BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Yến

VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN THỊ BÍCH CHÂU

TRONG SỰ NGHIỆP CỦA NHÀ TRẦN

QUA CÁC TÀI LIỆU LỊCH SỬ - VĂN HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh - 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Yến

VAI TRÒ LỊCH SỬ CỦA NGUYỄN THỊ BÍCH CHÂU

TRONG SỰ NGHIỆP CỦA NHÀ TRẦN

QUA CÁC TÀI LIỆU LỊCH SỬ - VĂN HÓA

Chuyên ngành : Lịch sử Việt Nam

Mã số

: 8229013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. TRẦN THỊ THANH THANH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ “Vai trò lịch sử của Nguyễn Thị Bích

Châu trong sự nghiệp nhà Trần qua các tài liệu lịch sử - văn hóa” là công

trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần

Thị Thanh Thanh. Kết quả của đề tài là trung thực. Tất cả những tham khảo

và kế thừa đều được trích dẫn và tham chiếu đầy đủ.

Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.

Tác giả luận văn

Lê Thị Yến

Trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn thạc sĩ tôi luôn nhận

được sự quan tâm, hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong

khoa Lịch sử cùng với sự động viên giúp đỡ của bạn bè đồng nghiệp.

Lời đầu tiên tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị

Thanh Thanh người đã trực tiếp giúp đỡ, hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.

Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô trong khoa Lịch

sử và Phòng Sau đại học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện

thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và cho đến khi

thực hiện đề tài luận văn.

Nhân dịp này tôi xin tỏ lòng biết ơn đến Thư viện Tổng hợp Thành phố

Hồ Chí Minh, Thư viện Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh và Thư

viện Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

Xin cảm ơn Ban Giám đốc Trung tâm giáo dục thường xuyên Thanh

Niên Xung Phong, Ban Giám hiệu Trường THCS Lê Quý Đôn đã không

ngừng hỗ trợ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian nghiên

cứu và thực hiện luận văn.

Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, các anh chị và các bạn đồng nghiệp

đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực

hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2018

Tác giả

Lê Thị Yến

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1

Chương 1. NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN THỊ BÍCH CHÂU

VÀ BẢN KÊ MINH THẬP SÁCH QUA NGUỒN

TƯ LIỆU LỊCH SỬ - VĂN HÓA .............................................. 6

1.1. Khái niệm .................................................................................................. 6

1.1.1. Nhân vật lịch sử ................................................................................. 6

1.1.2. Tư liệu lịch sử - văn hóa .................................................................... 6

1.2. Nhân vật lịch sử Nguyễn Thị Bích Châu qua tư liệu lịch sử

- văn hóa .................................................................................................... 8

1.2.1. Quê hương, gia đình ........................................................................ 8

1.2.2. Vị trí của Nguyễn Thị Bích Châu trong triều Trần - Thời

vua Trần Duệ Tông ......................................................................... 9

1.3. Kê minh thập sách và những bài học lịch sử ............................................ 17

1.3.1. Bối cảnh ra đời ................................................................................ 17

1.3.2. Nội dung .......................................................................................... 20

1.3.3. Bài học lịch sử từ bản Kê minh thập sách ....................................... 25

Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 42

Chương 2. NGUYỄN THỊ BÍCH CHÂU TRONG SỰ NGHIỆP

GIỮ NƯỚC THỜI TRẦN VÀ TRONG TỤC THỜ

ĐẠO MẪU.................................................................................. 44

2.1. Vai trò của Nguyễn Thị Bích Châu trong sự nghiệp dựng nước qua

đối chiếu với các nhân vật phụ nữ triều Trần .......................................... 44

2.1.1. Triều Trần trong lịch sử Việt Nam - Dựng nước và giữ nước ...... 44

2.1.2. Đánh giá vai trò của Nguyễn Thị Bích Châu qua đối chiếu

với các nhân phụ nữ triều Trần ..................................................... 58

2.2. Nguyễn Thị Bích Châu và Đạo Mẫu ở Việt Nam nói chung và ở

Kỳ Anh (Hà Tĩnh) nói riêng .................................................................... 66

2.2.1. Đạo Mẫu ở Việt Nam ...................................................................... 66

2.2.2. Đạo Mẫu ở Kỳ Anh (Hà Tĩnh) ........................................................ 71

Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 81

KẾT LUẬN ................................................................................................... 82

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 85

PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong thời đại ngày nay, vai trò cũng như quyền lợi của người phụ nữ

ngày càng được đề cao. Trong bối cảnh đó các nhà nghiên cứu lịch sử càng

quan tâm nghiên cứu về những người phụ nữ nổi tiếng trong lịch sử để thấy

những đóng góp lớn lao của họ cho lịch sử dân tộc. Có rất nhiều nhân vật nổi

tiếng thời trung đại được giới sử học quan tâm như Dương Vân Nga, Trần Thị

Dung, Huyền Trân, Ỷ Lan, An Tư,… Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là liệu còn

nhân vật nào trong lịch sử có đóng góp to lớn cho triều đại và dân tộc mà

chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm?

Là một người nghiên cứu lịch sử, tôi rất quan tâm đến vai trò của phụ nữ

trong lịch sử. Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài “Vai trò lịch sử của Nguyễn

Thị Bích Châu trong sự nghiệp nhà Trần qua các tài liệu lịch sử - văn hoá”

để làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình. Sỡ dĩ tôi chọn đề tài này là vì

những lý do sau đây:

Thứ nhất, việc nghiên cứu lịch sử dân tộc rất quan trọng đặc biệt là lịch

sử giữ nước, bên cạnh việc giữ nước, chống ngoại xâm thì việc xây dựng, bảo

vệ chính quyền, vương triều cũng rất quan trọng. Đây được xem là một nội

dung lịch sử có ý nghĩa khoa học và thực tiễn đối với ngày nay.

