuyết. Truyền thuyết dân gian cũng lưu truyền rằng, trước khi băng hà, vua
còn dặn dò con cháu nhà Lê sau này bao giờ cũng làm giỗ Lê Lai vào trước ngày
giỗ mình. Vì vậy, tuân theo ý vua, dân đã viếng Lê Lai trước khi cúng tế Lê Lợi, vì
vậy mới có câu thành ngữ: “hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi” [61, tr 33]. Mặc dù
chưa thấy các tư liệu lịch sử nhắc đến điều này. Tuy nhiên, chắc chắn với sự ứng xử
đặc biệt với công thần Lê Lai trước khi mất, chúng ta có thể tin tưởng ý nguyện này
của vua Lê là xuất phát từ tình cảm sâu đậm với một người đồng chí trung kiên của
mình. Các vua nhà Lê về sau nói chung đều đánh giá rất cao tấm gương hy sinh anh
dũng của Lê Lai. Các vua như Lê Nhân Tông, Lê Thánh Tông đều truy phong để
107
tưởng nhớ công ơn Lê Lai. Đời Hồng Đức thứ 12 (1481) vua Lê Thánh Tông còn tự
tay viết chiếu (thủ chiếu) với nội dung gửi cho tằng tôn họ Lê và các con cháu công
thần phải ghi nhớ bản “Sơn hà chi thệ” (lời thề sông núi, tức là lời thề Lũng Nhai)
của Lê Lợi và các nghĩa sỹ. Đến năm Chính Hòa thứ 6 đời vua Lê Hy Tông (1685)
còn cho dựng “Trung liệt miếu” ở Thăng Long để thờ Lê Lai và các công thần tiết
liệt với triều Lê.
Có một sự kiện quan trọng là vào năm 1427 mà tác giả Nguyễn Tiến Thư đã
dẫn từ Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “khi vừa mới lên ngôi, vua Lê Thái Tổ đã
sai triều thần Dương Thái Nhất tu sửa đền thờ Trần Hưng Đạo và hạ lệnh cho các
xứ thờ cúng miếu công thần, cấm không được chặt cây ở các miếu...Đối với các
lăng miếu của triều trước, nơi nào bị giặc phá hoại thì cho làm lại và cấp cho số
người giữ việc thờ cúng theo thứ bậc khác nhau” [122, tr 9]. Quả là nhà Lê Sơ nói
chung và Lê Lợi nói riêng đánh giá rất cao đối với những nhân vật lịch sử, những vị
anh hùng chống giặc ngoại xâm. Tư liệu cho biết là vua sai: “hạ lệnh cho các xứ thờ
cúng miếu công thần”, ở đây có phải “miếu công thần” là đền Lam thờ công thần
nghĩa sỹ trận vong mà sử cũ đã nhắc đến hay không?. Mặc dù tài liệu không nói rõ
nhưng qua đó cũng có thể ngờ rằng, những công thần khai quốc triều Lê Sơ và các
công thần khai quốc các triều trước được nhà Lê đối xử khá bình đẳng, không phân
biệt trước sau.
Sau khởi nghĩa Lam Sơn, các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416
từ những nhân vật lịch sử đã được triều đình nhà Lê phong cấp, trở thành các vị
thần linh. Về chuyện cấp sắc, phong thần, qua dẫn chứng từ Thanh Hóa chư thần
lục, tài liệu ghi chép về bách thần xứ Thanh thời nhà Nguyễn cho biết: bắt đầu từ
thời Hậu Lê trở đi, các công thần Lũng Nhai sau khi mất đều được sắc phong, lập
đền thờ tại bản quán và cho phép dòng họ, thôn xã có quyền phụng tự. Năm 1745,
niên hiệu Cảnh Hưng thứ 5, sắc phong thần cho Lê Lai là “Trung Túc Vương
thượng đẳng phúc thần”. Đến năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753) sắc cho 2 công thần
Lũng Nhai khác là Trương Lôi và Trương Chiến; Năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771)
sắc phong cho Lê Hiểm “Thượng đẳng phúc thần đại vương”. Năm Cảnh Hưng thứ
108
41 (1784) sắc phong “Thượng đẳng phúc thần” cho Khắc quốc công Lê Văn An và
duệ hiệu “Đại vương” cho công thần Lưu Nhân Chú. Tuy Quận công Võ Uy thì liên
tục được các đời vua Lê sắc phong [66, tr 191- 192].
Đến thời Nguyễn, một số nhân vật hội thề Lũng Nhai như Lê Liễu, Lê Lai,
Nguyễn Lý cũng được triều đình phong sắc “Quang ý trung đẳng thần” để cấp cho
làng xã duy trì việc thờ tự. Trịnh Khả sau án oan, đến thời Hồng Đức được truy tặng
tước Thái úy Liệt quốc công, về sau tặng “Hiển Khánh vương” rồi cho thờ ở miếu
trong làng. Dưới thời kỳ Lê - Trịnh và nhà Nguyễn các dòng họ nhân vật lịch sử hội
thề Lũng Nhai như Lê Lai, Lê Hiểm, Trịnh Khả, Trương Lôi, Trương Chiến, Lê
Văn Linh, Lê Văn An, Lê Liễu …đã nhiều lần được cấp sắc và đất đai để cấy trồng,
lấy hoa lợi thờ cúng các vị. Đồng thời, qua nghiên cứu về các thần tích và gia phả
các dòng họ Lê Lai, Lê Văn Linh, Lê Văn An, Lê Thận, Võ Uy, Trịnh Khả, Lê
Hiểm, Lê Liễu...ở Thanh Hóa cho thấy, các sự tích về thờ cúng các nhân vật này
chủ yếu được khởi soạn, ghi chép dưới các triều Hậu Lê và triều Nguyễn.
Hình thức ban cấp “tự điền” (ruộng thờ tự) chắc chắn có từ trước thời Lê Sơ,
nhằm cấp ruộng công cho những người có công lao, phục vụ triều đình hoặc con
cháu họ để canh tác thu hoa lợi nhằm duy trì việc cúng tế. Tư liệu cho biết, các ông
Trịnh Khả, Trương Lôi và nhiều công thần khác được vua Lê Nhân Tông cấp cho
con cháu rất nhiều “mẫu tự điền” và “mẫu mộ điền” (ruộng giữ mộ) [92, tr 205].
Năm 1451, sau thảm án oan sai, triều đình đã cho dựng đền thờ và khắc bia ghi
công lao của Vinh quốc Công Trịnh Khả tại quê nhà. Đến Năm Thái hòa, triều vua
Lê Nhân Tông (1453), biết Trịnh Khả bị oan mới khôi phục lại quan tước và ban
cho 100 mẫu ruộng thờ cúng. Đến thời Hồng Đức, vì nhớ ơn trước với Trịnh Khả,
Thánh Tông đã cất nhắc con cháu ông có phần ưu đãi hơn các bề tôi khác [96, tr 73-
74]. Còn sau khi Lê Thận mất, sử liệu cho biế triều đình đã cho lập đền thờ ông ở
quê hương sách Mục Sơn, ngay bên bờ sông Chu [96, tr 30]. Đối với công thần Lê
Hiểm, việc thờ cúng ông được ghi cụ thể, rõ ràng trong bản “Lệnh dụ về công thần”
năm Vĩnh Trị thứ 5 (1680): “cấp xét kỹ số thực tế ruộng đất ao hồ ở thôn Thái Bình
cộng là 60 mẫu, ruộng đất, núi non, miếu mộ, nhà thờ ở thôn Ngọc Cầu hương Lam
109
Sơn cộng là 100 mẫu. Tổng hai nơi là 160 mẫu, theo sắc chỉ giao cho các cháu là Lê
Bình, Lê Hịch và toàn dòng họ trông coi cày cấy hàng năm, thu thuế để lo thờ tự”
[96, tr 81]. Thời Lê Trung Hưng, con cháu dòng họ công thần Võ Uy do có công
diệt Mạc đã cho phép dòng họ hưởng ân lộc của triều đình. Thời Thuận Đức (1638-
1677), hàn định cho danh hiệu: dự cùng công thần đều cho dựng cấp, cấp cho làm
ấp ăn lộc đời đời, mộ của các vị liệt tổ đều táng ở Trang Thành 45 ngôi [96, tr 81].
Các nhân vật khác thì phần lớn sau khi mất đều hưởng ấm phong, con cháu đời đời
làm quan võ [96, tr 30]. Định lệnh của vua Lê Thánh Tông năm 1474 cũng có
những chính sách khá ưu tiên trong việc duy trì cúng tế đối với các bậc công thần,
nghĩa sỹ vì nước hy sinh “đối với các trung thần, nghĩa sỹ triều trước hoặc đương
triều, nếu trường hợp còn con cháu làm bản tâu xác thực sẽ trao cho một viên chức
nhỏ, không còn con cháu thì nuôi một người thân thuộc được miễn lính, thuế để lo
thờ cúng” [122, tr 10]. Chắc chắn với chính sách này, những đặc ân về điền tự, bổng
lộc, thậm chí sưu thuế, phu dịch sẽ được miễn trừ cho trường hợp không ít các hậu
duệ và dòng họ những người tham gia hội thề Lũng Nhai.
Sau sự kiện Lam Kinh bị hỏa hoạn năm 1593 đời vua Lê Thế Tông, nhà Lê
đã cho xây điện Hoằng Đức ở kinh thành Thăng Long và cho rước bài vị Lê Thái
Tổ về thờ. Sau khi Thái miếu được xây dựng ở Thăng Long thì triều Lê đã tiến hành
các nghi thức thờ cúng Lê Thái Tổ ở đây và không về Lam Kinh nữa. Dưới triều
Nguyễn, một lần nữa điện Hoằng Đức lại rời về Bố Vệ. Việc này được sử cũ chép:
“Miếu Bố Vệ, trước đây là điện Hoằng Đức ở thôn Kiều Đại, huyện Đông Sơn,
nguyên trước là miếu ở Thăng Long và huyện Thụy Nguyên, năm Gia Long thứ 4
mới dời về đây, tế vào hai tiết xuân thu, quan tỉnh hành lễ” [92, tr 252].
Cũng dưới triều Nguyễn, đã ban hành một số quy định chi tiết có liên quan
đến các nhân vật công thần của tiền triều ở Thanh Hóa như: năm thứ nhất (1802)
triều vua Gia Long cho chiểu thu tiền thóc thuế ruộng và thuế đinh để chi phí đèn
hương cho con cháu nhà Lê (ở Thanh Hóa). Năm thứ 5 (1806) cho chọn 100 người
hầu phụ trách việc thờ cúng ở miếu nhà Lê. Và trước năm 1945, nhà Nguyễn vẫn
duy trì việc giao cho Bộ Lễ và sau này là các quan đầu tỉnh (Tổng Đốc, Bố Chánh,
110
Án Sát) về chủ trì đại tế tại đền Lê ở Bố Vệ [138, tr 126]. Qua khảo sát của NCS
trong quá trình điền dã tại các di tích thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh
Hóa cho thấy, rất nhiều gia phả, sắc phong, thần tích, một số bia ký và các năm
trùng tu di tích thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai chủ yếu được thực hiện dưới
triều Nguyễn.
Như vậy là căn cứ vào các sự kiện trên đây được sử chép lại, có thể nhận
thấy các vương triều quân chủ phong kiến từ Lê Sơ đến triều Nguyễn đã có những
chính sách khá cụ thể, thiết thực nhằm ghi nhận công lao đóng góp của các nhân vật
lịch sử khởi nghĩa Lam Sơn nói chung và các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai
năm 1416 nói riêng. Các chính sách của giai đoạn triều Lê Sơ chủ yếu mang tính
chất tôn vinh thể hiện qua việc phong thưởng, ban chức tước, bổng lộc và lợi ích
kinh tế, đất đai là chính. Sang thời Lê Trung Hưng, các hoạt động phong sắc, dựng
bia và cho phép con em xây dựng đền thờ tại quê hương bản quán để duy trì việc tế
tự đã trở nên thường xuyên. Những động thái này là kết quả của những nguyên
nhân khách quan lẫn chủ quan. Thứ nhất là bắt đầu từ triều Lê Sơ, với ý thức củng
cố nho giáo tập quyền cao độ, nhà Lê rất coi trọng những người đã từng cộng tác
với mình, đó là các công thần, tướng lĩnh đã hoạt động từ thời kỳ khởi nghĩa Lam
Sơn. Nên việc ban cấp, phong thưởng mặc dù là chính sách dành cho những người
có công lao, song cũng là một động thái để tăng cường lòng trung thành của họ. Mặt
khác, với sự hình thành các dòng họ công thần có thế lực lớn đã đề cao ý thức gia
tộc và việc thờ cúng tổ tiên, dẫn đến việc thúc đẩy xây dựng các từ đường, lăng mộ
tại làng xã, quê hương bản quán. Cùng với sự vươn dài cánh tay xuống các làng xã
để cai quản hệ thống thần linh, đã chính thức công nhận và hợp thức hóa một số
lượng không nhỏ các nhân vật lịch sử từ thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn. Công nhận và
cho phép thờ cúng các nhân vật lịch sử này cùng với việc đẩy mạnh phong thần
chũng chính là một biện pháp mượn uy danh thần linh để bảo vệ vương quyền và
bảo vệ đất nước. Và theo quan điểm của nhà nước phong kiến thì các nhân vật lịch
sử tham gia hội thề Lũng Nhai không phải là những “phản thần” hoặc là nhân vật
của “ngụy triều” nên sự thờ cúng họ rõ ràng là có lợi cho nền cai trị. Quan điểm này
111
thể hiện rất rõ trong quan điểm đánh giá của vua Gia Long khai sáng triều Nguyễn
về sau khi cho rằng: công thần bình Ngô khai quốc nhà Lê bực nhất là Lê Lai, Lê
Văn Linh, Nguyễn Xí và Nguyễn Trãi [144, tr 145].
Thanh Hóa chư thần lục có đề cập đến một chi tiết hết sức quý giá, đó là kể
từ thời Lê Trung Hưng trở đi các công thần Lũng Nhai sau khi mất đều được sắc
phong và lập đền thờ. Điều đó cho thấy rõ thái độ và chính sách của nhà nước
phong kiến đối với những đồng chí của Thái Tổ Cao hoàng đế Lê Lợi.
Từ sau khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới từ năm 1986 cho đến nay,
các chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng đến khôi phục văn
hóa truyền thống dân tộc. Ở Thanh Hóa, chính quyền địa phương có những chính
sách quan tâm đến trùng tu, tu bổ hệ thống di tích thờ tự, trong đó có các di tích
phụng thờ nhân vật khởi nghĩa Lam Sơn nói chung, nhân vật tham gia hội thề Lũng
Nhai nói riêng. Các di tích Lam Kinh, Thái miếu, đền thờ Trung Túc Vương Lê Lai
đã được trùng tu, tôn tạo lại rất khang trang, lễ hội của các di tích này hiện nay cũng
đã được phục hồi. Song song với đó là đầu tư, tôn tạo các di tích liên quan đến các
nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai như Lê Lai, Lê Văn Linh, Lê Văn An, Trịnh
Khả, Trương Lôi, Trương Chiến, Võ Uy, Lê Hiểm…Bằng cách tăng cường công tác
kiểm kê, xếp hạng, lập hồ sơ công nhận di tích và khôi phục lại các lễ tế, sinh hoạt
tín ngưỡng có liên quan gắn với di tích. Thống kê cho thấy, trong số 38 di tích và
địa điểm tưởng niệm nhân vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa thì đến nay đã có 1
di tích cấp quốc gia đặc biệt, 10 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 15 di tích xếp
hạng cấp tỉnh còn lại 12 di tích đang khẩn trương hoàn thiện hồ sơ lý lịch di tích để
công nhận xếp hạng. Năm 2012, Khu di tích Lam Kinh được Thủ tướng Chính phủ
công nhận là di tích Quốc gia đặc biệt. Điều đó cho thấy sự quan tâm của nhà nước,
của tỉnh Thanh Hóa đối với các di tích thờ cúng Lê Lợi và các nhân vật tham gia hội
thề Lũng Nhai. Theo ông Phạm Văn Tuấn, Giám đốc Trung tâm bảo tồn DSVH tỉnh
Thanh Hóa cho biết: “cho đến nay, nguồn ngân sách của tỉnh và trung ương đầu tư
cho việc trùng tu, tôn tạo di tích chủ yếu tập trung vào khu di tích lịch sử Lam Kinh
và đã có 8 di tích được hỗ trợ nguồn kinh phí chống xuống cấp theo kế hoạch hàng
112
năm của tỉnh [106, tr 386]. Với sự quan tâm của tỉnh Thanh Hóa, hằng năm lễ hội
Lam Kinh được chính quyền địa phương tổ chức thường niên nhằm vào dịp giỗ vua
Lê đã thực sự trở thành ngày hội văn hóa của cộng đồng. Là một dịp để thắt chặt
tinh thần đoàn kết và thể hiện sự tri ân, hướng về những người anh hùng dân tộc có
công với đất nước.
Nhìn chung, xuyên suốt từ từ thế kỷ XV đến nay, mặc dù qua nhiều giai đoạn
thăng trầm và biến động của lịch sử. Các nhà nước quân chủ phong kiến cho đến
chính quyền hiện nay đều thể hiện thái độ đánh giá tích cực đối với di sản của khởi
nghĩa Lam Sơn nói chung, Lê Lợi và các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai nói
riêng với các chính sách nhằm khuyến khích, duy trì và bảo tồn tập tục thờ cúng.
3.2.2. Thái độ của cộng đồng
Xuất phát từ truyền thống yêu nước và đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của
dân tộc ta, thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai trong các làng xã trên
đất Thanh Hóa là sự thể hiện lòng tôn kính, ngưỡng mộ những người anh hùng đã
hy sinh vì dân, vì nước. Mặt khác, đối với người dân tục thờ cũng thể hiện nhu cầu,
khát vọng tâm linh, niềm tin vào quá khứ để vươn lên trong cuộc sống. Hình tượng
các nhân vật đã được huyền thoại hóa để trở nên thiêng liêng, thần thánh, kỳ vĩ, là
tấm gương sáng đáng để dân tôn thờ, kính trọng.
Mặt khác, thái độ của người dân qua các thế hệ với việc thờ cúng các nhân
vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa chính là một chiều kích tác
động từ dưới lên khiến cho tín ngưỡng này phát triển mạnh mẽ, có tính lan tỏa
không những trên quê hương, làng xã, dòng họ các nhân vật mà còn ở những khu
vực mà dấu tích của cuộc khởi nghĩa này vẫn còn in hẳn trong tình cảm và niềm tự
hào của người dân.
Theo kết quả khảo sát của NCS cho thấy, trong các làng xã có điểm thờ cúng
được khảo sát thì hầu như ai cũng nhớ về tên gọi, lai lịch và những đóng góp to lớn
của thần đối với khởi nghĩa Lam Sơn. Hơn 81,9 % số người trả lời đều cho biết các
nhân vật là người có công trong khởi nghĩa Lam Sơn và 74,1% cho rằng các vị là
những người anh hùng có công đánh đuổi giặc Minh. Số người cho rằng các vị là
113
những người khai sáng vương triều Lê Sơ và có công với làng nhận được ít câu trả
lời đồng ý, chỉ lần lượt là 31,5% và 27,3%. Song họ lại cho rằng, các ngài là những
vị thần hiển linh với tài năng và đức độ, số người cho rằng họ chính là các thần linh
chiếm 76,6% [PL5, tr 196].
Các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ngoài tư cách là những nhân
vật lịch sử cách nay trên 600 năm đã đi vào đời sống tín ngưỡng của cộng đồng. Đó
là sự ghi nhận công lao to lớn của các vị. Bằng chứng là, khi được hỏi: vì sao làng
xã (ông, bà) lại thờ cúng các vị. Kết quả cho thấy, có 89,3% cho biết bởi đây là nơi
sinh quán của vị thần chủ, còn 82,9% thì cho rằng đây chính là quê hương con cháu
dòng họ của vị công thần. Chỉ có 62,7% trả lời là di tích gắn với nơi chiến đấu của
các vị trong thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn hay địa điểm hiện nay là địa bàn của khởi
nghĩa Lam Sơn (chiếm 68,4%). Có một điều đặc biệt là, hầu hết đều khẳng định,
thần chủ được thờ tại di tích làng xã mình là một trong những nhân vật quan trọng
nhất của khởi nghĩa Lam Sơn, giúp Bình Định Vương giành toàn thắng, nghĩa là có
công lao to lớn nhất và để chứng minh công đức của các vị đối với dân làng, đối với
dân tộc, số người trả lời câu hỏi này chiếm đến 76,9% [PL5, tr 196- 197].
Có thể nói, việc thờ cúng và duy trì các tập tục nghi lễ đối với những người
tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa đã vượt ra ngoài khuôn khổ mang ý nghĩa
kỷ niệm sự kiện và danh nhân lịch sử. Nó thực sự đã đi vào đời sống tinh thần, tâm
linh của người dân. Nhiều người biết đến các di tích thờ cúng nhân vật hội thề Lũng
Nhai, kể cả lai lịch, vị thần được thờ cũng như các truyền thuyết, giai thoại có liên
quan đến các nhân vật. Họ kể lại rành mạch và bao giờ cũng thể hiện lòng tự hào, tự
tôn về người con của quê hương mình. Khi được khảo sát về lý do hành lễ tại di
tích, số người cho rằng di tích rất linh thiêng chiếm đa số (84,1%) và vì di tích của
làng nên thường xuyên đến hành lễ chiếm 75,8%. Còn lại là các lý do khác: do đi
cùng với người khác (39%), thói quen của bản thân (33,4%) và chỉ có 13,1% trả lời
là do di tích thuận tiện nên đi lại và biết đến thường xuyên. Tuy nhiên, hầu như tất
cả đều cho rằng, di tích là tài sản tinh thần quan trọng còn lại đến nay để giúp mọi
người hiểu hơn về thân thế, sự nghiệp của các vị anh hùng cứu nước. Qua khảo sát
114
về sự linh ứng khi phụng thờ các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai, đã có 75.9%
ứng với 214 người trả lời là di tích có sự linh thiêng và chỉ có 11% trả lời không
linh thiêng [xem biểu đồ 3.1]. Điều này cũng cho thấy đa đại số người dân ở các địa
phương là quê hương của nhân vật hội thề Lũng Nhai hoặc các địa danh đã từng là
địa bàn của khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa là những người thực hành tín ngưỡng
thường xuyên và có niềm tin vào đối tượng được phụng thờ.
13.1
11
Có
Không
Chưa thấy
75.9
Biểu đồ 3.1.Biểu đồ thể hiện sự linh thiêng của thần ở di tích [Nguồn: Theo kết quả tổng hợp điều tra của NCS]
Trong đợt điều tra, khảo sát tại Lam Kinh năm 2014, NCS đã gặp gỡ nhiều
người dự lễ, khi được hỏi về động cơ, mục đích của mình khi về dự lễ hội Lam
Kinh, một cụ bà khẳng định:
Di tích thờ cụ (Lê Lợi) thiêng lắm, không thế thì dân ta tại sao có câu:
“hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”, các cụ ngày xưa đã dạy rồi, trời hôm
ấy khi nào chẳng có mưa, ông Lê Lợi làm mưa đấy. Làm mưa cho dân
được mát mẻ, cây cối được tốt tươi. Dân ở đây vẫn còn nhớ đến câu
chuyện, một người cầu tự ở Nam Định xin được con khi cầu cụ, sau còn
phải đến cúng voi và hưng công cho đền của ngài nữa. Tôi nghe nói chỗ
ông ấy trồng cây ổi năm nào, giờ cây ổi cũng rất thiêng [Trích biên bản
phỏng vấn số 2, tr 206].
Như để thêm khẳng định về sự linh ứng của đền thờ vua Lê ở Lam Kinh, cụ
chia sẻ thêm:
115
Trước đây khi di tích chưa được tu bổ, tôn tạo lại như hiện nay thì mọi
hoạt động tế lễ vua Lê chủ yếu diễn ra ở đền Cham (đền thờ Lê Thái Tổ)
phía bên ngoài. Chúng tôi thường xuyên gặp các bản hội về hành hương,
khi nào cũng có lễ hầu đồng vui lắm. Mấy năm gần đây, khi di tích được
tu sửa lại khang trang, ngày hội khi nào cũng vinh danh các con cháu họ
Lê ở cả trong và ngoài tỉnh. Họ về đây thấy vinh dự lắm. Mỗi đợt thi đại
học, không những con cháu dòng họ Lê ở Thanh Hóa mà còn có những
học sinh, con cháu người Thanh Hóa đến lăng cụ thắp hương, cầu khấn
cho việc học hành hay sự nghiệp [Trích biên bản phỏng vấn số 2, tr 206].
Tại đền Tép thờ Trung Túc Vương Lê Lai, một di tích quan trọng trong quần
thể di tích Lam Kinh, NCS nhận được sự chia sẻ của một người bà con người địa
phương ở Ngọc Lặc như sau:
Đền Ngài thiêng lắm các anh ạ. Ngôi đền này đã bị cháy nhiều lần rồi.
Tôi nghe người ta nói, mỗi lần cháy như vậy thì tỉnh ta năm ấy đều có
chuyện không vui. Lúc thì thiên tai, hỏa hoạn. Khi thì tình hình an ninh
trật tự và làm ăn kinh tế không được thuận lợi cho lắm. Cái này thì tôi
chỉ nghe người ta truyền miệng như vậy thôi chữ không biết thực hư thế
nào. Tôi chỉ thấy, mỗi lần có lễ hội Lam Kinh, các lãnh đạo địa phương
và nhiều ông to về đây cúng lễ nghiêm cẩn lắm [Trích biên bản phỏng
vấn số 1, tr 202].
Tại một di tích khác ở Tĩnh Gia, huyện phía Nam giáp ranh với đất Nghệ An
của tỉnh Thanh Hóa, một người trong dòng họ Trương Lôi, Trương Chiến cho biết:
Trước đây chúng tôi cũng có nghe nói dòng họ còn nhánh chi ở một số
nơi. Vì phân nhánh nên có người không biết, bao năm mất liên lạc. Một
hôm có một nhóm người trong họ từ Như Quỳnh (Bắc Ninh) đến hỏi
thăm, tìm về đền thờ. Việc này cũng cách nay lâu lắm, làm gì có internet
như bây giờ. Thế mà họ bảo, chính giấc mơ cụ báo về đêm trước mà hôm
sau đi một mạch về Thanh Hóa không phải hỏi thăm mà đến được đền
116
thờ. Chúng tôi cũng thấy vô cùng kỳ lạ [Trích biên bản phỏng vấn số 7,
tr 219].
44
Nam
56
Nữ
Biểu đồ 3.2. Biểu đồ tỷ lệ về giới khi thực hành tế lễ tại di tích [Nguồn: Theo kết quả tổng hợp điều tra của NCS]
Trong các đợt phỏng vấn, điều tra đối với người dân và những người đi lễ,
hành hương tại các di tích cho thấy, Lê Lợi, Lê Lai và các nhân vật hội thề Lũng
Nhai khác được người dân cảm kích công lao và luôn luôn cho rằng, nếu không có
các vị với võ công, trí dũng thì đất nước sẽ mãi rơi vào họa ngoại xâm. Vì thế họ
chính là “người trời”, không đơn thuần như những người bình thường. Vì vậy mà
rất thiêng liêng.
Từ sự thiêng liêng của những con người hy sinh vì nước non, sông núi nên
cộng đồng duy trì sự thờ cúng để đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân. Đó là
chất xúc tác để mọi người đến với di tích. Theo kết quả điều tra của NCS, người đến
hành lễ xét về giới tính có sự cân bằng giữa nam và nữ, với số người tuổi trung niên
chiếm đa số với 66,7% (trên 55 tuổi), chỉ có khoảng 33,3% những người trẻ tuổi
(dưới 55 tuổi) tham gia các nghi thức tâm linh, tín ngưỡng tại di tích phụng thờ. Số
người là nam giới tham gia nhỉnh hơn một chút là 56%, còn 44% là nữ giới. Điều
này có lý do một phần là bởi các di tích thờ cúng phần nhiều diễn ra ở từ đường của
dòng họ và theo quan điểm truyền thống trong văn hóa dòng họ, nam giới phải đảm
đương các công việc liên quan đến nghi lễ nhiều hơn.
Số người biết đến và tham gia các thực hành nghi lễ tại di tích thờ cúng nhân
vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa cũng có sự phân hóa, khá đa dạng, phong phú.
117
Thường là con em, con cháu hậu duệ dòng họ các nhân vật, người trong làng xã,
người địa phương với sự khác biệt về xuất thân, nghề nghiệp, công việc. Họ thuộc
đủ mọi tầng lớp trong xã hội. Từ già đến trẻ, từ gái đến trai với một tâm niệm “nhất
tâm” hướng về những người có công với đất nước, lịch sử.
Bảng 3.1. Thành phần, nghề nghiệp những người tham gia dự lễ
TT Thành phần Tần số (người) Tỷ lệ (%)
Nông dân Công nhân Giáo viên Học sinh, sinh viên Kinh doanh, buôn bán CBVCNN Nghề tự do Nội trợ Hưu trí Khác
36,2 2,8 4,3 6,7 9,2 5,7 13,1 3,9 18,1 0 100 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Tổng số: 102 08 12 19 26 16 37 11 51 0 282
[Nguồn: Theo kết quả tổng hợp điều tra của NCS]
Từ kết quả trên cho thấy, những người tham gia dự lễ và các nghi thức thờ
cúng tại di tích phần nhiều là bà con làm nghề nông (36,2%) và các cụ hưu trí
(18,1%) cùng một số ít người làm nghề kinh doanh, buôn bán và nghề nghiệp tự do.
Những người làm các công việc nhà nước như giáo viên, cán bộ, học sinh sinh viên
hay công nhân cũng thường xuyên có mặt mặc dù số lượng không nhiều. Điều đó
cho thấy bức tranh khá đa dạng của những người tham dự hoạt động nghi lễ gắn với
thần được thờ ở di tích.
Biểu đồ 3.3. Thống kê tần suất người đến di tích [Nguồn: Theo kết quả tổng hợp điều tra của NCS]
118
8.8
Lần đầu tiên
27.7
Lần thứ 2
Trên 3 lần
63.5
Mọi người đến với các di tích thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai vì nhiều
lý do, vào nhiều dịp, có khi là dịp chính lễ, lúc khác lại vào các ngày bình thường.
Trong đó tập trung đông nhất vào các ngày lễ hội của làng, ngày tế lễ kỷ niệm ngày
mất các vị và những dịp đầu năm, cuối năm cầu bình an. Một số di tích lớn như
Lam Kinh, đền Tép, Thái miếu nhà Hậu Lê thì số lượng người hành hương đến
cúng bái quanh năm, bởi vì những nơi này hiện nay đã trở thành những điểm đến du
lịch trọng điểm của tỉnh Thanh Hóa. Không những đến di tích tham quan, vãn cảnh
và cầu cúng. Những dịp lễ hội lớn như lễ hội Lam Kinh, lễ hội Thái miếu và lễ hội
ở các làng xã thờ cúng nhân vật hội thề thì nhân dân thập phương và nhân dân
thường xuyên có mặt. Chính họ đã làm nên không khí náo nức cho hội lễ và qua đó
thấy được sự ghi nhận, đánh giá của cộng đồng dành cho các nhân vật.
11.7
19.5
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
68.8
Không tham dự
Biểu đồ 3.4. Biểu đồ đánh giá tần suất tham dự lễ hội [Nguồn: Theo kết quả tổng hợp điều tra của NCS]
119
Việc thờ cúng các nhân vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa có lịch sử từ lâu
đời nay và được bảo lưu gìn giữ nhằm đáp ứng các nhu cầu tinh thần của một bộ
phận lớn người dân Thanh Hóa. Đó là sự đảm bảo nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng đã
trở nên quan trọng trong đời sống của người dân. Mặt khác, nó đồng thời cũng phản
ánh tình cảm, thái độ, đạo đức của người dân đối với những người vì dân, vì nước.
Họ đến với di tích, cậy nhờ các Ngài vì nhiều lý do, qua khảo sát cho thấy
mức độ đa dạng về động cơ, mục đích thực hành tín ngưỡng của người dân. Phần
lớn là cầu cho sức khỏe bình an, gia đình hạnh phúc, công việc phát triển, con cháu
thảo hiền. Qua khảo sát, có rất nhiều mục đích của người dân được nêu ra như cho
sức khỏe bình an (96,1%), cho gia đình hạnh phúc (91,5%) và cho làm ăn, kinh
doanh khấm khá (94,7%). Một điều tương đối đặc biệt là số mong muốn cho thăng
tiến trong nghề nghiệp chiếm một số lượng tương đối (77,7%) và còn có cả mục
đích cầu tự con cái nối dõi tông đường (66,7%). Có lẽ bởi vì phần lớn các di tích
thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai có thực hành tín ngưỡng trong phạm vi dòng
họ, cho nên bản thân di tích cũng trở thành biểu tượng của văn hóa dòng họ, nên
nhu cầu cầu tự ở đây dễ được đáp ứng hơn so với các di tích khác chăng?!.
16.7
Chỉ tham quan, vãn cảnh
77.7
Cầu thăng quan, tiến chức
32.3
Cầu được mùa
66.7
Cầu tự con cái
94.7
Cầu tài, cầu lộc
91.5
Cầu gia đình hạnh phúc
96.1
Cầu sức khỏe, bình an
0
20
40
60
80
100
Biểu đồ 3.5. Nhu cầu của cộng đồng khi thực hành tín ngưỡng tại di tích [Nguồn: Theo kết quả tổng hợp điều tra của NCS]
Bà Nguyễn Thị Hồng, người sống cạnh Thái miếu nhà Hậu Lê, ở phường
Đông Vệ, Tp Thanh Hóa khi được phỏng vấn tại di tích cho biết:
Tôi bị thấp khớp mấy năm nay đi nhiều nơi chữa không thuyên giảm, từ
ngày tham gia cùng các bà trong hội khuyến thiện tại địa phương để phục
120
vụ những việc trong những dịp lễ ở đền. Tôi thấy sức khỏe mình ngày
càng tốt, mặc dù không phải uống thuốc nhiều. Có lẽ do các Ngài độ trì,
thương tôi nên bệnh giờ cũng giảm hẳn. Vì thế nên, nếu không có việc gì
ở nhà là tôi lại ra đây [Trích biên bản phỏng vấn số 5, tr 13- 214].
Biểu đồ 3.6: Đánh giá vai trò của tín ngưỡng đối với cộng đồng địa phương [Nguồn: Theo kết quả tổng hợp điều tra của NCS]
14.9
Khác (ghi rõ)
63.5
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
92.9
Hướng về nguồn cội
77.7
Cố kết cộng đồng
70.6
Cân bằng đời sống tâm linh
88.3
Giáo dục truyền thống cho thế …
0
20
40
60
80
100
Tóm lại, vai trò và công trạng của các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai
đã được các tài liệu sử sách đánh giá và ghi nhận đầy đủ. Tuy nhiên, đối với người
dân, họ luôn có một “tuyến riêng” để đánh giá và ghi nhận công lao của nhân vật
lịch sử. Sự tôn vinh, đánh giá đó đôi khi khá “mộc mạc” dân dã như lưu truyền các
huyền thoại, truyền thuyết về các nhân vật lịch sử hoặc thờ cúng các vị để nhân vật
lịch sử vẫn tiếp diễn, hiện diện và phù giúp cho những người đang sống hôm nay.
Với họ, một trong những đặc điểm để các nhân vật được trở nên bất tử là sự thiêng
liêng. Với chiến công oanh liệt, họ đã “hóa thánh”, trở lại giúp đỡ cho cộng đồng,
để cộng đồng giải quyết những bộn bề, hy vọng của ngày hôm nay.
Quá trình chuyển hóa từ những nhân vật lịch sử được cộng đồng và dân
chúng tri ân, tôn vinh đến việc thường xuyên hành lễ, khấn cầu tại di tích đã cho
thấy sự thay đổi trong thái độ của người dân, không những coi các vị là các nhân vật
lịch sử đơn thuần mà còn trở thành những vị thần bảo hộ cho cuộc sống, cho làm
ăn. Việc thờ phụng và thực hành nghi lễ thường xuyên đã tác động vào đời sống cá
nhân của mỗi người, của tộc họ và của cả cộng đồng. Thông qua thói quen của
người đi hành lễ tại các di tích thờ cúng nhân vật hội thề cho thấy, những hoạt động
thông thường chủ yếu là thắp hương, cầu xin (98,9%) và cúng lễ (95%) tại di tích
121
[xem biểu đồ 3.7]. Những hoạt động mê tín dị đoan, hủ tục rất hạn chế. Đặc biệt là
từ khi có quy định cấm đốt vàng mã và việc hỏa hoạn tại một số đền thờ như Đền
Tép vào những năm 2013, thì đến nay tình trạng đốt vàng mã tại các di tích thờ
cúng đã giảm đi nhiều.
4.6
Hầu đồng
30.5
Đốt vàng mã
1.1
Xem bói, bốc quẻ
95
Cúng lễ
98.9
Thắp hương, cầu xin
0
20
40
60
80
100
Biểu đồ 3.7. Đánh giá thói quen thực hành tín ngưỡng tại di tích [Nguồn: Theo kết quả tổng hợp điều tra của NCS]
Những lễ vật được người dân dành để dâng lên vị thánh, thần của làng mình,
của dòng họ, của vị anh hùng cũng khá phong phú. Đó có khi là đồ lễ chay như trái
cây, hoa quả hoặc các tộc họ chu đáo còn có đồ cúng mặn, thường là xôi gà, thủ lợn
hoặc bà con thập phương, người trong họ xa quê thì cúng tiền nhưng quan trọng
nhất vẫn là lòng thành kính, sự thành tâm của người sống đối với anh linh các bậc
khai sáng, mở mang [xem bảng 3.2].
Bảng 3.2. Bảng thống kê các hiện vật cúng lễ phổ biến
Lễ vật
TT 1 Hoa quả, trái cây Số phiếu (N) 263 Tỷ lệ (%) 93,3
2 Tiền cúng 139 49,3
3 Đồ lễ chay 217 76,9
4 Cả lễ chay và lễ mặn 149 52,8
5 Đồ lễ mặn 154 54,6
6 Các loại bánh 34 12,1
7 Vàng mã, sớ 129 45,7
122
8 Khác 4 1,4
[Nguồn: Theo kết quả tổng hợp điều tra của NCS]
Với niệm thành kính, tôn sùng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai nên
người dân khá thuần thục và tuân thủ các tập tục, kiêng kỵ gắn với di tích thờ cúng.
Ở đền An Lạc (Hoằng Hóa), con cháu dâng lễ vật lên bậc tiên tổ bất cứ thứ gì, miễn
sao phải thành tâm. Tuy nhiên, theo lễ, đại kỳ phúc 4 năm một lần phải dâng lễ mặn
bắt buộc là sôi và thủ lợn.
Ông Lê Văn Dương là hậu duệ dòng họ Lê Lai đời thứ 21 tại thôn An Lạc,
xã Hoằng Hải (Hoằng Hóa) cho biết:
Ngày xưa các cụ truyền lại, mỗi năm tế đại kỳ phúc, các chi họ ở Hoằng
Hóa và Tĩnh Gia, Nông Cống phải về đền dự lễ. Như năm nay, không
phải kỳ lễ chính, đến ngày giỗ của cụ, con cháu các chi về dự, không
phân biệt lễ vật to nhỏ, đồ chay hay mặn. Dâng lên Ngài xong thì trưởng
họ sẽ lấy chính lễ vật và đồ cúng mặn của họ làm cỗ bàn, chia ra ăn ngay
tại đền thờ. Cốt là để con cháu tụ họp, đông vui, quây quần [Trích biên
bản phỏng vấn số 6, tr 216].
Khi được hỏi về những tập tục, kiêng kỵ của địa phương, của di tích gắn liền
với việc thờ cúng các nhân vật, khá đặc biệt là nhiều người tỏ ra rất am hiểu. Có
97,9% trả lời là dịp lễ thường đọc bài văn ca ngợi công đức của các ngài trong khởi
nghĩa Lam Sơn và trong những ngày lễ, con em, người dân thường tránh gọi tên húy
của thần (chiếm 91,8%). Điều đó cho thấy, hoạt động tín ngưỡng đã góp phần chi
phối quan hệ ứng xử và đạo đức cho người dân.
Trong dịp lễ hội đền Lê ở phường Đông Vệ, Tp Thanh Hóa, một khách đi
hành hương, vốn gốc là con cháu họ Đinh (Đinh Liệt, Đinh Lễ) ở Nông Cống cho
biết:
Năm nào không bận việc tôi cũng tới đền dự lễ, tôi họ con cháu Đinh
Liệt mà. Ngày xưa các cụ giữ tục đó, giờ tham gia nhiều nên thành quen.
Các cụ kể lại, thời trước giải phóng năm nào đền có lễ dịp giỗ vua là
trong họ phải họp bàn và cử trưởng tộc về dự và dâng lễ tại đền. Bởi vì
123
các cụ cho rằng, cụ tổ nhà tôi và vua là những người anh em vào sinh ra
tử. Dòng họ chúng tôi với dòng họ vua có mối quan hệ lâu đời. Đền này
thiêng lắm, có năm không đi được, về năm đó tôi làm ăn chán lắm anh ạ,
chắc không dự các cụ quở [Trích biên bản phỏng vấn số 8, tr 219- 220].
Có thể thấy rằng, việc thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai ở
Thanh Hóa đã trở thành ý thức thường hằng của một đại bộ phận người dân Thanh
Hóa từ bao đời nay. Đó là lòng nhớ ơn về một thời kỳ gian khổ của nghĩa quân Lam
Sơn dưới sự lãnh đạo của Bình Định Vương Lê Lợi và sự đấu tranh không nề hà
tính mạng, vào sinh ra tử của các nhân vật lịch sử, của các bậc công thần. Cho nên
ngoài ý nghĩa tôn vinh lịch sử còn xuất phát từ niềm tin thiêng liêng của người dân
về các vị. Qua quá trình khảo sát, NCS nhận thấy rất nhiều người tham dự lễ hội và
thực hành tín ngưỡng tại di tích trước hết là vì thiêng liêng của các vị đối với đời
sống vật chất và tinh thần của con cháu, cộng đồng hôm nay. Khi được hỏi về vai
trò của các vị đối với cộng đồng, rất nhiều ý kiến cho rằng tục thờ góp phần giúp
cho con em các dòng họ và người dân hướng về cội nguồn (92,9%), tăng cường tính
chất cố kết, đoàn kết trong cộng đồng (77,7%) và giáo dục truyền thống cho thế hệ
trẻ hôm nay (88,3%). Đã có 70,6% trả lời việc thực hành nghi lễ tại di tích góp phần
cân bằng đời sống tâm linh, đồng thời qua đó bảo lưu, gìn giữ những giá trị văn hóa
tốt đẹp mà cha ông đã để lại (63,5%) [PL5, tr 200- 201].
Tiểu kết
Thông qua việc khảo sát và nghiên cứu thực chứng việc phụng thờ các nhân
vật lịch sử tham gia khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa dưới góc độ hệ thống thờ
cúng như di tích, thần điện, lễ hội, nghi thức, nghi lễ thờ cúng, tập tục và các kiêng
kỵ cho thấy sự hiện diện của một loại hình tín ngưỡng trong cộng đồng ở các khu
vực đã từng là địa bàn hoạt động của khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa cũng như
trên quê quán, dòng họ của các nhân vật. Các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai
được người dân Thanh Hóa thờ cúng trong các loại hình di tích khác nhau, chủ yếu
là đền, đình làng và nhà thờ họ. Ở mỗi loại hình di tích, các nhân vật này có thể
được thờ riêng hoặc phối thờ với các vị thần địa phương. Và tùy thuộc vào tính
124
chất, mức độ của đối tượng phụng thờ cũng như điều kiện kinh tế của từng địa
phương mà các di tích có sự phân biệt về quy mô, diện mạo. Để tưởng nhớ, tôn vinh
cuộc đời và sự nghiệp của các vị, những nghi lễ, lễ hội thường xuyên được duy trì,
thể hiện nét đẹp trong truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.
Điển hình như các lễ hội Lam Kinh, lễ hội Thái miếu nhà Hậu Lê, lễ hội Căm
Mương... nay đã trở thành những ngày hội văn hóa của cộng đồng, thu hút đông đảo
người dân xứ Thanh và khách thập phương trong nước thuộc đủ các tầng lớp tham
gia nghi lễ tưởng niệm trong ngày hội. Ở nhiều làng xã, nơi các nhân vật tham gia
hội thề Lũng Nhai được tôn vinh qua tế lễ trong từ đường, đền thờ, đình làng... cũng
đã trở thành những dịp quan trọng để bà con nhân dân địa phương, con em trong
dòng họ được tự hào về công nghiệp, cuộc đời của các bậc tiền nhân. Sự tồn tại của
các di tích gắn với các nghi thức tế lễ, lễ hội và tập tục có liên quan đến chủ đề tôn
vinh, thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai đã định hình một
không gian văn hóa tín ngưỡng khá đặc sắc ở Thanh Hóa.
Trên phương diện khảo sát các cứ liệu lịch sử để đánh giá thái độ của các nhà
nước (cả nhà nước quân chủ và nhà nước hiện nay) đối với các nhân vật tham gia
hội thề Lũng Nhai và tâm thức của người dân đối với các nhân vật. NCS nhận thấy
sự đồng nhất về mặt tâm thức đó là ý thức tôn vinh, kỷ niệm sự kiện và nhân vật
lịch sử. Đồng thời cũng phản ánh sự nhìn nhìn, đánh giá mang tính tương đồng của
nhà nước và cộng đồng đối với những anh hùng dân tộc chống giặc ngoại xâm. Đó
còn là sự công nhận, thừa nhận của nhà nước và sự biết ơn, tưởng nhớ các nhân vật
lịch sử của cộng đồng. Mặt khác thông qua tục thờ cúng để cộng đồng gửi gắm
niềm tin, giúp cho họ thỏa mãn các nhu cầu và nguyện vọng chính đáng trong đời
sống tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống.
Nhìn chung, nghi lễ và phong tục thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề
Lũng Nhai ở Thanh Hóa ở mỗi làng, mỗi vùng tuy có một số cách biểu hiện, tổ
chức khác nhau nhưng đều là sự ngưỡng vọng các anh hùng dân tộc. Và qua đó
chúng ta nhận thức về một diện mạo chung về sinh hoạt tín ngưỡng, thể hiện sự
thống nhất về ý thức của cộng đồng đối với các nhân vật lịch sử.
125
Chương 4
BẢN CHẤT, GIÁ TRỊ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐANG ĐẶT RA CỦA
TỤC THỜ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI ĐƯƠNG ĐẠI
4.1. Bản chất của tục thờ
4.1.1. Thờ cúng nhân vật lịch sử, thờ cúng nhân thần
Việc thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa
mang những nét chung của các hình thức tín ngưỡng truyền thống. Đối tượng phụng
thờ là các nhân vật lịch sử, đúng như nhận định: “thờ cúng nhân vật lịch sử là nét
đặc biệt trong tâm thức người Việt, người Việt Nam. Có lẽ, do vị thế địa – chính trị
và những điều kiện lịch sử- xã hội mà người Việt Nam có tâm lý này chăng” [22, tr
39]. Xuất phát từ sự tôn kính, lòng biết ơn đối với những nhân vật lịch sử, của hào
quang cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã thúc đẩy cộng đồng thiêng hóa và thờ cúng các
vị. Sự tôn vinh của cộng đồng đối với các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng
Nhai chứa đựng 2 yếu tố, đó là sự hàm ơn những người có công với quê hương, đất
nước và nhu cầu tìm kiếm các biểu tượng để duy trì sự ổn định, cố kết gia tộc, dòng
họ, làng xã. Với việc củng cố ý thức tập quyền cao độ của vương triều Lê Sơ và tư
tưởng nho giáo đang trên đà được đề cao đã thúc đẩy các dòng họ công thần thế lực
ở xứ Thanh, trong đó có các dòng họ nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai tăng
cường sự củng cố gia tộc và việc thờ cúng những vị tổ tiên, thủy tổ dòng họ đã trở
thành mối quan tâm của con em, hậu duệ các nhân vật. Mặt khác, trong tâm thức
dân gian, các ngài là những người giỏi đánh giặc, mở mang trang ấp, xóm làng,
tham gia chính sự, đem lại sự yên bình cho nhân dân và được bao phủ bởi những
huyền thoại lung linh trong buổi đầu của khởi nghĩa Lam Sơn, điển hình như những
tấm gương vì nước quên thân như Lê Lai, Lê Lợi và nhiều nhân vật lịch sử khác
trong hội thề. Và như thế sự kết hợp giữa thực và ảo, giữa lịch sử và huyền thoại cứ
được đan cài, xen kẽ và nhập vào nhau, cùng với sự lùi xa của lịch sử đã khiến cho
ký ức về các nhân vật trở nên thiêng liêng, thần thánh. Với cộng đồng, việc thờ
cúng các vị không những là vì “ích nước, lợi dân” mà còn vì đáp ứng các nhu cầu
và nguyện vọng chính đáng của nhân dân trong đời sống tinh thần.
126
So với nhiều nhân vật trung tâm trong lễ hội, tế lễ thì việc thờ cúng và thực
hành tín ngưỡng gắn với các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai là những nhân vật
lịch sử. Đó là những người đồng chí của Bình Định Vương Lê Lợi trong cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn. Họ làm đội ngũ nòng cốt tham gia cuộc khởi nghĩa ngay từ thời kỳ
đầu. Trong kho tàng lễ hội truyền thống Việt Nam, không phải không có những lễ
hội gắn với các nhân vật huyền thoại. Ở các lễ hội/tế lễ Lê Lợi và các tướng lĩnh của
ông trong hội thề Lũng Nhai, đó là những nhân vật lịch sử. Điều này đã chi phối sự
tích và di tích thờ cúng ở các địa điểm thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng
Nhai. Điều dễ nhận thấy là hầu hết các di tích thờ cúng các nhân vật tham gia hội
thề Lũng Nhai đều gắn với các khu vực đã từng là vùng địa bàn hoạt động của khởi
nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa, hoặc gắn với sinh quán nhân vật hoặc vùng đất lập
nghiệp của con cháu hậu duệ các vị. Như ở các huyện Bá Thước, Ngọc Lặc, Lang
Chánh, Thường Xuân, vốn là địa bàn của khởi nghĩa Lam Sơn trong thời kỳ đầu.
Đây cũng là khu vực có đông đảo bà con đồng bào các dân tộc thiểu số Thái,
Mường ở Xứ Thanh sinh sống. Ngày nay, những khu vực này còn bảo lưu khá đáng
kể những dấu tích về hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn và vẫn được bà con nhân
dân lưu giữ những kỷ niệm về khởi nghĩa Lam Sơn thông qua các sinh hoạt văn
hóa, nghi lễ, tập quán. Đền Lai ở Ngọc Lặc; đền Tiên Púa, đền Chí Nang ở Lang
Chánh, đền Đon Ban ở Bá Thước đều là những di tích thờ cúng và tưởng niệm Lê
Lợi. Ngày giỗ ông đã được kết hợp với các nghi lễ thờ thần núi, thần sông của
người Mường, người Thái và đã trở thành những sinh hoạt văn hóa cộng đồng đặc
sắc, lâu đời.
Trong tâm thức của cộng đồng, các nhân vật Lê Lợi, Lê Lai, Nguyễn Trãi;
rùa vàng; gươm thần; huyền thoại Lê Lai cứu chúa là được xem là những biểu
tượng lịch sử và cho đến nay ở nhiều di tích đã lấy đó làm cốt liệu phục vụ cho hoạt
động thực hành tín ngưỡng. Như Đền Lê ở Xuân Lam (Thọ Xuân) và Thái miếu (Tp
Thanh Hóa) nhân dân đã bày tượng thờ 3 vị (Lê Lợi, Lê Lai, Nguyễn Trãi) để thờ
cùng. Sự thực về ngày mất của Lê Lai đã được sử liệu chứng minh nhưng ngày giỗ
ông trong các lễ hội cộng đồng lại không phải ngày mất thực tế mà dựa theo truyền
127
thuyết dân gian “hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”, lễ giỗ Lê Lai trong tâm thức
cộng đồng gắn liền với sử tích Lê Lai cứu chúa và tuân theo ý nguyện của Lê Lợi
trước khi mất (Lê Lợi mất 22/8 âm lịch, giỗ Lê Lai phải trước 1 ngày, tức là 21/8
âm lịch). Sự kết nối giữa huyền thoại và lịch sử, giữa huyền thoại và tín ngưỡng lại
càng được củng cố thêm thông qua các thực hành nghi lễ, lễ hội các nhân vật lịch sử
tham gia hội thề Lũng Nhai.
Hoạt động thực hành tín ngưỡng tại nhiều di tích thờ cúng nhân vật tham gia
hội thề Lũng Nhai biểu thị mạnh mẽ sự tôn vinh, thờ cúng, tưởng niệm sự kiện và
nhân vật lịch sử. Minh chứng rõ nhất là các trò diễn dân gian xung quanh các lễ hội
Lam Kinh, Thái miếu và nhiều nơi khác ở Thanh Hóa. Trong dịp này, người ta tái
hiện không khí khởi nghĩa Lam Sơn bằng các biểu tượng thể hiện hoạt động quân
sự như “phá trận” (quân ta thắng quân Minh), “tung cù” (chặt đầu giặc Ngô), và trò
“chạy chữ” (thiên hạ thái bình) để nhớ ơn công lao của các vị đã cống hiến cho nền
độc lập của nước nhà. Trong hầu hết lễ tế diễn ra ở các từ đường thờ cúng nhân vật
hội thề Lũng Nhai, người ta đọc chúc văn ca ngợi công đức của các vị với những
chiến công liên quan đến sự kiện, tiến trình phát triển của khởi nghĩa Lam Sơn. Như
thế có thể thấy chính cảm hứng về nhân vật lịch sử đã chi phối huyền thoại, điện
thần, di tích, lễ hội của các vị.
Sự phong tước, ban thưởng, cấp bổng lộc trước đó mà nhà Lê Sơ đã thi hành
đối với hầu hết các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai mà Đại Việt sử ký toàn thư,
Đại Việt thông sử đã chép lại cùng với việc cấp sắc, phong thần, dựng bia và cho
xây dựng đền thờ sau khi mất được triển khai mạnh mẽ dưới thời Lê Trung Hưng,
rồi nhà Nguyễn về sau cũng có những chính sách đặc ân, khoản đãi đối con cháu và
đội ngũ công thần trung nghĩa của tiền triều (nhà Lê) đã càng làm sâu đậm thêm ý
thức về lịch sử cho người dân. Cùng với sự củng cố ý thức dòng họ và tâm lý tự hào
về “đất thang mộc của bản triều” (Thanh Hóa), hình ảnh của nhân vật lịch sử càng
thêm đậm nét, in sâu vào tâm thức văn hóa của người dân.
Thống kê cho thấy, di tích thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề
Lũng Nhai ở Thanh Hóa gồm đủ mọi loại hình: chủ yếu là đền, từ đường (nhà thờ
128
họ), lăng mộ và đình làng. Trong một số di tích có hiện tượng phối thờ nhân vật
tham gia hội thề Lũng Nhai với các thần linh khác nhưng bản chất vẫn lấy thờ cúng
các nhân vật lịch sử này làm chủ đạo. Các đền thờ phi thiếp và những người phụ nữ
gắn với Lê Lợi trong khởi nghĩa Lam Sơn như đền thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ, đền
Ngọc Lan (Thọ Xuân) hoặc thờ Lê Lai (đền Tép, đền An Lạc) ở Ngọc Lặc và
Hoằng Hóa, nhà thờ các quận công họ Đàm…mặc dù ở đây có ban thờ Mẫu nhưng
thực tế là thờ các nhân vật lịch sử khởi nghĩa Lam Sơn, thờ các nhân vật hội thề
Lũng Nhai.
Tục thờ các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở một số nơi lại đan
xen với tín ngưỡng thờ thành hoàng làng, chủ yếu trong một số các đình, đền như
đình Phương Chính (Tp Thanh Hóa), đền/đình làng Tân Phúc (Nông Cống). Đặc
điểm phức hợp này có lẽ cũng là đặc điểm của nhiều loại hình tín ngưỡng dân gian
ở nước ta.
Hoạt động thờ cúng và các nghi lễ thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề
Lũng Nhai có tính chất suy tôn và kỷ niệm sự kiện lịch sử. Đó là sự phản ánh các sự
kiện và nhân vật khởi nghĩa Lam Sơn thông qua loại hình sinh hoạt tín ngưỡng.
Nhìn chung, việc thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai
là một dạng tín ngưỡng phức hợp nằm trong nội dung thờ cúng các phúc thần của
cộng đồng, lấy cảm hứng chủ đạo nhằm tôn vinh các nhân vật và giá trị lịch sử.
Đồng thời lại được đan cài, giao thoa với các tín ngưỡng dân gian khác như thờ
cúng tổ tiên, thành hoàng, thờ Mẫu…
4.1.2. Thờ cúng tổ tiên
Ngoài sự tín ngưỡng các nhân vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa trong
cộng đồng thì nét đặc sắc nổi bật của tục thờ là sự tôn vinh, thờ cúng các vị tổ tiên
dòng họ. Với tính chất thờ cúng trong phạm vi dòng họ, đối tượng là nhân vật tham
gia hội thề Lũng Nhai cùng với các vị liệt tổ, liệt tông trong quy mô gia tộc. Nhiều
nhân vật không chỉ trở thành vị thần của cộng đồng, của làng, mà còn lại vị thần của
dòng họ, đúng như L. Cadière đã chỉ ra: “Nếu theo vương triều, nhà vua ban sắc chỉ
cho vong linh vị quan hay tướng binh nào đó lên hàng Thần để bảo vệ vương triều,
129
thì cũng vậy, trong gia đình thứ dân, hồn Tổ Tiên ông bà cũng được xem như là
những vị thần bảo hộ gia đình” [28, tr 67].
Dấu ấn của đạo thờ tổ tiên cũng in đậm trong các di tích. Đó là các từ đường
của dòng họ nhân vật hội thề Lũng Nhai như từ đường Lê tộc, Trịnh tộc, Nguyễn
tộc, Trương tộc của các dòng họ Lê Lai, Lê Hiểm, Lê Liễu, Võ Uy, Lê Văn An, Lê
Văn Linh, Nguyễn Thận, Trương Lôi, Trương Chiến...Hầu hết các di tích thờ cúng
đều thờ các vị Cao tổ, thủy tổ của dòng họ và thờ con cháu các vị theo thế thứ. Như
đền thờ Lê Hiểm thờ bốn thế hệ cha, con, ông, cháu với Lê Hiểm được coi là vị tổ
dòng họ. Di tích thờ Trịnh Khả, phụ mẫu và các vợ con ông. Đền An Lạc thờ cụ tổ
là công thần Lê Lai với các ông Lê Lâm, Lê Niệm, Lê Khủng con cháu ông và
những người trong dòng họ. Ở Ngọc Lặc, đền Tép thờ Lê Lai và vợ ông bà Nương
A Thiện. Ở từ đường họ Đàm Lê là thờ Lê Lợi và các quận công họ Đàm...Những
đền thờ khác thờ các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai của xuất hiện các trường
hợp tương tự. Phải chăng, đó là một dạng thức mô phỏng hình thức thờ cúng đại gia
tộc và hình thức thờ cúng tổ tiên?. Điều đặc biệt, có nhiều di tích vốn thờ các nhân
thần, mẫu thần cũng tìm cách đưa các nhân vật hội thề Lũng Nhai vào phối thờ, như
các trường hợp đã được NCS nêu trong luận án. Điều này có thể được giải thích là,
bằng tâm thức đề cao các anh hùng cứu nước nên việc phối thờ các vị, những người
có công “phò vua, giúp nước” sẽ đảm bảo được sự tồn tại bền vững của di tích trong
mối liên hệ và thẩm định chặt chẽ của các vương triều. Tuy nhiên, cũng có thể hiểu
việc phối thờ các nhân vật hội thề Lũng Nhai là bằng chứng cho thấy sức ảnh hưởng
và khả năng lan tỏa của bản thân nhân vật trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng
đồng. Đơn cử như trường hợp Lê Lai, ông vừa được thờ cúng trong gia tộc, dòng họ
con cháu, nhưng đã cùng với Lê Lợi, trở thành biểu tượng tín ngưỡng của cộng
đồng.
Kể từ sau khi Lê Thái Tổ băng hà năm 1433 và sự thúc đẩy xây dựng miếu
điện Lam Kinh dưới triều Lê Sơ, ý thức về nơi thờ cúng của dòng họ và gia tộc đã
trở nên phổ biến hơn không chỉ đối với các nhân vật khởi nghĩa Lam Sơn mà còn
trong gia tộc, dòng họ các nhân vật hội thề Lũng Nhai trên đất Thanh Hóa. Nhu cầu
130
bức thiết nhằm củng cố quan hệ thân tộc đã thúc đẩy việc thờ cúng các vị sau khi
mất trong gia tộc, từ đường. Theo tư liệu thư tịch cho thấy, các nhân vật như Trịnh
Khả, Lê Hiểm và nhiều nhân vật khác đã được các vua đương triều của nhà Lê cấp
sắc chỉ cho phép con cháu lập đền miếu thờ cúng và còn cấp cả ruộng đất để phục
vụ cho việc cúng bái. Xem thế cũng đủ thấy việc thờ cúng này ngay từ buổi đầu có
vai trò rất lớn của các dòng họ con cháu nhân vật. Và có thể nói, trước khi các nhân
vật trở thành những vị phúc thần của làng, của cộng đồng thì họ chính là các vị tổ
tiên. Ở nhiều nơi, như ở xã Tân Phúc (Nông Cống), xã Đông Lĩnh (Tp Thanh Hóa)
hoặc chẳng hạn một số vùng ở Ngọc Lặc, Thọ Xuân, các nhân vật tham gia hội thề
Lũng Nhai vừa là tổ tiên của dòng họ nhưng cũng với tư cách thành hoàng của làng.
Nhiều làng thờ cúng các vị như thờ cúng vị tổ tiên của họ. Chính mối quan hệ bền
chặt, giữa làng và họ, giữa nhân vật hội thề Lũng Nhai với cộng đồng đã khiến cho
tục thờ có những sắc màu đặc biệt. Có thể nói, chính ý niệm tôn vinh các anh hùng,
nghĩa sỹ bởi chẳng những do lòng biết ơn mà còn mong cầu các các vị hiển linh phù
giúp làng xã, quê hương tiếp tục góp công bảo vệ đất nước, xem các ngài không
những là tổ tiên của gia tộc mà còn là người mở mang, khai nền độc lập cho nước
nhà là những lý do chính để các vị vừa được thờ cúng trong gia tộc, lại vừa được tín
ngưỡng trong cộng đồng.
Qua quá trình khảo sát, NCS nhận thấy, ngoài các lễ hội cộng đồng như lễ
hội Lam Kinh, lễ hội Thái miếu nhà Hậu Lê, lễ hội Căm Mương của người Thái
Mường Ký ở Bá Thước hay lễ hội Lê Lai được xem là những lễ hội cộng đồng còn
đại đa số là các lễ tế và nghi thức thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai trong dòng
họ dưới các tên gọi như lễ “tế tổ”, “tế cáo”, “bái yết” các nhân vật thủy tổ dòng họ
là nhân vật hội thề Lũng Nhai. Các lễ tế tổ trong dòng họ đều lấy ngày húy kỵ, nhật
kỵ của nhân vật hội thề Lũng Nhai để tổ chức và các ngày này đều được ghi chép rõ
ràng trong gia phả. Trong lễ tế không thể thiếu “chúc văn” mà thường là bài văn ca
ngợi tổ tiên được trích trong bài “Văn thề Lũng Nhai” hoặc sơ lược công tích các
ngài trong Khởi nghĩa Lam Sơn mà sách sử đã ghi lại.
131
Tâm thức về tổ tiên đối với các nhân vật hội thề Lũng Nhai nhìn nhận qua
góc độ thần điện/điện thờ cho thấy, việc sắp xếp, bài trí trong các di tích luôn tuân
thủ chặt chẽ trật tự và thứ bậc nho giáo một cách triệt để. Trên ngôi cao nhất của
nhang án bao giờ cũng là bài vị của “Cao tổ” (nhân vật hội thề Lũng Nhai) được đặt
ở chính giữa, rồi mới đến các vị khác trong gia tộc hoặc rồi mới đến vợ, con, cháu
và nhân vật các đời sau trong dòng họ hai bên tả hữu [PL8, ảnh 11, tr 231; ảnh 27, tr
239]. Gian giữa điện thờ luôn trưng các hoành phi hoặc đại tự như “Bình Ngô khai
quốc công thần”, “Tổ đường” hoặc các câu đối mang hàm ý tôn vinh sự nghiệp lẫy
lừng của tổ tiên.
Sức ảnh hưởng của đạo thờ cúng tổ tiên người Việt đã ảnh hưởng khá sâu sắc
lên thực hành tín ngưỡng thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa. Minh
chứng rõ nhất qua lễ hội Thái miếu xưa (Đền Lê), các dòng họ vẫn giữ tục cử
trưởng tộc về dự và dâng lễ. Mối quan hệ gắn kết giữa các dòng họ nhân vật hội thề
Lũng Nhai với nhau được nhìn nhận dưới góc độ thân tộc và trở thành tục lệ, nét
đẹp trong đời sống văn hóa cộng đồng. Không như các lễ hội tôn vinh lịch sử khác,
lễ hội Lam Kinh vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc tâm thức thờ cúng tổ tiên, đó là dịp kỷ
niệm ngày mất của Lê Lợi được cộng đồng tổ chức chứ không phải kỷ niệm ngày
ông lên ngôi hoặc ngày thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn.
Có thể nói, việc thực hành tín ngưỡng thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia
hội thề Lũng Nhai có nét đặc sắc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, chính điều này đã
ảnh hưởng, chi phối lên các phương diện của thực hành tín ngưỡng từ tập tục, nghi
lễ cho đến di tích, thần điện.
4.1.3. Sự tương đồng, khác biệt của tục thờ trong tương quan với tín
ngưỡng phụng thờ các nhân vật lịch sử khác
Có thể nhận thấy rằng, trong tín ngưỡng phụng thờ nhân thần của người Việt,
chiếm số lượng nhiều hơn cả là các nhân vật lịch sử. Truyền thống đấu tranh chống
giặc ngoại xâm qua các thời kỳ lịch sử, lòng yêu nước, tự tôn dân tộc và đạo lý tốt đẹp
“uống nước nhớ nguồn” cùng triết lý “sinh vi danh tướng, tử vi thần” đã góp phần
tôn thờ các bậc anh hùng hào kiệt.
132
Sự phụng thờ các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở
Thanh Hóa có đặc điểm chung với tín ngưỡng phụng thờ các nhân vật lịch sử đó là
thể hiện sự tôn vinh, tưởng niệm các anh hùng dân tộc, những người có công lao to
lớn với đất nước, đặc biệt trong công cuộc đánh đuổi giặc ngoại xâm giữ yên bờ cõi,
mang lại nền độc lập cho quốc gia dân tộc trong tiến trình dựng nước và giữ nước.
Có thể nói “không có người anh hùng nào có công trong lịch sử, không có cuộc
khởi nghĩa nào xảy ra trong lịch sử lại không được quần chúng nhân dân ghi nhận”
[114, tr 46]. Các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai đã sánh bước cùng
nhiều anh hùng dân tộc khác như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lý Nam
Đế, Quang Trung để đi vào đời sống văn hóa và tín ngưỡng chung của cả dân tộc.
Các dấu vết thờ cúng, tưởng niệm nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai
trong nước như Lê Lợi, Lê Lai, Nguyễn Trãi, Lưu Nhân Chú, Bùi Quốc Hưng và
nhiều nhân vật khác của hội thề được tôn làm thành hoàng và được thờ cúng ở
nhiều đình, đền, miếu khắp các địa phương trong nước đã khẳng định truyền thống
đạo lý tôn sùng các anh hùng dân tộc, anh hùng địa phương, người có công diệt giặc
của nhân dân ta.
Tương tự các nhân vật lịch sử tiêu biểu như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý
Nam Đế, Trần Hưng Đạo và nhiều nhân vật lịch sử khác, các nhân vật lịch sử tham
gia hội thề Lũng Nhai sau khi được các triều đại phong kiến tôn vinh, phong thưởng
đã được cộng đồng không ngừng huyền thoại hóa, thiêng hóa và thánh hóa để trở
thành các thần linh gia nhập vào hệ thống tín ngưỡng dân gian của người Việt.
Đối với cộng đồng, các nhân vật lịch sử sau khi mất đi, được người dân tôn
vinh như những vị thần của làng, của địa phương, của dân tộc. Các nhân vật lịch sử
tham gia hội thề Lũng Nhai đã được cộng đồng tôn vinh thành các vị thành hoàng
làng, trở thành các vị thần trong cộng đồng và các vị tổ tiên của dòng họ. Từ đó bồi
đắp, tôn tạo qua các thế hệ để hình thành nên những hệ giá trị văn hóa truyền thống,
thể hiện một cách liền mạch tâm lý hướng tâm của cộng đồng nhỏ trong hệ thống
cộng đồng quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Mặt khác, thông qua tục thờ cúng các
nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai có thể thấy được các hình thức tín
133
ngưỡng này bắt nguồn từ ý thức cộng mệnh, cộng cảm, cộng cư của cộng đồng cư
dân nông nghiệp, sinh tụ trên vùng đất thường trực đối chọi với các thế lực lớn, đe
dọa đến chủ quyền lãnh thổ của dân tộc ta trong trường kỳ lịch sử. Từ đó hình thành
nên ý thức đoàn kết, cố kết cộng đồng. Việc thực hành tín ngưỡng cũng là một dạng
thức để củng cố ý thức và tâm lý chung của cộng đồng, của dân tộc.
Và từ khi trở thành các vị phúc thần của làng xã, địa phương thì sự thờ
phụng các nhân vật lịch sử này còn được mở rộng khắp các cơ sở thờ tự từ đình,
đền, chùa, miếu, từ đường gắn liền với các nghi thức, nghi lễ thờ cúng để bày tỏ
lòng tôn kính, ngưỡng mộ và biết ơn sâu sắc của nhân dân. Hầu hết có vai trò đặc
biệt trong đời sống tinh thần của người dân, đáp ứng nhu cầu tâm linh, gắn kết cộng
đồng và là môi trường sáng tạo của văn hóa dân gian để bảo lưu, gìn giữ bản sắc
văn hóa, truyền thống của dân tộc.
Có thể nói, tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở
Thanh Hóa, như nhiều hình thức tín ngưỡng thờ cúng, tôn vinh các nhân vật lịch sử
của người Việt đã được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở các điều kiện lịch
sử- xã hội, nó gắn bó chặt chẽ với sự tôn vinh, biết ơn của cộng đồng đối với những
con người đã ngã xuống, hy sinh vì dân tộc.
Ngoài những đặc điểm tương đồng trong sự tưởng niệm và tôn vinh các nhân
vật lịch sử, vốn là đặc trưng nổi trội của hình thức tín ngưỡng phụng thờ. Tục thờ
các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai còn có những nét riêng biệt trong
quan hệ đối sánh với tín ngưỡng phụng thờ nhân vật lịch sử của người Việt. Đó là
một trong những tín ngưỡng phụng thờ gắn liền với hội thề thiêng liêng trong lịch
sử đấu tranh giữ nước của dân tộc, được mở rộng trên nhiều vùng địa bàn ở địa
phương, với số lượng tập trung nhiều nhân vật. Đây là điểm khá đặc biệt, bởi trong
lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chưa có hội thề nào hình
thành tục thờ cúng với sự bền vững và ổn định như sự phụng thờ các nhân vật lịch
sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa.
Sự nảy sinh của tục thờ cúng gắn liền với biến cố lịch sử, đó là một cuộc
khởi nghĩa cụ thể. Thông thường, đối với một sự kiện trọng đại của dân tộc như
134
cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu hay Hưng Đạo Vương
và Trần triều 3 lần chống Nguyên- Mông và nhiều cuộc khởi nghĩa khác, các nhân
vật lịch sử được thờ cúng thường chỉ tập trung vào các nhân vật lãnh đạo, dẫn dắt,
chưa từng thấy có hiện tượng thờ cúng nhiều nhân vật cùng tham gia một sự kiện
lịch sử gắn với một vùng địa bàn rộng khắp như ở xứ Thanh.
Phụng thờ các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở xứ Thanh có
nét riêng biệt, độc đáo là được xác lập trên cả hai phương diện là thờ cúng trong
cộng đồng thờ phụng thờ trong gia tộc, dòng họ. Khác với sự phụng thờ nhân vật
lịch sử của người Việt ở nhiều vùng địa phương, gần như tín ngưỡng đã được xác
lập dưới dạng thức cộng đồng hóa, trở thành biểu tượng thờ cúng ở nhiều làng,
thậm chí nhiều vùng và cả nước như thờ cúng Lý Ông Trọng, Hai Bà Trưng, Trần
Hưng Đạo…Điểm khác biệt căn bản của tục thờ các nhân vật lịch sử tham gia hội
thề Lũng Nhai là sự đề cao yếu tố tổ tiên, dòng họ. Đây là điều rất hiếm gặp trong
đời sống tín ngưỡng dân gian của nhân dân ta.
Mặt khác, thông qua lịch lễ hội và nghi lễ thờ cúng có thể thấy, thời gian các
lễ hội tưởng niệm các nhân vật lịch sử ở các địa phương thường rơi vào mùa xuân
trùng với chu kỳ nông nghiệp của tiết nông nhàn thường thấy. Còn lễ hội, thực hành
nghi lễ thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở được tổ chức
vào nhiều dịp trong năm, chủ yếu vào ngày hóa của các vị, lấy “lễ giỗ” làm ngày
chính để tưởng nhớ các vị trong cả cộng đồng và làng xã.
Ngoài ra, sự khác biệt của tục thờ cúng còn thể hiện ở phạm vi và mức độ
ảnh hưởng của nó trong đời sống của cộng đồng. Nếu như việc thờ cúng các nhân
vật lịch sử khác ở nhiều địa phương trong nước thường thì phạm vi ảnh hưởng chỉ
bó hẹp trong cộng đồng cư dân người Việt còn tục thờ cúng các nhân vật lịch sử
tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa không những có nức độ lan tỏa trong cộng
đồng người Việt mà còn cả cộng đồng người Mường, người Thái với các tập tục,
kiêng kỵ rất độc đáo gắn với tri thức bản địa và sinh kế của đồng bào bằng những
tục lệ riêng biệt, không hòa lẫn.
4.2. Giá trị của tục thờ
4.2.1. Tái hiện và tôn vinh lịch sử
135
Phụng thờ các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa là
sự tôn vinh, tri ân, tưởng nhớ các vị anh hùng, các nhân vật lịch sử có liên quan đến
khởi nghĩa Lam Sơn, thể hiện truyền thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả
nhớ kẻ trồng cây”. Đó là truyền thống đạo lý tri ân, tôn vinh và tưởng niệm những
người có công với quê hương, đất nước.
Tục thờ cúng đã biểu lộ ý thức, tâm thức của cộng đồng là tôn vinh lịch sử,
tôn vinh các giá trị và biểu tượng của khởi nghĩa Lam Sơn đối với sự kiện và nhân
vật. Trong khi các sách sử đã chép tường tận về con người, cuộc đời của các nhân
vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai thì cộng đồng lại có cách đánh giá, nhìn
nhận riêng về những nhân vật lịch sử này. Các nhân vật lịch sử tham gia hội thề
Lũng Nhai đã được ghi trong chính sử như những vị anh hùng xuất chúng, công đức
bao trùm thiên hạ nhưng trong tâm thức cộng đồng, hay qua truyền thuyết dân gian
thì các vị lại rất thân thiết và bình dị. Ở nhiều nơi trên đất Thanh Hóa, nhắc đến
khởi nghĩa Lam Sơn là đồng nghĩa với lòng tự hào, tự tôn về một trong những thắng
lợi vĩ đại của dân tộc ta trong kháng chiến chống kẻ thù xâm lược của thế kỷ thứ
XV. Chính vì thế cho nên cộng đồng lại càng biết ơn, ghi nhận những đóng góp của
những người anh hùng vì dân, vì nước.