Thứ hai, Nguyễn Thị Bích Châu là một nhân vật lịch sử có nhiều đóng

góp quan trọng trong thời kỳ cuối triều Trần nhưng đến nay chưa có một công

trình nào chính thức nghiên cứu sâu về bà, mặc dù nhân vật này đã tồn tại

trong dân gian, trong truyền thống địa phương từ mấy trăm năm nay và được

tôn thờ thành Thánh Mẫu, có đền thờ được công nhận là di tích lịch sử cấp

quốc gia. Qua công trình nghiên cứu này, tôi muốn góp thêm nhận thức mới

về vai trò của Nguyễn Thị Bích Châu đối với dân tộc Việt Nam nói chung và

triều Trần nói riêng.

2

Thứ ba, là một người con ở mảnh đất Kỳ Anh (Hà Tĩnh), nơi được xem

là nơi yên nghỉ và có di tích thờ nhân vật Nguyễn Thị Bích Châu, tôi muốn

góp một phần nhỏ trong việc phục dựng cuộc đời cũng như đánh giá đúng

công lao của bà để giúp nhân dân nơi đây hiểu thêm về vị “thánh Mẫu” mình

tôn thờ.

Thứ tư, việc thờ Mẫu ở huyện Kỳ Anh vẫn chưa được quan tâm nghiên

cứu, mặc dù nghi lễ thờ Mẫu đã tồn tại ở đây rất lâu đời. Qua việc nghiên cứu

nghi lễ thờ Mẫu ở Kỳ Anh, tôi muốn đóng góp thêm nhận thức về nghi lễ thờ

Mẫu còn tồn tại ngày nay ở Kỳ Anh (Hà Tĩnh) nói riêng và cả nước nói

chung.

Thứ năm, việc nghiên cứu còn giúp tôi tích lũy được một số kinh nghiệm

quý báu, nâng cao nhận thức của bản thân để sau khi ra trường có thể dạy tốt

hơn ở trường phổ thông và độc lập nghiên cứu các đề tài khoa học giáo dục

khác.

Kết quả nghiên cứu của luận văn này để lại cho tôi những kinh nghiệm

đầu tiên về nghiên cứu vai trò của người phụ nữ nói chung và nhân vật lịch sử

nói riêng.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Một số tác giả trong nước đã nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến

đề tài này. Có thể điểm qua một số công trình sau:

Cuốn “Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu và Đền thiêng hải

khẩu” (Nguyễn Khắc Mai và Trần Băng Thanh, 2015) là một tài liệu lịch sử

văn hóa chủ yếu, là cơ sở để khai thác thông tin lịch sử cho đề tài. Sách này

đã trình bày nội dung phần phiên âm và dịch nghĩa bản Kê minh thập sách

bằng Hán văn, thu thập các tài liệu văn học liên quan đến nhân vật, chứng

minh nhân vật Nguyễn Thị Bích Châu là có thật, và là tác giả của bản Kê

minh thập sách. Đồng thời tập hợp ý kiến của nhiều tác giả đánh giá về giá trị

của bản Kê minh thập sách và ngôi đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu.

3

Cuốn “Hải khẩu linh từ thần tích và lễ hội” của Ban quản lý di tích lịch

sử đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu (2013) đã đề cập đến cuộc đời và sự

nghiệp, bản Kê minh thập sách, kiến trúc khu di tích Hải khẩu linh từ, lễ cổ

truyền và văn tế, sắc phong nhân vật Nguyễn Thị Bích Châu.

Cuốn “Đền thiêng ở cửa biển” (Phan Văn, 2012) cũng đã trích bài “Đền

thiêng ở cửa biển” của tác giả Đoàn Thị Điểm và cung cấp một số thông tin

về ngôi đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu. Trong cuốn sách này tác giả Ngân

Thanh gọi tên nhân vật là “Chế thắng phu nhân”.

Cuốn “Giai thoại lịch sử Việt Nam (tập II)” (2012) do Kiều Văn tuyển

soạn đánh giá nhân vật Nguyễn Thị Bích Châu, đặc biệt tác giả cuốn sách gọi

bà là một bậc “Nữ lưu hào kiệt”.

Cuốn “Nghệ An ký” của tác giả Bùi Dương Lịch đã viết lại cuộc sống

trong cung, những trăn trở và những cuộc nói chuyện, những lời khuyên của

Nguyễn Thị Bích Châu đối với vua Trần Duệ Tông.

Cuốn “Những phi - hậu nổi tiếng của các triều đại Việt Nam” (2014) do

Nhóm trí thức Việt biên soạn cũng có một phần nói về Quý phi Nguyễn Thị

Bích Châu, đề cập đến cuộc đời, sự hy sinh vì nước của Nguyễn Thị Bích

Châu, việc vua Lê Thánh Tông sắc phong và làm thơ điếu bà và bản Kê minh

thập sách.

“Truyền kỳ tân phả” của Đoàn Thị Điểm là một tác phẩm thuộc thể loại

truyện truyền kỳ - một dạng tài liệu lịch sử văn hóa. Một trong những đặc

điểm của thể loại truyền kỳ là thường bắt nguồn từ truyền thuyết, một phần

của ký ức dân gian được thể hiện qua truyền thuyết, nhất là về các nhân vật

lịch sử, sự kiện lịch sử, thể hiện thái độ và sự đánh giá của nhân dân, là lịch

sử chưa thành văn được thiêng hóa và huyền thoại hóa. Nếu cố gắng bóc tách

những huyền tích viền quanh truyền thuyết, có thể bất ngờ phát hiện được

không ít cái lõi của sự thật được ẩn giấu ở bên trong. Bởi vậy, thông qua các

câu chuyện truyền kỳ, có thể phát hiện đời sống nhiều thời đại mà các bộ

4

thông sử, với các nguyên tắc ghi chép quan phương của sử quan triều đình, đã

hầu như quên lãng.