Các nhân vật hội thề Lũng Nhai từ những con người lịch sử, đã bước vào
điện thần, trở thành vua của vương triều, thành hoàng của làng xã, tổ tiên của dòng
họ. Họ đã được thần linh hóa chính bởi vì công lao to lớn và đã đi vào đời sống văn
hóa tinh thần của cộng đồng. Lịch sử là cái đã qua, không phải là cái ngày hôm nay.
Nhưng lịch sử lại được tái hiện bởi người đang sống. Thông qua tục thờ cúng,
không khí, hoạt động của nghĩa quân Lam Sơn được tái hiện lại bằng hình ảnh, âm
thanh, lời nói, cảm xúc nhưng đầy linh thiêng thông qua các sinh hoạt tín ngưỡng.
Phổ biến hơn cả là trong các lễ hội cộng đồng, ở đó người ta phô bày tình cảm, lòng
tự hào về các nhân vật bằng các nghi thức, nghi lễ, trò diễn cứ như các vị đang tham
gia từng trận đánh trong thời kỳ “nếm mật nằm gai”. Đó là các sử tích, huyền thoại,
truyền thuyết và sự kiện của khởi nghĩa Lam Sơn được dân chúng diễn tả lại đầy
chân thực và sống động. Người dân rước kiệu Lê Lai từ đền Tép (Ngọc Lặc) về đền
136
Lê (làng Cham, xã Xuân Lam, Thọ Xuân) để tế lễ ông rồi lại rước kiệu ông vào
Lam Kinh trong chính hội. Đó là cách để người dân thực hiện di nguyện của Lê
Thái Tổ trước khi mất đã dặn, giỗ Lê Lai sớm hơn vua một ngày. Trong quan niệm
của cộng đồng, Lê Lợi và Lê Lai như hai người đồng chí như anh em ruột thịt. Các
nghi thức tế rước phức tạp đó như thể tái hiện lại tình đồng chí, anh em gắn bó giữa
Lê Lợi với Lê Lai trong khởi nghĩa Lam Sơn. Trong buổi đại lễ ở điện Lam Kinh
còn có đội ngũ “cấm vệ” (như quân ngự lâm) mặc sắc phục Mường quê hương Lê
Lai cùng vũ khí, cờ tiết đứng dọc trên hai bờ sông Ngọc và trên khu lễ đài, Thái
miếu ở Lam Kinh… Điều này đã chứng tỏ sự gắn bó chặt chẽ giữa các nghi thức
mang tính điển lễ cung đình với tập quán, sinh hoạt văn hóa của đồng bào. Lễ hội
tôn vinh nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai vừa có tính chất kỷ niệm lịch sử, lại
vừa là môi trường bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của tộc người. Trong khi
lễ hội đang diễn ra tại Lam Kinh thì tại làng Tép quê Lê Lai, đồng thời diễn ra các
trò diễn dân gian như ném còn, bắn nỏ, múa Pồn Poong (múa Mường), biểu diễn sử
tích Lê Lai cứu chúa và nhiều trò chơi dân gian mang đặc trưng văn hóa của người
Mường huyện Ngọc Lặc. Một số vùng người Thái ở huyện Bá Thước, Lang Chánh
còn lưu truyền tục thờ cúng Lê Lợi thì dịp lễ hội Lam Kinh, bà con vẫn tưởng niệm
vua Lê tại địa bàn sinh sống với các tục lệ, nghi thức và đồ cúng tế gắn với đời sống
sinh hoạt của đồng bào như cam uôi, thịt chó thui, thịt luộc chín dở, cơm lam, rượu
cần…
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn không đơn thuần chỉ là biểu thị sự thắng lợi về
mặt quân sự trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta. Nó đã đi vào
ký ức, tiềm thức của cộng đồng một cách bền chặt, lưu luyến. Những nghi thức
trong lễ hội về các nhân vật hội thề Lũng Nhai ngày nay ở Thanh Hóa thường xuyên
được tái hiện với nhiều cách thức riêng biệt, độc đáo. Lễ hội đền Lê (Tp Thanh
Hóa) duy trì nghi thức “hội trận”, nghi thức này cũng thường bắt gặp tại một số làng
xã ở Thanh Hóa, được tổ chức hàng năm nhằm tôn vinh khởi nghĩa Lam Sơn.
Những người biểu diễn trò này luôn chia làm 2 phe, phe quân ta (quân Lam Sơn) và
phe quân giặc (quân Minh, giặc Ngô) múa võ, múa kiếm như đang đánh nhau ngoài
137
chiến trận, không khí rất kịch tính bởi vì số người xem rất đông và thêm các âm
thanh huyên náo bên ngoài. Sau khi biểu diễn “đánh nhau”, kịch bản lúc nào cũng
thống nhất về kết quả là: quân Minh thua chạy, quân ta chiến thắng. Trong ngày hội
còn diễn ra các trò độc đáo khác như tung cù (tung đầu giặc Ngô, vật biểu tượng là
quả cù), tung đi tung lại, khi tung đến đâu dân làng reo hò đến đấy. Cuối hội đền Lê
có trò “chạy chữ Thiên hạ Thái bình” có ý ngợi ca Lê Lợi, Lê Lai đã anh dũng chiến
đấu, chiến thắng để mở ra nền Thái bình thịnh trị cho quốc gia, dân tộc. Ở làng
Chuộc (xã Thiệu Tiến, Thiệu Hóa) hàng năm người ta cũng biểu diễn trò múa rối
trong hội làng để ca ngợi khởi nghĩa Lam Sơn. Trò này gồm nhiều tích diễn như: Lê
Lợi đi cày, Lê Lợi đánh Liễu Thăng, Lê Lợi dạo chơi trên hồ Hoàn Kiếm…Theo
truyền lại, làng có 4 giáp nhưng mỗi dịp diễn trò chỉ có một giáp được chỉ định diễn
trò này. Các nghệ nhân làm những con rối người to bằng em bé 10 - 11 tuổi, con rối
ngựa cũng to bằng con dê. Ba giáp còn lại biểu diễn các trò khác như Phụng nghi
đình, Đào viên kết nghĩa…Ở đoạn “Lê Lợi đánh Liễu Thăng”, bà con vẫn thường
gọi là trò “Đấu Mã”. Trên sân rối, nghệ nhân đưa ra các tạo hình Lê Lợi và Liễu
Thăng. Hai bên xưng danh rồi hỏi đáp nhau, thách thức, đoạn xông vào giáp chiến.
Liễu Thăng bị chém đứt đầu. Lê Lợi thắng trận…Còn trong lễ hội Lam Kinh, cộng
đồng tái hiện khởi nghĩa Lam Sơn bằng biểu diễn trò Xuân Phả với các tích như Ai
Lao, Xiêm Thành, Ngô Quốc... qua đó không khí lịch sử- chính trị - xã hội thời Lê
hiện lên một cách sống đồng, đầy tự hào. Tôn vinh khởi nghĩa Lam Sơn và tưởng
niệm các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai đã trở thành ý nguyện, tình
cảm của hết thảy mọi người trong cộng đồng. Với họ, lễ hội không chỉ là dịp để
“chơi” mà còn là để “thưởng” (thưởng thức). Họ muốn được nhìn thấy tấm gương
người anh hùng bằng da, bằng thịt, bằng giọng nói, điệu bộ sinh động, chân thực.
Những trò diễn này có tác động tâm lý, tình cảm rất lớn đối với dân chúng. Vượt
qua ranh giới của trò diễn, nó đã trở thành cuốn phim tư liệu tái hiện cuộc đời, sự
nghiệp của những người anh hùng, của các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai.
Trong nhiều lễ hội, nghi lễ thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai, cộng đồng
đã tái hiện lịch sử bằng các sử tích, huyền thoại như hội thề Lũng Nhai, Lê Lai cứu
138
chúa, hội thề Đông Quan, Lê Lợi nhận gươm thần...Đó là những hình ảnh cô đọng
và chắt lọc nhất của cộng đồng đối với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Hồi ức về khởi nghĩa Lam Sơn và những gì đã diễn ra sau 600 năm lịch sử
được người dân trân trọng, nâng niu và đưa vào tập tục thờ cúng. Lễ hội đền thờ Lê
Hiểm (xã Tân Phúc, Nông Cống) hàng năm dân làng và dòng họ tổ chức tái hiện
các nghi lễ “tế khao quân”, “tế xuất quân”, “tế mừng chiến thắng” và ban thưởng.
Nét độc đáo, đặc sắc là trong phần tế khao quân, xuất quân dân làng phải làm các
hình nộm người, ngựa, binh khí cắt dán bằng giấy to như kích thước người thật để
biểu diễn. Đó chính là những hóa thạch, những mảnh vỡ trong tiềm thức, ký ức sinh
động của cộng đồng về các trận đánh, về những chiến thắng hơn 600 năm xưa và đã
được bảo lưu, gìn giữ lại thông qua việc thực hành thờ cúng.
Tại nhiều làng xã, dòng họ ở Xứ Thanh phụng thờ các nhân vật hội thề Lũng
Nhai mà NCS có dịp khảo sát, đã ghi nhận được nhiều bằng cứ vật chất mà ở đó thể
hiện sự tự hào, tự tôn của quê hương, làng xã, dòng họ đối với các anh hùng Lam
Sơn nói chung, nhân vật hội thề Lũng Nhai nói riêng. Đó là những hồi ức về lịch sử
của người dân, mà ở đó tên làng, tên bản, di tích, tập tục, sự kiêng khem đã trở
thành sự tích, giai thoại. Giai thoại về đền thờ Ngọc Lan (thị trấn Lam Sơn) được
người dân lưu truyền xuất phát từ câu chuyện nơi đã từng có người con gái đẹp tên
là Ngọc Lan, tình nguyện dấn thân làm cơ sở hoạt động cho nghĩa quân để thực hiện
việc dò la, thám thính tình hình giặc đồng thời tuyển mộ binh lính, nghĩa quân trong
vùng cho chủ tướng Lam Sơn. Người dân cho rằng, sau khi khởi nghĩa thắng lợi, Lê
Lợi lên ngôi, vì tưởng nhớ công trạng của người con gái năm xưa đã sắc phong cho
cô và cho nhân dân lập đền thờ để tỏ lòng tôn kính. Những hồi ức lịch sử còn được
kể lại tại nhiều di tích, lễ hội phụng thờ các nhân vật hội thề Lũng Nhai. Những sự
tích đền Đon Ban ở Bá Thước; sự tích thác Ma Hao, sự tích đền Pù Tên ở Lang
Chánh được kể lại với niềm thành kính, tôn vinh người anh hùng áo vải Lê Lợi và
nghĩa quân trong thời kỳ “nếm mật nằm gai” ở vùng rừng núi Thanh Hóa.
Các hồi ức lịch sử có thể được cộng đồng viết lại bằng gia phả, sự tích thờ
cúng nhưng cũng có thể được kể lại, nhắc lại để ghi nhớ về khởi nghĩa Lam Sơn.
139
Tại nhiều dòng họ, làng xã ở Thanh Hóa mà NCS đến khảo sát, thu thập tư liệu, qua
những câu chuyện trao đổi với hậu duệ, con cháu các Ngài mới thấy hết được giá trị
của những hồi ức lịch sử. Nhiều con cháu dòng họ nhân vật có thể kể lại làu làu
những chuyện này, chuyện kia còn gắn với ngài trong thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn
nổ ra đến ngày giành toàn thắng. Từng dấu tích quê quán, từng trận đánh, nhân vật
được phong thưởng, định công ra sao, lập được những chiến tích gì đều được con
cháu dòng họ ghi nhớ, thuật lại chi tiết và rành rọt. Việc tái hiện ký ức lịch sử còn
thấy trong việc bố trí sắp xếp thần điện ở một số di tích, đó là bên cạnh Lê Lợi luôn
có 2 nhân vật trung thành với ông là Lê Lai (võ) và Nguyễn Trãi (văn) hướng về.
Đền Lê Thái Tổ ở làng Cham (xã Xuân Lam, Thọ Xuân) còn có riêng cả một cung
thờ, trên đó đặt một tiêu bản rùa (rùa thần Kim Quy), phía trên là thanh kiếm Thuận
Thiên trang trọng trên ngai thờ. Sự định công, ban thưởng của vua là rõ ràng, nhưng
đánh giá của cộng đồng về lịch sử lại mang màu sắc hết sức chủ quan, cảm tính. Có
thể nói những cảm thức lịch sử của dân gian không tuân theo tâm lý, quy luật thông
thường mà đôi khi là ý thức, ý niệm mặc nhiên, đây cũng sự thể hiện việc đánh giá
lịch sử riêng biệt, độc đáo của cộng đồng. Đó cũng là nét đẹp trong đời sống văn
hóa, tín ngưỡng của nhân dân ta.
4.2.2. Cố kết cộng đồng
Truyền thống cố kết cộng đồng vừa là nhu cầu, đòi hỏi nhưng đồng thời cũng
tạo nên sức mạnh giúp nhân dân ta vượt qua những thử thách trong lịch sử dựng
nước và giữ nước. Ở đó, đã tạo ra sợi dây, mối liên kết chặt chẽ giữa cá nhân với
gia đình, dòng họ với làng xã và đất nước. Đó cũng chính là cơ sở xã xã hội vững
chắc để bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc, chống đồng hóa văn hóa, giữ gìn nền
nếp gia phong.
Thông qua việc duy trì tục thờ cúng các nhân vật hội thề Lũng Nhai đã cho
thấy mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa gia tộc, dòng họ các nhân vật đã từng là
đồng chí trong khởi nghĩa Lam Sơn, hay giữa các nhân vật trong hội thề Lũng Nhai
với nhau. Điều đó tạo nên chuỗi liên kết họ mạc đặc biệt mà không phải địa phương
nào cũng có. Điểm đặc biệt hơn nữa là các mối liên hệ này có tính chất lịch sử lâu
140
đời, lại được củng cố thêm bằng các tục lệ và thực hành nghi lễ. Mỗi dịp lễ hội Thái
miếu trước đây là đại diện các trưởng tộc họ Đinh ở Nông Cống, họ Lê ở Hoằng
Hóa, họ Đàm Lê, Võ Uy…vẫn giữ tục cử trưởng tộc về dự và dâng lễ vật. Đây là
bằng chứng thể hiện sự kết nối tộc họ, giữa vua và quần thần, rộng hơn nữa là giữa
nhà nước quân chủ và làng xã. Đến hội Lam Kinh ngày nay, vào dịp lễ hội, con em
họ Lê nô nức từ trong và ngoài tỉnh về dự lễ, hành hương. Hoạt động của hội đồng
Lê tộc xứ Thanh đã trở thành hình mẫu tiêu biểu cho sự đoàn kết, hướng về cội
nguồn của những người cùng họ tộc. Từ những hoạt động mang tính nhân văn đó,
nhiều di tích đã được tôn tạo, mở mang xây dựng khang trang hơn, con em trong
dòng họ, làng xã đoàn kết hơn. Theo truyền thống văn hóa, ngày nay đến lễ hội Lam
Kinh, dòng họ con cháu các công thần Lê Văn An, Lê Văn Linh, Lê Thận…đều cho
mở cửa, lên hương ở từ đường, dự và dâng hương ở Lam Kinh như một sự tiếp nối
truyền thống gắn kết giữa vua Lê với các nhân vật hội thề đã từng có trước đó trong
khởi nghĩa Lam Sơn.
Hoạt động thực hành nghi lễ thờ cúng và tưởng niệm các nhân vật hội thề
Lũng Nhai đã gián tiếp thúc đẩy sự tìm kiếm, gặp gỡ, thăm viếng giữa những người
con cùng dòng họ. Qua đó phát hiện những chi, cành, con em họ hàng cư trú, làm
ăn, sinh sống ở trong và ngoài nước. Trong quá trình khảo sát nghiên cứu, NCS ghi
nhận sự kết nối dòng họ ở các làng xã nhân vật hội thề Lũng Nhai rất mạnh mẽ như
các chi họ Lê Lai ở Hoằng Hóa, Tĩnh Gia và Ngọc Lặc với các chi họ Lê Lai ở
Quan Nhân (Hà Nội), Quỳnh Hoa (Nghệ An); các dòng họ con cháu Nguyễn Lý ở
Hà Tĩnh với Thanh Hóa; các chi nhánh họ Trương Lôi, Trương Chiến ở Tĩnh Gia
với Bắc Ninh; họ Trịnh ở Cự Đà (Thanh Oai, Hà Nội) với quê hương Vĩnh Lộc; họ
Võ ở Hải Dương với con cháu Võ Uy ở Nông Cống…
Mỗi dịp lễ hội, tế lễ các nhân vật hội thề Lũng Nhai, dù là ở Lam Kinh quê
hương vua Lê cho đến các địa phương quê hương các vị khác thì đó cũng là một dịp
hiếm có để con cháu trong dòng họ về tề tựu. Ở nhiều nơi, đặc biệt là các từ đường
của dòng họ, việc cúng giỗ, tế lễ cũng là dịp thuận lợi để các dòng họ có điều kiện
tổ chức “họp họ”. Cùng nhau tưởng nhớ về cha ông, tiên tổ, hỏi han nhau công việc
141
làm ăn, khuyên răn bảo ban việc học hành, giáo dục con cháu. Tâm lý, ý thức tưởng
nhớ tổ tiên đã thắt chặt tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái. Sau buổi tế lễ, họp
họ, tất cả cùng ngồi chung chiếu chung mâm thưởng lộc tổ tiên, một không khí vui
tươi, phấn khởi của những người con xa quê hương, hướng về tổ tiên, nòi giống.
Qua khảo sát nhiều di tích thờ cúng, NCS nhận thấy, các hoạt động quyên góp, từ
thiện, đóng góp để tu sửa, nâng cấp nơi thờ tự ở từ đường các dòng họ nhân vật hội
thề Lũng Nhai chủ yếu do con em trong dòng họ tại địa phương hay con em dòng
họ làm ăn xa hưng công, quyên góp. Nhiều người không vì quyền lợi vật chất mà tự
nguyện đứng ra chăm sóc, bảo vệ di tích rất thành kính, chỉn chu.
Không chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình, dòng họ hoặc giữa các dòng họ
nhân vật hội thề Lũng Nhai với nhau. Thông qua hoạt động tín ngưỡng cho thấy sự
hòa hợp và đoàn kết tộc người, dân tộc. Ở Thanh Hóa, các nhân vật hội thề Lũng
Nhai không chỉ là vị tổ tiên của mỗi dòng họ mà còn là vị thần chung của cộng
đồng. Tình cảm giữa những người đang sống với nhau dành cho những người anh
hùng dân tộc, những vị tổ tiên của dòng họ có nơi đã thành tập quán tốt đẹp mà ở
đó, người ta được giao lưu, kết bạn, thậm chí “kết chạ” với nhau. Theo lệ, trong lễ
hội rước kiệu Lê Lai ngày 21 về đền thờ Lê Thái Tổ (xã Xuân Lam, Thọ Xuân), khi
đoàn rước sắc đi đến đầu làng Tép (quê hương Lê Lai) thì làng Tép sẽ phải cử các
bô lão cùng trưởng làng đón các cụ của làng Cham (quê hương Lê Lợi). Tục này có
từ lâu đời, vì trong quan niệm của người dân địa phương, làng của vua phải là anh,
làng của thần quân phải là em và tục này cứ được lưu truyền mãi đến ngày nay, trở
thành một tục lệ đẹp trong lễ hội Lam Kinh cũng như quan hệ giữa 2 quê hương Lê
Lai và Lê Lợi.
Dịp tôn vinh, kỷ niệm nhân vật hội thề Lũng Nhai không chỉ riêng người
Kinh mà còn là ngày hội của một số vùng đồng bào các dân tộc thiểu số như người
Thái, người Mường ở các huyện Ngọc Lặc, Lang Chánh, Bá Thước, Thường Xuân
đối với vua trong dịp 22 tháng 8 âm lịch hàng năm.
Tâm thức cộng đồng hướng về những người anh hùng của khởi nghĩa Lam
Sơn đã làm cho sợi dây kết nối tình cảm, cảm xúc của người dân xứ Thanh qua các
142
thời kỳ lịch sử đến nay vẫn được duy trì, bện chặt. Cứ đến các ngày 21, 22 tháng
Tám Âm lịch hàng năm, khắp mọi nẻo đường quê Thanh, từ đồng bằng, thành thị
đến nông thôn, miền núi, đâu đâu cũng nhắc nhở nhau câu truyền ngôn “hăm mốt
Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”. Họ trở về quê hương Lê Lợi, Lê Lai hành hương, về để
được yết bái vua Lê. Qua tín ngưỡng đã làm cho cộng đồng cư dân xứ Thanh thắm
tình đoàn kết trong ngày hội kỷ niệm, tôn vinh các bậc anh hùng. Thông qua các
nghi thức thờ cúng và tâm thức của cộng đồng, tục thờ đã trở thành sợi dây liên kết,
củng cố mối quan hệ bền chặt giữa các cộng đồng cư dân địa phương, những nơi
khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa đã đi qua cách nay sáu thế kỷ.
4.2.3. Cân bằng đời sống tinh thần
Tục thờ cúng các nhân vật lịch sử hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa đem lại sự
cân bằng trong đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân. Cùng với sự phát triển của
đời sống xã hội, nhu cầu tâm linh càng trở nên thiết thực đối với gia đình, dòng họ,
làng xã và cộng đồng. Đó là khát vọng chính đáng hướng đến cái tốt đẹp, cao cả, là
đề cao chân – thiện – mỹ của con người. Chính tín ngưỡng phụng thờ biểu hiện qua
các nghi thức, nghi lễ thờ cúng góp phần làm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của mỗi
người, mỗi làng xã, cộng đồng. Đối với con cháu hậu duệ các nhân vật hội thề Lũng
Nhai thì sự tưởng niệm về các vị trong các gia tộc, từ đường của dòng họ theo các
nghi thức phổ biến của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Việt. Đó là các lễ tiết
xuân thu nhị kỳ, tuần tiết trong năm, những ngày kỵ giỗ của tổ tiên. Họ còn mong
muốn được hướng về, được đền đáp công ơn cao dày của các vị. Sự tồn tại của tín
ngưỡng thờ cúng mang đến cho đời sống tinh thần của các dòng họ nhân vật được
duy trì, đạo hiếu nhân văn được giữ vững. Người ta cùng nhau chung tay vun đắp
cho tổ tiên của mình. Vì vậy, các nghi lễ phụng thờ, tế lễ, hội hè, giỗ chạp, kỵ nhật
mới được đông đảo con em trong dòng họ coi trọng. Các ngày lễ trọng, dịp tế họ,
các con em trong dòng họ từ khắp nơi đều tề tựu để cùng nhau tưởng nhớ công lao
to lớn của tổ tiên mình trong khởi nghĩa Lam Sơn. Họ thăm hỏi nhau về các vấn đề
trong cuộc sống, nhắc nhở nơi này nơi khác còn có người dòng họ mình đang sinh
sống, học tập, làm ăn và bàn nhau nhận họ hàng, nhận anh em. Từ tục lệ thờ cúng,
143
các làng xã đã soạn ra hương ước, tục lệ khuyên dạy con cháu, nhân dân trong cộng
đồng sống có ích, có trách nhiệm, phấn đấu học tập, mở mang làm ăn để trở thành
người có ích cho xã hội, không được làm những việc hoen ố thanh danh dòng họ.
Các nhà thờ họ, từ đường tuy không được to lớn nhưng đầy ắp tình cộng cảm của
những người cùng chung tông tộc.
Việc phụng thờ các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai có ảnh
hưởng nhất định trong đời sống văn hóa của cư dân Xứ Thanh. Đặc biệt trong đời
sống tâm linh. Những người anh hùng dân tộc được xem như một vị thần linh, tổ
tiên dòng họ, một nguồn lực tinh thần mà họ trông cậy. Những thể hiện trong nhu
cầu tâm linh của người dân từ xưa đến nay đều gắn với sự cầu mong được an khang
thịnh vượng, ước nguyện về sự bình an, khỏe mạnh và phát triển. Và dường như
trong đời sống hiện nay những ước mong đó ngày càng được thể hiện cụ thể, mạnh
mẽ hơn. Họ có những mong muốn cao hơn như cầu tài, cầu lộc, cầu công danh sự
nghiệp, thăng tiến… Sự thay đổi trong đời sống kinh tế - xã hội đã tạo cơ hội cho
cộng động cư dân ở các địa phương, làng xã, dòng họ các nhân vật đã làm thay đổi,
nâng cao hơn về đời sống vật chất, kinh tế, qua đó nhu cầu thụ hưởng các giá trị văn
hóa tinh thần đã được đề cao. Chính vì vậy, những nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày
càng được gia tăng nhưng nhu cầu này không đơn giản là sự hưởng thụ đơn thuần
thông qua thờ cúng mà nó còn có những đòi hỏi cao hơn, đó là vừa thỏa mãn đời
sống tinh thần, đời sống tâm linh, vừa được tôn vinh, tưởng niệm các vị tổ tiên dòng
họ, anh hùng dân tộc. Tại các di tích thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng
Nhai ở Thanh Hóa ngày càng thu hút đông đảo cư dân trong làng, ngoài làng, ở các
địa phương, vùng miền khác đến cúng lễ và tham dự lễ hội. Mức độ thực hành tín
ngưỡng của cư dân có xu hướng tăng lên. Trước đây chủ yếu diễn ra vào các dịp lễ,
tết nay diễn ra nhiều lần trong năm và được thực hiện thường xuyên vào các dịp sóc
vọng hàng tháng, vào dịp đầu năm cuối năm hay khi gia đình có việc quan trọng
(cưới xin, thi cử, mở cửa hàng...) với nhiều mục đích khác nhau. Người đi lễ mua
sắm lễ vật cầu kỳ, phong phú, đa dạng hơn cho thấy một đời sống vật chất dư dả,
sung túc hơn so với trước kia. Bên cạnh đó, một điều có thể dễ nhận thấy hiện nay là
144
dưới tác động của sự thay đổi các điều kiện vật chất, phương tiện kỹ thuật đã từng
bước tác động vào tính thiêng liêng của việc phụng thờ. Điều này được thể hiện trong
sự cẩn thận, chu đáo trong lễ vật dâng cúng, việc làm công đức, sự tham gia vào lễ hội.
Đối với người đi lễ, việc chuẩn bị lễ vật dâng cúng là một việc rất quan trọng. Trước
đây khi đời sống kinh tế còn vất vả người ta đến với các vị cốt ở cái tâm, ở lòng thành,
do đó, lễ vật thường đơn giản. Ngày nay khi mức sống được nâng cao cùng với quan
niệm “phú quý sinh lễ nghĩa” và có phần thực dụng cho rằng lễ vật càng nhiều, càng
giá trị thì sẽ tỷ lệ thuận với sự phù hộ của các vị thần, thế nên đồ dâng cúng đa dạng,
phong phú hơn. Đã có sự thay đổi của lễ vật so với trước kia. Xu hướng công đức vào
di tích các khoản tiền và hiện vật quy ra tiền có giá trị ngày càng gia tăng cho thấy
mức sống của người dân ngày càng nâng cao.
Có thể thấy rằng, tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai
ở Thanh Hóa được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở văn hóa xã hội – lịch sử
của Xứ Thanh. Tuy nhiên, trong quá trình vận động và phát triển, do nhiều yếu tố tác
động, mỗi tín ngưỡng sẽ có sự khác nhau về truyền thuyết, không gian phân bố, di
tích, điện thờ, nghi thức, nghi lễ, mức độ đáp ứng nhu cầu…Trong đó, có thể thấy
rằng: tín ngưỡng thờ các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai về cơ bản vẫn
thuộc về cộng đồng cư dân địa phương những nơi có di tích thờ phụng gắn liền với
dấu tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mặc dù hiện nay nhiều di tích thờ các nhân vật đã
thu hút người dân ở các địa phương, vùng miền khác tham gia nhưng chủ yếu vẫn là
người dân hiện đang sống trong làng, những người con của làng đi làm ăn xa, những
người con gái của làng đi lấy chồng nơi khác hoặc những người nay đã chuyển ra
vùng khác sinh sống nhưng vẫn có gốc ở làng… nay có dịp trở về thăm quê hương.
Việc phụng thờ các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa đã đáp
ứng nhu cầu tâm linh của người dân, có vai trò nhất định đối với việc ổn định đời sống
văn hóa của cộng đồng thời góp phần tạo nên tính phong phú, đa dạng cho bức tranh
tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam.
4.2.4. Trao truyền và bảo tồn các di sản văn hóa
145
Có thể thấy rằng, tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai
ở Thanh Hóa đã có từ lâu đời và phát triển liên tục đến ngày nay. Để có được sự ổn
định và duy trì tập tục sinh hoạt tín ngưỡng này thì ngoài việc thực hành nghi lễ, tâm
thức cộng đồng bản địa đóng một vai trò quan trọng trong sáng tạo văn hóa. Để từ đó
sáng tạo ra một hệ thống thờ cúng với các thành tố văn hóa khá đa dạng. Đó chính là hệ
thống di sản văn hóa liên quan đến tục thờ cúng còn lại đến ngày nay. Thông qua tín
ngưỡng phụng thờ đã góp phần trao truyền những bài học lịch sử, những giá trị văn hóa
cho thế hệ mai sau. Có một điều rất rõ là chúng ta có thể cảm nhận một truyền thống
yêu nước nồng nàn, thái độ ứng xử với các anh hùng dân tộc, đạo lý uống nước nhớ
nguồn, tôn trọng tôn ty trật tự, đề cao tính cộng đồng, tập thể đã được gắn kết và duy trì
bền chặt thông qua tín ngưỡng phụng thờ.
Gắn với tục thờ cúng là một hệ thống đậm đặc các DSVH (vật thể và phi vật
thể) có liên quan vừa có sự phong phú, đa dạng về loại hình vừa có giá trị về mặt
lịch sử, văn hóa- nghệ thuật, tâm linh, tín ngưỡng.
Đó là sự sáng tạo các giá trị văn hóa còn để lại thông qua hệ thống DSVH
vật thể và phi vật thể phong phú, đa dạng, nhiều loại hình và giá trị như hệ thống di
tích đình, đền, miếu, từ đường dòng họ có giá trị nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc
hết sức độc đáo. Hàng loạt các điểm thờ, với vẻ đẹp của nghệ thuật kiến trúc, trong
đó có nhiều công trình quy mô như Lam Kinh, Thái miếu. Nhiều di tích kiến trúc cổ
kính, có lịch sử lâu đời, còn lưu giữ được nhiều di vật, hiện vật hết sức đáng giá
như: văn bia Vĩnh Lăng, được xem là một trong những tác phẩm chuẩn mực của
nền chạm khắc bia ký cổ truyền người Việt; các bản gia phả chữ Hán ghi chép lai
lịch về dòng họ, sự tích của các công thần và đặc biệt là các bản thần sắc bằng chữ
Hán, với số lượng lớn, còn lưu giữ cẩn thận trong nhiều di tích như đền thờ Lê
Hiểm ở Tân Phúc (Nông Cống), đền thờ An Lạc (thờ Lê Lai) ở Hoằng Hải (Hoằng
Hóa), từ đường họ Đàm Lê ở Đông Lĩnh (Tp Thanh Hóa). Đáng chú ý là sắc phong
cổ tại đền An Lạc, ở đây còn lưu giữ 8 đạo sắc phong thời Hậu Lê và thời Nguyễn
ghi công Lê Lai và con cháu ông. Theo các sắc phong thời Hậu Lê và thời Nguyễn
lưu giữ tại đền cho biết Lê Lai đã được các triều đại phong kiến phong làm bậc
146
“Đại vương”, “Quang ý Trung đẳng thần” và giao trách nhiệm cho địa phương
phụng thờ như bậc thánh thần cứu nước, cứu dân. Sắc phong ngày 25 tháng 7 năm
Khải Định thứ 9 (1925) ghi rõ Lê Lai: “Bình Ngô khai quốc Công thần – Thái úy
Phúc Quốc Công Thượng đẳng thần”. Đặc biệt có một đạo sắc niên hiệu Hồng Đức
(1460- 1497) được coi là hiện vật giá trị nhất. Theo nghiên cứu của các tác giả Thần
tích - Thần sắc Thanh Hóa (tập I) đây là đạo sắc cổ nhất hiện còn trong các ngôi
đền thờ ở Thanh Hóa [137, tr 15].
Các hiện vật khác cũng rất đáng lưu ý như hệ thống tượng thờ, trong đó
nhiều pho không những tiêu biểu về lịch sử mà còn có giá trị nghệ thuật rất cao, có
thể gợi mở để nghiên cứu về lịch sử, văn hóa thời nhà Lê như: hệ thống tượng
người và linh thú chầu trong lăng Lê Lợi ở Lam Kinh [PL8, ảnh 23, tr 237]; tượng
Lê Lai bằng đồng ở đền Tép (Ngọc Lặc), các tượng Lê Lai, Lê Lợi, Nguyễn Trãi
trong các di tích đền thờ Lê Lợi ở Lam Kinh và Thái miếu nhà Lê [PL8, ảnh 24, tr
237, ảnh 25, tr 238]. Tại các di tích này, tượng thờ 3 vị luôn được tạo tác theo một
chuẩn mực chung mà khác nhau cơ bản ở thần thái gương mặt. Tượng Lê Lợi bao
giờ cũng thể hiện sự uy nghi, sáng láng, toát lên phong cách chỉ huy của bậc quân
vương. Tượng Lê Lai thường mặt đen, dũng lược của tướng võ còn tượng Nguyễn
Trãi thì trầm tư, nho nhã của bậc thức giả.
Vô số các tác phẩm điêu khắc nghệ thuật trên ngai thờ, sập thờ, thú chầu,
nhang án, kiệu rướu, thần vị…với cả chất liệu gỗ, đá đầy giá trị. Như lư hương đá
đặt trong gian giữ ở đền An Lạc (Hoằng Hóa), nơi thờ Trung túc Vương Lê Lai.
Chiếc lư hương này được đục từ một khối đá xanh, chia làm 3 phần: tai, thân và
chân. Chiều cao của lư hương là 66 cm, chiều rộng chân lư hương là 35cm, chiều
dày phần chân tảng đế 30cm. Mặt trước lư hương trang trí các đồ án: trên miệng là
hình mặt nguyệt có các quầng mây lửa tỏa ra xung quanh. Đồ án mặt nguyệt nằm ở
trung tâm để cho 2 con rồng ở phần tai lư hương chầu vào. Hai con rồng ở tai có
bờm tóc bay ngược lên cao, mắt lồi miệng rộng, râu cá trên ngược ra phía cổ lưng,
thân uống làm 3 khúc với đầy những họa tiết vân soắn và vẩy. Đuôi rồng được
chạm xoắn ốc. Phần thân lư hương chạm đồ án rồng phun mưa, rồng trong tư thế
147
đầu quay ngược lại, mắt lồi nhìn theo dòng nước phun với 4 ngọn sóng thể hiện sức
mạnh của dòng nước. Phần chân lư hương chạm mặt hổ phù trán dô, mắt lồi tròn,
mũi to, miệng há, râu cá trê tỏa ra hai bên, hai chân trước khuỳnh ra tạo thành chân
đỡ lư hương. Toàn bộ mặt sau của phần chân lư hương tạo thành 2 chân sau khuỷnh
của con linh vật. Như vậy phần chân lư hương được đục chạm thành một con sư tử
với mặt hổ phù đỡ trên lưng phần thân và tai lư hương. Mặt sau lư hương ở phần tai
là mặt bên còn lại của đôi rồng chầu mặt nguyệt. Riềm miệng lư hương được tạo
họa tiết hồi văn đường gấp khúc. Chân lư hương như đã nói, là phần đuôi và hai
chân sau của con sư tử. Ở vị trí của đồ án rồng phun mưa phía trước (phần thân),
mặt sau được chạm khắc hình phượng với đầu to, mỏ vẹt, hai cánh chim phượng
đang xòe rộng. Có thể nói lư hương đá ở đền An Lạc là một tác phẩm điêu khắc đá
hết sức thẩm mỹ. Nét chạm tuy nông, nhưng đã tạo cho tác phẩm có hình khối và
chiều sâu. Các đồ án miêu tả sống động và lột tả được vẻ đẹp hồn nhiên của linh
thú, vừa tạo được vẻ uy nghiêm trong bố cục. Theo các nhà nghiên cứu mỹ thuật thì
“chiếc lư hương này có niên đại cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX” [18, tr 200].
Còn ở đền thờ công thần Lê Văn An (xã Thọ Lâm, huyện Thọ Xuân), đây có
lẽ là di tích có số lượng hiện vật chạm khắc đá nhiều nhất trong số các di tích phụng
thờ công thần Lũng Nhai ở Thanh Hóa. Đền thờ này còn bảo tồn một số hiện vật vô
cùng quý giá được tạo tác bằng đá như: 1 ngai thờ bằng đá cao 0,51m, rộng 0,40m
(bên trong có thánh vị bằng đá) ghi tên thánh tổ Lê Văn An; 2 cây đèn đá, 2 ống
hương đá; 3 đài thờ đá; đôi độc bình bằng đá cao 0,34m; 1 đôi nến bằng đá; 1 mâm
bồng đá; 1 khay đá; 3 bát hương đá hình khối hộp vuông cao 0,36m cùng với các
ngai thờ gỗ; bài vị; mâm bồng gỗ cùng với hòm đựng sắc và 2 hòm lớn đựng y phục
tế lễ. Mặc dầu ngôi đền có quy mô hết sức khiêm tốn nhưng có thể nói, ngoài lăng
mộ Lê Lợi ở Lam Sơn thì đây là một trong những đền thờ Lũng Nhai công thần có
nhiều đồ thờ bằng chất liệu đá nhất. Đó đều là những hiện vật có nhiều giá trị nhiều
mặt về văn hóa- nghệ thuật và lịch sử [PL8, ảnh 11, tr 231].
Còn trong từ đường của dòng họ Lê Hiểm (Nông Cống) cũng còn đang lưu
giữ nhiều hiện vật có giá trị hàng trăm năm như: 1 chiếc Kiệu (thời Lê Phụ) có niên
148
đại thời Hậu Lê, 2 bát hương thời nhà Mạc, 1 bát hương thời nhà Nguyễn. Đặc biệt
đây có bức tranh thờ Lê Phụ (cháu Lê Hiểm) được vẽ trên vải, thêu trên vóc cách
nay hơn 500 năm vẫn được bảo quản nguyên vẹn, đây là những hiện vật gắn với di
tích rất đáng quý để nghiên cứu về phẩm phục và mỹ thuật triều Lê còn lại ở Thanh
Hóa. Hiện vật gỗ đáng giá còn được biết đến là 2 bức câu đối cổ được viết vào các
năm “Thành Thái Kỷ Hợi” và “Bảo Đại thập nhị niên”.
Về văn hóa phi vật thể là một hệ thống các nghi thức biểu đạt mang tính
nghệ thuật như lễ hội, diễn xướng, phong tục, kiêng kỵ gắn với tín ngưỡng phụng
thờ được biểu hiện sinh động, thường xuyên được thực hành, trình diễn như các lễ
hội Lam Kinh, lễ hội thờ Lê Lai hay các nghi thức tế lễ các công thần khác trong
dòng họ. Các tục trò như chạy chữ, múa kiếm, tế rước các vị anh hùng Lê Lai, Lê
Lợi; tục tế khao quân ở đền Lê Hiểm, dự lễ và dự tế của các trưởng tộc ở Thái miếu
và Lam Kinh, đó là những tục lệ khá phổ biến và là một trong những nét đẹp văn
hóa, mang giá trị đạo đức, ứng xử của cộng đồng, làng xã, dòng họ trong tôn vinh,
thờ cúng các vị công thần Lũng Nhai. Sự tái hiện không khí khởi nghĩa Lam Sơn
trong các trò chạy chữ ở làng Vệ Yên (Quảng Thắng, Tp Thanh Hóa), múa rối làng
Chuộc diễn tả cảnh Lê Lợi chém tướng giặc Liễu Thăng thường với một biểu hiện
chung là đề cao lòng tự hào về thắng lợi của quân Lam Sơn, ca ngợi sự anh dũng,
tài năng của người anh hùng dân tộc Lê Lợi. Nhìn chung, qua các thế hệ, các cộng
đồng dân cư xứ Thanh đã nhắc nhở nhau bảo lưu và gìn giữ các di sản văn hóa của
tục thờ cúng. Đó cũng chính là tâm nguyện, mong muốn của mọi người dân.
4.3. Thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh
Hóa trong đời sống hiện nay - những vấn đề đặt ra
Trong khoảng 30 năm trở lại đây, nhất là từ sau thời kỳ đổi mới (1986) Đảng
và Nhà nước ta đã có những thay đổi trong tư duy lý luận, đường lối và chính sách
đối với các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc, đặc biệt là các hiện tượng tôn giáo
tín ngưỡng. Những quan điểm, chủ trương đó được thể hiện cụ thể sinh động trong
hàng loạt các văn bản pháp lý như Nghị quyết 24 - NQ/TW ngày 16/10/1990 của
Bộ chính trị khóa VI về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới. Rồi đến
149
Chỉ thị 37 - CT/TW năm 1998 và đặc biệt là pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo năm
2004. Từ đó đã làm thay đổi mạnh mẽ quan điểm, chính sách và nhận thức của nhà
nước ta khi cho rằng sinh hoạt tâm linh tín ngưỡng không chỉ là một phần quan
trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của đại bộ phận nhân dân mà đây chính là
thành tố văn hóa quan trọng giúp hiểu tâm hồn, tình cảm, bản sắc văn hóa dân tộc.
Tất cả những thay đổi trên đã tạo nên một bầu không khí xã hội mới với sự cởi mở,
tự do hơn trong đời sống văn hóa tâm linh góp phần tạo nên động lực để các hoạt
động tín ngưỡng tôn giáo ở nước ta hồi sinh và phát triển mạnh mẽ. Các nghị quyết,
chỉ thị của Đảng và nhà nước ta đã khẳng định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta” [147, tr.313]. Những vấn đề đó là những cơ
sở xã hội rất thuận lợi cho việc phục hưng các giá trị văn hóa cổ truyền trong đó có
tục thờ cúng các nhân vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa.
Vận động và biến đổi là quy luật tất yếu của đời sống xã hội, trong bối cảnh
toàn cầu hóa, giao lưu văn hóa và đặc biệt là sự thay đổi của đời sống kinh tế xã hội
như hiện nay thì các hiện tượng văn hóa cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nghiên
cứu về tục thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa, NCS
nhận thấy tục thờ cúng hiện nay đang được phục hồi, tuy nhiên, đây không phải là
sự phục hồi một cách nguyên vẹn những gì đã diễn ra trong quá khứ mà đã có nhiều
biến đổi trên cả bình diện vật chất và tinh thần theo hướng “tái cấu trúc văn hóa
truyền thống” [73, tr.123] nghĩa là “kế thừa, phục hồi các yếu tố văn hóa truyền
thống có sự sáng tạo, biến đổi, sắp xếp lại…để phù hợp với đời sống xã hội đương
đại” [73, tr.123]. Điều đó cho thấy trong quá khứ, hiện tại và tương lai tục thờ cúng
các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa vẫn luôn tồn tại, vận
động và biến đổi song hành cùng với những biến chuyển của đời sống xã hội và môi
trường sản sinh ra nó gắn liền với các chủ thể văn hóa.
Có thể nhận thấy, tục thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai ở
Thanh Hóa là sinh hoạt tín ngưỡng lâu đời của cộng đồng được kế thừa, duy trì và
phát triển tương đối bền vững đến ngày nay. Tuy nhiên, cũng như một số các hiện
150
tượng tín ngưỡng cổ truyền ở nước ta, nó cũng là kết quả của các sinh hoạt văn hóa
truyền thống một thời bị mai một qua những giai đoạn lịch sử đầy biến động. Vì lẽ
đó, việc hòa hợp giữa cũ và mới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa kế thừa các giá
trị tích cực và loại bỏ các yếu tố lạc hậu không phù hợp với sự phát triển của thời
đại là cả một bài toán đang được đặt ra. Trong bối cảnh hiện nay dưới tác động ngày
càng mạnh mẽ của quá trình CNH, HĐH, các yếu tố của nền kinh tế thị trường, tục
thờ đã và đang phát triển, biến đổi và tiếp nhận thêm các giá trị văn hóa mới. Để tục
thờ phát triển tích cực, phục vụ hữu ích đời sống tinh thần cho cộng đồng, giáo dục
truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc cũng như song hành, góp phần đắc lực vào
sự nghiệp phát triển KT- XH của địa phương thì việc giải quyết và ứng xử với
những vấn đề đang đặt ra là hết sức quan trọng.
Trước tiên là phải quan hơn nữa đối với các không gian thực hành tín
ngưỡng, các di tích thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai khi không ít không gian
thờ cúng đang bị xâm lấn. Đây là hiện trạng tương đối phổ biến tại các di tích thờ
cúng mà NCS đã ghi nhận được trong quá trình khảo sát điền dã. Dưới tác động của
quá trình đô thị hóa, tình trạng xâm lấn di tích đã diễn ra tại không ít điểm thờ, vùng
di tích tồn tại bị co hẹp như ở các đền An Lạc (Hoằng Hóa), đền Võ Uy, Lê Hiểm
(Nông Cống), từ đường Lê Văn An, Lê Văn Linh (Thọ Xuân), đình Phương Chính
và nhà thờ họ Đàm (Tp Thanh Hóa). Điều này tác động không nhỏ tới việc đảm bảo
không gian hành lễ vì các lễ tế, nghi lễ là dịp đông đảo con em dòng họ tham gia, có
nơi còn không đủ chỗ cho con em về hành lễ vì diện tích sân đền, nhà thờ quá hẹp.
Nhiều nơi còn thấy hiện tượng các sinh hoạt dân sinh của người dân, chủ yếu là bà
con dòng họ còn chồng lấn với không gian thờ phụng, ảnh hưởng đến tính tôn
nghiêm, linh thiêng của di tích thờ cúng.
Mặt khác, mặc dù có không ít di tích thờ cúng được trùng tu, tôn tạo lại bằng
nguồn ngân sách của nhà nước hay kinh phí từ việc tự nguyện quyên góp, đóng góp
của cộng đồng, người dân và con em dòng họ nhưng chất lượng và thẩm mỹ của các
công trình này là điều rất đáng bàn. Đó là thực trạng trùng tu sai nguyên tắc, lệch
chuẩn, phản cảm, hiện đại hóa một cách tùy tiện, đã làm “giải thiêng” các công trình
151
tâm linh tín ngưỡng. Địa điểm kỷ niệm sự kiện hội thề Lũng Nhai ở Ngọc Phụng
(Thường Xuân) đến nay đã tôn tạo lại đền thờ dành để kỷ niệm và thờ cúng 19 nhân
vật tham gia hội thề năm xưa. Tuy nhiên di tích do được tôn tạo, xây dựng lại bằng
nguồn kinh phí eo hẹp nên có cảm tưởng không phải một ngôi đền thờ truyền thống
mà giống như một ngôi nhà ở của dân với tường gạch, nhà ống, lợp tôn, cửa sắt
trông rất thiếu thẩm mỹ. Từ đường Khắc quốc công Lê Văn An, di tích mặc dù đã
được công nhận xếp hạng cấp quốc gia nhưng rất giống nhà ở của dân hơn là nơi
thờ tự. Lát nền bằng gạch men, nhang án làm bằng đá granit, thân ốp gạch men, cửa
làm mành che hiện đại như vật dụng sinh hoạt trong trong nhà khá thiếu thẩm mỹ.
Tại các đền thờ như đền An Lạc, đền thờ Lê Trung Giang (Hoằng Hóa), đền Ngọc
Lan (Thọ Xuân) có phối thờ nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai thì các ban thờ,
nhang án cũng được ốp gạch men công nghiệp; bia ký thì được làm phỏng cổ một
cách tùy tiện, một số bia được tạo tác theo kiểu công nghiệp, đục chữ Hán bằng
máy, mặt bên đục chữ quốc ngữ như đền Trịnh Thị Ngọc Lữ (Thọ Xuân), hoặc in
chữ quốc ngữ hoàn toàn như cách đục chạm bia mộ phổ biến hiện nay như từ đường
họ Đàm Lê (Tp Thanh Hóa), rồi do mất thân bia nên đúc lại xi măng đặt lên trên
thân rùa trông vô cùng xấu xí (đền Ngọc Lan, thị trấn Lam Sơn)...Do sự phát triển
của công nghệ hiện đại, một số bia mộ, câu đối ở mộ Võ Uy (Nông Cống) [PL8,
ảnh 18, tr 234], mộ Lê Văn Linh (Thọ Xuân) được khắc theo kiểu bia mộ hiện đại
trên đá đen granit bằng chữ quốc ngữ.
Một số từ đường và đền thờ còn có tình trạng hiện đại hóa tượng thờ, ảnh
thờ. Các tượng thờ được làm khá giống nhau (vì sản xuất công nghiệp hàng loạt),
thiếu hồn cốt, thần sắc riêng, lặp lại nhau, đa phần là sơn son thếp, da mặt tô màu
trắng sứ. Trong từ đường họ Đàm Lê thay cho tượng vua Lê như các di tích khác thì
lại trưng ảnh thờ Lê Lợi, vốn là tranh sáng tác của họa sỹ Hoàng Hoa Mai được
lồng trong khung kính treo ở trên ngai thờ gian giữa di tích [PL8, ảnh 26, tr 238],
mũ miện trên các bài vị thì được làm mới, khá giống với mũ bình thiên phục vụ
biểu diễn ở các đoàn nghệ thuật truyền thống.
152
Các hòm công đức trong các di tích được đổi từ thùng/hòm gỗ sang két sắt,
két bạc. Trên ban thờ của một số di tích còn trưng cả đèn led dạng nháy trên hương
án, các đèn lồng, đèn cách điệu quả nhót, đèn hình hoa sen dạng điện nháy xuất xứ
từ Trung Quốc ngày càng xuất hiện nhiều hơn trong các di tích phụng thờ. Văn tế,
sắc phong ở một số nơi như đền An Lạc (Hoằng Hóa), đền Trương Lôi, Trương
Chiến (Tĩnh Gia) còn được photocopy thành nhiều bản để trưng bày. Cá biệt còn có
di tích trang bị cả micro, âm ly, loa đài công xuất lớn để thực hành tế lễ.
Những thiết bị tiện nghi, hiện đại này là những yếu tố văn hóa mới được đan
cài vào di tích, nó chỉ góp phần “tục hóa”, làm mất đi vẻ cổ kính, trầm mặc và
thiêng liêng của di tích tín ngưỡng.
Việc ứng xử với các hiện tượng văn hóa mới cũng là một vấn đề đặt ra trong
công tác quản lý, giám sát và định hướng của cơ quan quản lý nhà nước, chính
quyền địa phương và cộng đồng quản lý di tích ở các dòng họ. Mặc dù lễ hội Lam
Kinh là một trong những lễ hội lớn nhất của tỉnh Thanh Hóa hằng năm nhưng trong
những năm qua, lễ hội đã được khôi phục lại này không thiếu đi các “sáng tạo văn
hóa” mang tính chất hiện đại, nặng tính sân khấu biểu diễn. Hằng năm, đến dịp lễ
hội thường diễn vở “Lam Sơn khởi nghĩa” và các sự tích Hội thề Lũng Nhai, dòng
suối “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”, Lê Lai cứu chúa, giải phóng thành
Đông Quan, vua Lê Thái Tổ đăng quang, trò Xuân Phả, múa rồng, trống hội, dân ca
dân vũ Đông Anh, dân ca sông Mã, ca trù… trong các tích trò này luôn có sự góp
mặt của các diễn viên chuyên nghiệp thuộc đoàn tuồng tỉnh Thanh Hóa .
Một hiện tượng nữa là sự phối tế, thờ gộp mang tính quy tập không rõ nguồn
gốc, thể hiện sự tùy tiện, lệch chuẩn trong thực hành tín ngưỡng truyền thống.
Trong đền thờ Ngọc Lan (Thọ Xuân) có thờ rất nhiều thần linh như phật tổ, quan
âm, bồ tát, thánh mẫu, thần kim quy và có đến 7 vị khai quốc công thần khởi nghĩa
Lam Sơn cũng được thờ chung trong di tích. Đền An Lạc (Hoằng Hóa) thì ngoài thờ
công thần Lê Lai còn đặt cả tượng thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở tiền đường, bên
cạnh hậu cung còn tổ chức thờ mẫu, ngày lễ còn tổ chức hát chầu văn và lên đồng.
Từ đường dòng họ Đàm Lê (Tp Thanh Hóa) cũng có hiện tượng thờ mẫu như trên.
153
Mặc dù có sự quan tâm của nhà nước và chính quyền địa phương nhưng
cũng có không ít di tích thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai đang bị xuống cấp
trầm trọng, các hạng mục chính trong nguy cơ đe dọa, đổ nát, ảnh hưởng đến an
toàn của khách hành hương như các đền thờ Trịnh Khả (Vĩnh Lộc) [PL8, ảnh 12, tr
231]; đền thờ Võ Uy, đền thờ Lê Hiểm (Nông Cống); đền thờ Lê Liễu (Hoằng
Hóa); từ đường họ Đàm Lê (Tp Thanh Hóa), đền thờ Lê Văn An, đền thờ Lê Văn
Linh (Thọ Xuân). Một số đền thờ nhân vật hội thề Lũng Nhai trong cộng đồng
người Thái, người Mường ở Lang Chánh, Ngọc Lặc, Bá Thước còn khá tuềnh
toàng, đường đến di tích rất khó khăn, chủ yếu phổ biến với bà con đồng bào, việc
tiếp cận để tham quan, nghiên cứu chưa được thuận tiện. Đền thờ Trịnh Khả, một
trong những di tích có niên đại và tính giá trị về mặt kiến trúc. Tỉnh Thanh Hóa và
chính quyền địa phương đã xây dựng phương án tôn tạo. Tuy nhiên đến nay cũng
chỉ mới xây dựng được hệ thống tường rào bao quanh ngôi đền. Các hạng mục
chính của ngôi đền như tiền tế, hậu điện khá hoang tàn, hệ thống ngói lợp bị vỡ nát,
mái đền bị thủng, dột nát, ẩm thấp, rêu mốc. Bậc thang từ nghinh môn dẫn lên đền
chính bị xuống cấp nặng nề, gạch bong tróc hết lối đi, các linh vật quý như rùa đá,
chân tảng bị vứt chỏng chơ nhiều nơi trong di tích một cách không thương tiếc.
Ngôi đền đem đến cảm giác đổ nát, hoang phế, có thể sập bất cứ lúc nào. Hiện ngôi
đền có con cháu là hậu duệ của Trịnh Khả trông coi nhưng cũng không được quyét
dọn thường xuyên, cây cỏ mọc um tùm, gạch ngói vỡ vụn vương vãi khắp nơi. Với
dáng vẻ đó, thật khó nhận ra một di tích cấp quốc gia đã được xếp hạng. Sự thiếu
thốn nguồn kinh phí đầu tư đã làm cho không ít di tích thờ cúng nhân vật hội thề
Lũng Nhai có nguy cơ bị hủy hoại, xóa bỏ.
Mặc dù vậy, không thiếu những điểm sáng tích cực trong bức tranh liên quan
đến việc thực hành nghi lễ thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai ở
Thanh Hóa như trong khi nguồn vốn đầu tư ngân sách của nhà nước giành cho các
hoạt động trùng tu, tôn tạo còn gặp khó khăn thì đa số các dòng họ, làng xã có di
tích thờ cúng đã tổ chức huy động sự đóng góp, thiện nguyện của bà con dòng họ
trong và ngoài tỉnh, các con cháu làm ăn xa xứ. Với nguồn kinh phí đó, một số di
154
tích đã được trùng tu, khôi phục lại. Đền thờ thần phi Trịnh Thị Ngọc Lữ, do Anh
hùng Lao động Lê Văn Tam, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty mía đường Lam
Sơn (Thọ Xuân) cùng con em họ Lê dựng nên. Đền Tép; đền Trương Lôi, Trương
Chiến, nhà thờ Họ Đàm Lê…đã được tu bổ bằng kinh phí của dòng họ. Nhờ đó, các
cơ sở thờ tự tín ngưỡng đều được sửa chữa, tu bổ ở những mức độ khác nhau hoặc
xây lại. Đồ thờ được bổ sung thêm, cảnh vật của di tích cũng trở nên sạch đẹp hơn.
Trong một số lễ hội cũng đã phục hồi tốt các sinh hoạt văn hóa truyền thống
và lồng ghép kéo léo với văn hóa của cộng đồng địa phương, làm cho khách cảm
thấy thích thú khi về dự lễ như trong lễ hội đền Tép, rước kiệu là các trai gái trong
sắc phục dân tộc Mường, trong lễ hội còn tái hiện các sinh hoạt cộng đồng như ném
còn, bắn nỏ, múa Pồn Poong, đi cầu thùm, bắt vịt, bịt mắt bắt dê, đập niêu và biểu
diễn tích Lê Lai cứu chúa được rất nhiều người hào hứng tham gia.
Để bảo tồn và phát huy hữu hiệu các giá trị tốt đẹp của tục thờ, để cho tục
thờ hòa nhập vào đời sống xã hội đương đại của cộng đồng cư dân địa phương một
cách tích cực. Trong thời gian tới, địa phương cần phải bảo vệ và gìn giữ nguyên
vẹn các di tích, di vật, hiện vật, đồ thờ và lễ hội, nghi lễ gắn liền với nơi thờ tự. Lập
hồ sơ xếp hạng các di vật hiện vật quý giá. Hiện nay mới chỉ có bia Vĩnh Lăng được
công nhận bảo vật quốc gia. Trong tương lai cần chú ý đến các di vật khác như: các
sắc phong, gia phả, bia ký ở trong các di tích như đền An Lạc (Hoằng Hóa), đền
Trịnh Khả (Vĩnh Lộc), Thái miếu nhà Hậu Lê (Tp Thanh Hóa), đền Tép (Ngọc
Lặc)…Đồng thời tăng cường công tác nghiên cứu di tích để bổ sung hiện vật và
phục dựng, trùng tu tôn trọng nguyên gốc, đảm bảo tính chất thẩm mỹ. Nâng cấp
một số lễ hội, nghi lễ trong phạm vi làng xã, dòng họ, tiến tới kết nối với các lễ hội
Lam Kinh, lễ hội Thái miếu, lễ hội đền Tép, lễ hội Căm Mương. Sưu tầm, bảo tồn
và phát huy các tục trò đặc sắc gắn với tín ngưỡng thờ cúng như “phá trận”, “chạy
chữ”, “trò Xuân Phả”, các tích Lê Lai cứu chúa, Nguyễn Trãi dâng sách Bình Ngô,
Lê Lợi đăng quang…
Đẩy mạnh khai thác phát triển du lịch đối với các di tích thờ cúng nhân vật
hội thề Lũng Nhai. Trong đó lấy các di tích và lễ hội ở Lam Kinh, Thái miếu và đền
155
Tép làm trọng điểm. Mở rộng và kết nối với các di tích thờ cúng nhân vật tham gia
hội thề Lũng Nhai như các di tích ở Nông Cống, Vĩnh Lộc, Hoằng Hóa, Tĩnh Gia,
Bá Thước, Lang Chánh, Ngọc Lặc, Thường Xuân để hình thành các tour du lịch
chuyên đề tham quan tìm hiểu về vương triều Lê, về khởi nghĩa Lam Sơn, về các
dòng họ công thần khai quốc nhà Lê…Phát huy tính chất quy mô, giá trị biểu tượng
của DTQGĐB Lam Kinh. Đồng thời cường các hoạt động nghiên cứu khoa học,
quảng bá, giới thiệu rộng rãi các di tích thờ cúng nhân vật hội thề Lũng Nhai để
người dân và khách tham quan quan tâm hơn.
Tiểu kết
Tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia Lũng Nhai ở Thanh Hóa là một
loại hình sinh hoạt văn hóa đặc sắc, ẩn chứa nhiều giá trị độc đáo. Đó là sự tri ân
của cộng đồng đối với các nhân vật lịch sử đã có công đánh đuổi giặc ngoại xâm,
giành lại nền độc lập cho đất nước. Sự thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia Lũng
Nhai ở Thanh Hóa mang bản chất của tín ngưỡng thờ nhân thần nói chung, ở đây là
thờ cúng các nhân vật lịch sử và thờ cúng các tổ tiên của các dòng họ. Tín ngưỡng
có hai phạm vi ảnh hưởng và phát triển chủ yếu là thờ các nhân vật trong cộng đồng
và thờ cúng trong dòng họ.
Qua thời gian tồn tại và phát triển, tục thờ đã góp phần gắn kết tâm thức,
củng cố tinh thần đoàn kết cộng đồng, trở thành nét đẹp trong đời sống văn hóa của
các cộng đồng cư dân trên đất Thanh Hóa. Ngoài ra, với sự biểu hiện đa dạng trong
các nghi lễ, tục lệ, phong tục và sinh hoạt văn hóa có liên quan đến thờ cúng và
tưởng niệm các nhân vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa. Tục thờ cúng cũng đã
góp phần tạo nên nét đẹp trong đạo đức, văn hóa ứng xử, thỏa mãn đời sống tinh
thần, giúp cho cộng đồng ổn định phát triển. Thông qua tục thờ, các thế hệ trong
cộng đồng đã giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước, trao truyền kinh
nghiệm góp phần bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.
Mặc dù vậy, như các hiện tượng tín ngưỡng cổ truyền khác ở nước ta, tục thờ
cúng nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa là kết quả của các
sinh hoạt văn hóa truyền thống một thời bị mai một qua những giai đoạn lịch sử đầy
156
biến động. Vì lẽ đó, trong bảo tồn phát huy tục thờ giai đoạn hiện nay, việc hòa hợp
giữa cũ và mới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa kế thừa các giá trị tích cực và
loại bỏ các giá trị lạc hậu, không phù hợp với sự phát triển của thời đại là cả một bài
toán đang được đặt ra. Đó là nguy cơ khi không gian thực hành thờ cúng ngày càng
bị xâm lấn bởi hoạt động của con người. Quá trình trùng tu, tôn tạo không đúng
nguyên tắc, dẫn đến nguy cơ sai lệch, biến dạng, hiện đại hóa, giải thiêng di tích
tâm linh, tục hóa nghi thức thờ cúng. Có khả năng làm hư hoại di tích và mất dần đi
ý nghĩa tích cực, nhân văn trong đời sống tín ngưỡng tâm linh của người dân, của
cộng đồng. Tục thờ đang tồn tại trong xã hội đương đại và chắc chắn vẫn còn cơ sở
xã hội để bảo tồn, phát huy. Muốn vậy cần phải chú trọng bảo vệ nguyên vẹn hệ
thống thờ cúng là các di tích, nghi lễ, lễ hội và các DSVH liên quan đến tục thờ
cúng. Đồng thời, đẩy mạnh việc khai thác, phát huy tác dụng tích cực của tục thờ
cúng này trong hoạt động phát triển KT-XH, đặc biệt là phát triển du lịch của địa
phương.
157
KẾT LUẬN
1. Dưới góc nhìn của những nhà chép sử chính thống, những người tham gia
hội thề ở Lũng Nhai năm 1416 là những nhân vật lịch sử tiêu biểu của cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn, họ luôn được lịch sử đề cao, trân trọng với tài năng, khí phách và
hoạt động có ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc ta trong
thế kỷ thứ XV, họ cũng là những tấm gương sáng có tác dụng giáo dục to lớn trong
việc cổ súy tinh thần độc lập dân tộc, nêu cao chính nghĩa. Từ các nguồn thư tịch
cũng như các tư liệu văn tự lẫn truyền miệng trong dân gian đã phác họa diện mạo,
chân dung lịch sử của các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416. Dưới cả
hai góc độ này đều cho thấy sự thống nhất giữa tư liệu lịch sử, ứng xử của triều đình
và cộng đồng trong việc đánh giá, ghi nhận công lao và tôn vinh các nhân vật.
2. Tưởng niệm nhân vật lịch sử là nét hằng xuyên trong tâm thức cộng đồng
đã trở thành truyền thống đạo lý tốt đẹp bao đời nay của dân tộc ta. Từ những nhân
vật lịch sử có công lao đóng góp, trải qua quá trình huyền thoại hóa, thiêng hóa
trong dân gian, các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai đã trở thành các nhân vật
tín ngưỡng được thờ cúng trong cộng đồng. Đó cũng chính là quá trình chuyển hóa
lâu dài từ việc tưởng niệm đến thờ cúng nhân vật lịch sử. Sự thờ cúng những người
tham gia hội thề ở Lũng Nhai năm 1416 là sự phụng thờ các nhân vật lịch sử. Chính
cảm hứng tôn vinh nhân vật lịch sử đã chi phối niềm tin tín ngưỡng, ảnh hưởng trực
tiếp đến di tích, lễ hội và các phong tục tập quán, sinh hoạt văn hóa có liên quan đến
thực hành tín ngưỡng thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở
Thanh Hóa. Trong tâm thức của cộng đồng, các nhân vật lịch sử tham gia hội thề
Lũng Nhai không chỉ là các nhân vật lịch sử mà còn là các nhân vật thiêng liêng, có
quyền năng huyền bí, có khả năng đáp ứng các ước vọng của con người trong đời
sống, giúp cho họ thỏa mãn các nhu cầu trong đời sống tinh thần với tư cách là
những vị thần hiển linh của cộng đồng để cho quốc thái dân an; những vị thủy tổ
của dòng họ giúp cho con cháu được mở mang, vinh hiển.
Việc thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa
đã được các triều đại phong kiến quan tâm. Việc phong sắc, lập đền thờ, dựng bia
158
đã thể hiện thái độ trân trọng của triều đình đối với nhân vật lịch sử, nó cũng làm
sâu đậm thêm ý thức về lịch sử cho cộng đồng.
3. Bằng những kết quả thực tiễn khảo sát hệ thống thờ cúng thông qua các di
sản văn hóa vật thể (đình, đền, nhà thờ, lăng mộ, sắc phong, văn cúng) và di sản văn
hóa phi vật thể (lễ hội, điện thần, vật dâng cúng, tập tục, kiêng kỵ...) có liên quan
đến tục thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa, luận án
khẳng định sự hiện diện của một hiện tượng tín ngưỡng thờ cúng các nhân vật lịch
sử đang tồn tại bền vững trong đời sống văn hóa của cộng đồng. Các dấu vết thờ
cúng này được ghi nhận trải dài trên một vùng không gian tương đối rộng, từ khu
vực trung du vùng núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa thuộc các huyện Thọ Xuân, Ngọc
Lặc, Bá Thước, Lang Chánh, với tâm điểm là khu vực Lam Sơn, quê hương anh
hùng dân tộc Lê Lợi rồi kéo dài tận xuống một số huyện vùng đồng bằng, ven biển
của tỉnh. Các nhân vật hội thề Lũng Nhai được người dân xứ Thanh thờ cúng trong
các loại hình di tích khác nhau, chủ yếu là đền, đình làng và nhà thờ họ. Ở mỗi loại
hình di tích, các nhân vật này có thể được thờ riêng hoặc phối thờ với các vị thần
địa phương. Và tùy thuộc vào tính chất, mức độ của đối tượng phụng thờ cũng như
điều kiện kinh tế của từng địa phương mà các di tích có sự phân biệt về quy mô,
diện mạo. Để tưởng nhớ, tôn vinh cuộc đời và sự nghiệp của các vị, những nghi lễ,
lễ hội thường xuyên được duy trì, thể hiện nét đẹp trong truyền thống đạo lý “uống
nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Ngày nay, những lễ hội có ý nghĩa tôn vinh khởi
nghĩa Lam Sơn nói chung, tôn vinh nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai nói
riêng đã trở thành ngày hội văn hóa của cộng đồng ở Thanh Hóa, thu hút đông đảo
người dân xứ Thanh và khách thập phương trong nước thuộc đủ các tầng lớp tham
gia nghi lễ tưởng niệm trong ngày hội. Sự tồn tại của các di tích gắn với các nghi
thức tế lễ, lễ hội và tập tục có liên quan đến chủ đề tôn vinh, thờ cúng các nhân vật
lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai đã định hình một không gian văn hóa tín ngưỡng
khá đặc sắc ở Thanh Hóa.
Kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy, các nhân vật lịch sử tham gia hội
thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa được thờ ở 2 phạm vị chủ yếu là thờ cúng trong cộng
159
đồng và phụng tự trong gia tộc, dòng họ. Trên phương diện đánh giá thái độ ứng xử
của triều đình và dân chúng trong tôn vinh, tưởng niệm các nhân vật lịch sử tham
gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa cho thấy sự thống nhất về mặt quan điểm, cách
đánh giá, nhìn nhận và tôn vinh nhân vật. Nó thể hiện ý thức tôn vinh, kỷ niệm sự
kiện và nhân vật lịch sử, tri ân những người anh hùng dân tộc chống giặc ngoại
xâm.
4. Tục thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai thể hiện sự
đan xen giữa tục thờ cúng nhân vật lịch sử với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong
một phạm vi đan cài như một vòng tròn đồng tâm giữa dòng họ, cộng đồng và quốc
gia dân tộc. Mặc dù có lúc, có nơi các vị được phối thờ với các thần linh khác
nhưng thờ cúng nhân vật lịch sử vẫn giữ vị trí chủ đạo, xuyên suốt. Thông qua tục
thờ cúng đã thể hiện rõ cảm quan lịch sử của người dân và dưới bất cứ giai đoạn
lịch sử nào, tục thờ vẫn luôn đưa đến một cách nhìn sâu vào lịch sử.
Trải qua quá trình tồn tại và phát triển, tục thờ đã góp phần gắn kết tâm thức,
củng cố tinh thần đoàn kết cộng đồng, trở thành nét đẹp trong đời sống văn hóa của
các cộng đồng cư dân trên đất Thanh Hóa. Ngoài ra, với sự biểu hiện đa dạng trong
các nghi lễ, tục lệ, phong tục và sinh hoạt văn hóa có liên quan đến thờ cúng và
tưởng niệm các nhân vật hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa. Tục thờ cúng cũng đã
góp phần tạo nên nét đẹp trong đạo đức, văn hóa ứng xử, thỏa mãn đời sống tinh
thần, giúp cho cộng đồng ổn định phát triển. Thông qua tục thờ, các thế hệ trong
cộng đồng đã giáo dục truyền thống yêu quê hương đất nước, trao truyền kinh
nghiệm góp phần bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.
Trong bối cảnh và tình hình hiện nay, như bao hiện tượng tín ngưỡng cổ
truyền khác ở nước ta, tục thờ cúng nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai ở
Thanh Hóa là kết quả của các sinh hoạt văn hóa truyền thống một thời bị mai một
qua những giai đoạn lịch sử đầy biến động. Vì lẽ đó, trong bảo tồn phát huy tục thờ
giai đoạn hiện nay, việc hòa hợp giữa cũ và mới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa
kế thừa các giá trị tích cực và loại bỏ các giá trị lạc hậu, không phù hợp với sự phát
triển của thời đại là cả một bài toán đang được đặt ra. Đó là nguy cơ khi không gian
160
thực hành thờ cúng ngày càng bị xâm lấn bởi các hoạt động của con người. Quá
trình trùng tu, tôn tạo không đúng nguyên tắc, dẫn đến nguy cơ sai lệch, biến dạng,
hiện đại hóa, giải thiêng di tích tâm linh, tục hóa nghi thức thờ cúng. Có khả năng
làm hư hoại di tích và mất dần đi ý nghĩa tích cực, nhân văn trong đời sống tín
ngưỡng tâm linh của người dân, của cộng đồng. Vì vậy, để tục thờ tồn tại và phát
triển phù hợp với đời sống đương đại cần phải chú trọng bảo vệ nguyên vẹn, hợp lý
các di tích, lễ hội, nghi lễ và hệ thống di vật quý giá gắn với tục thờ cúng. Khôi
phục và phát huy tốt các lễ tục, lễ hội mang lại giá trị tích cực, có ý nghĩa giáo dục
cộng đồng. Đồng thời, đẩy mạnh việc khai thác, phát huy tác dụng hệ thống di tích
thờ cúng nhân vật lịch sử hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa vào hoạt động khai thác
phát triển du lịch để tăng cường công tác quảng bá, tuyên truyền, nâng cao nhận
thức cho cộng đồng, góp phần bảo vệ hữu hiệu các di tích và nghi lễ thờ cúng độc
đáo này ở địa phương.
.
161
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Hà Đình Hùng (2016), “Việc phụng thờ một nữ nhân vật lịch sử ở Xứ
Thanh”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 389, tr 80- 81, 96.
2. Hà Đình Hùng- Hoàng Đình Hiển (2016), “Xây dựng các sản phẩm du
lịch điển hình bằng phương pháp phục dựng, tái hiện tại không gian văn hóa-du lịch
Thành nhà Hồ và Lam Kinh”, Hội thảo khoa học quốc tế Thanh Hóa và liên kết
phát triển du lịch quốc gia, quốc tế, Nxb Nghệ An, tr 209- 217.
3. Hà Đình Hùng (2017), “Di tích phụng thờ các nhân vật lịch sử của khởi
nghĩa Lam Sơn”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 398, tr 91-94.
4. Hà Đình Hùng (2019), “Dạng thức truyền thuyết gắn với người anh hùng
Lê Lợi trên đất Thanh Hóa”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 418, tr 95-98.
162
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. A.A.Belik (2000), “Văn hóa học - những lý thuyết nhân học văn hóa”, Bản
dịch, Tạp chí VHNT, Hà Nội.
2. Trần Thị An (2014), Đặc trưng thể loại và việc văn bản hóa truyền thuyết dân
gian Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
3. Trần Thị An, Phạm Minh Thảo, Bùi Xuân Mỹ (1998), Truyền thuyết Việt
Nam, Nxb VHTT, Hà Nội.
4. Trần Thị An (2013), “Truyền thuyết, di tích và việc thờ cúng Mai Hắc Đế
trong dòng chảy thời gian”, Tạp chí Văn hóa học, số 2 (6), tr 48-70.
5. Đào Duy Anh (1958), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIX,
Nxb Văn hoá, Hà Nội.
6. Vương Anh (2001), Tiếp cận với văn hóa bản Mường, (nghiên cứu và tiểu
luận), Nxb VHDT, Hà Nội.
7. Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa (2002), Lịch sử Thanh Hoá,
tập III, Nxb KHXH, Hà Nội.
8. Ban Nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hoá (2005), Danh nhân Thanh
Hóa, tập 1, Nxb Thanh Hoá, Thanh Hóa.
9. Ban Nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hoá (2006), Danh nhân Thanh
Hóa, tập 2, Nxb Thanh Hoá, Thanh Hóa.
10. Ban Nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hoá (2006), Danh nhân Thanh
Hóa, tập 3, Nxb Thanh Hoá, Thanh Hóa.
11. Ban Nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hoá (2011), Danh nhân Thanh
Hóa, tập 4, Nxb Thanh Hoá, Thanh Hóa.
12. Ban Nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hoá (2011), Danh nhân Thanh
Hóa, tập 5, Nxb Thanh Hoá, Thanh Hóa.
13. Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa (1998), “Thanh Hóa thời Lê”,
Kỷ yếu hội thảo khoa học nhân kỷ niệm 500 năm ngày mất Lê Thánh
Tông 1497- 1997.
163
14. Ban quản lý di tích và danh thắng Thanh Hoá (2002), Thanh Hóa di tích và
danh thắng, tập 2, Nxb Thanh Hoá, Thanh Hóa.
15. Ban quản lý di tích và danh thắng Thanh Hoá (2004), Thanh Hóa di tích và
danh thắng, tập 3, Nxb Thanh Hoá, Thanh Hóa.
16. Ban quản lý di tích và danh thắng Thanh Hoá (2006), Thanh Hóa di tích và
danh thắng, tập 4, Nxb Thanh Hoá, Thanh Hóa.
17. Ban quản lý di tích và danh thắng Thanh Hoá (2007), Thanh Hóa di tích và
danh thắng, tập 5, Nxb Thanh Hoá, Thanh Hóa.
18. Ban quản lý di tích và danh thắng Thanh Hoá (2007), Di tích và danh thắng
Thanh Hóa, tập 6, Nxb Thanh Hoá, Thanh Hóa.
19. Ban Tôn giáo Chính phủ (2006), Tôn giáo và chính sách tôn giáo nước ta,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
20. Ban Tôn giáo Chính phủ (2012), Văn bản của Đảng và Nhà nước về tín
ngưỡng, tôn giáo, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
21. Nguyễn Chí Bền, Bùi Quang Thanh (2012), “Giá trị của tín ngưỡng thờ cúng
Hùng Vương”, Tạp chí Văn hóa học, số 1, tr 58-65.