Các tài liệu trên đã cung cấp một lượng thông tin lịch sử quý báu để thực

hiện đề tài. Tuy nhiên đề tài tôi nghiên cứu là Vai trò và đóng góp của Nguyễn

Thị Bích Châu trong công cuộc dựng nước thời Trần qua các tài liệu lịch sử -

văn hóa” thì các công trình trên không có hoặc ở mức độ khác.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vai trò và đóng góp của nhân vật

Nguyễn Thị Bích Châu trong công cuộc dựng nước thời Trần và liên hệ ngày

nay.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu giai đoạn dựng nước từ khi nhà Trần

thành lập (1225) đến khi nhà Trần suy vong (1400). Công cuộc giữ nước với

cuộc kháng chiến chống ngoại xâm dưới thời Trần được dùng làm cơ sở lịch

sử cho các vấn đề nghiên cứu, từ đó nêu được sự đánh giá về vai trò và đóng

góp của Nguyễn Thị Bích Châu.

4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tài liệu

‒ Các tài liệu lịch sử văn hóa.

‒ Tài liệu thu thập thực tế tại địa phương có khu di tích thờ nhân vật

Nguyễn Thị Bích Châu.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Lập trường lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

trong nghiên cứu lịch sử cùng với tổng hợp các tài liệu đã thu thập được là cơ

sở, phương pháp chủ yếu để thực hiện đề tài. Phương pháp nghiên cứu chủ

yếu của chuyên ngành lịch sử là lịch sử và logic được phối hợp với các

phương pháp như tổng hợp, so sánh,...

5

5. Đóng góp của luận văn

Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần:

‒ Phục dựng cuộc đời và sự nghiệp của nhân vật lịch sử Nguyễn Thị Bích

Châu.

‒ Đánh giá khách quan vai trò và đóng góp của nhân vật Nguyễn Thị

Bích Châu đối với nhà Trần nói riêng và đất nước nói chung.

‒ Tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của phụ nữ Việt Nam trong lịch

sử dựng nước và giữ nước.

‒ Ngoài ý nghĩa khoa học và thực tiễn, đề tài còn có ý nghĩa về văn hóa

và giáo dục. Đề tài bổ sung nguồn tư liệu và những nhận định khoa học

cũng như những bài học liên hệ tới ngày nay, nâng cao giá trị giáo dục

truyền thống và hiểu biết về tục thờ đạo Mẫu ở Việt Nam.

6. Bố cục luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được

cấu trúc gồm hai chương sau:

Chương 1. Nhân vật lịch sử Nguyễn Thị Bích Châu và bản Kê minh

thập sách qua nguồn tư liệu lịch sử - văn hóa.

Chương 2. Nguyễn Thị Bích Châu trong sự nghiệp giữ nước thời Trần

và trong tục thờ đạo Mẫu.

6

Chương 1. NHÂN VẬT LỊCH SỬ NGUYỄN THỊ BÍCH CHÂU VÀ BẢN

KÊ MINH THẬP SÁCH QUA NGUỒN TƯ LIỆU LỊCH SỬ - VĂN HÓA

1.1. Khái niệm

1.1.1. Nhân vật lịch sử

Dân tộc ta có lịch sử lâu đời, chứa đựng nhiều sự kiện ý nghĩa. Và cũng

có nhiều nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng lớn đến những bước thăng trầm

trong lịch sử dân tộc. Khi nghiên cứu lịch sử không chỉ nghiên cứu các sự

kiện mà còn cần tìm hiểu những nhân vật lịch sử.

Nhân vật lịch sử là những con người có ảnh hưởng đến một giai đoạn

trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, trong đó có những người đóng

góp, xây dựng đất nước nhưng cũng có những người phá hoại, gây rối. Có

những người được người đời sau ghi công, quý mến nhưng cũng có người bị

người đời sau lên án, nêu tên như một hình tượng xấu xa.

Theo tác giả luận văn, nhân vật lịch sử là những người có đóng góp cho

những gì đã xảy ra trong quá khứ và đạt được những thành tựu có ý nghĩa

trong lịch sử. Một người được coi là nhân vật lịch sử phải là người có đóng

góp tích cực trong lịch sử dân tộc, có những thành tựu đem lại lợi ích cho

nhân dân và được lịch sử ghi nhận. Có thể được thể hiện bằng những câu

chuyện truyền thuyết, lời kể dân gian, qua ca dao, hò vè. Nhưng không phải

nhân vật có ảnh hưởng xấu, gây tổn hại đến dân tộc và nhân dân. Trong bài

này, nhân vật Nguyễn Thị Bích Châu là một con người như vậy.

Nhân vật lịch sử thường được nghiên cứu về gốc tích, bối cảnh xã hội và

những việc làm của nhân vật.

1.1.2. Tư liệu lịch sử - văn hóa

Theo Phan Ngọc Liên trong cuốn “Phương pháp luận sử học”, “tư liệu

lịch sử là những di tích của quá khứ, xuất hiện như sản phẩm của quan hệ xã

hội nhất định, mang trong mình nó những dấu vết của quan hệ ấy, phản ánh

7

trực tiếp và trừu tượng hóa một mặt hoạt động nào đấy của con người” (Phan

Ngọc Liên, 2009).

Như vậy, tư liệu lịch sử có tầm quan trọng đặc biệt với khoa học Lịch sử

nói chung và đối với các công trình nghiên cứu lịch sử nói riêng. Không có tư

liệu lịch sử thì không có khoa học Lịch sử. Bất cứ một vấn đề nào đó mà khoa

học Lịch sử đặt ra, có được giải quyết hay không phụ thuộc hoàn toàn vào

một điều kiện tiên quyết là có tư liệu lịch sử của vấn đề ấy hay không. Tư liệu

lịch sử không thể thiếu được với khoa học Lịch sử song nó hoàn toàn “bị

động”. Nó được xem như “thứ nguyên liệu” để chế ra các sản phẩm khác

trong nghiên cứu sử học.