22. Nguyễn Chí Bền, Phạm Lan Oanh (2005), “Sự biến đổi tín ngưỡng thờ nhân
vật lịch sử, Trường hợp Hai Bà Trưng”, Tạp chí Đông Nam Á, số 5, tr
38- 44.
23. Nguyễn Chí Bền (2013), Lễ hội cổ truyền của người Việt, cấu trúc và thành
tố, Nxb KHXH, Hà Nội.
24. Nguyễn Chí Bền (2003), Văn hóa dân gian Việt Nam những phác thảo, Nxb
VHTT, Hà Nội.
25. Nguyễn Chí Bền (2006), Văn hóa Việt Nam: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb VHTT, Hà Nội.
26. Trần Lâm Biền (2000), Một con đường tiếp cận lịch sử, Nxb VHDT, Hà Nội.
27. Phan Kế Bính (2005), Việt Nam phong tục, Nxb VHTT, Hà Nội.
28. Léopold Cadière (2015), Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người
Việt, Đỗ Trinh Huệ dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế.
164
29. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí (phần Nhân vật chí),
T.I, Nxb Sử học, Hà Nội.
30. Chris Barker (2011), Nghiên cứu văn hóa lý thuyết và thực hành, Bản dịch,
Nxb VHTT, Hà Nội.
31. Claude Lévi-Strauss, “Cấu trúc của thần thoại”, in trong Hội khoa học lịch sử
Việt Nam (2006), Những vấn đề nhân học tôn giáo, Tạp chí Xưa & Nay,
Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
32. Vũ Dũng (1998), Tâm lý học tôn giáo, Nxb KHXH, Hà Nội.
33. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, Nxb
VHTT, Hà Nội.
34. Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hóa tâm linh, Nxb VHTT, Hà Nội.
35. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học KHXH&NV
(2006), Một số vấn đề lý thuyết và phương pháp nghiên cứu nhân học,
(Vũ Thị Phương Anh, Phan Ngọc Chiến và Hoàng Trọng dịch), Nxb Đại
học Quốc gia, TP. Hồ Chí Minh.
36. Đảng Bộ- HĐND- UBND huyện Đông Sơn (2006), Địa chí huyện Đông Sơn,
Nxb KHXH, Hà Nội.
37. Clifford Geertz, “Tôn giáo như một hệ thống văn hóa”, in trong Hội khoa học
lịch sử Việt Nam (2006), Những vấn đề nhân học tôn giáo, Tạp chí Xưa
& Nay, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
38. Lê Xuân Giang, Lê Xuân Kỳ, Lê Ngọc Tạo, Lê Văn Viện (2013), Di tích họ
Lê trên đất Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
39. Ninh Viết Giao (chủ biên) (2000), Địa chí văn hóa Hoằng Hóa, Nxb KHXH,
Hà Nội.
40. Mai Thị Hồng Hải (2008), “Vùng truyền thuyết – nghi lễ Lam Sơn”, Tạp chí
VHNT, số 292, tr 29-33.
41. Hoàng Xuân Hãn (1966), “Những lời thề của Lê Lợi” (văn nôm đầu thế kỷ
XV), Tạp chí Sử Địa, số 2, tr 11-28.
165
42. Lê Thị Hiền (2004), Tín ngưỡng thờ anh hùng dân tộc - Giá trị văn hóa lịch sử
và ý nghĩa giáo dục, Thông báo khoa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
43. Kiều Thu Hoạch (1971), “Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong kiến”,
in trong sách Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân
gian Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội.
44. Hồ sơ đề nghị xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt khu Lam Sơn-Lam Kinh-
Thanh Hóa (2012), Lý lịch di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Lam
Kinh huyện Thọ Xuân, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.
45. Hội khoa học lịch sử Thanh Hóa (2014), Thanh Hóa xưa & nay, số 5, tháng 7,
Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
46. Hội Văn học nghệ thuật Thanh Hóa (2016), Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn
trong tâm thức dân gian, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
47. Lê Ngọc Hùng (2008), Lịch sử & Lý thuyết xã hội học, Nxb KHXH, Hà Nội.
48. Vũ Thị Huế (2012), Khảo sát hiện tượng Từ Đạo Hạnh ở Hà Nội (qua truyện
kể và lễ hội), Luận văn chuyên ngành văn học dân gian, Trường Đại học
KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.
49. Huyện ủy- HĐND- UBND huyện Bá Thước (2015), Địa chí huyện Bá Thước,
Nxb KHXH, Hà Nội.
50. Huyện ủy- HĐND- UBND huyện Lang Chánh (2010), Địa chí huyện Lang
Chánh, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
51. Huyện ủy- HĐND- UBND huyện Nông Cống (1998), Địa chí huyện Nông
Cống, Nxb KHXH, Hà Nội.
52. Huyện ủy- HĐND- UBND huyện Thọ Xuân (2005), Địa chí huyện Thọ Xuân,
Nxb KHXH, Hà Nội.
53. Huyện ủy- HĐND- UBND huyện Thiệu Hóa (2010), Địa chí huyện Thiệu
Hóa, Nxb KHXH, Hà Nội.
54. Hồ Thị Mai Hương (2009), Khảo sát truyền thuyết về Lưu Nhân Chú ở vùng
Đại Từ Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học dân gian
Việt Nam, Trường Đại học Thái Nguyên.
166
55. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb KHXH,
Hà Nội.
56. Vũ Ngọc Khánh (1979), Đất Lam Sơn, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
57. Vũ Ngọc Khánh (2004), Lê Lợi và đất Lam Sơn, Nxb VHTT, Hà Nội.
58. Vũ Ngọc Khánh (2008), Lê Lợi – con người và sự nghiệp, Nxb Thanh Hóa,
Thanh Hóa.
59. Vũ Ngọc Khánh (2003), Nét văn hoá xứ Thanh, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
60. Vũ Ngọc Khánh (2003), Nguyễn Trãi trên đất Thanh, Nxb VHTT, Hà Nội.
61. Vũ Ngọc Khánh (1973), Truyền thuyết và cổ tích Lam Sơn, Nxb Thanh Hóa,
Thanh Hóa.
62. Trần Trọng Kim (2008), Việt Nam sử lược, Nxb Văn học, Hà Nội.
63. Lê Kỳ (1997), Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và lễ hội về các anh
hùng, Nxb KHXH, Hà Nội.
64. Lê Xuân Kỳ, Lê Trung Tiến (2015), Lê triều ngọc phả, Nxb Thanh Hóa.
65. Lê Xuân Kỳ, Hoàng Hùng, Lê Huy Hoàng (2016), Gia tộc Trung túc vương Lê
Lai, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
66. Lê Xuân Kỳ, Hoàng Hùng, Thích Tâm Minh (2008), Các vị thần thờ ở xứ
Thanh: Thanh Hóa chư thần lục, Nxb Văn học, Hà Nội.
67. Kỷ yếu hội thảo khoa học Lê Lợi (1385- 1433) và Thanh Hóa trong khởi nghĩa
Lam Sơn (1988), Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
68. Nguyễn Lân (2003), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nxb Văn học, Hà Nội.
69. Phan Huy Lê (2014), “Hội thề Lũng Nhai- văn bản và người tham dự”, Kỷ yếu
Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
70. Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn (1977), Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427), Nxb
KHXH, Hà Nội.
71. Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch,
tập II, Nxb KHXH, Hà Nội.
72. Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch,
tập III, Nxb Nxb KHXH, Hà Nội.
167
73. Nguyễn Thị Thanh Mai (2017), Lý Nam Đế trong đời sống văn hóa của cư
dân vùng châu thổ Bắc Bộ, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Trường Đại học
Văn hóa Hà Nội.
74. Malinowski, Ma thuật, khoa học và tôn giáo, in trong Hội khoa học lịch sử
Việt Nam (2006), Những vấn đề nhân học tôn giáo, Tạp chí Xưa & Nay,
Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
75. Hoàng Minh (2012), “Văn hóa học và nghiên cứu văn hóa,” Tạp chí Văn hóa
học, Số 1, tr 95-97.
76. Nguyễn Tri Nguyên (2014), “Ký ức văn hóa”, Tạp chí Văn hóa học, số 3 (13),
tr 21-27.
77. Nguyễn Tri Nguyên (2010), Văn hóa học – Những phương diện liên ngành và
ứng dụng, Nxb Đại học Công nghiệp Tp Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.
78. Hoàng Anh Nhân (chủ biên), Phạm Minh Khang, Hoàng Hải (1997), Khảo sát
trò Xuân phả, Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
79. Hoàng Anh Nhân, Lê Huy Trâm (1993), Khảo sát văn hóa làng xứ Thanh,
Nxb KHXH, Hà Nội.
80. Hoàng Anh Nhân, Lê Huy Trâm (2001), Lễ tục, lễ hội truyền thống xứ Thanh,
tập 1, Nxb VHDT, Hà Nội.
81. Hoàng Anh Nhân (2006), Lễ tục, lễ hội truyền thống xứ Thanh, tập 2, Nxb
VHDT, Hà Nội.
82. Hoàng Anh Nhân (2015), Tuyển tập sưu tầm- nghiên cứu văn hóa dân gian
Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
83. Nhiều tác giả (2013), Văn hóa Việt Nam hỏi và đáp, Nxb VHTT, Hà Nội.
84. Mai Thị Nhung (2014), Truyền thuyết và lễ hội về Lê Lợi ở Thanh Hóa, Luận
văn Thạc sĩ Văn học dân gian, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
85. Nguyễn Diên Niên - khảo chứng, Lê Văn Uông - chú dịch (2006), Lam Sơn
Thực lục, Nxb KHXH, Hà Nội.
168
86. Phạm Lan Oanh (2010), Tín ngưỡng Hai Bà Trưng ở vùng châu thổ sông
Hồng, Nxb KHXH, Hà Nội.
87. Phạm Quỳnh Phương (2000), Tín ngưỡng Đức Thánh Trần, Luận văn Thạc
sĩ Văn hóa Dân gian, Viện Nghiên cứu VHDG, Hà Nội.
88. Phạm Quỳnh Phương (2006), “Đức Thánh Trần trong xã hội Việt Nam
đương đại: tăng quyền và xung đột, sự đa nghĩa của một hiện tượng
văn hóa”, Tạp chí VHDG, số 3 (105), tr 30-39.
89. Phạm Quỳnh Phương (2010), Những không gian thiêng – một nghiên cứu
thực địa về các di tích thờ Trần Hưng Đạo ở Việt Nam, trong cuốn
“Hiện đại và động thái của truyền thống ở Việt Nam: những cách tiếp
cận nhân học”, quyển 1, Nxb Đại học Quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh.
90. Giang Thị Thu Phương (2012), Khảo sát truyền thuyết và lễ hội Đinh Lê ở
Ninh Bình, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học dân gian, Trường
Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.
91. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học
(2006), Đại Nam thống nhất chí, tập II, Nxb Thuận Hóa, Huế.
92. Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Sử học (1998), Khâm định Việt sử thông
giám cương mục, Chính biên, Q. XV- 3b, T.I, Bản dịch, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
93. Nguyễn Minh San (1994), Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam, Nxb Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội.
94. Sở Văn hóa thông tin Thanh Hóa (1985), Sáng tác dân gian về Lê Lợi và khởi
nghĩa Lam Sơn, Thanh Hóa.
95. Sở Văn hóa thông tin Thanh Hóa, Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử (2002),
Đất và người xứ Thanh, Thanh Hóa.
96. Sở Văn hóa thông tin Thanh Hóa (2017), 35 vị khai quốc công thần Lam Sơn,
Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
169
97. Sở Văn hóa thông tin Thanh Hóa, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa (1995),
Hồ sơ lý lịch di tích LS-VH đền nhà Lê, phường Đông Vệ, Tp Thanh
Hóa.
98. Sở Văn hóa thông tin Thanh Hóa, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa (1993),
Lý lịch di tích đình- đền thờ Lê Lợi và các quận công họ Đàm, xã
Phương Lĩnh, huyện Đông Sơn.
99. Sở Văn hóa thông tin Thanh Hóa, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa (1993),
Lý lịch di tích đền thờ Lê Hiểm, Lê Hiêu, xã Tân Phúc, huyện Nông
Cống.
100. Sở Văn hóa thông tin Thanh Hóa, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa (1993),
Lý lịch di tích đền thờ Vũ Uy, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống.
101. Sở Văn hóa thông tin Thanh Hóa, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa (1993),
Lý lịch di tích đền thờ Lê tướng công, xã Trung Ý, huyện Nông Cống.
102. Sở Văn hóa thông tin Thanh Hóa, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa (1993),
Lý lịch di tích đền thờ Trương Lôi- Trương Chiến, xã Hải Hòa, huyện
Tĩnh Gia.
103. Sở Văn hóa thông tin Thanh Hóa, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa (1993),
Lý lịch di tích đền thờ Trịnh Khả, xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc.
104. Sở Văn hóa thông tin Thanh Hóa, Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Thanh Hóa (2001),
Lý lịch di tích từ đường họ Lê Duy, xã Hoằng Tiến, huyện Hoằng Hóa.
105. Sở VH,TT&DL Thanh Hóa, Thư viện KHTH Thanh Hóa, Thanh Hóa chư
thần lục, (Bản đánh máy của Nguyễn Văn Hải theo bản chữ Hán ký hiệu
VHv. 1290 của Thư viện Nghiên cứu Hán Nôm).
106. Sở VH,TT&DL Thanh Hóa, Viện Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học
Việt Nam (2018), Kỷ yếu Hội thảo khoa học anh hùng dân tộc Lê Lợi và
nhân dân Thanh Hóa với Khởi nghĩa Lam Sơn.
107. Lê Ngọc Tạo (2001), Các chính sách về xã hội của nhà nước thời Lê sơ (1428-
1527), Luận án Tiến sĩ, Viện Sử học.
170
108. Lê Văn Tạo (2011), “Lam Kinh từ lịch sử đến huyền thoại”, Tạp chí VHNT, số
323, tr 17-20.
109. Lê Văn Tạo (2001), Nghệ thuật điêu khắc Lăng mộ Lam Kinh, luận văn thạc sĩ
Văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
110. Lê Văn Tạo (2008), Một số đặc trưng của nghệ thuật chạm khắc đá truyền
thống ở Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
111. Lê Văn Tạo (2008), Những bia ký điển hình ở Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa,
Thanh Hóa.
112. Lê Văn Tạo (2011), “Tục thờ thần linh ở Thanh Hóa”, Tạp chí VHNT, số 322,
tr 12-15.
113. Lê Văn Tạo, Hà Đình Hùng (2008), Nghệ thuật kiến trúc điêu khắc gỗ truyền
thống Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa.
114. Bùi Quang Thanh (2008), Văn hóa dân gian Việt Nam một cách tiếp cận, Nxb
KHXH, Hà Nội.
115. Bùi Quang Thanh (2011), “Truyền thuyết và lịch sử”, Tạp chí DSVH, số 2
(35), tr 22-25.
116. Trần Ngọc Thêm (2014), Những vấn đề văn hóa học, lý luận và ứng dụng,
Nxb Văn hóa-Văn nghệ Tp HCM, thành phố Hồ Chí Minh.
117. Ngô Đức Thịnh (2008), Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền, Nxb VHTT, Viện
Văn hoá, Hà Nội.
118. Ngô Đức Thịnh (1991), “Tiểu vùng văn hóa xứ Thanh”, Tạp chí VHGD, số 1
(91)/04, tr 13 - 25.
119. Ngô Đức Thịnh (2012), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb
Trẻ, Hà Nội.
120. Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Thuỵ Loan, Vũ Ngọc Khánh (2014), Tín ngưỡng và
sinh hoạt văn hoá cộng đồng, Nxb KHXH, Hà Nội.
121. Trần Văn Thịnh (2005), Võ tướng Thanh Hóa trong lịch sử dân tộc, Nxb
KHXH, Hà Nội.
171
122. Nguyễn Tiến Thư (2008), “Những hình thức tôn vinh danh nhân xưa”, Tạp chí
VHNT, số 288, tr 9-14.
123. Nguyễn Tiến Thư (2011), “Tôn vinh danh nhân phương thức bảo tồn và phát
triển văn hóa”, Tạp chí VHNT, số 325, tr 15-19.
124. Nguyễn Tiến Thư (2011), “Truyền thống tôn vinh danh nhân ở Việt Nam”,
Tạp chí VHNT, số 326, tr 7-11.
125. Tỉnh ủy- HĐND- UBND tỉnh Thanh Hóa (2000), Địa chí Thanh Hóa, tập I,
Nxb KHXH, Hà Nội.
126. Tỉnh ủy- HĐND- UBND tỉnh Thanh Hóa (2004), Địa chí Thanh Hóa, tập II,
Nxb KHXH, Hà Nội.
127. Tỉnh ủy- HĐND- UBND tỉnh Thanh Hóa (2015), Địa chí Thanh Hóa, tập IV
(Nhân vật chí), Nxb CTQG- Sự thật, Hà Nội.
128. Nguyễn Thị Phương Thủy (2013), Hệ thống truyền thuyết và lễ hội về võ
tướng Dương Tự Minh ở Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ
Văn, Trường Đại học Thái Nguyên.
129. Phạm Tuấn (2004), “Di tích ở Thanh Hóa”, Tạp chí VHNT, số 10 (244), tr 53 -
55.
130. Hoàng Bá Tường (2010), Tục thờ thần Độc Cước ở một số làng ven sông biển
tỉnh Thanh Hoá, Luận án tiến sỹ, Viện KHXH Việt Nam, Hà Nội.
131. Tuyển tập Văn bia Thanh Hóa (2013), Văn bia thời Lê sơ (tập 2), Nxb Thanh
Hóa, Thanh Hóa.
132. Lê Huy Trâm (2001), Khảo sát văn hóa dân gian Thanh Hóa, Nxb Thanh
Hóa, Thanh Hóa.
133. Lê Huy Trâm (1998), “Vương triều Lê trong tâm thức dân gian Thanh Hóa”,
Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Thanh Hóa thời Lê nhân kỷ niệm 500 năm
ngày mất Lê Thánh Tông 1497- 1997.
134. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần người và đất Việt, Nxb VHTT, Hà Nội.
135. Trường Cao đẳng VHNT Thanh Hóa (2011), Bàn về đặc trưng văn hóa truyền
thống Thanh Hóa, Hội thảo khoa học cấp tỉnh, Thanh Hóa.
172
136. Trường Cao đẳng VH-NT Thanh Hóa (2006), Kỷ yếu Hội thảo khoa học
Nghiên cứu kế thừa, phát huy lễ hội truyền thống Thanh Hóa gắn với
phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội.
137. Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa (2016), Kỷ yếu Hội
thảo khoa học Nghiên cứu tiềm năng và giải pháp phát huy giá trị hệ
thống đền thờ ở tỉnh Thanh Hóa.
138. Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa (2006), Tập tài liệu
lễ hội truyền thống Thanh Hóa (tài liệu nội bộ).
139. UBND Thành phố Thanh Hóa (1999), Địa chí Thành phố Thanh Hóa, Nxb
VHTT, Hà Nội.
140. Đặng Nghiêm Vạn (2005), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb CTQG, Hà Nội.
141. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện nghiên cứu Hán nôm (2014),
Văn bia Lê sơ, Nxb KHXH, Hà Nội.
142. Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện Sử học, Lê Quý Đôn (2007), Đại Việt
thông sử, Nxb VHTT, Hà Nội.
143. Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Viễn Đông bác cổ Pháp (1993), Di sản Hán
Nôm Việt Nam, thư mục đề yếu, Nxb KHXH, Hà Nội.
144. Viện sử học - Ban NC&BS lịch sử Thanh Hóa (2013), Kỷ yếu Hội thảo Khoa
học Hội thề Lũng Nhai trong khởi nghĩa Lam Sơn ở Thanh Hóa.
145. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa văn hoá, Nxb VHDT, Tạp
chí VHNT, Hà Nội.
146. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb
VHDT, Tạp chí VHNT, Hà Nội.
147. Nguyễn Thanh Xuân (2015), Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
148. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb VHTT, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
173
149. Calhoun, C. (1997), Nationalism (Chủ nghĩa dân tộc), Buckingham: Open
University Press.
150. Fiona Bowie (2001), The Anthropology of Religion (Nhân học tôn giáo),
Blackwell.
151. Phạm Quỳnh Phương (2005), Hero and Deity: Empoverment and Contestation
in the Veneration of Tran Hung Dao in contemporary Vietnam (Anh
hùng và Thánh: Quyền năng và những tranh luận trong việc thờ Trần
Hưng Đạo ở Việt Nam hiện nay), La Trobe University.
152. Richley H. Crapo (1996), Cultural Anthropology, Understanding Ourselres &
Others, (Chapter V: Gender and culture) (Nhân học văn hóa, hiểu về
chúng ta và những người khác, Chương V: Giới và văn hóa), Brown &
Benchmark: The Utah State University.
153. Wiliam A.Haviland (U.of Vermont) (1993), Cultural Anthropology (Chapter
1: Religion and the supernatural) (Nhân học văn hóa, Tập 1: Tôn giáo
và siêu nhiên), Harcourt Brace Jovanovics College Publishers.
Các bài viết từ website
154. http://circlegroup.vn/tin-nguong-duc-thanh-tran-phan-1/
155. http://circlegroup.vn/tin-nguong-duc-thanh-tran-phan-2/
156. http://phatdiem.org/Tín ngưỡng thờ cúng các danh nhân và anh hùng dân tộc
của người Việt Nam.
157. http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/vhvn-nhung-van-de-
chung/1552-duong-phu-hiep-bao-ton-va-phat-trien-he-gia-tri-van-hoa-
truyen-thong-viet.html.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HOÁ NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
THỜ CÚNG CÁC NHÂN VẬT LỊCH SỬ THAM GIA
HỘI THỀ LŨNG NHAI NĂM 1416 Ở THANH HÓA
PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Hà Nội - 2019
175
MỤC LỤC
Trang
Phụ lục 1: Phân bố các điểm thờ cúng nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng 176
Nhai ở Thanh Hóa
Phụ lục 2: Danh mục các di tích, điểm thờ đã khảo sát 177
Phụ lục 3: Một số tài liệu văn tự và truyền miệng về nhân vật tham gia hội 180
thề Lũng Nhai
Phụ lục 4: Phiếu trưng cầu ý kiến phục vụ thu thập thông tin luận án 189
Phụ lục 5: Tổng hợp thông tin từ phiếu trưng cầu ý kiến 194
Phụ lục 6: Nguồn tư liệu phỏng vấn sâu được trích dẫn trong luận án 202
Phụ lục 7: Danh sách người cung cấp thông tin cho luận án 221
Phụ lục 8: Một số hình ảnh thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề 226
Lũng Nhai ở Thanh Hóa
176
PHỤ LỤC 1 PHÂN BỐ CÁC ĐIỂM THỜ CÚNG NHÂN VẬT LỊCH SỬ THAM GIA HỘI THỀ LŨNG NHAI Ở THANH HÓA
177
PHỤ LỤC 2 DANH MỤC CÁC DI TÍCH, ĐIỂM THỜ ĐÃ KHẢO SÁT
TT
Tên di tích
Địa điểm
Loại hình
1 Di tích QGĐB Lam
Kinh
Tình trạng Mới trùng tu, tôn tạo
Xếp hạng Cấp QGĐB
Xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân
2 Đền thờ Lê Lai (đền
Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Di tích LS-VH Mới tôn
Tép)
3 Đền thờ Lê Hiểm
tạo Di tích LS-VH Còn
Cấp Quốc gia Cấp Quốc gia
nguyên vẹn
Di tích LS-VH Còn
4 Từ đường Lê tộc (thờ Võ Uy)
Cấp Quốc gia
nguyên vẹn
5 Đền thờ Võ Uy
Di tích LS-VH Còn
nguyên vẹn
Cấp Quốc gia
6 Mộ Võ Uy
Di tích LS-VH Phế tích, mới được tôn tạo
7 Đền thờ Lê Lợi
Di tích LS-VH Còn
Cấp Quốc gia
nguyên vẹn
8 Đền thờ Trịnh Khả
Di tích LS-VH Đã xuống cấp, hư hại
Cấp Quốc gia
9 Thái miếu nhà Hậu
Lê
Mới tôn tạo
Cấp Quốc gia
10 Từ đường họ Đàm Lê
Di tích LS-VH và Kiến trúc nghệ thuật Di tích LS-VH Còn
(thờ Lê Lợi)
Cấp Quốc gia
11 Đình Phương Chính (thờ Lê Lợi)
Cấp Quốc gia
Di tích LS-VH và Kiến trúc Nghệ thuật
nguyên vẹn Còn nguyên vẹn
12 Đền An Lạc (thờ Lê
Di tích LS-VH Mới tôn
Cấp
Xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc Thôn Thái Sơn, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống Thôn Thái Sơn, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống Làng Ngọc Uyên, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống Làng Thanh Ban, xã Vạn Hòa, huyện Nông Cống Xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân Xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Lộc Phường Đông Vệ, Tp Thanh Hóa làng Vân Nhưng, xã Đông Lĩnh, huyện Đông Sơn làng Vân Nhưng, xã Đông Lĩnh, huyện Đông Sơn xã Hoằng Hải,
178
tạo
Quốc gia
Lai)
Di tích LS-VH Phế tích
13 Đền thờ Võ Uy
Cấp Tỉnh
14 Đền thờ Lê Văn
Di tích LS-VH Mới tôn
Linh
tạo
15 Lăng mộ Lê Văn
Di tích LS-VH Mới tôn
Linh
tạo
16 Đình Mậu Công
Di tích LS-VH Mới tôn
(thờ Lê Văn Linh)
17 Đền thờ Lê Văn An
Cấp Tỉnh Chưa xếp hạng Cấp Tỉnh Cấp Tỉnh
Kiến trúc nghệ thuật
tạo Còn nguyên vẹn
Di tích LS-VH Mới tôn
Cấp Tỉnh
18 Đền thờ Trương Lôi, Trương Chiến
tạo
19 Từ đường Lê Tướng
Di tích LS-VH Phế tích
Công (thờ Lê Lai)
Cấp Tỉnh
Cấp Tỉnh
20 Từ đường dòng họ Lê Duy (thờ Lê Lai)
Còn nguyên vẹn
21 Đền thờ Lê Lợi
Di tích Lịch sử và Kiến trúc nghệ thuật Di tích LS-VH Mới tôn
Cấp Tỉnh
tạo
22 Đền Đon Ban (thờ Lê
Di tích LS-VH Còn
Lợi)
Cấp Tỉnh
nguyên vẹn Di tích LS-VH Còn
Cấp Tỉnh
23 Đền Ngọc Lan (thờ Lê Văn An, Lê Thận)
nguyên vẹn
Di tích LS-VH Còn
24 Từ đường Lê Tộc (dòng họ Lê Liễu)
Cấp Tỉnh
nguyên vẹn
25 Di tích lịch sử kỷ
Di tích Lịch sử Mới tôn
Cấp Tỉnh
tạo
niệm sự kiện hội thề Lũng Nhai
huyện Hoằng Hóa Làng Bái Đa, xã Vạn Hòa, huyện Nông Cống Xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân Xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân Xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân Xã Thọ Lâm, huyện Thọ Xuân Làng Quan Nội, xã Hải Hòa, huyện Tĩnh Gia xã Trung Ý, huyện Nông Cống làng Kim Đính, xã Hoằng Tiến, huyện Hoằng Hóa bản Năng Cát, xã Chí Nang, huyện Lang Chánh xã Văn Nho, huyện Bá Thước Thị trấn Lam Sơn, huyện Thọ Xuân làng Bản Định, xã Hoằng Sơn, huyện Hoằng Hóa làng Lũng Mi, xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân
179
26 Từ đường họ Võ Uy
Di tích LS-VH Còn
Cấp Tỉnh
nguyên vẹn
làng Phúc Lai, xã Định Hòa, huyện Yên Định
Di tích LS-VH Mới tôn tạo
27 Đền Lai (thờ Lê Lợi) Xã Minh Sơn,
Di tích LS-VH Mới tôn tạo
28 Đền Tiên Púa
Cấp Tỉnh Cấp Tỉnh
29 Đền thờ Lê Lợi
Di tích Lịch sử Phế tích
Chưa xếp hạng
30 Đền thờ Lê Lợi
Di tích Lịch sử Phế tích
Chưa xếp hạng
31 Đền thờ Lê Lợi
Di tích Lịch sử Phế tích
Chưa xếp hạng
Di tích LS-VH Phế tích
32 Đền thờ Lê Lợi
Chưa xếp hạng
33 Từ đường dòng họ
Di tích LS-VH Mới tôn tạo Chưa xếp
hạng
Võ Uy
34 Miếu thờ Lê Lợi
Di tích LS-VH Phế tích
Chưa xếp hạng
36 Đền thờ Thần phi
Di tích LS-VH Mới tôn
tạo
Chưa xếp hạng
huyện Ngọc Lặc Xã Giao Thiện, huyện Lang Chánh Làng Bóng, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc Làng Trọc, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc Núi Phù Hương, xã Phúc Thịnh, huyện Ngọc Lặc Xã Cẩm Vân, huyện Cẩm Thủy Xã Hoằng Kim, huyện Hoằng Hóa thôn Eo Nê, xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Lộc Xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân
Trịnh Thị Ngọc Lữ (thờ Lê Lợi, Lê Lai, Nguyễn Trãi, Lê Văn Linh, Lê Văn An)
Di tích LS-VH Mới tôn
37 Đền thờ Lê Trung Giang (thờ Lê Lợi)
tạo
Chưa xếp hạng
38 Khu tưởng niệm
xã Hoằng Ngọc, huyện Hoằng Hóa Tp Thanh Hóa
Dựng mới Chưa xếp
hạng
tượng đài Lê Thái Tổ
Địa điểm lưu niệm danh nhân
180
PHỤ LỤC 3 MỘT SỐ TÀI LIỆU VĂN TỰ VÀ TRUYỀN MIỆNG VỀ NHÂN VẬT THAM GIA HỘI THỀ LŨNG NHAI
I. TÀI LIỆU VĂN TỰ 1.1. Sắc phong: SẮC PHONG LÊ LAI Sắc cho giáp Lê (nhiều chi họ Lê hợp thành giáp) phủ Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa phụng thờ: Thái úy Tịnh Quốc công tôn thần; Thái úy Trung Quốc công tôn thần; Thái úy Phúc quốc công tôn thần; Tán trị cẩm y vệ tôn thần giúp nước hộ dân nghiệm thấy linh ứng. Nay Trẫm đúng tứ tuần (40 tuổi) làm lễ khánh tiết, trải ban chiếu báu ơn sâu bể rộng tăng lên một bậc: Thái Tịnh Quốc công tôn thần; Thái úy Trung Quốc công tôn thần tất cả đều được gia tặng thêm là Trác vĩ thượng đẳng thần, Thái úy Phúc quốc công tôn thần tặng thêm là Quang Ý trung đẳng thần, Tán trị cẩm y vệ gia phong là linh phù tôn thần, cho phép các thôn xã thờ phụng như trước để thần ngầm giúp dân ta. Vâng sắc. Năm thứ 9 đời vua Khải Định (1924). [Theo bản dịch trong hồ sơ di tích từ đường dòng họ Lê Duy, thôn Thôn Kim Sơn, làng Kim Đính, xã Hoằng Tiến, huyện Hoằng Hóa của Ban quản lý Di tích Danh thắng Thanh Hóa]
SẮC PHONG TRƯƠNG LÔI Sắc phong bậc công thần vì vận mệnh dân tộc, quốc gia mà dẹp giặc xây dựng đất nước hưng thịnh sáng nghĩa cao cả bậc đại phu tả xa kỵ vệ đại tướng quân Thái bảo triều quận công trụ cột cao cả Trương Lôi được ban họ vua Lê Lôi, có tài năng hết lòng hết sức ở trận Mường Cốc Linh Sơn. Lên tham gia khởi nghĩa phò quốc gia quyét giặc phương Bắc giữ vững biên cương khi tại chức đã vì nước lập quy ước sáng suốt, chỉnh đốn chính thể trước sau có nhiều công huân toàn vẹn xứng đáng phong tặng thêm là tiên phong mở phủ phò giúp nước Thượng tướng quân thái phó quận công Lê Lôi ban thưởng tướng công tên thụy là Trực Nghi, nên có sắc phong này. Ngày 2 tháng 7 năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753). [Theo bản dịch trong hồ sơ di tích lịch sử văn hóa đền thờ Lê Trương Lôi, Lê Trương Chiến của Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa]
SẮC PHONG TRƯƠNG CHIẾN Sắc phong bậc công thần dẹp giặc xây dựng đất nước hưng thịnh, sáng nghĩa cao cả, đại phu thiết đột kỵ vệ quân nội hầu trụ cột quốc gia thiếu úy Trương Chiến vâng ban họ vua Lê Chiến đứng đầu quân thiết kỵ hết lòng hết sức ở trận Mường Cốc, phò vua dẹp yên giặc Bắc khôi phục nước nhà, vì nước quên mình trước sau có nhiều công huân to lớn toàn vẹn vì vận mệnh đất nước. Do đó vâng theo chiếu chỉ phục hồi đất nước phồn vinh có triệu mưu lược trừ bọn cuồng tặc
181
phản loạn ở nơi xa. Công đức muôn đời ơn soi sáng mãi. Được phong thêm Tú Trụ Thái Bảo Lý Quận công trụ cột quốc gia Lê Chiến. Ban thưởng tướng công (vì có cả văn công, võ công, trụy viện trực chính) nên có sắc phong này. Ngày 2 tháng 7 năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753) [Theo bản dịch trong hồ sơ di tích lịch sử văn hóa đền thờ Lê Trương Lôi, Lê Trương Chiến của Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa]
1.2. Văn bia: LAM SƠN VĨNH LĂNG BI “Vua họ Lê tên húy là Lợi, tổ ba đời tên húy là Hối người phủ Thanh Hóa. Thường ngày đi chơi Lam Sơn thấy có đàn chim bay lượn dưới chân núi Lam như vẻ đông người tụ họp, cho rằng chỗ này là đất tốt, liền dời nhà đến chỗ đấy, được ba năm thì thành sản nghiệp, con cháu ngày một đông, nô bộc ngày một nhiều, việc dựng nước, mở đất thực gây nền từ đấy. Bấy giờ làm quận trưởng cả một vùng.
Ông nội tên húy là Đinh, nối được nghiệp nhà, theo trí người trước, bộ hạ có đến hàng nghìn người. Bà nội họ Nguyễn, là người rất có đức hạnh, sinh được hai con trai trưởng là Tòng, thứ là Khoáng, tức thân phụ của vua...
Mẹ của vua họ Nguyễn tên húy là Thương, chăm đạo đàn bà, cửa nhà hòa thuận, gia đạo càng thêm hưng thịnh. Bà sinh được ba con, trưởng là Học, thứ là Trừ, út tức Vua.
Con trưởng được cha truyền nghiệp chẳng may mất sớm. Vua một lòng kính cẩn kế thừa tổ nghiệp. Tuy thời gặp loạn mà chí lại càng bền, giấu mình chốn núi rừng, lấy việc cày cấy làm nghiệp. Vì phẫn nộ lũ cường tặc hung bạo, càng chuyên tâm vào thao lược binh thư, dốc hết của nhà khoản đãi tân khách.
Năm Mậu Tuất dấy họp nghĩa quân, đóng trên bờ sông Lạc Thủy, trước sau đánh hơn 20 trận, đều đặt mai phục, xuất kỳ bất ý, lãnh chỗ nhọn, thừa chỗ hở lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.
Năm Bính Ngọ đánh ở Tốt Động, đại thắng bèn tiến quân vây thành Đông
Đô.
Năm Đinh Mùi giặc gửi viện binh An Viễn hầu Liễu Thăng lãnh mười vạn binh từ Quảng Tây tiến sang, Kiềm quốc công Mộc Thạch lãnh năm vạn binh từ Vân Nam tiến vào. Một trận Chi Lăng, Liễu Thăng nộp đầu, chém đầu giặc hơn mấy vạn tên, bắt sống bọn Hoàng Phúc, Thôi Tụ hơn ba trăm người và hơn vạn binh sĩ. Lấy được sắc lệnh, binh phù của Liễu Thăng gửi tới Vân Nam. Mộc Thạch nhìn thấy toàn quân rối loạn, nhân đêm chạy trốn, chém đầu, bắt sống không biết bao nhiêu mà kể.
Lúc bấy giờ trấn thủ thành Đông Quan là bọn Thành Sơn hầu Vương Thông, trước kia đã cùng quân ta giảng hòa, việc chưa xong. Đến nay xin thề ở
182
trên sông Nhị Hà, Trấn thủ thành trì các nơi đều mở cửa ra hàng. Những quân giặc bị bắt và những quân đầu hàng có đến mười vạn người, đều tha cho về cả. Đường thủy thì cấp cho hơn năm trăm thuyền, đường bộ thì cấp cho lương ăn và ngựa, răn cấm quân sĩ không được xâm phạm mảy may của giặc. Hai nước từ đó giao hảo, bắc nam vô sự, Mường Lễ, Ai Lao thu vào bản đồ, Chiêm Thành và Đồ Và vượt biển đến cống. Vua thức khuya, dậy sớm phàm thảy sáu năm mà đất nước thịnh trị, đến nay thì băng hà”.
[Theo bản dịch của Nguyễn Văn Hải- Trung tâm Bảo tồn DSVH tỉnh Thanh
Hóa]
ĐẠI NAM QUỐC THÁI ÚY TỪ ĐƯỜNG BI MINH “Ghi ông họ Trịnh, tên kiêng húy là Khả, được ban quốc tính họ vua nên thường gọi là Lê Công Khả, người xã Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh, tỉnh Thanh Hóa (nay là xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc).
Dòng dõi nhà ông trước kia đã có công chống quân Thát Đát (có lẽ là quân Nguyên Mông). Khi giặc Minh xâm lược nước ta, lật đổ triều Hồ, gây nhiều oán hận, cha mẹ ông đều bị giết hại. Nợ nước thù nhà với trí làm trai, nghe tin Thái Tổ Cao Hoàng đế người hương Lam Sơn phất cờ tụ nghĩa. Ông đến ra mắt, nhà vua giao cho nhận chức Trì khu, ban thêm cho chức Thái giám nội ngoại đi sứ các lộ Nghệ An, Diễn Châu, Tây Kinh…
Dốc hết sức lực, lập được chiến công, luận công minh thưởng: Kim tử vinh lộc đại phu, Tả Lâm Hổ vệ Thượng tướng quân, ban cho phù hiệu bạc, túi vàng, Thượng kinh xa Đô úy, sớm tối lo toan công việc. Lại ban tặng thêm chức Đô Thái Giám nội ngoại chư quân, Đô quân sự vụ, trông coi công việc cùng bốn đạo Đông, Tây, Nam, Bắc, kiêm Tri trấn Tuyên Quang.