Tư liệu lịch sử là những sản phẩm của hoạt động của con người; nó xuất

hiện như một hiện tượng xã hội, nhằm phục vụ cho một mục đích, nhu cầu

nào đó của xã hội đương thời và tồn tại như những di tích, dấu vết của hoàn

cảnh lịch sử cụ thể đã qua. Trong tư liệu lịch sử có loại hình lịch sử văn hóa.

Tư liệu lịch sử văn hóa là loại tư liệu bao gồm các loại hình văn bản hoặc

thông tin có sự liên hệ giữa văn hóa và lịch sử (chuyện kể dân gian, thơ ca, hò

vè, thần phả, thần tích, kí ức nhân dân, những sự tích được truyền khẩu qua

các đời, được ghi chép, sưu tập,...) và thường mang tính chất địa phương, có

nội dung phổ biến về các nhân vật lịch sử, các sự kiện lịch sử.

Trong nguồn tư liệu lịch sử văn hóa, nguồn sử liệu truyền miệng dân

gian là nguồn sử liệu có nhiều nhược điểm, nhất là sự thiếu chính xác cả về

không gian, thời gian và những sự kiện được phản ánh trong đó. Tuy nhiên,

nó lại chứa đựng những hạt nhân hợp lý mà người nghiên cứu có thể tìm thấy

được nhiều sự kiện lịch sử có giá trị nếu biết “gạn đục, khơi trong”. Đồng thời

có thể tìm thấy những cốt lõi lịch sử chứa đựng trong những câu chuyện

truyền miệng dân gian. Đây chính là hạt nhân hợp lý của sử liệu truyền

miệng.

8

Thần phả và Thần tích là những tư liệu ghi lại sự tích, lịch sử, hành trạng

các nhân vật lịch sử địa phương, vùng miền với những giai thoại, chuyện kể,

lời đồn có liên quan đến họ qua những hình ảnh, hành vi đã được mọi người

truyền tụng mang tính cách siêu nhiên, thần bí, tô điểm cho sự siêu phàm của

nhân vật được nhắc tới. Thần phả được coi là truyền thuyết dân gian về các

thần và Thành hoàng được thờ ở đình (nơi hội họp ở nông thôn), miếu, từ (nơi

thờ cúng tổ tiên của dòng họ). Trong đó không chỉ viết về thần của một làng

mà còn viết nhiều về thần và các vị anh hùng có công với đất nước của cả một

huyện.

Khi nghiên cứu về nhân vật lịch sử Nguyễn Thị Bích Châu, người viết

chủ yếu sử dụng nguồn tài liệu lịch sử - văn hóa, những câu chuyện thần

thoại, ký ức dân gian, thần phả, thần tích tại đền thờ.

1.2. Nhân vật lịch sử Nguyễn Thị Bích Châu qua tư liệu lịch sử - văn hóa

1.2.1. Quê hương, gia đình

Theo nhiều tài liệu lịch sử văn hóa như “Truyền kỳ Tân phả”, “Anh thư

nước Việt”, “Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu và đền thiêng hải

khẩu”, “Hải khẩu linh từ thần tích và lễ hội”,... về quê hương và gia đình

Nguyễn Thị Bích Châu có những chi tiết như sau:

Nguyễn Thị Bích Châu là cung phi của vua Trần Duệ Tông, không rõ

năm sinh, mất ngày 11 tháng 2 năm Đinh Tỵ (1377), quê ở xã Bảo Lộc, huyện

Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Bà là con gái của đại thần Nguyễn tướng công, một

ông quan rất mực thanh liêm thời Trần. Nguyễn tướng công là người khá

thành danh trong sự nghiệp tuy nhiên đường con cái lại hiếm muộn. Năm 40

tuổi phu nhân của ông sinh được con gái đầu lòng, hai vợ chồng vui mừng

xem như ngọc và đặt tên là Bích Châu. Bích Châu sinh ra trong một gia đình

có học nên được dạy dỗ săn sóc chu đáo. Bà giỏi về văn chương, âm nhạc và

cung kiếm vì thế sớm trở thành người con gái vừa có hiểu biết văn chương

vừa có tài về võ. “Bích Châu từ nhỏ đã bộc lộ tài năng thiên bẩm về thơ ca thi

9

họa. Đến tuổi cập kê, bà đã là bậc quốc sắc thiên hương, cộng thêm tài trí

thông minh sắc sảo khó ai sánh bằng. Tiếng lành đồn xa, Bích Châu trở thành

một trong những giai nhân nổi tiếng nhất thời bấy giờ”. (Nhóm trí thức Việt,

2014b). Không những giỏi giang mà Bích Châu còn là một thiếu nữ xinh đẹp.

Năm 1373 bà được vua Trần Duệ Tông tuyển làm cung phi. Sách “Từ điển

nhân vật lịch sử Việt Nam có đoạn viết Nguyễn Thị Bích Châu “Ái phi của

Trần Duệ Tông có tiếng thơ văn, tài sắc, đức hạnh vẹn toàn” (Nguyễn Q

Thắng và Nguyễn Bá Thế, 1997).

1.2.2. Vị trí của Nguyễn Thị Bích Châu trong triều Trần - Thời vua

Trần Duệ Tông

Sau một thời kì phát triển hưng thịnh, nhà Trần bước vào thời kì suy yếu.

Đến thời vua Trần Duệ Tông trị vì, tình hình Trong bối cảnh đó, Nguyễn Thị

Bích Châu đã có nhiều đóng góp quan trọng với mong muốn phục hưng triều

đại này. Nhận định “Bậc Mẫu nghi đời Trần, vợ vua Trần Duệ Tông”

(Phương Lan, 1968) đã cho thấy vị thế của Nguyễn Thị Bích Châu trong triều

đại nhà Trần. Nhờ sự tài trí nên bà rất được vua sủng ái. Tuy vậy, Bích Châu

không hề cậy thế được vua quan tâm mà kiêu ngạo, bà luôn từ tốn và đối xử

hòa nhã với mọi cung phi.

Việc làm đáng ghi nhận của Nguyễn Thị Bích Châu là ngăn cản vua

Trần Duệ Tông tiến đánh Chăm Pa. Khi biết được vua Duệ Tông quyết định

thân chinh đi đánh Chăm Pa, mặc cho mọi lời khuyên ngăn của các đại thần.

Bích Châu biết được ý định của vua bèn làm bài biểu văn nhờ người dâng lên

Thiếp trộm nghĩ rợ Hiểm Doãn1 ngang tàng quá lắm, từ trước quen thân;

rợ Hung Nô2 kiệt hiệt gớm ghê, đến nay càng tệ. Vì cướp bóc là thói

1 Một bộ tộc ở phía Bắc Trung Hoa xưa, ở rải rác các vùng Cam Túc, Thiểm Tây, Sơn Tây ngày nay.

vua:

10

thường của man di mà dùng binh không phải bản tâm của vương giả.

Chiêm Thành nhỏ bé kia, ở chếch nơi hải đảo. Năm xưa kéo quân vào

Nhị thủy bởi thấy nước ta bất hòa; khi ấy tiếng trống động ngoài biên,

chỉ vì lòng dân chưa định. Cho nên chúng dám tung đàn ruồi nhặng để

múa cỏ mà không biết chỉ là bọ ngựa giương càng chắn xe. Nhưng thánh

nhân rộng lượng bao dung; không thèm cùng với chó dê so sánh. Vả đạo

trị bình phải trước gốc sau ngọn, xin nghỉ binh cho dân chúng yên nhàn.

Lý sáng tỏ thì mềm có thể trị được rắn; chọn lời lấy đức thì có thể phục

được người xa. Ngu bệ múa can vũ, bẫy tuần tức khắc Miêu đến chầu3;

Hạ cung gảy sắt cầm, chẵn tháng tự nhiên Hồ quy phục4. Đó thật là

thượng sách, nguyện xin bệ hạ xét đoán cho minh (Nguyễn Khắc Mai và

Trần Thị Băng Thanh, 2015).

Tờ biểu cho thấy, Bích Châu rất khôn khéo trong việc can ngăn vua

không nên dùng binh đao lúc này mà nên nghỉ binh để dân chúng được yên

nhàn. Sở dĩ bà mong muốn như vậy là do dưới thời vua Trần Duệ Tông, nước

ta đang rơi vào khủng hoảng, nhiều kẻ quyền thần lộng hành nên lòng dân

không còn hướng về vua. Trong hoàn cảnh đó, vua lại đem binh đao để đọ sức

với Chiêm Thành thì quả thực không ổn. Đây không đơn giản chỉ là lời

khuyên răn bình thường của một người vợ đối với chồng vì sợ chồng gặp

chuyện chẳng hay khi ra chiến trận mà là tầm nhìn của một người phụ nữ am

hiểu tình hình, biết cách giải quyết thế sự hợp lý.

Tuy nhiên, do vua Trần Duệ Tông luôn giữ ý định chủ chiến trong đầu

2 Một bộ tộc ở phía Bắc Trung Hoa thời Tần Hán làm chủ vùng Nội – Ngoại Mông bây giờ. 3 Theo sách cổ, vua Thuấn (nhà Ngu) trị thiên hạ bằng văn đức, Hữu Miêu không theo, vua Thuấn múa nhạc 70 ngày dưới thềm, người Miêu tâm phục liền đến chầu. Hữu Miêu hay Tam Miêu ở vùng Tứ Xuyên, Vân Nam, Tây Tạng, Quý Châu, Quảng Tây ngày nay. 4 Vua Vũ nhà Hạ cũng dùng văn đức mà cảm hóa người xa, người Hồ do đó quy phục. Hồ là một nước thời cổ, ở vào khoảng Thiểm Tây ngày nay.

nên tờ biểu dâng lên vua không trả lời và hạ lệnh duyệt binh. Trong cuốn “Từ

11

điển nhân vật lịch sử Việt Nam” có đoạn viết: “Duệ Tông thân chinh Chiêm

Thành, bà có dâng biểu can ngăn, vua vẫn không nghe” (Nguyễn Q Thắng và

Nguyễn Bá Thế, 1997). Bích Châu thấy vua không nghe lời can ngăn nên rất

lo lắng cho tính mạng của chồng và sự an nguy của đất nước, than rằng:

“Nghĩa là vua tôi, ơn là chồng vợ, đã không giỏi dâng lời trung để giữ nền

bình trị, lại không biết khéo lời can để ngăn lòng hiếu chiến, thật là sống thừa

trong cõi trời đất vậy” (Nguyễn Khắc Mai và Trần Thị Băng Thanh, 2015).

Lời than này của Bích Châu cho thấy bà xác định được rằng nếu vua ra

chiến trận thì khó có thể giữ được nền bình trị. Trần Duệ Tông hiếu chiến nên

quyết dùng binh đao. Sự thất bại của cuộc chiến khiến người ta có chút tiếc

nuối rằng giá như lúc Bích Châu dâng tờ biểu có thể can ngăn nhà vua thì có

lẽ sẽ không có cái chết của vua và Bích Châu. Nhà Trần cũng không suy tàn

nhanh đến thế.

Từ khi vua chuẩn bị ra chiến trận Bích Châu không để ý đến việc trang

điểm, ăn ngủ cũng không yên, lòng dạ bồn chồn lo lắng, biết là trong cuộc

chiến này lành ít dữ nhiều nhưng không yên tâm khi để vua ra trận bà quyết

tâm xin vua cho đi theo hộ giá.

Thêm một tình tiết thể hiện sự tài năng, đức độ của nhân vật Nguyễn Thị

Bích Châu đó là sự hi sinh của bà trong chuyến đi đánh quân Chiêm Thành

cùng vua Trần Duệ Tông.