Ông là bậc nguyên lão dưới ba triều vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông. Công cao chói lọi, tước lộc hiển vinh, được ban chức: Tán trị Dương vũ, Tịnh nạn công thần, Thái Nguyên trấn, Phiêu kỵ Thượng Tướng quân, đặc tiến khai phủ đồng tam ty, Thái úy Bình chương quân quốc trọng sự, Thái giám nội ngoại chư dịch, Thượng trụ quốc. Ban cho túi vàng phù hiệu bạc, tước Quận thượng hầu.
Dưới triều vua Nhân Tông, giặc Chiêm Thành hai lần vây đánh thành Hóa Châu. Vua đích thân sai ông đi đánh dẹp, thắng được giặc Chiêm nhà vua thăng thưởng: Tán trị Dương vũ, Tịnh nạn bảo chính, Tá lý công thần, Nhập nội đô đốc, Bình Chương quân quốc trọng sự. Ban tặng cho túi vàng phù hiệu bạc, hàm Thái úy, tước Liệt quốc công”.
Cuối bia có bài minh ca ngợi. [Theo bản dịch của Nguyễn Văn Hải- Trung tâm Bảo tồn DSVH tỉnh Thanh
Hóa]
183
1.3. Văn cúng: VĂN TẾ LÊ THÁI TỔ Ở LAM KINH (THỌ XUÂN) Duy. Việt Nam quốc, Thanh Hóa tỉnh, Thọ Xuân huyện, Xuân Lam xã. Tuế thứ… niên, xuân thiên bát nguyệt, nhị thập nhị nhật. Lê Thái Tổ, Cao Hoàng Đế, đại đức minh quân ngọc lư hạ tối linh vị tiền. Quốc Mấu Hoàng thái hậu cung phi công chúa, các chư vị đế vương lê Lợi triều kế thế vị tiền. Các bậc hoàng hậu cung phi, công chúa, ân nhân Lê Lợi triều Bạch Y thần nữ tối linh vị tiền – Hữu phò Lê Lợi khai quốc tử tiết. Đại tướng quân đệ nhất công thần Tính Lê Lợi huý Lai vị tiền. Tứ trụ đại quan, lục bộ đại thần vị tiền. Tả đường niên tôn thần vị tiền – Hữu đương canh chư vị thần hoàng tôn thần vị tiền. Viết vị hữu thường niên đáo bát nguyệt nhị thập nhị nhật, toàn dân làng tu thiết lễ nghi, lễ nghi kim nhật âm phù lầm liệt, ngưỡng vọng cao minh niên hiệu Thuận Thiên. Tính Lê Lợi huý Lợi. Xin ngài chứng giám cứu nước cứu dân an cư lạc nghiệp nhân khang vật thịnh. Đại đức phối thiên Thành đế trải muôn đời cứu nước tiếng thơm người, bốn phương tôn thành kính, cùng một dạ phụng thờ, nhang khói. Nhớ đức vua xưa khí tướng khác thường mạnh khôn rất giỏi dốc chuyên tâm về việc lược thao. Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Quân cứu nước trước lo trừ bạo, mười năm dòng nếm mật nằm gai. Từ Lam Sơn cắt thẳng nghĩa Lĩnh, dẹp mưu tặc thu về sông núi. Thương tướng sĩ lòng như biển cả. Hoà nước sông chén rượu ngọt ngào. Khi Lương Sơn lương cạn mấy tuần lúc khổ luyện quân không một lẽ. Đánh trận đầu thu đương Nguyễn Chích. Cuối cùng về vây chặt Đông quan bắt Vương Thông quỳ gối tâu hàng.Tướng cứu viện Liễu Thăng tử trận. Ải Chi Lăng muôn thuở chưa nhoà. Tướng Mộc Thạch kinh hồn bạt vía. Đức vua thể hiện lòng nhân đạo cứu sinh còn lại quan quân cho về nước xây dựng cơ đồ sửa sang giường mối. Lời Bình Ngô vang bản hùng ca. Nền độc lập đậm đà thêm pho sử. Sự nghiệp ngời ngời ngàn đời bất tử, muôn dân vinh dự nhớ ơn ngài. Cho đến nay thần kiếm đâu. Dạ những mỏ màng. Còn thánh tướng bia lăng mộ đá mà lòng mong mỏi. Hôm nay ngày huý kỵ. Tấm lòng thành của toàn dân làng mong mỏi, kính dâng lên bạc cửu nghi tinh khiết xin ngài chứng giám. Cẩn cáo.
VĂN TẾ LÊ THÁI TỔ Ở NHÀ THỜ HỌ ĐÀM LÊ (TP THANH HÓA) Duy. Cộng hòa xã hội chũ nghĩa Việt Nam. Tuế thứ…..niên; bát nguyệt nhị thập nhị nhật, Thanh Hóa tỉnh, Thanh Hóa thành phố, Đông Lĩnh xã, Vân Nhưng làng. Tế chủ Đại Đàm tộc tề tựu về đây, Vân Nhưng Thái xã, hùng khái oai nghiêm. Trên có hồng thiên, dưới có hậu thổ cùng Sơn thần, thổ địa xin thành tâm cung nghinh lễ vật phù tiến kim ngân, hương hoa, đăng trà, trái quả. Thực hiển hân tri
184
nghi căn triều cáo vu. Thực Lai Tổ Đường Đại Vương tôn thần, Đức khởi Tổ Cao Hoàng Đế Lê húy Lợi, niên hiệu Thuận Thiên, cùng các bậc công Thần khởi quốc, Trung Vũ Đại Vương, Lê Thạch Chiêu Trung Vương, Lê Khôi Trung Vũ, Hầu tướng Lê Khang Lương, Nghĩa hầu Lê Thành, Hậu Lê Trung Hưng, Đô đốc Phúc Chiêu Công, Thượng đẳng anh linh, tối linh, thần vị tiền kế. Tuyên Đô đốc Phúc Đại Công, kế truyền Đô đốc Phúc An Công, Đô đốc Phúc Thọ Công, đô đốc Đại tướng quân phần Quận Công, Đô đốc Thiên Lương Hầu. Tặng Mỹ Vương, Lữu Quốc Công, Tả Đô đốc Thái Phó, Nguyên Quân Công, Đàm Tướng Công trị quốc, tùy dân, lẫm chức linh, ứng vị tiền. Hiển Tằng tổ khảo đặc tiền phù quốc, thượng tướng quân, Vịnh Quận Công, Đàm Tướng Công, Tử Thị Nhuệ. Dũng Phụ Đạt, Trương Thiều, Giả Phong Hồng Huân, Tuân Đức tuyên triết, Anh Du Đại Vương, Quang Úy Dực Bảo Trung Hưng Tôn thần vị tiền. Tổ Khảo đặc tiền Phù Quốc thượng tướng quân, phái Quận Công, Đàm Tướng quân, Tư Thụy trung cầu dũng lược gia phong, Anh thanh tuấn liệt; Đại Vương Đàm túc, rực bảo Trung Hưng tôn thần vị tiền. Quận Công Thái Úy, Đàm Quận Công, Chi tử chi tôn thánh môn kể suốt, húy Ngọc Hợp tự Ngọc Điền. Gia phong Hồng nhân Công chúa, rực bảo Trung Hưng tôn thần vị tiền. Anh linh tiên tổ, văn mưu võ lược, Nghĩa Hộ Lê Môn, rực quang tiền đại phúc, Dư Hậu Côn lập Ấp, Khai Tương điện am tử lý, Khái sát Định Khải Trang, Phan Thanh Quốc thừa kỷ công dinh. Thế như Kiên Thiên Thủ, nhị tuyên suốt uyên thích lễ thời văn hóa đồng căn hồng ân, lễ nghi tái thiết, tấu rõ vô ngôn dung kỳ hiển hưởng. Vĩnh bảo tổ tôn, thực lai tổ đường, chi phù hộ giá. Cẩn cáo.
VĂN TẾ LÊ LAI Ở ĐỀN AN LẠC (HOẰNG HÓA) Duy. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuế thứ… niên, chính nguyệt Kiến Dần, thập ngũ nhật, Thanh Hóa tỉnh, Hoằng Hóa huyện, Lê Tộc. Tế chủ… Thủ từ hợp đồng bản tộc thượng hạ đẳng cẩn dụng lễ vật phù tửu thanh trước cảm chiều cốc vu. Tiền Tổ bình Ngô khai quốc công thần dịch bào thế quốc Thái úy Phúc quốc Công tứ thị toàn nghĩa tướng công bao phong Trung Túc Vương thượng đẳng phúc thần kim triều gia tặng Quang úy Thượng đẳng tôn hựu đại vương phối dĩ phúc quốc phu nhân.Tiền Tổ Bình Ngô Thiếu úy tặng phong kiến tiết hầu.Tiền Tổ Bình Ngô Thiếu úy tặng phong Chiêu Quận công.Tiền Tổ Lũng Nhai công thần Thái úy Trung quốc Công Tứ thụy Uy Vũ tướng công bao phong Tương Bình thượng đằng thần phúc thần kim triều gia tặng Trác vĩ Thượng đẳng thần tôn hiệu đại vương, phối dĩ Trung quốc phu nhân.Tiền Tổ Trung Hưng Công thần Thái úy Tĩnh quốc Công Tư thụy Chính úy tướng công bao phong hồng ân thượng đẳng phúc thần kim triều gia tặng Trác vĩ thượng đẳng thần tôn hiệu đại vương phối dĩ
185
Tĩnh quốc phu nhân.Tiền Thái úy Hoài quận công Lê Trí.Tiền tả Vệ đô thừa chánh sử ty tặng Thái bảo quận công thụy Viết Bình Cương phủ nhân phối dĩ Thái bảo phu nhân.Tiền Tổ Vệ đô thừa chánh sứ ty tặng Thái bảo quận công thụy Viết Bình Cương phủ nhân phối dĩ Thái bảo phu nhân. Tiền tổ Tán trị công thần Cẩm y vệ Tự Đức chính phủ quân gia phong linh phù tôn thần phối dĩ Tán trị phu nhân. Tiền Tổ Tá trung quân Đô đốc.Tiền Nhị vị Hiệu quân nghĩa Công chúa; Hiệu Quận Mỹ Công chúa. Tiền Tổ Tá thừa Chánh sứ ty thụy Viết Tự Thủ chính tiên sinh. Tiền Tổ Tham đốc phủ Minh Tính hầu tự Mân Đạt. Tiền Trung quân Đô đốc phủ Thanh quận công. Tiền Thái phó tự Khanh Văn Quảng Bá. Tiền Trung quân Đại phu Mỹ quận công. Tiền Tổ Tự Đức Trung phu quân. Tiền thù Bạ Quan Tự Phúc Hóa Phủ quân Vị Tiền Viết Vì Hữu Tiết Nhật Xuân Thiên Tộc Phái tự vu từ đường lễ trần cầu phúc.Cung Quy Tiền tổ đức đại dịch bào công cao thế quốc tự cổ truyền lai vu kiêm hưởng ước tổ khảo tinh thần, tử tôn khang cát nguyệt kỳ chứng giám tứ dỹ hòa bình bản tộc trung bảo tráng thiếu kiên thiên tải thuần hòa cộng lộc phủ tử tôn nhân khang vật thịnh vạn niên huệ trạng hàm phu. Thu miễn tam tai; Đông nghinh bách phúc tài lộc tăng gia; sở cầu như ý; sở nguyện tất hòa thực lại tiên tổ phụ trì chi đại huệ dã kính dĩ từ đường tả chiêu hữu mục liệt vị khanh tướng hưởng tự từ đường vị tiền. Cạp bản thổ địa chính thần văn võ bộ hạ quan liêu phủ sắc mệnh quan giám thử từ đường giữ bản tộc chính tiến phụ tiến Lê Gia đẳng chư tiên tổ khảo, đồng chứng tế duyên phục duy thượng hưởng. VĂN TẾ LÊ HIỂM (NÔNG CỐNG) Duy. Việt Nam quốc, Thanh Hóa tỉnh, Nông Cống huyện, Tân Phúc xã, Thái Sơn thôn. Tuế thứ …… niên, xuân thiên tam nguyệt, chấp thập lục nhật. Ban tộc, tộc chủ Thái Sơn thôn, hương lão, hương trương quan viên quý viên, đồng tộc các chi tộc, thiện nam, tín nữ, đồng tộc binh dân thượng hạ đẳng. Cẩn dĩ lễ nghi tư thành thanh thúy, hàn hân sính lễ hoa quả, thanh bồng hương đăng đẳng vật, phù tiếu kim ngân, phủ lưu thanh trước, cam chiêu cáo vu, đấu vu từ đường cung thỉnh. Tiến cáo Cao Tổ Đại Quan Lang, Duệ Chinh Hầu, bình Ngô khai quốc, khởi nghĩa Lam Sơn, duy chung minh nghĩa, hiệp mưu đồng đức. Bảo chính công thần nhập nội Thái Bảo Đông Bình chương sự, Đại Kim Ngư tứ kim phù huyện thượng hầu Phụng Tứ Quốc chính Thái Bảo Hồng Quốc. Công thượng trụ Quốc thụy chung định bao phong quyên du địch triết hoành liệt vĩ văn bát đạt minh mẫn hồng liệt cao huân. Đốc khánh kim hiệu tham dự triều chính Đại Kim Ngư, tứ kim phù huyện thượng hầu trấn Lạng Sơn; Phụng tứ quốc Chính trưởng Lục Bộ thượng thư chi binh dân từ tụng; Bà Quốc Trưởng Công chúa Lê Quý Thị Hiệu Từ Lan vị tiền. Tiền Cao cao Tổ suy chung minh nghĩa hiệp mưu đồng đức Bảo Chính công
186
thần nhập nội, chính trực thông minh hách trạc Tuấn Hưng dực Bảo Trung Hưng quang úy trung đẳng tôn thần vị tiền. Tiền Cao cao tổ tỷ thụ ẩm phong đại hoàng, triệu mưu khuông tích kế thế khang dân Thánh văn, Thần võ, bí liệt duy hưu, Đốc Khánh thần hổ triệu mưu linh ủng kim du vĩ liệt duyên hưu. Thái phó Đồng Bình Chương sự tứ kim ngự đại kim phù huyện Thượng hầu, Thượng tứ Quốc Chính Thái Phó cung Quốc Công Thượng trụ, Quốc trụ tĩnh giản bao phong. Tiền cao cao tổ bình Ngô khai quốc, khởi nghĩa Lam Sơn duy chung; Tá Lý Dương, Vũ Minh Nghĩa đồng đức hiệp mưu Bảo Chính công thần nhập nội chung đẳng tôn thần vị tiền. Tiền cao cao tổ tỷ chính thất trụ ấm phong, phu nhân Lê Quý Thị Ngọc Chính tỷ từ lâm vị tiền. Thuần lộc, thuần duy diên huống đồng mưu, Phổ Huệ Anh Nghị quả đoản tài mưu, Siêu chung dực ấn hồng du, Tuấn lược dực bảo trung hung Quang úy. Quân cẩm thị vệ, đô chỉ huy sứ Kim Dũng, hầu húy luân tự Phúc Lương cặp tỷ, Hiệu Thục Yên vị tiền. Tiền cao cao Tổ Dưỡng, Tử Tiền duy, Việt Tự Minh Huệ thử hậu, Hiệu Dương Xuân công chúa, Hiệu từ Mỹ hậu tiền. Tiền Cao Cao tổ dương, Vũ Quy Dũng, Đặc triết Thượng Tướng quân kim Tổng chỉ huy, hóa vệ tự thuần tiến, Cặp tỷ hiểu Từ Nhu vị tiền. Tiền cao cao Tổ đô Quý phò mã Thượng tướng dân, Ngô xá bá chấn, Lạng Sơn lê cũng vậy tiền, cao cao Tổ tông, binh xứ Giám Đường Hầu Lê, Tướng công tự Huệ bảo vật tiền, trung đẳng tôn thần vị tiền. Tiền cao cao Tổ Tỷ Lưu Quý thị hiệu Ngọc Nẫm thụy đoan tỉnh Bà đồng mai hiệu dẫn lượng. Duệ thống chung chính, đốc bạt Anh Nghị; Trung du nghĩa liệt, Duyên hưu Phổ Huệ tứ mưu hành khiển. Cự dúy huy trỳ Tuấn Lương rực bảo, Sư Thượng trụ Quốc, Thái sư Lạng Quốc, công Thụy trường Thọ, bao phong Kim Duy, địch triết năm công; Thủy tích vĩ phúc Hoành Hưu. Đội trưởng hậu vi, lãnh húy binh Tuấn Nguyễn danh quý, Biên Công tự phúc, chúc cặp tỷ vị tiền. Phả cặp bản âm, Lê Gia Tiên Tổ, Đỗ Gia Tiên Tổ, Lưu Gia Tiên Tổ, Vũ Gia Tiên Tổ, Trịnh Gia Tiên Tổ; Trần Gia Tiên Tổ, Cù Gia Tiên Tổ, Tống Gia Tiên Tổ, Phùng Gia Tiên Tổ, Phan Gia Tiên Tổ. Trực lại Tổ tiên phả cặp bản âm Liệt Miếu Từ Đường; Ta ban Hữu, ban Bộ hạ quan Quân Đồng lai phối hưởng. Bảo hộ các chi tộc nhân khang vật thịnh. Cẩn cáo.
II. TRUYỀN THUYẾT GƯƠM THẦN: do Bác Lê Quang Nghiêm, 71 tuổi, xã Xuân Lai, huyện
Thọ Xuân kể
Lúc ấy Lê Lợi đi cày ngoài đồng. Lưỡi cày vấp vào một vật tròn nhẵn nhụi. Ông lấy lên xem thì đó là một khúc gỗ hai đầu có hai vòng sắt một đầu lại có lỗ sâu, hình chữ nhật. Nghe Lê Thận kể chuyện, ông xin mang kiếm về tra thử thì thấy lưỡi và cán khít nhau rất chặt, rất vừa. Tra kiếm xong Lê Lợi chỉ kiếm xuống dòng sông Lường thì nước sông sùng sục sôi lên một chốc rồi đoạn sông đó cạn
187
gần hết nước. Một lần khác Lê Lợi chỉ gươm lên núi thì núi bị rụng đi một góc, ông mới biết đó là gươm thần. Gươm thần này của Long Vương giao cho Lê Lợi để chỉ huy khởi nghĩa. Nhờ có gươm thần, nghĩa quân Lê Lợi đã thắng lợi vẻ vang. Đến khi đất nước thanh bình, không cần dùng gươm nữa, Long Vương sai rùa vàng đến hồ Tả Vọng để lấy lại. Lúc ấy Lê Lợi đã làm vua, dạo thuyền trên hồ Tả Vọng, Rùa vàng nhô đầu lên khỏi mặt nước và tiến lại nói ra tiếng người: “Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Vương. Lê Lợi vừa rút gươm ra thì gươm đã bay về phía rùa. Rùa há miệng đớp lấy và lặn biến đi. Do đó mà hồ Tả Vọng được gọi là Hồ Hoàn Kiếm”.
HĂM MỐT LÊ LAI, HĂM HAI LÊ LỢI: do bác Trần Thị Soạn, 63 tuổi, xã
Xuân Trường, huyện Thọ Xuân kể
Khi Lê Lai bị giặc bắt, chúng đưa ông tới một cái cầu thì ông đã kiệt sức. Chúng chém chết và bêu đầu ông ở gốc cây đa. Nhưng ngay đêm ấy nhân dân làng Mơ ở cạnh cầu đã bí mật ra lấy đầu ông và cả thây ông. Họ mang về mai táng ở một chỗ cạnh đấy khoảng gần bốn cây số, trong một khu rừng rậm rạp. Đêm đưa đám bất chấp đồn giặc gần kề, nhân dân đã tới rất đông, chen chúc nhau khắp cả mặt đường và thôn xóm. Vì vậy chỗ ấy sau này gọi là làng Chen. Còn chiếc cầu đã chứng kiến bọn giặc hèn hạ giết hại ông cũng được đặt tên là cầu Lai.
Sau khi dựng nước, Lê Lợi nhớ công ơn của Lê Lai đã phong chức tước cho ông và con cái, lại cho lập đền thờ. Đền thờ Lê Lai nằm trên một bãi đất cao rộng, đằng trước có hồ nhỏ, đằng sau là lùm cây cổ thụ. Trong đều có voi đá, ngựa đá. Người ta nói rằng trước kia đền thờ thường có hổ về chầu.
Lê Lợi là người rất có ân tình chung thuỷ. Không những ông cho lập đền thờ Lê Lai, chu cấp cho con cháu người anh hùng cứu nước. Ông còn ra lệnh cho triều đình sau này phải làm giỗ Lê Lai trước khi cứu mình. Vì vậy tuân theo ý nhà Vua mà nhân dân đã làm giỗ Lê Lai trước. Câu thành ngữ: “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi” là do đó.
SỰ TÍCH NÚI DẦU: do cụ Lê Thị Tâm, 81 tuổi, xã Xuân Bái, huyện Thọ
Xuân kể
“Khi Lê Lợi kêu gọi mọi người hưởng ứng khởi nghĩa, ông đã tìm ở đó một ngọn núi, đêm đêm đốt ở đó một ngọn đèn, gọi là đèn chiêu quân. Đèn thắp từ đêm này sang đêm khác để cho khách tứ phương biết hướng mà lần lên Lam Sơn tụ nghĩa. Dầu thắp ở đây và dùng vào trại vì thế rất cần. Nhưng Lê Lợi giữ bí mật, chỉ mua dầu của một người đàn bà mà thôi. Mụ hàng dầu này cũng giàu lòng yêu nước, ngày ngày gắng dầu tiếp tế ba, bốn chuyến. Mụ không hé răng một lời nhưng cuối cùng bị bọn hèn hạ giết chết. Biết ơn người đàn bà bán dầu đã tỏ lòng trung thành với nghĩa quân, lại luôn luôn nhớ đến ngọn đèn khai sinh ngày khởi
188
nghĩa, Lê Lợi đã đặt tên núi ấy là núi Dầu. Đồng thời ông truyền lệnh giỗ mụ hàng dầu sau ngày giỗ mình một ngày: “ Hăm mốt Lê Lai. Hăm hai Lê Lợi. Hăm ba giỗ bà hàng dầu”.
SỰ TÍCH CẦU LAI: do cụ Phạm Văn Son, 79 tuổi, xã Nguyệt Ấn, huyện
Ngọc Lặc kể
“Ở vùng xã Minh Sơn, huyện Ngọc Lặc xưa kia có tên làng Loi. Loi có nghĩa là một làng Mường khốn khó. Ngày tháng người dân đói lả tay chân thành ra vô số kẻ loi. Nhưng từ khi trong Mường có chàng con trai tên là Lê Lai đi theo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thì cả Mường trở nên hoạt bát. Một hôm Lê Lợi và Lê Lai gặp nhau ở chân dốc làng Loi. Hai người cùng cởi áo xuống tắm mát. Họ bơi sụp xuống, cả buổi tắm cho nước suối cạn đi. Trời đang nắng nực bỗng nhiên có một cơn mưa rào làm cho cả vùng mát rượi. Tắm xong cả hai người cùng về làng, bà con quây quần quanh họ. Những nét mặt và dáng điệu âu sầu, rũ rượi ngày trước biến đi nhanh chóng. Dân Mường cho rằng Lê lai đã đưa được vị thần nhà trời về. Ai nấy đều một lòng một dạ đi theo Lê Lợi. Vì vậy về sau người ta gọi làng Loi là làng Lai. Cái cầu và con suối nơi hai ông tướng Lam Sơn tắm mát cũng được gọi là cầu Lai”.
SỰ TÍCH NÚI MỤC: do chị Nguyễn Thị Lê, 39 tuổi, xã Bắc Lương, huyện
Thọ Xuân kể
“Núi Mục Sơn vốn có từ xưa. Thoạt đầu có tên là núi Voi ( hình dáng giống con voi). Khi Lê Lợi chọn đất làng Cham để khởi binh, các núi Rồng, núi Hổ, Sông Mã... bốn phía đều quay cả về chầu. Riêng có núi Voi là cứ ngoảnh lại phía đông. Đứng trên đàn xã tắc. Lê Lợi cầm gươm Thuận thiên chỉ vào ngọn núi mà mắng: “Cùng là sông núi nước mà tại sao không quay đầu về tụ nghĩa hớ bất nghĩa sơn kia”!
Lê Lợi dứt lời, gươm thần nổi phép phóng ra những đạo hào quang, vùn vụt lao về phía núi. Một tiếng nổ long trời, núi sạt đi một mảng lớn, xoay hẳn về phía làng Cham. Hình con voi không còn nữa mà thành hình núi Mục ngày nay. Chữ “mục” này có nghĩa là uy kinh. Nhân dân đã đặt cho nó cái tên ấy để nói lên cái ý tứ nay ngọn núi đã biết lỗi lầm, xin uy kính hòa hợp với tất cả non sông vì sự nghiệp cứu nước”.
189
PHỤ LỤC 4 PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN PHỤC VỤ THU THẬP THÔNG TIN LUẬN ÁN
Kính thưa Ông (bà)! Trước hết, chúng tôi xin chân thành cảm ơn ông (bà) đã trả lời những câu
hỏi của chúng tôi. Đây là công trình nghiên cứu của chúng tôi nhằm làm rõ việc
thờ cúng các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai năm 1416 ở Thanh Hóa
trong cộng đồng dân cư. Chúng tôi cam kết toàn bộ những câu trả lời của ông
(bà) sẽ chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn ông
(bà)!
Xin ông (bà) vui lòng: - Đánh dấu vào các ô vuông cho câu trả lời. - Những câu hỏi không có ô trống, xin ông (bà) vui lòng cho biết ý kiến.
Câu 1. Ông bà có biết rõ thân thế, sự nghiệp của các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai không?
□ Có □ Không quan tâm □ Không
□ Là những vị thần linh ứng
□ Là những người có công với làng □ Không biết
Câu 2. Ông (bà) cho biết các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai là ai? □ Những người có công trong khởi nghĩa Lam Sơn □ Anh hùng đánh giặc Minh xâm lược □ Là những người góp phần khai sáng vương triều Lê Sơ
Câu 3. Ông (bà) biết về nhân vật được phụng thờ từ đâu? □ Đọc sách báo, internet □ Lưu truyền trong dân gian
□ Từ thành viên BQL di tích □ Từ bạn bè, người thân trong gia đình
□ Nguồn khác:...............................
190
Câu 4. Tại sao địa phương ông (bà) lại xây dựng di tích thờ cúng nhân vật tham
gia hội thề Lũng Nhai?
□ Đây là địa bàn gắn với cuộc khởi nghĩa □ Là nơi chiến đấu của các vị
Lam Sơn
□ Đây là nơi sinh ra các vị □ Các vị là người có công với dân với
nước
□ Đây là quê hương của con cháu hậu duệ
các vị
Câu 5. Ông (bà) đã đến di tích lần thứ mấy? □ Lần đầu tiên □ Trên 3 lần □ Lần thứ 2
Câu 6. Ông (bà) có tham dự lễ hội (tế lễ) các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai không? □ Thường xuyên □ Không tham dự □ Thỉnh thoảng
□ Cuối năm □ Chỉ khi bản thân và gia đình có việc
Câu 7. Ông (bà) thường đến tế lễ tại di tích vào những dịp nào trong năm? □ Đầu năm □ Chỉ đến vào ngày kỷ niệm có liên quan đến các vị □ Bất kể vào thời điểm nào trong năm
Câu 8. Vì sao ông (bà) lại đi lễ ở đây?
□ Di tích rất linh thiêng □ Nhiều người đến □ Do thói quen □ Do tiện đường đi lại
□ Di tích của làng (của dòng họ) □ Khác (ghi rõ):…………………
Câu 9. Ông (bà) thường đi lễ với ai? □ Đi một mình □ Đi theo đoàn/nhóm/hội □ Đi cùng gia đình, người thân □ Khác (ghi rõ):……………………
191
Câu 10. Khi đi lễ, ông (bà) thường chuẩn bị những lễ vật gì? □ Hoa quả, trái cây □ Cả lễ chay và lễ mặn
□ Vàng mã, sớ □ Đồ lễ chay
□ Đồ lễ mặn □ Tiền cúng □ Các loại bánh □ Khác (ghi rõ):…………………..
Câu 11. Khi đi lễ, ông (bà) thường?
□ Thắp hương, cầu xin □ Xem bói, bốc quẻ
□ Cúng lễ □ Hầu đồng
□ Đốt vàng mã
Câu 12. Ông (bà) công đức tại di tích bằng những hình thức nào? □ Tiền □ Hiện vật □ Công sức □ Không công đức
Câu 13. Các hoạt động diễn ra trong lễ hội (tế lễ) tại các di tích thờ cúng nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai?
□ Tế lễ □ Rước kiệu □ Các trò diễn dân gian □ Các trò chơi dân gian
Câu 14. Xin ông (bà) cho biết những tập tục, kiêng kỵ đặc biệt tại địa phương có liên quan đến các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai? □ Đọc công trạng của các ngài khi tế □ Kiêng gọi tên Thánh (tên húy) □ Dâng cỗ tam sinh □ Những kiêng kị khác (ghi rõ)…………
Câu 15. Khi tham gia lễ hội, tế lễ ông (bà) mong muốn điều gì? □ Cầu sức khỏe, bình an □ Cầu tài, cầu lộc □ Cầu gia đình hạnh phúc □ Cầu tự con cái
□ Cầu được mùa □ Cầu thăng quan, tiến chức
□ Chỉ tham quan, vãn cảnh
192
Câu 16. Khi thờ phụng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai, ông (bà) có thấy
linh ứng không?
□ Có □ Không
□ Chưa thấy
Câu 17. Theo ông (bà) thì lễ hội (tế lễ) các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng
Nhai hiện nay có sự khác biệt gì so với trước đây? □ Quy mô của lễ hội □ Các nghi thức, nghi lễ □ Các trò diễn, trò chơi dân gian □ Lễ vật dâng cúng
□ Nguồn kinh phí tổ chức □ Thái độ của người dân tham gia lễ hội
Ý kiến khác (ghi rõ):…………….
Câu 18. Ông (bà) cảm nhận không khí lễ hội (tế lễ) tại nơi thờ các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa như thế nào? □ Tưng bừng náo nhiệt □ Vui vẻ, phấn chấn □ Bình thường □ Ngột ngạt, khó chịu
□ Trang nghiêm, thiêng liêng □ Ý kiến khác (ghi rõ):…………….
Câu 19. Theo ông (bà) việc tổ chức lễ hội (tế lễ) có ý nghĩa như thế nào đối với cộng đồng cư dân địa phương? □ Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ □ Cố kết cộng đồng □ Cân bằng đời sống tâm linh □ Hướng về nguồn cội
□ Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc □ Ý nghĩa khác (ghi rõ):…………….
Câu 20. Chính quyền địa phương có những hoạt động gì để duy trì, tôn tạo và phát huy giá trị của việc thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai ở địa phương? □ Tham gia tổ chức lễ hội, tế lễ □ Vận động người dân sửa chữa, tu bổ, tôn □ Thành lập ban quản lý di tích □ Vận động người dân góp kinh phí phục vụ
hoạt động của di tích
tạo di tích □ Ý nghĩa khác (ghi rõ):…………….
193
Thông tin cá nhân - Giới tính: □ Nam □ Nữ
- Độ tuổi: □ Trên 55 tuổi □ Dưới 55 tuổi
Tôn giáo □ Không tôn giáo □ Công giáo
□ Phật giáo □ Tin lành
□ Tôn giáo (ghi rõ)…………..
Trình độ học vấn □ Tiểu học □ Trung học cơ sở
□ Trung học phổ thông □ Cao đẳng, đại học
Nghề nghiệp (nghề làm nhiều thời gian nhất)
□ Nông dân □ Giáo viên
□ Công nhân □ Học sinh, sinh viên
□ Kinh doanh, buôn bán □ Nghề tự do □ Hưu trí □ Cán bộ viên chức nhà nước □ Nội trợ □ Khác (ghi rõ):…………….
Nơi ở hiện nay:................................................................................................ ……………………………………………………………………………….
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của ông (bà)! Điều tra viên:.................................................................................................... Ngày khảo sát:..................................................................................................
194
PHỤ LỤC 5 TỔNG HỢP THÔNG TIN TỪ PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
I. THÔNG TIN TỔNG HỢP ĐIỀU TRA: + Thời gian thực hiện phát phiếu trưng cầu ý kiến: Trong thời gian thực hiện luận án từ năm 2013 đến 2019, NCS tiến hành phát phiếu trưng cầu ý kiến vào
các thời điểm khác nhau nhằm thu được những kết quả khách quan nhất. Cụ thể, đợt
1 vào tháng 8 Âm lịch năm 2014 gồm các huyện Thọ Xuân, Ngọc Lặc, Bá Thước,
Thường Xuân. Đợt 2 vào tháng 2 âm lịch (năm 2016) tại các huyện Vĩnh Lộc,
Nông Cống, Đông Sơn. Còn tại các huyện Hoằng Hóa, Tĩnh Gia, Tp Thanh Hóa,
phát phiếu đợt 3 vào tháng Tư âm lịch (năm 2018).
+ Địa điểm thực hiện phát phiếu trưng cầu ý kiến: xã Xuân Lam, Xuân
Bái, Thọ Hải, Thọ Lâm, thị trấn Lam Sơn (huyện Thọ Xuân); xã Ngọc Phụng (Thường Xuân); xã Văn Nho, xã Kỳ Tân (huyện Bá Thước); xã Kiên Thọ, xã Minh Sơn (huyện Ngọc Lặc); xã Vĩnh Hòa (huyện Vĩnh Lộc); xã Tân Phúc, Trung Ý (huyện Nông Cống); xã Hoằng Hải (huyện Hoằng Hóa); xã Đông Lĩnh (huyện Đông Sơn), xã Hải Hòa (huyện Tĩnh Gia) và phường Đông Vệ (Tp Thanh Hóa).
+ Tổng số phiếu phát ra: 300 phiếu (các huyện Thọ Xuân, Ngọc Lặc, Bá Thước, Thường Xuân: 120 phiếu; huyện Vĩnh Lộc, Nông Cống, Đông Sơn: 90 phiếu; huyện Hoằng Hóa, Tĩnh Gia, Tp Thanh Hóa: 90 phiếu).
+ Tổng số phiếu thu về: 287. Trong đó số phiếu hợp lệ là 282 phiếu, số phiếu
không hợp lệ là 05 phiếu.
+ Cách thức thực hiện: Phiếu trưng cầu ý kiến được phát ra trong dịp lễ hội, tế lễ và những dịp người dân, khách hành hương đến di tích, người trả lời phiếu trưng cầu là các tầng lớp dân cư ở mọi lứa tuổi, giới tính, thành phần khác nhau. Để triển khai thực hiện chương trình, tác giả luận án đã phối hợp với các cán bộ quản lý ở địa phương, thành phần gồm lãnh đạo cấp xã, huyện và trưởng các thôn xóm.
II. THÔNG TIN CHUNG: - Giới tính: Tổng số phiếu hợp lệ 282 phiếu, trong đó 158/282 phiếu là
nam, 124/282 phiếu là nữ.
- Độ tuổi:
TT Độ tuổi Nam Nữ
195
Số lượng (N) Tỷ lệ% Số lượng Tỷ lệ%
(N)
1 Trên 55 tuổi 113 40,1 75 26,6
2 Dưới 55 tuổi 45 15,9 49 17,4
- Tôn giáo: trong 282 phiếu trả lời có 42 người theo đạo Phật, số còn lại trả lời là
Không tôn giáo.
- Trình độ học vấn:
TT Trình độ học vấn Số phiếu (người) Tỷ lệ (%)
1 2 3 4
24 66 144 48 282 8,5 23,4 51,1 17 100 Tiểu học Phổ thông cơ sở Phổ thông trung học Đại học, cao đẳng Tổng số:
- Nghề nghiệp:
TT Thành phần Tần số (người) Tỷ lệ (%)
Nông dân Công nhân Giáo viên Học sinh, sinh viên Kinh doanh, buôn bán CBVCNN Nghề tự do Nội trợ Hưu trí Khác
36,2 2,8 4,3 6,7 9,2 5,7 13,1 3,9 18,1 0 100 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Tổng số: 102 08 12 19 26 16 37 11 51 0 282
III. THÔNG TIN ĐIỀU TRA:
Câu 1: Ngoài địa phương mình, ông (bà) có biết các Ngài còn được thờ ở nơi khác?
196
TT Các NVLS tham gia HTLN Số phiếu (N)
212 Tỷ lệ (%) 76,2 1 Có
27 9,5 2 Không
43 15,2 3 Không quan tâm
282 100 Tổng:
Câu 2. Ông (bà) cho biết các nhân vật lịch sử tham gia hội thề Lũng Nhai là ai? TT Các NVLS tham gia HTLN
Số phiếu (N) 231 Tỷ lệ (%) 81,9 1 Những người có công trong khởi nghĩa Lam Sơn
2 Anh hùng đánh giặc Minh xâm 209 74,1
3 89 31,5
4 lược Là những người góp phần khai sáng vương triều Lê Sơ Là những vị thần linh ứng 216 76,6
5 Là những người có công với làng 77 27,3
6 Không biết 23 8,1
Câu 3. Ông (bà) biết về nhân vật được phụng thờ từ đâu? Số phiếu (N) TT Phương tiện 83 1 Đọc sách báo, internet Tỷ lệ (%) 29,4
2 Từ thành viên BQL di tích 69 24,5
3 Lưu truyền trong dân gian 213 75,5
4 198 70,2 Từ bạn bè, người thân trong gia đình
5 Nguồn khác 54 19,1
Câu 4. Tại sao địa phương ông (bà) lại xây dựng di tích thờ cúng nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai? TT Lý do xây dựng di tích
Số phiếu (N) 193 Tỷ lệ (%) 68,4 1 Đây là địa bàn gắn với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
252 89,3 2 Đây là nơi sinh ra các vị
234 82,9 3 Đây là quê hương của con cháu hậu
197
duệ các vị
4 Là nơi chiến đấu của các vị 177 62,7
5 Các vị là người có công với dân với 217 76,9 nước
Câu 5. Ông (bà) đã đến di tích lần thứ mấy? TT Tham dự
Số phiếu (N) 25 Tỷ lệ (%) 8,8 1 Lần đầu tiên
27,7 2 Lần thứ 2 78
3
63,5 100 Trên 3 lần Tổng: 179 282
Câu 6. Ông (bà) có tham dự lễ hội, tế lễ thờ các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai không?