Việc vua Trần Duệ Tông và Bích Châu thân chinh đi đánh Chiêm Thành

có hai giả thuyết:

Theo thuyết thứ nhất, Nguyễn Thị Bích Châu cùng vua Duệ Tông đi

đánh quân Chiêm Thành. Khi tới cửa biển Kỳ Hoa (nay thuộc huyện kỳ Anh,

tỉnh Hà Tĩnh), các phụ lão cho biết ở phía trước có miếu rất linh, các tàu

thuyền đi lại lên đó lễ bái thì sẽ được thuận buồm xuôi gió, nếu không sẽ khó

khăn trên biển. Bích Châu được dạy dỗ chu đáo từ nhỏ nên đoán được hiện

tượng tự nhiên. Bà dự đoán rằng có chuyện chẳng lành xảy ra. Bà xem một

12

quẻ Kinh Dịch, trúng vào quẻ Phục biến sang quẻ Di, trong lòng tự đoán nếu

hành quân sẽ đại bại. Sáng hôm sau định đến đến tâu bày quẻ bói với vua,

mong được thay đổi chủ trương. Tiếc rằng vì quân cơ bận rộn, nhịp hành quân

khẩn trương, bà không tìm được chút thì giờ để dâng lời với vua. Tiếp đó, khi

thấy trận gió lốc cuốn thổi vào thuyền ngự, các lá cờ phần phật ngả rạt sang

phương Nam. Bà cảm nhận đây là ngọn gió gian tà, e xảy ra việc dâm tặc hại

người. Bà nguyện xin vua cấp tốc chuẩn bị lục quân để đối phó.

Bà chưa nói dứt lời thì quả nhiên gió bão nổi lên, sóng biền gào thét.

Đêm ấy, vua lại mơ Đô đốc vùng Nam Hải đến đòi được ban cho một phi tần.

Nếu vua ban thì sẽ đền ơn, nhưng nếu vua giữ làm của riêng thì sẽ xảy ra

chuyện chẳng lành. Vua tỉnh dậy cho gọi phi tần, kể lại chuyện trong mộng.

Các cung phi đều tái mặt thất sắc, chỉ nhìn nhau im lặng. Ngay lúc đó, bà

Bích Châu chứa chan nước mắt, nghẹn ngào nói không nên lời, quỳ trước mặt

vua xin được hi sinh thân mình vì sự an nguy của đoàn quân. Bà sợ rằng nếu

nấn ná không quyết sẽ xảy ra tai biến to, có khi hải thuyền đến mắc nạn. Thấy

vua lưỡng lự, không muốn để bà hi sinh, bà tiếp tục khuyên vua nên lấy tướng

sĩ làm trọng, ân ái là nhẹ, việc cần làm là bảo đảm sự an toàn cho nghĩa quân.

Tâm nguyện của bà là sau khi chết, mong vua “sửa văn nghỉ võ”, “giản kiệm

và yêu người”, “học việc nhân nghĩa của đế vương”, dựng nước lâu dài. Được

như thế thì bà mới được an ủi. Nói xong, bà nhảy xuống biển, trong gió gào

sóng cuộn. Vua và các phi tần kinh hoàng luống cuống, ai cũng thương khóc.

Bỗng chốc gió tan, mưa tạnh, biển hết nổi sóng. Vua sai thủy quân mò tìm

Than ôi hồn chừ, yểu điệu phong ty

Chính lòng vua chừ, nước Sở Phàn ky

Giữ đạo vợ chừ, bến Ngu Tương phi

Nhớ vua không quên chừ, vĩnh biệt hương vi

Vì vua oan thác chừ, hồn tan thủy mi

không thấy, đành làm một đạo văn chiêu hồn, đặt lễ tế như sau:

13

Biển khơi mênh mông chừ, kiếp thác bao thì?

Mặt ngọc xa cách chừ, tái hợp khó kỳ

Nhớ lại đức tốt chừ, lòng ta tái tê.

Xem lại giấy mực chừ, giọt lệ lâm ly,

Số mệnh đã định chừ, trời kia không vì

Vì đâu đến nỗi chừ, lỗi Trẫm khó tỳ

Than ôi thương thay! Hồn bỏ Trẫm đi

Nếu ở trên đời chừ, như chim “tị dực phi”;

Nếu ở dưới đất chừ, Như cây “liên lý chi”

Hồn hưu quạnh chừ, không chốn y quy,

Hồn có thiêng chừ, cùng trẫm truy tùy.

Hồn phảng phất chừ, giữ nơi biên thùy,

Thương thay hồn chừ, hưởng chén quỳnh chi

(Nguyễn Khắc Mai và Trần Thị Băng Thanh, 2015).

Hai ngày sau khi bà lao mình xuống biển, xác của bà nổi lên, vẫn uy

nghi trong bộ triều phục và trôi dạt vào bờ. Dân làng Kỳ Hoa vớt lên an táng

bà gần bờ biển. Dựa trên manh mối của truyện ngắn Đền thiêng cửa bể thấy

rằng cái chết của Bích Châu là hậu quả của tập tục hiến tế vẫn còn tồn tại ở

Việt Nam trong giai đoạn sơ kỳ Trung đại và Nguyễn Thị Bích Châu là một

nhân vật có thật, có đóng góp to lớn cho triều Trần.

Sau cái chết của bà, vua Duệ Tông lập tức hạ lệnh xuất quân, vua cho

quân tiến sâu vào động Y Mang, bất ngờ trúng kế của giặc Bà Ma - một tướng

của Chế Bồng Nga, toàn quân tan rã, vua tử trận ở Đồ Bàn.

Qua thuyết trên, người viết nhận thấy có nhiều yếu tố ly kì, hãi hùng

trong tục hiến tế. Điều này tạo cho người đọc cảm giác khó tin. Tuy nhiên đây

là nguồn thông tin đáng lưu tâm khi nghiên cứu về cái chết của Nguyễn Thị

Bích Châu.

Theo thuyết thứ hai, trong trận đánh với quân Chiêm Thành ở Thành Đồ

Bàn (tỉnh Bình Định ngày nay), quân Chiêm Thành tấn công làm cho quan

14

quân của nhà Trần bị tổn thất. Trong trận chiến này các viên tướng trụ cột của

triều đình đều tử trận. Trong bối cảnh đó, Bích Châu thân chinh đứng ra chỉ

huy đạo quân bảo vệ nhà vua, bà “tả xung hữu đột” nơi trận mạc, bị trúng mũi

tên độc. Vì vết thương quá nặng, bà đã từ trần vào năm 1377. Ba ngày sau,

vua Trần Duệ Tông cũng băng hà. Lúc đầu cả linh cửu của nhà vua và cung

phi được đưa bằng đường thủy, tuy nhiên đến đầu địa phận Châu Hoan (tỉnh

Hà Tĩnh ngày nay) lại gặp gió bão lớn không đi được. Quan quân đem linh

cữu nhà vua rước về đường bộ và an táng tại Nam Định. Còn bà Bích Châu

tiếp tục đưa bằng đường thủy, đến cửa khẩu thì bị sóng to gió lớn không đi

được. Triều đình xuống chiếu cho an táng Bà tại Cửa Khẩu và lập đền thờ tại

đây.

Người viết thiên về giả thuyết thứ hai vì Nguyễn Thị Bích Châu là cung

phi được vua Trần Duệ Tông yêu chiều và rất thông minh. Chắc hẳn vua Trần

Duệ Tông không để bà nhảy xuống biển hiến mình để cầu an cho quân đội

nhà Trần khi hành quân đánh Chămpa. Hơn nữa, người thông tuệ như bà Bích

Châu sẽ không vội vàng quyết định bỏ lại vua để nhảy xuống biển. Vậy nên,

có lẽ Nguyễn Thị Bích Châu mới quyết định thân chinh ra trận. Chỉ tiếc rằng,

bà đã hi sinh nơi trận mạc. Tuy nhiên, vấn đề này cần được nghiên cứu thêm.

Như vậy, cả hai thuyết trên đã nói lên một sự thật lịch sử là Nguyễn Thị

Bích Châu đã vì vua, vì nước mà anh dũng hi sinh trong chuyến đi đánh

Chiêm Thành cùng với vua Trần Duệ Tông. Thi thể bà được an táng tại vùng

biển huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay.

Tài năng và đức độ của Nguyễn Thị Bích Châu đã được vua Lê Thánh

Tông ghi nhận. Một thế kỷ sau, năm 1470, vua Lê Thánh Tông cũng cất quân

đi đánh Chiêm Thành qua cửa biển Kỳ Hoa. Sau khi thắng trận trở về, Lê

Thánh Tông đã sai lập đền (miếu) thờ ở cửa biển và có sắc phong thần cho

Bích Châu. Sắc phong có hai chữ "Chế thắng" nên đền này được gọi là "Đền

15

bà Chế thắng" (Hiện nay gọi là đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích

Phiên âm:

Hải Khẩu linh từ cảm đề

Bản thị Hy Lăng cung lý nhân,

Lâm nguy vị quốc độc vong thân.

Yêu phong nhất trận đào hoa lãng,

Xuân mộng tam canh Đỗ Nhược tân.

Hàn thủy vô đoan mai Sở phụ

Hương hồn hà sứ điếu Tương Quân.

Hu ta bách vạn hùng bi lữ,

Bất cập thư sinh nhất hịch văn.

Dịch nghĩa:

Đền thiên Hải Khẩu, cảm đề

Vốn là cung nhân trong cung Hy Lăng,

Trước tình thế nguy cấp, vì nước riêng quên thân mình.

Một trận gió yêu quái làm nổi sóng hoa đào.

Giấc mộng xuân, canh ba mơ màng nơi bến Đỗ Nhược.

Vô cớ, nước lạnh chôn vùi người đàn bà nước Sở,

Biết nơi nào để viếng hương hồn Tương Phi.

Than ôi, trăm vạn đội quân hùm gấu,

Mà chẳng bằng một đạo hịch văn của chàng thư sinh.

Dịch thơ:

Một vị hiền phi của điện Trần,

Hi sinh vì nước quản chi thân.

Đào hoa chìm nổi cơn giông tố,

Đỗ Nhược mơ màng giấc mộng xuân.

Dòng nước vô tình chôn Sở phụ,

Hương hồn nào chỗ viếng Tương Quân?

Than ôi trăm vạn quân hùng mạnh,

Châu). Vua Lê Thánh Tông đã làm một bài thơ đề lên tường bên tả miếu rằng:

16

Lại kém thư sinh một hịch văn.

Ngô Lập Chi dịch (Nguyễn Khắc Mai và Trần Thị Băng Thanh, 2015).

Việc vua Lê Thánh Tông làm thơ khắc lên tường và sắc phong Nguyễn

Thị Bích Châu là chế thắng phu nhân đã góp phần khẳng định công lao của

nhân vật đối với lịch sử dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà Lê Thánh Tông

đã ca ngợi bà, truy tôn bà với mỹ tự: “Chế Thắng phu nhân” (Vị Phu nhân của

mọi chiến thắng). Ắt hẳn vị vua này đã từng nghe về bà và công lao của bà

trước đó nên khi đến đây mới cho lập đền và sắc phong.

Nguyễn Thị Bích Châu đã đề ra rất nhiều kế sách, mưu lược cho vua

nhưng vì lòng hiếu chiến, không suy xét kỹ càng nên vua Trần Duệ Tông đã

không bận tâm đến những kế sách do Quý phi Bích Châu dâng lên.