TT Tham dự
1 Thường xuyên Số phiếu (N) 194 Tỷ lệ (%) 68,8
2 Thỉnh thoảng 55 19,5
3 Không tham dự 33 11,7
Tổng: 282 100
Câu 7. Ông (bà) thường đến tế lễ tại di tích vào những dịp nào trong năm?
TT Dịp
Số phiếu (N) 96 Tỷ lệ (%) 34,1 1 Đầu năm
27,7 2 Cuối năm 78
66,3 3 Chỉ đến vào ngày kỷ niệm có liên 187 quan đến các vị
36,5 4 Chỉ khi bản thân và gia đình có việc 103
75,5 5 Bất kể vào thời điểm nào trong năm 213
Câu 8. Vì sao ông (bà) lại đi lễ ở đây?
TT Lý do
1 Di tích rất linh thiêng Số phiếu (N) 237 Tỷ lệ (%) 84,1
2 Do thói quen 95 33,4
198
3 Nhiều người đến 39 110
4 Do tiện đường đi lại 13,1 37
5 Di tích của làng (của dòng họ) 75,8 214
6 Khác (ghi rõ) 7,4 21
Câu 9. Ông (bà) thường đi lễ với ai?
TT Tổ chức đi lễ 1 Đi một mình Số phiếu (N) 30 Tỷ lệ (%) 10,6
27 2 Đi cùng gia đình, người thân 76
57,1 3 Đi theo đoàn/nhóm/hội 161
5,3 4 Khác (ghi rõ) 15
100 Tổng: 282
Câu 10. Khi đi lễ, ông (bà) thường chuẩn bị những lễ vật gì?
TT Lễ vật
Số phiếu (N) 263 Tỷ lệ (%) 93,3 1 Hoa quả, trái cây
49,3 2 Tiền cúng 139
76,9 3 Đồ lễ chay 217
52,8 54,6 4 Cả lễ chay và lễ mặn 5 Đồ lễ mặn 149 154
12,1 6 Các loại bánh 34
45,7 7 Vàng mã, sớ 129
1,4 8 Khác (ghi rõ) 4
Câu 11. Khi đi lễ, ông (bà) thường?
TT Thực hành nghi thức ở di tích
1 Thắp hương, cầu xin Số phiếu (N) 279 Tỷ lệ (%) 98,9
95 2 Cúng lễ 268
1,1 30,5 3 Xem bói, bốc quẻ 4 Đốt vàng mã 3 86
4,6 5 Hầu đồng 13
Câu 12. Ông (bà) công đức tại di tích bằng những hình thức nào?
199
TT Hình thức công đức
Số phiếu (N) 151 Tỷ lệ (%) 53,5 1 Tiền
2 Công sức 27,3 77
3 Hiện vật 14,9 42
4 Không công đức 4,3 12
Tổng 100 282
Câu 13. Các hoạt động diễn ra trong lễ hội, tế lễ tại các di tích thờ cúng nhân
vật tham gia hội thề Lũng Nhai?
TT Hoạt động trong lễ hội
1 Tế lễ Số phiếu (N) 280 Tỷ lệ (%) 99,3
2 Các trò diễn dân gian 3 Rước kiệu 30,1 92,5 85 261
4 Các trò chơi dân gian 96,8 273
Câu 14. Xin ông (bà) cho biết những tập tục, kiêng kỵ đặc biệt tại địa phương có liên quan đến các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai?
TT Các kiêng kỵ, tập tục
1 Đọc công trạng của các ngài khi tế Số phiếu (N) 276 Tỷ lệ (%) 97,9
2 Dâng cỗ tam sinh 25,9 73
3 Kiêng gọi tên Thánh (tên húy) 91,8 259
4 Khác (ghi rõ) 14,5 41
Câu 15. Khi tham gia lễ hội, tế lễ ông (bà) mong muốn điều gì?
TT Mục đích thực hành nghi lễ
Số phiếu (N) 271 Tỷ lệ (%) 96,1 1 Cầu sức khỏe, bình an
2 Cầu gia đình hạnh phúc 91,5 258
3 Cầu tài, cầu lộc 94,7 267
4 Cầu tự con cái 66,7 188
5 Cầu được mùa 32,3 91
6 Cầu thăng quan, tiến chức 77,7 219
7 Chỉ tham quan, vãn cảnh 16,7 47
200
Câu 16. Khi thờ phụng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai, ông (bà) có
thấy linh ứng không?
TT Sự linh ứng
1 Có Số phiếu (N) 214 Tỷ lệ (%) 75,9
2 Không 31 11
3 Chưa thấy 37 13,1
Tổng 100 282
Câu 17. Theo ông (bà) thì lễ hội (tế lễ) các nhân vật lịch sử tham gia hội thề
Lũng Nhai hiện nay có sự khác biệt gì so với trước đây?
TT Sự khác biệt
1 Quy mô của lễ hội Số phiếu (N) 243 Tỷ lệ (%) 86,2
2 Các trò diễn, trò chơi dân gian 109 38,6
3 Các nghi thức, nghi lễ 121 42,9
4 Lễ vật dâng cúng 239 84,7
5 Nguồn kinh phí tổ chức 125 44,3
Thái độ của người dân tham gia lễ hội
6 7 Khác (ghi rõ) 141 18 50 6,4
Câu 18. Ông (bà) cảm nhận không khí lễ hội (tế lễ) tại nơi thờ các nhân vật
tham gia hội thề Lũng Nhai ở Thanh Hóa như thế nào?
Số phiếu (N) 263 Tỷ lệ (%) 93,3 TT Không khí lễ hội/tế lễ Tưng bừng náo nhiệt 1
115 40,8 2 Bình thường
189 67 3 Vui vẻ, phấn chấn
33 11,1 4 Ngột ngạt, khó chịu
246 87,2 5 Trang nghiêm, thiêng liêng
13 4,6 6 Khác (ghi rõ)
Câu 19. Theo ông (bà) việc tổ chức lễ hội (tế lễ) có ý nghĩa như thế nào đối với
cộng đồng cư dân địa phương?
TT Ý nghĩa
1 Giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ Số phiếu (N) 249 Tỷ lệ (%) 88,3
201
2 Cân bằng đời sống tâm linh 199 70,6
3 Cố kết cộng đồng 219 77,7
4 Hướng về nguồn cội 262 92,9
5 Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc 179 63,5
6 Khác (ghi rõ) 42 14,9
Câu 20. Chính quyền địa phương có những hoạt động gì để duy trì, tôn tạo và
phát huy giá trị của việc thờ cúng các nhân vật tham gia hội thề Lũng Nhai ở
địa phương?
TT Vai trò của chính quyền
1 Tham gia tổ chức lễ hội, tế lễ Số phiếu (N) 233 Tỷ lệ (%) 82,6
2 Thành lập ban quản lý di tích 178 63,1
3 Vận động người dân sửa chữa, tu bổ, 128 45,4 tôn tạo di tích
150 53,6 4 Vận động người dân góp kinh phí phục vụ hoạt động của di tích
5 Khác (ghi rõ) 33 11,7
202
PHỤ LỤC 6 NGUỒN TƯ LIỆU PHỎNG VẤN SÂU ĐƯỢC TRÍCH DẪN TRONG LUẬN ÁN
5.1. Bản ghi chép phỏng vấn số 1
*Thông tin về người trả lời: - Bà Bùi Thị Tân, 55 tuổi, làng Tép, xã Kiên Thọ, Làm ruộng
- Thời gian phỏng vấn: ngày 7/2/2014 (tức 8 tháng Giêng)
- Địa điểm: Đền Tép, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc
*Nội dung phỏng vấn: H: Tại sao đền bà Nương A Thiện dân gọi là đền Mẫu?
TL: Tôi thấy họ cứ gọi thế. Thật ra đó là đền Mẫu lâu rồi, nhưng người dân
cứ quen gọi là đền của vợ ngài. Nhiều người đến đây vào đó dâng thánh mẫu lắm,
họ đều nói bà rất thiêng liêng, cầu gì được nấy.
H: Mộ cụ Lê Lai trong đền thờ có phải là mộ thật không? TL: Mộ thật chứ anh, tôi nghe người dân nói ngài chịu chết thay vua, rồi
được nhân dân thương xót tìm thấy xác đem về táng ở đây. Có lịch sử lâu đời rồi.
H: Xin bác kể cho cháu được nghe những câu chuyện linh thiêng về ngài và
di tích?
TL: Đền Ngài thiêng lắm các anh ạ. Ngôi đền này đã bị cháy nhiều lần rồi. Tôi nghe người ta nói, mỗi lần cháy như vậy thì tỉnh ta năm ấy đều có chuyện không vui. Lúc thì thiên tai, hỏa hoạn. Khi thì tình hình an ninh trật tự và làm ăn kinh tế không được thuận lợi cho lắm. Cái này thì tôi chỉ nghe người ta truyền miệng như vậy thôi chữ không biết thực hư thế nào. Tôi chỉ thấy, mỗi lần có lễ hội Lam Kinh, các lãnh đạo địa phương và nhiều ông to về đây cúng lễ nghiêm cẩn lắm.
H: Giờ thì chuyện thiêng về ngài có còn nữa không? TL: Chả khi nào mất đi được cả. Vì cụ là công thần số 1 mà, cụ đã bảo vệ cho vua có nghĩa là cụ sẽ bảo vệ được cho dân chúng. Như câu chuyện năm trước đây tôi được nghe thôi: chả là có một gia đình anh chị ở xã Ngọc Trung, huyện Ngọc Lặc trồng mía đường cứ thua lỗ suốt, vay ngân hàng cũng nhiều, mía thì năm mất mùa do thiên tai, năm thì đầu ra không có do nhà máy thu mua ít. Số tiền vay ngân hàng đầu tư mía cứ cụt dần rồi đến lúc chả còn gì, lâm vào phá sản. Thế
mà một hôm nghe ai lên đây dâng lễ, sau về không biết làm ăn thế nào đã vực lại
203
được. Đầu năm nay tôi còn thấy vợ chồng anh chị ấy xuống đây tạ lễ, chắc là tạ ơn
cụ.
H: Những nghi lễ trong lễ hội của ngài?
TL: Ngày 20 tháng 8 âm lịch tại đền thờ Lê Lai ở làng Tép diễn ra Lễ Mộc
dục. Các cụ trong ban thờ tự và lễ nghi của làng Tép lau chùi những đồ thờ, rửa
tượng và dọn dẹp vệ sinh khu đền. Sau đó, trong gian Tiền Điện và Hậu Cung các
cụ thủ Từ và ban lễ nghi làm Lễ Cáo Yết xin phép mở hội. Các công việc được các
cụ hoàn tất chu đáo trước ngày 21 một cách cẩn thận và kỹ càng. Khoảng 8h sáng
ngày 21 tháng 8 âm lịch ngày chính hội, một nghi lễ Rước sắc được tiến hành.
Theo phong tục từ xưa thì sắc được để ở nhà ông Từ chứ không phải để ở đền như
một số nơi vẫn thường làm. Do vậy đoạn đường rước sắc được đưa từ nhà ông Từ ra ngoài đền, đoàn rước bao gồm kkhoảng 30 người: Các cụ trong ban nghi lễ, có
đội chấp kích, có cờ, lọng và dàn nhạc trống chiêng kèm theo. Đoàn rước đến nhà ông Từ, các cụ ban nghi lễ tiến vào bên trong và thực hiện một số nghi lễ cũng như bài cúng xin rước sắc ra ngoài đền làm lễ. Ngoài ra trong buổi lễ đó còn có một chi tiết khác nữa đó là khi đoàn rước sắc đi đến đầu làng Tép sẽ trực tiếp đón các cụ của làng Cham lên chơi, vì đây là một nghi lễ gọi là lễ kết chạ của hai làng. Sắc được rước vào đền, tại gian tiền điện lần lượt các đội tế Nam, đội tế Nữ tiến hành nghi lễ của mình. Các đoàn khách lần lượt vào thắp hương khấn vái và cầu ước. Có cả các trò chơi dân gian trong đền. Chiều ngày 21 rước kiệu Lê Lai ra đền vua Lê để hôm sau Rước cùng kiệu Vua Lê trong chính hội.
H: Năm nay lễ lớn có rước tượng ngài không? TL: Rước vọng kiệu ngài xuống Lam Kinh thôi chứ tượng ngài nặng lắm. Mỗi năm rước ngài thì trai gái quê chúng tôi rong chiêng mở cờ, đánh trống đánh cồng rước ngài quy mô lắm. Mỗi dịp đó chúng tôi lại cùng dân đi bộ xuống Lam Kinh, dù mệt đấy nhưng về ai cũng khỏe.
H: Bác cho biết hội đền Tép hiện nay khác gì so với trước đây? TL: Nghi thức rước kiệu thì vẫn như tục xưa thôi, chỉ khác là phần hội hiện nay đẹp hơn. Sau lễ là các tiết mục sân khấu do các nghệ sỹ, diễn viên Đoàn chèo Thanh Hóa cùng các đội văn nghệ của huyện Ngọc Lặc biểu diễn, tái hiện lại những hình ảnh hào hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và ca ngợi việc liều mình
cứu Chúa của Trung túc Vương Lê Lai. Cũng như nhiều hoạt động giao lưu văn
hóa, văn nghệ, thể thao như bóng chuyền, tung còn, đánh đu của con em xã nhà.
204
5.2. Bản ghi chép phỏng vấn số 2
*Thông tin về người trả lời:
- Ông Vũ Đình Kham, 53 tuổi, xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân, trông coi di
tích
- Thời gian phỏng vấn: ngày 15/9/2014 (tức 22 tháng 8 âm lịch)
- Địa điểm phỏng vấn: tại khu DTQGĐB Lam Kinh và đền thờ Lê Thái Tổ
*Nội dung phỏng vấn:
H: Di tích được xây dựng từ khi nào?
TL: Theo tôi biết thì di tích Lam Kinh theo tài liệu xưa để lại có nói được
xây dựng cùng năm với vua Lê Thái Tổ mất là năm 1433, nay đã gần 600 năm rồi.
Điện Lam Kinh ngày trước bị cháy nhiều lần. Tôi nghe các cụ kể lại rằng, thời Tây Sơn khu này cháy mất mấy ngày mới tắt lửa. Ngày trước, khi chưa được khôi phục, các cụ làng Cham phải dựng đền thờ cụ ở phía ngoài đường giờ anh vào đấy.
H: Xin bác cho biết thêm về đền thờ Lê Thái Tổ? TL: Trước đây do không có nơi thờ cụ vì Lam Kinh hoang phế nên đền được dựng, ban đầu chỉ là tạm bợ bằng tranh, tre, nứa lá, cốt là đề dịp 22 tháng 8 có chỗ để bà con tỏ lòng thành với ngài. Sau rồi mọi người góp thêm mới xây được như hôm nay. Tôi cũng được kể rằng có một ông ngoài Nam Định cầu tự con rồi được nên góp tiền cùng các cụ ở địa phương xây lại.
H: Thế dịp lễ hội Lam Kinh thì lễ hội được tổ chức ở đâu ạ? TL: Lễ hội được tổ chức ở 3 nơi, nhưng Lam Kinh vẫn là nơi chính. Sáng ngày 21 tháng 8, dân làng chúng tôi ở đây cùng các cụ cao niên lên đền Tép thờ Ngài Lê Lai ở Kiên Thọ gần đây rước ngài về đền Cham, tức là đền thờ cụ Lê Lợi. Rồi ngày 22 làm lễ chính kị đức vua Lê Thái Tổ ở điện Lam Kinh. Như vậy là có đến 3 lễ hội gồm lễ hội ở đền Tép, đền thờ Lê Thái Tổ và Lam Kinh. H: Xin bác cho biết việc chuẩn bị lễ hội như thế nào? TL: Theo lệ thì trước ngày lễ hội, ngày trước các cụ trong ban thờ tự và lễ nghi của làng Tép, làng Cham phải vệ sinh, dọn dẹp làm sạch di tích, giờ thì đến trước lễ tôi thấy chi đoàn thanh niên trong thôn cũng đến dọn dẹp. Trong những ngày đó, dân làng chúng tôi nô nức lắm, các cụ thủ từ thì chuẩn bị các việc như đánh bóng, lau chùi tượng thần còn đám thanh niên, trai tráng thì lo việc sửa soạn
kiệu, trang trí kiệu để chuẩn bị lễ. Rồi các làng ở xung quanh đây họp bàn lên danh
205
sách chuẩn bị lễ vật dâng thần, trước đây lệ buộc mỗi làng phải dâng một con lợn,
một mâm xôi và mân hoa quả để ra cúng ở Thái miếu trong ngày 22 tháng 8.
H: Thế việc chọn chủ tế có quy định không?
TL: Chủ tế quan trọng lắm chứ, ý anh hỏi chủ tế ở đền Cham hay chủ tế
chính hội Lam Kinh. Vì trước đây di tích đền Cham là di tích của làng, cho nên
theo lệ, làng chọn ra chủ tế ở lễ hội đền Lê Thái Tổ. Việc này quy định chặt chẽ
lắm, người được chọn phải bắt buộc phải là đàn ông, đã có tuổi, đức độ, gia đình
hòa thuận, có cả con trai con gái, cháu, dâu, rể, nội, ngoại. Mọi người trong đại gia
đình đó phải biết quý trọng lẫn nhau. Gia đình phải sạch sẽ, không có tang và sẽ
được giữ mãi cho đến khi không còn làm được nữa thì thôi, lúc đó làng tôi mới tìm
người thay thế.
H: Bác ơi, thế việc dâng lễ có quy định gì không?
TL: Dâng lễ ở đây làm to lắm, thông thường như tôi nói đấy, các làng phải dâng lợn, xôi, hoa quả theo từng làng ra Thái miếu. Ngày thường ở đây vẫn có bà con thập phương đến viếng và dâng lễ còn lễ hội chính thì lễ to. Thường thì người ta dâng sớm, từ đầu sáng rồi đến trưa là hạ lễ. Khách hành hương họ cũng đổ về đây trong ngày hội nhiều lắm. Có năm họ dâng lễ chật hết các nhang án, phải ra ngoài khu vực đền mẫu nữa. Trong Lam Kinh thì không được dâng lễ vật mặn nên họ dâng hết ngoài này.
H: Bác có phải người gốc ở đây không hay về đây làm dâu? TL: Tôi là người gốc ở đây, quê cụ Lê Lợi mà, Ông nhà tôi sinh ra 7 người con, 3 người đi làm ăn xa, chỉ có 4 người còn ở lại quê. Nhà tôi gần đền nên khi nào có dịp lễ tôi cũng thu xếp công việc. Tôi còn tham gia hội người cao tuổi nên các công việc họp bàn về tế lễ hàng năm tôi cũng được biết. Những năm gần đây, Lam Kinh được tu sửa lại khang trang nên khách hành hương, khách du lịch đổ về đây nhiều. Lễ hội thì khỏi phải nói, nô nức, chen lấn, người đông lắm, ra mãi cầu Mục Sơn.
H: Ngoài Lê Lai và Lê Lợi, bác có biết nhân vật nào tham gia hội thề Lũng
Nhai cùng ông không, xung quanh đây có di tích nào của các vị không?
TL: Anh hỏi thì tôi nói chứ ở đây ai chả biết ông Lê Lai, Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn. Lễ hội này dân ta còn gọi là “hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”. Các cụ
đánh giặc cùng nhau, tình thân thiết lắm. Giỗ cụ và cụ Lê Lai chúng tôi ăn to lắm.
Hội thề Lũng Nhai chúng tôi cũng biết, mấy năm trước họ tổ chức hội thảo về đây
206
dâng hương. Những vị khác thì tôi không nhớ hết tên nhưng ở đây một số vị người
vùng này thì tôi vẫn biết, như ông Lê Thận nhặt gươm, rồi ở Thọ Hải có ông Lê
Văn An, ở Hải Lịch có ông Lê Văn Linh, tôi chỉ biết vậy thôi. Hiện nay vẫn còn di
tích, anh có thể xuống xem.
H: Bác thấy di tích thờ các Ngài có linh thiêng không?
TL: Cái đó thì anh còn phải hỏi, dân ở đây chúng tôi có ai dám đụng vào
cái gì của cụ đâu. Ngày xưa Lam Kinh hoang hóa, dân đào trộm mộ về đây, chúng
nghĩ rằng dưới mộ vua có vàng bạc, châu báu. Nghe đâu đào trộm nhưng không
lấy được gì, rồi thì người ta đồn gia đình họ phải lên đền Cham dâng lễ không thì
Ngài bắt tội chết. Tôi có biết tên người đó, ở dưới Sao Vàng kia, tôi cũng chả tiện
nói tên. Nói thêm với anh, trước đây khi di tích chưa được tu bổ, tôn tạo lại như hiện nay thì mọi hoạt động tế lễ vua Lê chủ yếu diễn ra ở đền Cham (đền thờ Lê
Thái Tổ) phía bên ngoài. Chúng tôi thường xuyên gặp các bản hội về hành hương, khi nào cũng có lễ hầu đồng vui lắm. Mấy năm gần đây, khi di tích được tu sửa lại khang trang, ngày hội khi nào cũng vinh danh các con cháu họ Lê ở cả trong và ngoài tỉnh. Họ về đây thấy vinh dự lắm. Mỗi đợt thi đại học, không những con cháu dòng họ Lê ở Thanh Hóa mà còn có những học sinh, con cháu người Thanh Hóa đến lăng cụ thắp hương, cầu khấn cho việc học hành hay sự nghiệp.
H: Bác có thể cho biết những trường hợp cụ thể về sự liêng thiêng của di
tích và các ngài?
TL: Di tích thờ cụ Lê Lợi thì thiêng lắm, không thế thì dân ta tại sao có câu: “hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”, các cụ ngày xưa đã dạy rồi, năm nào lễ hội 22 tháng 8 quê ta chả có mưa, ông Lê Lợi làm mưa đấy. Làm mưa cho dân được mát mẻ, cây cối được tốt tươi. Dân ở đây vẫn còn nhớ đến câu chuyện, một người cầu tự ở Nam Định xin được con khi cầu cụ, sau còn phải đến cúng voi và hưng công cho đền của ngài nữa. Tôi nghe nói chỗ ông ấy trồng cây ổi năm nào, giờ cây ổi cũng rất thiêng. Còn năm dựng lại Lam Kinh, cách đây gần mấy năm đấy, tôi không nhớ rõ, trong Thái miếu có một cây lim to, phải đến mấy trăm năm tuổi. Thế mà cây đang xanh tốt bỗng dưng trút lá chết, khoảng nửa năm sau khi cây chết, người ta đốn xuống để làm gỗ dựng công trình cho khu điện. Tôi thì tôi chưa được nhìn trực tiếp nhưng nghe nói thường cây chết sẽ tiêu tâm, rỗng ruột nhưng
cây lim này thì không và nhờ cây đó mà dựng được mấy cây cột trong khu điện.
Mà ngày phát cây xuống cũng trùng với ngày giỗ của ngài đấy anh ạ.
207
H: Làng mình có tục kết chạ không?
TL: Làng tôi có, tục này thì có từ lâu rồi, từ bé tôi đã được nghe ông bà kể
lại. Nay thì tục này vẫn còn và ngày lễ vẫn có diễn ra. Tục này thì tôi được nghe
như thế này: ngày xưa cụ Lê Lợi và cụ Lê Lai chiến đấu với nhau, 2 anh em bạn
bè gần làng nhau. Rồi cụ Lê Lai chết thay vua nên 2 làng kết nghĩa. Cứ đến dịp 21
tháng 8 làng tôi lên làng Tép, dân làng Tép đón chúng tôi nhiệt tình lắm. Không
chỉ lễ hội đâu, trước đây mỗi dịp có công việc gì 2 làng đều thông báo cho nhau,
xem như anh em trong một nhà.
H: Trong lễ hội Lam Kinh ngày nay, cháu thấy có diễn các tích Hội thề
Lũng Nhai, hội thề Đông Quan, Lê Lợi lên ngôi rồi cả Trò Xuân Phả, múa đèn
Đông Anh, hội trận nữa, thế trong số các tích trên thì tích nào là gốc của làng mình a?
TL: Tôi thì không biết cái đó lắm, lễ hội làng Cham xưa của chúng tôi không thấy có, chỉ mấy năm nay biểu diễn ở lễ hội Lam Kinh thôi. Trò Xuân Phả thì ở làng Xuân Trường phía dưới. Ở đây trước đây chỉ có rước kiệu vua và cụ Lê Lai là tôi còn nhớ, rước kiệu vui lắm, còn múa cồng chiêng, bắn cung nỏ nữa. Tôi chỉ biết vậy thôi.
5.3. Bản ghi chép phỏng vấn số 3 *Thông tin về người trả lời: - Cô Lê Thị Yến, 50 tuổi, xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân, Buôn bán tự do - Thời gian phỏng vấn: ngày 8/10/2014 (tức 15 tháng 9 âm lịch) - Địa điểm: Tại đền thờ Chiêu Anh Quán (đền thờ Ngọc Lan công chúa)
*Nội dung phỏng vấn: H: Cô có hay lễ ở đây không? TL: Có, cứ rằng, mồng một là cô lại lên đây, đền này thiêng lắm cháu. H: Cô làm nghề gì. TL: Cô buôn bán tự do thôi, công việc dạo này cũng không được như trước
nữa.
H: Khi lễ ở đây cô có thường xuyên hầu đồng? TL: Cũng thỉnh thoảng thôi cháu ạ, di tích miếu Ngọc Lan này thiêng lắm, cô chủ điện thương ai là người đó làm ăn được. Nhiều người lên đây cũng khấm
khá lắm. Cũng nghe nói trước ở đền có nhiều cặp uyên ương trước ngày cưới
208
thường đến đền thắp hương, để Thánh Mẫu chứng giám lòng chung thủy họ và
hưởng hạnh phúc, con cái đầy đủ cả nếp cả tẻ.
H: Cô có biết về lịch sử di tích này?
TL: Dân ở đây họ đồn từ lâu lắm rồi. Người dân ở đây xem đây như một
trong những ngôi đền thờ thánh mẫu linh thiêng. Cứ vào những ngày mồng 1 và
ngày rằm hàng tháng, người dân đều nô nức kéo đến đền. Họ cầu may mắn, an
lành và mong muốn có được cuộc sống hạnh phúc. Bởi theo họ, đền thờ Mẫu rất
thiêng, có thể thấu hiểu những lời cầu nguyện của con người. Từ xa xưa, xung
quanh ngôi đền đã có những câu chuyện huyền bí hư thực được dân gian lưu
truyền bao đời nay.
H: Vậy cô có biết sự tích thờ cúng ở đây? TL: Ở đây vẫn lưu truyền giai thoại: xưa đền có tên là đền Trình.Vì ngày
xưa, đây là con đường duy nhất để thông thương giữa miền xuôi lên miền ngược của huyện. Tỉnh Thanh Hóa thuở ấy còn nhiều rừng rậm và thú dữ, đường đi cách sông trở núi nên rất gian nan, nguy hiểm. Đền Ngọc Lan nằm chính giữa ranh giới của mảnh đất nối liền miền xuôi và miền ngược. Để hành trình được an lành, vạn sự thành công, khách bộ hành thường tạt vào đền thắp hương, cầu xin thánh thần bảo hộ cho mình. Đền Trình có nghĩa là trình diện, mong các bậc thánh thần nhận mặt để chở che cho họ tránh gặp thú giữ, và đạo tặc trên đường đi. Ngày xưa, thời ông Lê Lợi khởi binh thì đây chính là một trạm canh gác đa năng. Trạm canh được chủ tướng Lê Lợi giao cho một thôn nữ tài trí mưu lược, sắc nước hương trời, giả mở quán bán hàng nước dưới gốc cây Ngọc Lan để che mắt quân Minh. Đây đồng thời là trạm đưa tin, dò la các hoạt động của giặc để kịp báo cho nghĩa quân Lam Sơn. Quán nước cũng là một cơ sở bí mật lựa chọn tuyển mộ binh lính trong vùng cho chủ tướng Lê Lợi. Thanh niên trai tráng muốn đầu quân thì tới đây đăng ký tên tuổi để trình lên các tướng lĩnh, sau đó mới được vào vòng trong huấn luyện để gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Với những công trạng của mình, sơn nữ ấy đã giúp Lê Lợi có những người tôi trung, làm nên chiến thắng giòn giã trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Khi qua đời, cô được sắc phong là Công chúa Ngọc Lan, được nhân dân lập đền thờ để tỏ lòng nhớ ơn.
H: Cô có nghe nói chuyện thiêng nào nữa về di tích?
TL: Tôi nghe người ta đồn rằng trong thời Pháp thuộc, bọn thống trị bắt phu
phen ở đây đào một con sông dẫn nước từ đập Bái Thượng xuống các xã dưới xuôi
209
để tưới tiêu, nhưng thực chất là để phục vụ mục đích bóc lột nông nghiệp. Khi đào
tới gốc cây Ngọc Lan thì không thể nào đào tiếp được nữa, vì cứ sau một đêm
những phiến đá to lạ xuất hiện cản lối. Điều này khiến cho nhiều kỹ sư Pháp đau
đầu, nhưng không sao lý giải và tìm ra cách khắc phục được. Một hôm ông kỹ sư
người Pháp trở ra Hà Nội xin ý kiến của cấp trên, trong khi ngủ ông mơ thấy giữa
dòng sông đang đào, nổi lên một con trâu trắng và một cô gái mặc quần áo trắng
cứ dập dềnh trên mặt nước. Cho là điềm linh thiêng nên ông đã quay trở lại, đi đến
xã Thọ Lâm thì ông bị lạc ở rừng Lim. Đang đêm tối om, ông nhìn thấy một vệt
ánh sáng le lói phía trước, nhìn kỹ thì hóa ra đó là một cái am nhỏ đang được ánh
trăng phản chiếu. Hôm sau ông quay trở lại, thắp hương rồi nhờ thầy địa lý di
chuyển am về gốc cây Ngọc Lan. Kể từ đó dòng sông được đào trôi chảy không gặp sự cố gì nữa.
H: Vậy cô có biết đền thờ Ngọc Lan này còn thờ các nhân vật tham gia
khởi nghĩa Lam Sơn nữa không ạ?
TL: Cô cũng có biết, vì có tượng trong đền thờ mà. Nhiều vị lắm. Các ngài
đều phù hộ cho dân cả.
5.4. Bản ghi chép phỏng vấn số 4
*Thông tin về người trả lời:
- Ông Lê Văn Trắc, 75 tuổi, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống, Thủ từ - Thời gian phỏng vấn: ngày 22/4/2016 (tức ngày 16 tháng 3 âm lịch) - Địa điểm: tại đền thờ Lê Hiểm (xã Tân Phúc, huyện Nông Cống, tỉnh
Thanh Hóa)
*Nội dung phỏng vấn:
H: xin cụ cho biết một số thông tin về lịch sử đền thờ? TL: Đền thờ cụ Lê Hiểm ở làng tôi có lịch sử từ rất lâu đời, theo các cụ trong dòng họ cho biết, đền được xây dựng từ thế kỷ thứ XV, cách nay đã gần 500 năm. Ở đây có đền thờ cụ của làng, dân vẫn gọi là đình làng Thái Bình, còn họ cụ có nhà thờ họ riêng. Hai nơi này cách nhau gần 400m. Năm 1994 đền làng tôi được nhà nước công nhận di tích quốc gia. Mấy năm đó, các anh ở trên bảo tàng tỉnh có về đây đo đạc, khảo sát nghiên cứu. Ngày nay thì mỗi dịp làng có lễ, bà con dòng họ và thôn phối hợp với nhau tổ chức. Nhiều năm bà con dòng họ cụ các
nơi cũng về dự đông lắm.
210
H: Cụ có biết về công trạng và cuộc đời của ngài Lê Hiểm?
TL: theo gia phả dòng họ nhà tôi, cụ Lê Hiểm sinh năm 1392, tham gia
đánh giặc Minh cùng với vua Lê Thái Tổ, là một vị tướng tài giỏi, tham gia trận
mạc, ngài rất được vua yêu mến, trọng dụng. Không chỉ mình ngài tham gia khởi
nghĩa Lam Sơn với vua Lê đâu, dòng họ nhà tôi còn có cụ Lê Hiêu nữa. Cha con
cụ đã tham gia nhiều cuộc chiến đấu oanh liệt vang dội. Đáng ghi nhớ nhất là trận
phục kích ở Chi Lăng chém đầu Đại tướng Liễu Thăng tại Mã Yên và trận truy
kích ở phố Cát bắt sống 5 vạn quân địch, chém đầu phó tướng Lương Minh, buộc
thượng thư Lý Khánh phải thắt cổ tự tử. Sau khi thắng giặc, cha con cụ đã được
phong đệ nhất công thần khai quốc, tham dự triều chính trọng sự, khi mất được
phong thượng Đẳng phúc thần đại Vương, hai cha con được an táng ở Lam Sơn rồi sau này dòng họ con cháu chuyển về đây lập nghiệp. Làng tôi nhớ ơn cụ nên thờ
như thành hoàng của làng. Là người khai cơ lập nghiệp ở đây.
H: Làng mình tế lễ có nhiều tiết không ạ? TL: Cúng lễ ở đây thì có nhiều tiết. Chúng tôi có 3 ngày chính theo lệ là lễ khao quân mừng chiến thắng vào mùng 6 tháng Giêng, lễ tế xuất quân 16 tháng 3 âm lịch và lễ tế tổ diễn ra từ ngày 12 đến 25 tháng 8 âm lịch. Riêng ngày tế tổ thì trùng với dịp lễ hội Lam Kinh, tôi được nghe trước đây các cụ cử trưởng tộc về Đền Lê dâng hương, dự lễ. Còn vì sao lễ tế tổ nhiều ngày thế là bởi vì gia phả ghi lại trong tháng 8 chúng tôi có nhiều người trong dòng họ cụ Lê Hiểm và Lê Hiêu mất nên lễ tế tổ diễn ra tận gần 2 tuần. Gọi là 2 tuần cho nhiều thôi chứ làng và họ chúng tôi tế nhằm vào dịp 22 tháng 8 âm lịch hằng năm thôi. Các ngày khác thì vẫn hương khói nhưng chỉ có con em trong họ dâng lễ, cúng nhỏ, bình thường thôi.
H: Ngày lễ có con em xa trong họ về đây dự không? TL: dòng họ nhà tôi trong lịch sử lớn lắm, rồi chiến tranh loạn lạc, tứ tán khắp nơi, tha phương nhiều. Nay thì thông tin thông suốt lắm, điện thoại và mạng đã phổ biến nên mọi người dễ dàng liên lạc với nhau hơn. Như năm ngoái, con cháu dòng họ tôi từ Đông Lĩnh, Đông Sơn, rồi có cả Quảng Ninh cũng về đây dự. Nhiều bà con dòng họ còn có nguyện vọng về đất tổ của làng và dòng họ để được an nghỉ, chúng tôi đều khuyến khích cả.
H: Thế cụ thấy đền làng minh có thiêng không ạ?
211
TL: Tôi thì gần cũng cao tuổi rồi, nhưng nói về thiêng ấy, thì có thể nói là
đây là nơi linh thiêng. Ngày trước thời khó khăn, thuốc men thiếu thốn lắm, nhà
nào chỉ lo được bữa ăn là mừng rồi. Mỗi khi đình đám, giỗ tết mọi người đều khấn
vọng ngài cả. Tôi nhớ có một năm dạo đó lâu lắm rồi, từ những năm 1990, làng
năm đó có dịch sốt rét, thế mà cúng ngài mấy ngài cả làng đều khỏi hẳn. Mấy anh
trong thôn này làm ăn kinh doanh, năm nào cũng ra đây cung tiến, dự lễ và công
đức. Việc làm ăn mấy năm nay cũng xuôi chèo là do cụ độ trì cả.
H: Di tích có còn giữ được nhiều sắc phong không?
TL: Cụ là một công thần khai quốc của Lê triều nên được cấp nhiều sắc
phong lắm. Dòng họ nhà tôi hiện còn giữ được nhiều sắc phong. Trong đó có 7 sắc
thờ Lê, 3 sắc thời Nguyễn cho cụ Lê Hiểm, còn cụ Lê Hiêu được 5 sắc thời Lê, 3 sắc thời Nguyễn. Như vậy, có mỗi 2 cụ mà đã được cấp đến 18 sắc. Còn lại 5 sắc
khác là cho các ngài hậu duệ trong dòng họ. Như vậy là có đến 23 sắc. Anh thấy có di tích nào ở tỉnh ta có sắc nhiều vậy không. Phải nói rằng, các cụ là những người có công lớn nên triều đình mới cấp nhiều sắc phong đến thế chứ. Tôi thì tôi không biết chữ hán cổ nhưng nhìn các sắc đó trông rất đẹp, còn nguyên rồng phường thời nhà Lê, dấu triện đỏ, giấy vẫn không bị mòn rách. Dòng họ chúng tôi xem các sắc này là báu vật. Hàng năm có nhiều nhà nghiên cứu đến đây tìm hiểu, còn có cả người nước ngoài nữa, cái ông người Nhật Bản đấy, có giới thiệu trên mạng rồi.
H: thế cháu muốn tiếp cận khảo sát các sắc này thì gặp ai? TL: Chúng tôi không giữ sắc ở đền thờ của làng, vì đền thờ mấy năm nay cũng xuống cấp, cơ sở vật chất không đảm bảo nên chúng tôi giao cho ông trưởng họ giữ. Nếu anh cần xem thì vào nhà ông Hợi hoặc không có ông Hợi thì gặp ông Phương con ông Hợi.
H: Xin cụ cho biết thêm ông Hợi, ông Phương là đời thứ mấy của cụ Lê
Hiểm?
TL: Ông Lê Văn Hợi là hậu duệ đời 18 còn ông Phương là đời 19. H: theo cháu được biết đền thờ và nhà thờ hiện nay cũng đang bị xuống
cấp, nhà nước có hỗ trợ gì không?
TL: Tôi đã trông coi ngôi đền này lâu lắm rồi, tôi nhớ năm 2007, nhà nước
có hỗ trợ cho ngôi đền được 80 triệu đồng để khắc phục một số các hạng mục bị
xuống cấp nặng như đảo lại ngói, thay thế một số chuồng cửa… Tuy nhiên được
212
một thời gian sau ngôi đền vẫn ngày một xuống cấp, ngói trên nóc bong tróc nên
cứ mưa là nước dột tý tách vào trong đền, khiến cho một số các kiến trúc gặp nước
là mốc meo, nhanh hỏng hơn. Hai năm nay, dòng họ chúng tôi có đề nghị với
UBND xã xin được cấp kinh phí để tu sửa lại ngôi đền, nhưng cho đến nay vẫn
không có ý kiến gì từ chính quyền địa phương.
H: Cụ cho biết lễ hội diễn ra như thế nào?
TL: Các năm đều như nhau cả thôi. Trong lễ hội tổ chức rước rồi đủ các trò.
Dân làng kéo đến xem tế, rồi cả đại diện các anh ở xã cũng về dâng hương. Mấy
năm nay lễ hội làng tôi được chính quyền quan tâm, động viên hỗ trợ lắm.
H: Trong nghi thức cúng tế có gì đặc biệt không?
TL: Đặc biệt thì nhiều lắm, đó là lễ khao quân, lễ chiến thắng. Ngày trước phải chuẩn bị giấy vàng mã, cắt hình nộm quân sỹ cờ quạt như thật rồi biểu diễn
cho dân xem. Nay thì không có điều kiện làm nữa. Mấy anh trong họ và dân làng đang họp bàn để phục dựng lại. Cái đó là thời các cụ, mình phải giữ. Ngày xưa còn thanh niên, cái màn diễn này tôi thích lắm. Còn giờ thì vẫn giữ được tục lệ, hễ khi nào làng tổ chức tế là phải khênh kiệu của ngài từ nhà thờ họ Lê tôi ra đền của làng để cho dân chiêm bái xong rồi mới tế.
H: Tại sao cháu thấy bằng công nhận di tích gọi là đền thờ mà làng lại gọi
là đình làng ạ?
TL: Tên gọi đình làng có từ thời xưa rồi, ngày xưa dân làng chúng tôi đều gọi đền thờ ngài là đình cả. Ngài được tôn xưng là thành hoàng của làng. Chúng tôi vẫn giữ hai cách gọi là đền và đình nhưng người dân ở đây chỉ gọi là đình thôi.
H: Thời điểm nào người đến lễ ở di tích đông nhất? TL: Chắc chắn là dịp lễ hội rồi. Chủ yếu vào tháng 2, tháng 3 và tháng 8 âm lịch. Đầu năm và cuối năm thì có người trong làng đến lễ cầu may, sức khỏe. Lễ hội thì làng tôi có nhiều đợt như tôi nói rồi nhưng dịp 22 tháng 8 âm lịch cũng có người trong làng đến đây dâng hương.
H: Làng ta làm nông hay nghề khác là chính? TL: Trước đây làng tôi là thuần nông, giờ vẫn vậy nhưng cũng có các cháu
trong làng đi học, đi làm ăn xa và làm công ty trên thành phố. H: Trong lễ hội làng có Ban Khánh tiết không?
TL: Có anh ạ, ban tổ chức khách tiết lễ hội do làng cử ra. Có cả người trong
họ tôi, các cụ cao tuổi, hưu trí và đại diện thôn, xã nữa.
213
H: Ngoài con em địa phương và người trong họ, du khách thập phương có
đến đây nhiều không?
TL: Cũng ít thôi anh ạ. Chắc sau này đường xá thuận lợi mọi người sẽ biết
và đến đây nhiều hơn. Tôi thấy mấy anh nghiên cứu đến suốt, tôi cũng không tiện
hỏi họ từ đâu nữa.
H: Cháu nghe nói gần đây có di tích đền thờ Võ Uy, cũng là một người
tham gia hội thề Lũng Nhai trong khởi nghĩa Lam Sơn với cụ Lê Hiểm, vậy 2
dòng họ có mối quan hệ qua lại với nhau không?
TL: Cái đó xưa kia thì có, giờ thì cũng mai một rồi.
5.5. Bản ghi chép phỏng vấn số 5
*Thông tin về người trả lời: - Bà Nguyễn Thị Hồng, 72 tuổi, Phường Đông Vệ, Tp Thanh Hóa, Hưu trí
- Thời gian phỏng vấn: ngày 23/5/2018 (tức ngày 9 tháng Tư âm lịch) - Địa điểm: tại Thái miếu nhà Hậu Lê
*Nội dung phỏng vấn: H: Bác có sống gần di tích không? TL: Nhà tôi ở đối diện với khu Thái Miếu. Trước đây, ngày lễ, chúng tôi đến đây dâng hương. Thời gian lớn tôi giành cho việc kiếm sống. Ngày trước nhà tôi làm ăn cũng phát đạt lắm. Ông chồng và tôi trước đây công tác ở nhà máy nước. Mua nhà chuyển về đây lâu rồi. Khi về đây Thái miếu còn chưa được trùng tu khang trang như hiện nay đâu. Nhưng cứ đến ngày lễ dân về dự ở đây đông lắm, còn gửi cả xe ở nhà tôi nữa.
H: Khi bác đến đây bác cảm thấy thế nào? TL: Tôi cũng giống như mấy ông bà trong phố. Về hưu rồi, con cái cũng công việc đâu vào đấy cả. Thành ra ở một mình ở nhà cũng buồn. Ngày trước các ông trong phố cũng thường ra sân đền đánh cờ, cầu lông, tập thể dục. Lâu rồi thành quen. Thái miếu trở nên thân thuộc trong đời sống của chúng tôi. Còn dịp lễ thì khỏi phải nói rồi. Đông lắm anh ạ. Có được như tôi với anh ngồi đây đâu. Tôi thì cũng tham gia vào hội phụ nữ của phường, rồi còn hội người cao tuổi nữa chứ. Nên trong dịp lễ cũng phải phụ giúp các bà. Lúc thì liên hệ lấy áo, lúc thì chuẩn bị đồ cúng. Giúp cho nó nhanh nhẹn thôi chứ không phải một mình tôi làm. Đến lễ ở
đây tôi thấy thiêng lắm anh ạ. Anh biết không, tôi bị thấp khớp mấy năm nay đi
nhiều nơi chữa không thuyên giảm, từ ngày tham gia cùng các bà trong hội khuyến
214
thiện tại địa phương để phục vụ những việc trong những dịp lễ ở đền. Tôi thấy sức
khỏe mình ngày càng tốt, mặc dù không phải uống thuốc nhiều. Có lẽ do các Ngài
độ trì, thương tôi nên bệnh giờ cũng giảm hẳn. Vì thế nên, nếu không có việc gì ở
nhà là tôi lại ra đây.
H: Bác có nghe được câu chuyện nào huyền bí, linh thiêng ở đây?
TL: Anh có biết bà Thái không, giờ bà ấy mất rồi, mấy năm trước bà ấy là
người nổi tiếng ở đây lắm đấy. Bà ấy tên là Lê Thị Thái, hậu duệ họ Lê của làng
Bố Vệ này trước đây. Cái bà mà trước đây hưng công tôn tạo lại Thái miếu mà báo
chí có nói ấy. Hồi bà còn sống, tôi có dịp nói chuyện, được nghe bà kể lại như thế
này: Một đêm, bà nằm mơ thấy mình đi tới một quả núi to, dưới chân núi có con
sông vừa dài, vừa rộng. Hàng trăm bậc tam cấp bước xuống dòng sông. Bà bảo anh lái đò luồn lách qua những hang động. Trong hang toàn đồ thờ cúng, rực rỡ,
chói lòa cả mắt. Rồi bà choàng tỉnh cơn mơ. Kể từ đó bà dốc tâm công quả, bỏ cả việc làm ăn đang phát đạt để đi công đức tu sửa lại đền. Bà nói là làm việc này không phải vì mục đích cá nhân gì đâu mà là do ngài (Lê Lợi) hiển linh giao việc.
H: Bác thường đi lễ ở đây là những ngày nào? TL: Đây là di tích của dân nên mọi người ai cũng đến lễ được. Cốt là ở cái tâm là chính. Tôi thì khi nào lễ 22 tháng 8 cũng có mặt hết. Còn thường ngày, thứ 7, chủ nhật cũng ra đây chơi suốt. Lễ ở đây thì thường hôm rằm, mùng một, đầu năm, cuối năm, dịp giỗ vua. Đó là những ngày cứng còn nhiều dịp trong năm nữa. Như con tôi nó mua xe, làm nhà chẳng hạn, tôi cũng ra lễ ở đây. Nói thật với anh chứ về hưu rồi cũng buồn, mình thành tâm nó vừa có sức khỏe, vừa gặp các ông bà cùng về hưu tham gia nữa nên cũng vui, ở nhà nhiều làm gì.
H: Hàng năm lễ hội rước và tế lễ thế nào? TL: Tôi thì về đây đã lâu nhưng mọi người nói, ngày trước lễ hội ở đền chỉ có dân làng Bố Vệ là chính. Trong lễ hội có rước và tế lễ ở đền và cả đình của làng nữa. Nay cũng có tế, rước đủ cả.
H: Cháu có nghe nói lễ hội có đội tế nữ làm chủ tế, có đúng không? TL: Đúng, đội tế đó của đội khuyến thiện chúng tôi mà. H: Bác có thể mô tả lễ tế? TL: Chỉ đến ngày chính lễ 22 tháng 8 chúng tôi mới tế. Chúng tôi có chủ tế,
các bà bồi tế, chấp sự, đông xướng, tây xướng đủ cả. Tất cả là nữ. Khác nhau là
trang phục quần áo. Áo vàng dành cho bà chủ tế, áo đỏ là bồi tế, áo be hồng là
215
chấp sự, còn đông xướng tây xướng mặc áo chữ thọ ren tím. Phải trịnh trọng làm
lễ rửa nước, đăng nến rồi đọc chúc ca ngợi các ngài. Đó là các cụ Lê Lai, Lê Lợi,
khi xong thì múa võ và tổ chức chơi cờ người. Lệ này thì cũng mới mấy chục năm
trở lại đây thôi. Hội khuyến thiện chúng tôi làm.
H: Khi đến đây lễ, bác thường cầu xin gì?
TL: Thì mình muốn xin gì thì xin thôi. Thường thì cầu cho gia đình con
cháu ngoan ngoãn, khỏe mạnh, hạnh phúc, làm ăn tốt. Tôi thì cầu cho các con
cháu là chủ yếu. Còn bản thân tôi thì chỉ xin được ngài ban cho sức khỏe thôi. Tôi
bị khớp mà. Đi lại được như thế này là nhờ ngài đấy.
H: Bác thường đi lễ ở đây cùng với ai?
TL: Tôi đi với các bà trong phố nhà tôi, ít khi đi với con cháu lắm, vì tôi
cũng theo hội khuyến thiện mà.
H: Bác thấy thành phần người dự lễ ở đền dịp lễ hội như thế nào? TL: Thành phần thì đủ cả, mấy năm nay tôi thấy có cả quan chức cũng về dự và dâng hương, rồi học sinh sinh viên, cán bộ nhà nước, người làm ăn buôn bán, trai gái già trẻ thôi thì đủ hết. Mặc dù từ đây lên Lam Kinh cũng có 50 km nhưng nhiều người dự lễ cùng tôi ở đây họ nói là họ đã quen lễ ở đây rồi. Lên Lam Kinh cũng ngại.
H: Bác thấy thanh niên có hào hứng về lễ hội không? TL: Có chứ anh, thì tôi nói rồi, mấy năm nay học sinh sinh viên về dự lễ nhiều. Chắc các cháu học tập quanh đây. Thanh niên họ cũng muốn tìm hiểu lịch sử. Có khi ở nhà trường đã giáo dục tốt về lòng tự hào nên đến dịp lễ các cháu đều có mặt.
5.6. Bản ghi chép phỏng vấn số 6 *Thông tin về người trả lời: - Ông Lê Văn Dương, 63 tuổi, thôn An Lạc, xã Hoằng Hải, huyện Hoằng
Hóa, Thủ từ
- Thời gian phỏng vấn: ngày 2/6/2018 (tức ngày 19 tháng Tư âm lịch) - Địa điểm: tại đền An Lạc (thôn An Lạc, xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hóa,
tỉnh Thanh Hóa)
*Nội dung phỏng vấn: H: Dòng họ của bác có nhiều đinh không?
216
TL: Tôi chưa thống kê số chính xác nhưng chỉ riêng ở Hoằng Hóa này cũng
đã lên đến 5000 đinh rồi đấy anh ạ. Dòng họ cụ Lê Lai là một dòng họ lớn, đến
thời cụ Lê Niệm, cháu nội của ngài thì về vùng đất Hoằng Hải này lập nghiệp. Qua
các thời kỳ dòng họ chúng tôi phát triển thành nhiều chi nhánh nhưng ở An Lạc
vẫn là tập trung nhất. Ở Thanh Hóa, dòng họ chúng tôi còn nhiều chi nhánh như
họ Lê Duy ở Hoằng Quang, Hoằng Lộc, Nông Cống. Còn có cả nhánh ở Nghệ An
nữa.
H: Di tích đền An Lạc có mối liên hệ như thế nào với đền Tép thờ Lê Lai ở
Ngọc Lặc?
TL: Đền Tép là quê hương của Ngài, trên đó vẫn còn nhánh của cụ. Còn ở
An Lạc là dòng họ hậu duệ con cháu của cụ. Chúng tôi thì lấy giỗ cụ tháng Tư còn ở đền Tép lại là 8 tháng Giêng. Mỗi năm dịp lễ cụ, con em trong họ chúng tôi vẫn
thường hành hương về đền Tép lễ ngài. Nói chung là di tích đó thờ ngài trong cộng đồng, còn đền An Lạc của dòng họ chúng tôi thờ ngài trong dòng họ. Làng An Lạc ở Hoằng Hóa này là làng nông ngư cổ truyền, trước đây cả làng này đều chủ yếu mang họ Lê nên cụ được thờ như vị thành hoàng của làng. Di tích họ chúng tôi được xây dựng lâu đời nay rồi. Đã có lịch sử từ xưa.
H: Lễ tế ở đền như thế nào? TL: Nghi lễ của họ chúng tôi có nhiều ngày lắm, quan trọng nhất là dịp đầu năm và cuối năm. Còn lễ tế Ngài Lê Lai thì có 2 ngày, một ngày vào tháng Tư âm lịch còn một ngày vào tháng 8 theo truyền thuyết dân gian.
H: Vậy lễ vật trong ngày lễ ra sao? TL: Ngày xưa các cụ truyền lại, mỗi năm tế đại kỳ phúc, các chi họ ở Hoằng Hóa và Tĩnh Gia, Nông Cống phải về đền dự lễ. Như năm nay, không phải kỳ lễ chính, đến ngày giỗ của cụ, con cháu các chi về dự, không phân biệt lễ vật to nhỏ, đồ chay hay mặn. Dâng lên Ngài xong thì trưởng họ sẽ lấy chính lễ vật và đồ cúng mặn của họ làm cỗ bàn, chia ra ăn ngay tại đền thờ. Cốt là để con cháu tụ họp, đông vui, quây quần.Có năm còn có chi ở tận Hà Nội, Nghệ An về dâng lễ nữa. Lễ hội ngài ở đây là lớn nhất vùng An Lạc rồi. H: Không khí trong ngày tế lễ thế nào? TL: Tất cả đều phải trang nghiêm, thành kính, đã thành lệ rồi, con cháu và
dân làng ở đây đều tuân thủ nghiêm túc.
H: Ngoài thờ ngài Lê Lai, ở đây còn thờ ai khác?
217
TL: Chúng tôi thờ các cụ Lê Lai, khai quốc công thần triều Lê; thờ cụ Lê
Lâm, Lê Niệm con cháu của ngài; thờ cả cụ Lê Khủng nữa.
H: Vậy ban thờ mẫu và tượng Bác Hồ ở nhà tiền đường do ai đưa vào?
TL: Họ chúng tôi thờ cả đấy. Ban thờ Mẫu là do trước đây các cụ đã có rồi.
Làng và dòng họ lập ra, vì dân chúng tôi theo nghề biển hầu như nên phải lễ mẫu
cho may mắn, thuận lợi. Mỗi năm không chỉ người trong họ đến lễ các mẫu ở đền
mà còn có cả người trong làng nữa. Lệ lâu dần thành quen. Còn tượng Bác Hồ thì
mới đây thôi. Từ dạo tu sửa lại tiền đường rồi đem vào thờ chung luôn. Bác là
Phật, là Tiên là Thánh rồi, ai chả tôn thờ.
H: Di tích có được nhà nước quan tâm trùng tu, tôn tạo không?
TL: Các anh trong xã, trong huyện cũng thường quan tâm. Ở đây những hạng mục nào lớn thì chính quyền đầu tư, sửa chữa nhỏ thì con em trong dòng họ
hưng công đóng góp, kể cả sức người. Như các hạng mục tiền đường, hậu cung này là do nhà nước tôn tạo. Một số tượng và đồ thờ thì con em và thập phương cung tiến. Họ nhà tôi được cái cũng có nhiều người thành đạt, như trên tỉnh có anh Lê Hoàng Bá Huyền là giảng viên đại học trên tỉnh cũng có lần cung tiến cho đền.
H: Nghi thức tế lễ các ngài có kiêng kỵ gì không? TL: Không. H: Trong di tích có những hiện vật cổ nào quý giá? TL: Đền An Lạc giữ được nhiều hiện vật cổ, có từ khi thờ cúng các ngài như bát hương đá được các anh trên tỉnh đánh giá là hiện vật có niên đại vài trăm năm. Chúng tôi còn một số sắc phong nữa, anh Nguyễn Văn Hải bên bảo tồn văn hóa tỉnh hôm trước về cũng đánh giá là sắc phong cổ của tỉnh ta. Chúng tôi tự hào lắm. Các cụ cất giữ rất cẩn thận.
H: Bác đã làm thủ từ bao nhiêu năm rồi? TL: Tôi mới thay ông chú trong họ làm, vì cụ cũng lớn tuổi rồi. Nhà tôi gần
đây, khi nào tôi có việc thì bà nhà tôi ra đây trông nom.
H: Di tích đã bao giờ mất trộm cổ vật? TL: Dân ở làng này cũng thuần cả, chúng tôi chưa bao giờ mất trộm đồ thờ
gì cả.
H: Thế trong lễ tế ở đền, bác giữ vai trò gì?
TL: Tôi nằm trong ban khánh tiết, cũng lo liệu việc hậu cần, sắp xếp là
chính, việc nặng thì động viên con cháu trong dòng họ làm.
218
5.7. Bản ghi chép phỏng vấn số 7
*Thông tin về người trả lời: - Ông Lê Trương Vỹ, 66 tuổi, xã Hải Hòa, huyện Tĩnh Gia, hậu duệ dòng
họ
- Thời gian phỏng vấn: ngày 27/7/2018 (tức ngày 15 tháng Sáu âm lịch)
- Địa điểm: tại đền thờ Trương Lôi- Trương Chiến (thôn Quan Nội, xã Hải
Hòa, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa)
*Nội dung phỏng vấn: H: Bác có biết việc thờ các cụ diễn ra từ khi nào không?
TL: Địa phương chúng tôi vô cùng tự hào vì có 2 công thần triều Lê là các
cụ Trương Lôi, Trương Chiến được thờ ở địa phương. Ngày trước, theo như được kể lại, các cụ sau khởi nghĩa Lam Sơn được phong thưởng, làm quan triều đình,
sau con cháu về lập nghiệp ở đất này và dựng di tích được triều đình cho phép.
H: Việc thờ cúng các vị như thế nào? TL: Con em họ Lê Trương ở địa phương này rất tự hào về các vị. Các vị là tổ tiên của chúng tôi và là những người anh hùng đánh giặc giữ nước. Vì thế mỗi dịp có lễ tại đền, nhân dân địa phương đều dự và đến lễ, thường ngày vẫn có bà con thập phương, nhân dân trong xã đến đền thờ. Còn lễ tế của họ chúng tôi là dịp cho con cháu dòng họ tưởng nhớ đến công lao của ông cha.
H: Bác giải thích như thế nào về nguồn gốc họ Lê Trương nhà ta? TL: Cái này thì tôi giải thích cho anh như sau: thời các cụ Trương Lôi, Trương Chiến tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và dự hội thề Lũng Nhai thì các cụ mang họ Trương. Sau này thắng lợi được triều đình ban quốc tính là họ Lê, từ đó mới có họ Lê. Trong sắc phong cho 2 cụ ở đền thì đều ghi là Lê Lôi, Lê Chiến cả. Mặc dù từ thời Hồng Đức nhà vua đã cho phép các con cháu công thần được trở về họ cũ nhưng dòng họ chúng tôi vẫn trân trọng giữ họ Lê như một niềm vinh dự và vẫn giữ tên đệm Trương để con cháu không quên nguồn gốc. Đã 6 thế kỷ rồi, chúng tôi vẫn giữ họ như vậy.
H: Dòng họ nhà ta có nhiều người thành đạt không? TL: Các thế hệ dòng họ nhà tôi nói chung đều phát triển, có đóng góp trên nhiều lĩnh vực, trở thành người có ích ở nhiều nơi. Ở Tĩnh Gia và xã này, dòng họ
nhà tôi rất được nhân dân tín nhiệm. Đã có những người trở thành lãnh đạo địa
phương như ông Lê Trương Hương từng giữ chức bí thư đảng ủy xã Hải Hòa 3
219
khóa, ông Lê Trương Hòa giữ chức chủ tịch UBND thị trấn 2 khóa và nhiều tấm
gương bà mẹ Việt Nam anh hùng, giáo sư, thầy thuốc, bộ đội có tiếng cũng là
người họ nhà tôi.
H: Bác cho biết đền thờ đã bao nhiêu lần tu sửa?
TL: Theo tôi đọc tài liệu ở đền thì có cả thảy 4 lần là vào các năm 1719,
1757, 1910, 2008. Còn nay thì được con em dòng họ đóng góp và chính quyền hỗ
trợ thì lại tiếp tục tu sửa lại cho khang trang, bền vững hơn.
H: Dòng họ ở đây có câu chuyện gì về ngài?
TL: Chuyện xưa thì tôi không được kể lại. Có 2 chuyện sau tôi còn rất nhớ.
Chuyện thứ nhất tôi có được biết là ngày xưa đền còn có một vài sắc phong
và 1 cuốn gia phả. Không biết các cụ cho ông Tri huyện trước của Tĩnh Gia mượn như thế nào, rồi không trả lại được thành ra bây giờ thất lạc, con cháu trong dòng
họ bao năm nay truy tìm cũng không thấy.
Chuyện thứ hai là, trước đây chúng tôi cũng có nghe nói dòng họ còn nhánh chi ở một số nơi. Vì phân nhánh nên có người không biết, bao năm mất liên lạc. Một hôm có một nhóm người trong họ từ Như Quỳnh (Bắc Ninh) đến hỏi thăm, tìm về đền thờ. Việc này cũng cách nay lâu lắm, làm gì có internet như bây giờ. Thế mà họ bảo, chính giấc mơ cụ báo về đêm trước mà hôm sau đi một mạch về Thanh Hóa không phải hỏi thăm mà đến được đền thờ. Chúng tôi cũng thấy vô cùng kỳ lạ.
5.8. Bản ghi chép phỏng vấn số 8 *Thông tin về người trả lời: - Anh Đinh Văn Đệ, 33 tuổi, xã Trung Chính, Nông Cống, Buôn bán tự do - Thời gian phỏng vấn: ngày 1/10/2018 (tức ngày 22 tháng 8 âm lịch) - Địa điểm: Thái miếu nhà Hậu Lê
*Nội dung phỏng vấn: H: Vì sao anh đến đây đi lễ? TL: Năm nào không bận việc tôi cũng tới đền dự lễ, tôi họ con cháu Đinh Liệt mà. Ngày xưa các cụ giữ tục đó, giờ tham gia nhiều nên thành quen. Các cụ kể lại, thời trước giải phóng năm nào đền có lễ dịp giỗ vua là trong họ phải họp bàn và cử trưởng tộc về dự và dâng lễ tại đền. Bởi vì các cụ cho rằng, cụ tổ nhà tôi và vua là những người anh em vào sinh ra tử. Dòng họ chúng tôi với dòng họ vua
220
có mối quan hệ lâu đời. Đền này thiêng lắm, có năm không đi được, về năm đó tôi
làm ăn chán lắm anh ạ, chắc không dự các cụ quở.
H: Ngài thiêng với anh như thế nào?
TL: Mỗi năm về dự lễ tôi đều vào đền khấn xin lộc ngài. Chủ yếu tôi cầu
xin gia đình mạnh khỏe. Tôi buôn bán nên việc làm ăn rất quan trọng. Ngài thiêng
lắm, cầu gì được nấy. Nhà tôi làm đại lý thu mua thóc, cứ đến trình ngài là về công
việc làm ăn thuận lợi. Với lại tôi họ cụ Đinh Liệt nên chắc thành ra ngài cũng
thương.
H: Ngoài dâng lễ, anh thích hoạt động nào trong lễ hội ở đây?
TL: Tôi thích xem phần hội đánh cờ người và hội trận ở đây. Nó làm tôi
cảm thấy như các cụ đang đánh nhau với giặc ngày xưa. Rất sinh động và hấp dẫn. H: Vâng, thế ngoài di tích này ra thì anh còn đến di tích nào thờ Ngài nữa
không ạ?
TL: Có chứ, tôi cũng đến Lam Kinh, cũng dự lễ như ở đây nhưng có năm thôi chứ ở đây gần Nông Cống nên tôi đi lại thuận tiện hơn. Chỉ cần tranh thủ là có thể lên đây được.
221
PHỤ LỤC 7 DANH SÁCH NGƯỜI CUNG CẤP THÔNG TIN CHO LUẬN ÁN
Họ và tên Địa chỉ
T T 1 Vũ Đình Sĩ Giới Năm Nghề sinh tính nghiệp 1968 Nam Cán bộ Thời gian phỏng vấn Tháng 10/2014 Xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân Khu DTQGĐB Lam Kinh 2 Bùi Ánh Tuyết 1972 Nữ Cán bộ Tháng 10/2014 Xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân
Khu DTQGĐB Lam Kinh 3 Hồ Hà Hải 1970 Nam Cán bộ Tháng 10/2014 Xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân
Khu DTQGĐB Lam Kinh 4 Lê Bá Xuân 1974 Nam Cán bộ Tháng 10/2014 Xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân
Khu DTQGĐB Lam Kinh 1977 Nữ Cán bộ 5 Trình Thị Luận Tháng 9/2014 Xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân
Khu DTQGĐB Lam Kinh 6 Đỗ Thị Cúc 1984 Nữ Cán bộ Tháng 9/2014 Xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân
Khu DTQGĐB Lam Kinh 1966 Nam Trông coi 7 Vũ Đình Kham di tích Tháng 9/2014
8 Nguyễn Thị 1986 Thu Tháng 9/2014
9 Lê Văn Lai Tháng 9/2014 Xã Xuân Bái, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa Xã Thọ Lâm, huyện Thọ Xuân Xã Thọ Lâm, huyện Thọ Xuân
10 Lê Thị Yến 1969 Tháng 10/2014 Nữ Công chức VHXH 1960 Nam Hậu duệ dòng họ Lê Văn An Nữ Buôn bán tự do Xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân
222
11 Lê Quang Đạo 1965 Nam Bí thư chi Tháng 10/2014 bộ thôn
12 Bùi Văn Chiên 1949 Nam Thủ từ Tháng 2/2014
13 Bùi Văn Lực 1981 Nam Trưởng Tháng 2/2014 làng
14 Lê Tiến Hải 1969 Nam Công chức Tháng 2/2014 VH
Thôn Hương 2, Xã Thọ Hải, huyện Thọ Xuân Làng Thành Sơn, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc Làng Thành Sơn, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc Phố Lê Hoàn, thị trấn Ngọc Lặc, huyện Ngọc Lặc
1996 Nam Sinh viên Xã Nguyệt Ấn, 15 Phạm Ngọc Nam Tháng 2/2014 huyện Ngọc Lặc 16 Bùi Thị Tân 1964 Tháng 2/2014
17 Lê Sỹ Nam 1981 Nam Công chức Tháng 6/2014 VHXH
Nữ Làm ruộng Làng Tép, xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc Thôn 2, xã Thọ Thanh, huyện Thường Xuân 18 Lương Văn 1977 Nam Làm ruộng Xã Luận Sao Tháng 6/2014
19 Hà Phương Ân 1980 Tháng 6/2014
1984 20 Lê Thị An Tháng 6/2014 Thành, huyện Thường Xuân Nữ Người dân Xã Tân Thành, huyện Thường Xuân Xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân 21 Lê Hồng Kỳ Nữ Công chức VHXH 1984 Nam Người dân Xã Ngọc Tháng 6/2014
1982 22 Hoàng Thị Hiền Tháng 8/2014 Nữ Công chức VHXH
Phụng, huyện Thường Xuân Bản Năng Cát, xã Chí Năng, huyện Lang Chánh 23 Lê Thị Châu 1991 Nữ Tháng 8/2014
Tháng 6/2018
24 Lê Văn Dương 1956 Nam Hậu duệ dòng họ Lê Lai đời Sinh viên Thôn Giáng, xã Quang Hiến, huyện Lang Chánh Thôn An Lạc, xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hóa
223
thứ 21
25 Lê Văn Trang Tháng 6/2018
Thôn An Lạc, xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hóa 1942 Nam Hậu duệ dòng họ Lê Lai đời thứ 19 26 Lê Văn Thanh Tháng 6/2018
Thôn An Lạc, xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hóa 1950 Nam Hậu duệ dòng họ Lê Lai đời thứ 19 27 Vũ Thị Sửu 1961 Tháng 6/2018
Thôn An Lạc, xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hóa Nữ Con dâu dòng họ Lê Lai đời thứ 19
1964 Nam Công chức 28 Nguyễn Văn Thuyết Tháng 6/2018 VHXH
29 Nguyễn Đức 1984 Nam Công chức Nam Tháng 4/2016
30 Phan Thị Hoán 1963 Tháng 4/2016
Xã Hoằng Hải, huyện Hoằng Hóa Xã Tân Phúc, huyện Nông Cống Thôn Thái Sơn, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống
VHXH Nữ Trưởng bản quản lý di tích Lê Hiểm, bí thư chi bộ 1966 Nam Phó 31 Nguyễn Bá Tiêu Tháng 4/2016
Thôn Thái Sơn, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống
32 Lê Văn Hợi trưởng thôn kiêm phó ban quản lý di tích Nam Hậu duệ 96 tuổi Tháng 4/2016
Thôn Thái Sơn, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống đời 19 dòng họ Lê Hiểm 33 Lê Hoàng Gia 1964 Nam Công chức Tháng 4/2016 VHXH
34 Vũ Duy Trí Tháng 4/2016
1963 Nam Hậu duệ dòng họ Võ Uy đời Thôn Thái Sơn, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống Thôn Ngọc Uyên, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống
224
thứ 21
35 Vũ Hoàng Đồng Tháng 4/2016
Thôn Ngọc Uyên, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống 1949 Nam Hậu duệ dòng họ Võ Uy đời thứ 20
Tháng 4/2016
Thôn Ngọc Uyên, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống
37 Nguyễn Hữu Chính Tháng 4/2016
Thôn Ngọc Uyên, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống
36 Vũ Văn Thành 1946 Nam Hậu duệ dòng họ Võ Uy đời thứ 20 1964 Nam Thôn trưởng kiêm trưởng ban quản lý di tích đền thờ Võ Uy 38 Đỗ Ngọc Ninh 1949 Nam Bí thư chi Tháng 4/2016
Thôn Ngọc Uyên, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống
39 Nguyễn Hữu Quyền Tháng 4/2016 bộ kiêm phó thôn, phó ban quản lý di tích đền thờ Võ Uy 1944 Nam Thủ từ đền thờ Võ Uy
1953 Nam Bộ đội về 40 Trịnh Duy Quý Tháng 4/2016 hưu
41 Đinh Văn Đệ 1986 Nam Buôn bán Tháng 10/2018 tự do Thôn Ngọc Uyên, xã Tân Phúc, huyện Nông Cống Xóm 1, xã Tân Thọ, huyện Nông Cống Xã Trung Chính, huyện Nông Cống 42 Nguyễn Văn 1987 Nam Người dân Xã Vĩnh Hòa, Sơn Tháng 7/2016 huyện Vĩnh Lộc
1985 Nam Công chức Thôn Phù Lưu, 43 Trịnh Hồng Trầm Tháng 7/2016
xã Vĩnh Yên, huyện Vĩnh Lộc
44 Trần Minh Dự 1954 Nam Làm ruộng Thôn Cẩm Tháng 7/2016
Bào, xã Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc
225
1983 45 Nguyễn Thị Phúc Tháng 7/2018
Nữ Công chức VHXH 46 Lê Công Danh 1979 Nam Cán bộ Tháng 7/2018
47 Nguyễn Xuân 1958 Nam Hưu trí Thủy Tháng 7/2018
48 Lể Trương Vỹ Tháng 7/2018 Xã Hải Hòa, huyện Tĩnh Gia Xã Hải Hòa, huyện Tĩnh Gia Xã Hải Hòa, huyện Tĩnh Gia Xã Hải Hòa, huyện Tĩnh Gia 1953 Nam Hậu duệ dòng họ Lê Trương 49 Phùng Thị 1983 Thúy Phương Tháng 5/2018 Nữ Người dân Phường Đông Vệ, Tp Thanh Hóa 1947 50 Nguyễn Thị Hồng Tháng 5/2018 Nữ Buôn bán Phường Đông Vệ, Tp Thanh Hóa 51 Nguyễn Trọng Hùng Tháng 5/2018
52 Nguyễn Duy 1982 Nam Công chức Hiếu Tháng 5/2018
1982 53 Lê Thị Tuyên 1969 Nam Người dân Phường Đông Vệ, Tp Thanh Hóa Phường Quảng Thắng, Tp Thanh Hóa Xã Đông Lĩnh, Tp Thanh Hóa Tháng 5/2018
VHXH Nữ Công chức VHXH 54 Trịnh Duy Tân 1953 Nam Hưu trí Tháng 7/2016
55 Hoàng Trung Kiên Tháng 7/2016
xã Đông Minh, huyện Đông Sơn Khối 4, thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn
56 Lê Thị Phương 1982 1989 Nam Viên chức Trung tâm văn hóa huyện Nữ Trưởng Tháng 7/2016
phòng văn hóa huyện Khối 4, thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn
226
PHỤ LỤC 8
MỘT SỐ HÌNH ẢNH THỜ CÚNG CÁC NHÂN VẬT
THAM GIA HỘI THỀ LŨNG NHAI Ở THANH HÓA
Ảnh 1: Đền Lê Thái Tổ (Thọ Xuân, Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2018
Ảnh 2: Đền Tép (Ngọc Lặc, Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2017
227
Ảnh 3: Lăng Lê Thái Tổ ở Lam Kinh, Nguồn: NCS, 2018
Ảnh 4: Thái miếu nhà Hậu Lê (Tp Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2017
228
Ảnh 5: Đền Ngọc Lan (Thọ Xuân, Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2015
Ảnh 6: Đình làng Tân Phúc (Nông Cống, Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2017
229
Ảnh 7: Đình làng Vân Nhưng (Tp Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2017
Ảnh 8: Đền An Lạc (Hoằng Hóa, Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2017
230
Ảnh 9: Đền thờ Võ Uy (Nông Cống, Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2017
Ảnh 10: Từ đường Lê Văn Linh (Thọ Xuân, Thanh Hóa) Nguồn: NCS, 2017
231
Ảnh 11: Thần điện dòng họ Lê Văn An (Thọ Xuân), Nguồn: NCS, 2017
Ảnh 12: Đền thờ Trịnh Khả (Vĩnh Lộc), Nguồn: NCS, 2016
232
Ảnh 13: Đền thờ Trương Lôi, Trương Chiến (Tĩnh Gia), Nguồn: NCS, 2016
Ảnh 14: Lễ hội đền Tép (Ngọc Lặc, Thanh Hóa) năm 2019
(Nguồn do anh Phạm Ngọc Nam cung cấp)
233
Ảnh 15: Lễ hội Lam Kinh năm 2017 (Nguồn do chị Trình Thị Luận cung cấp)
Ảnh 16: Lễ hội Lam Kinh năm 2017
(Nguồn do chị Trình Thị Luận cung cấp)
234
Ảnh 17: Lễ hội Thái miếu (Tp Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2017
Ảnh 18: Con cháu Võ Uy hành hương về Thanh Hóa năm 2014 (Nguồn do anh Nguyễn Đức Nam cung cấp)
235
Ảnh 19: Lễ hội đền thờ Lê Hiểm (Nông Cống, Thanh Hóa), (Nguồn do cụ Nguyễn Bá Tiêu cung cấp)
Ảnh số 20: Sắc phong đền thờ Lê Văn An (Thọ Xuân), Nguồn: NCS, 2017
236
Ảnh số 21: Gia phả họ Đàm Lê (Tp Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2017
Ảnh số 22: Gia phả họ Lê Văn An (Thọ Xuân), Nguồn: NCS, 2017
237
Ảnh 23: Tượng chầu và tượng Lê Lợi ở Lam Kinh (Thọ Xuân), Nguồn: NCS, 2017
Ảnh 24: Tượng Lê Lai và Nguyễn Trãi ở Xuân Lam, Thọ Xuân, Nguồn: NCS, 2017
238
Ảnh 25: Tượng Lê Lai và Nguyễn Trãi ở Thái miếu nhà Lê (Tp Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2017
Ảnh 26: Thần điện nhà thờ họ Đàm Lê (Tp Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2016
239
Ảnh 27: Thần điện của đền An Lạc (Hoằng Hóa), Nguồn: NCS, 2017
Ảnh 28: Lễ vật cúng ở Thái miếu nhà Lê (Tp Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2017
240
Ảnh 29: Lễ vật cúng ở đền Lê Thái Tổ (Thọ Xuân), Nguồn: NCS, 2018
Ảnh 30: Ngai thờ ở đền Lê Thái Tổ (Thọ Xuân, Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2018
241
Ảnh 31: Nhang án đền thờ Lê Hiểm (Nông Cống, Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2017
Ảnh 32: Tượng đài Lê Thái Tổ (Tp Thanh Hóa), Nguồn: NCS, 2016