Qua tài liệu lịch sử văn hóa cho thấy một điểm nổi bật trong những việc

Nguyễn Thị Bích Châu làm bên cạnh vua Trần Duệ Tông đó là viết bản Kê

minh thập sách.Bản Kê minh thập sách không những được vua Trần đánh giá

cao mà tới ngày nay giới nghiên cứu đề cao giá trị của nó. Điều đáng nói ở

đây là Kê minh thập sách không phải là nỗi lòng, kế sách của vị đại công thần

mà của một cung phi. Hơn nữa, Nguyễn Thị Bích Châu dâng bản Kê minh

thập sách trong thời đại phong kiến - thời đại mà tiếng nói của người phụ nữ

bị hạn chế. Bà đã dám làm việc mà không phải người phụ nữ nào cũng dám

làm, đó là dâng kế sách lên khuyên răn vua điều chỉnh lại cách trị nước. Sự

can đảm đó của Bích Châu đã cho thấy bà là một người yêu nước, thương dân

không bình thản hưởng mọi vinh hoa mà luôn xót xa trước vận mệnh đất

nước. Điều này không chỉ thể hiện tài năng mà cả giá trị đạo đức của bà.

Tất cả những việc làm của bà đều muốn vua có tinh thần trách nhiệm với

dân, với nước. Nhìn thấy thực trạng đất nước cuối triều Trần bà luôn mong

muốn khôi phục đất nước để dân có cuộc sống ấm no. Nguyễn Thị Bích Châu

đã đặt quyền lợi của dân tộc lên trên sự hưởng thụ của cá nhân. Nếu vì quyền

lợi của bản thân, bà đã không đóng góp nhiều ý kiến với vua như thế. Hơn

17

nữa một người thông minh như bà sẽ biết được những rắc rối, trắc trở và nguy

hiểm mà bà sẽ gặp phải khi làm những điều trên nhưng bà vẫn chấp nhận.

Điều này thể hiện sự đức độ của một người phụ nữ luôn trăn trở cho vận

mệnh dân tộc.

Tóm lại, dù nghiên cứu về bà như một nhân cách lịch sử hay là một vị

thần linh hiển, ta đều bắt gặp sự thánh hóa, thiêng hóa cái Mẫu hình nhân

cách cao quý: Đẹp - Tài - Đức hạnh - Trí dũng của một người phụ nữ nước

Nam. Ngày nay đã có nhiều người biết đến Chế Thắng phu nhân và Kê minh

thập sách của bà, hiểu được sự hi sinh cao đẹp của bà cho đất nước. Có được

điều đó, trước hết công lao thuộc về nhân dân, đặc biệt là nhân dân Hà Tĩnh,

nhân dân Kỳ Anh, những người đã hương khói gìn giữ từ đời này qua đời

khác hình ảnh của Chế thắng phu nhân.

1.3. Kê minh thập sách và những bài học lịch sử

1.3.1. Bối cảnh ra đời

Sau những chiến công kỳ tích ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên -

Mông, những khó khăn do chiến tranh đã dần dần được khắc phục sau nửa thế

kỷ, nhà Trần đã đưa Đại Việt vào thời kỳ thịnh trị với “hào khí Đông A”. Tuy

vậy, vào giữa thế kỷ XIV, triều đình và xã hội Đại Việt lại lâm vào khủng

hoảng sâu sắc.

Từ thời Trần Dụ Tông trị vì trở đi, chính quyền nhà Trần suy yếu, bọn

nịnh thần chuyên quyền, nền hành chính rối ren, tầng lớp quý tộc nhà Trần bị

phân hóa và sa đọa. Vua quan nhà Trần lại đi vào “vết xe đổ” của triều đại

trước, họ chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, bỏ mặc sự suy yếu của đất nước và đói

khổ của nhân dân. Kinh tế xã hội sa sút nghiêm trọng khiến nông dân, gia nô

nổi dậy chống lại các điền chủ trang thái ấp, các nước thần phục Đại Việt

trước đây liên tiếp quấy phá bờ cõi biên cương.

Nhà Trần suy thoái từ đời vua Trần Dụ Tông (1341-1369) đến thời kì

vua Trần Duệ Tông trị vì (1372-1377), sự suy thoái trở nên trầm trọng.

18

“Trong nửa sau thế kỉ XIV đã có 9 lần đê vỡ, lụt lớn. Có những năm vừa hạn

vừa lụt như năm 1348, 1355,...” (Trương Hữu Quýnh, Phạm Đại Doãn và

Nguyễn Cảnh Minh, 2009).

Trước tình hình đó, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra, điển hình là

Năm 1343, đại hạn, mất mùa, dân nghèo nổi dậy khắp nơi. Năm 1344,

dưới lá cờ nghĩa của Ngô Bệ, nông dân đã nổi dậy ở vùng núi Yên Phụ

(Hải Dương) đánh phá nhà của bọn địa chủ, quan lại. [...] Năm 1357-

1358, nghĩa quân Ngô Bệ lại bùng lên ở Yên Phụ, yết bảng “chẩn cứu

dân nghèo”, chống lại quân triều đình (Trương Hữu Quýnh et al., 2009).

cuộc nổi dậy của Ngô Bệ.

“Trần Duệ Tông ở ngôi vua cũng muốn quyết đoán, nhưng sức tài hèn

kém” (Nguyễn Bích Ngọc, Lưu Hùng Chương, Nguyễn Văn Thu, 2010).

Trong thời kì khủng hoảng, vua Trần Duệ Tông cũng không đủ sáng suốt để

vực dậy tiềm lực của đất nước ngược lại chỉ tập trung cho cuộc chinh chiến

đánh Chăm Pa. Cũng giống như các vị vua trước đó, Duệ Tông không biết

trọng dụng nhân tài, không lắng nghe những kế sách phát triển đất nước. Thời

kỳ này hội tụ trí tuệ của những trí thức mang tư tưởng Nho giáo tiến bộ như

Thượng thư Lê Quát, Tư đồ Trần Nguyên Đán, Ngự sử trung tán Lê Tích,

Ngự sử đại phu Trương Đỗ, Hồ Quý Ly... Đó là những người muốn cải cách

xã hội để nhằm vực dậy một triều đại đang suy yếu và nhằm ngăn chặn một

cuộc chiến tranh với Chiêm Thành có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Năm 1376, quân Chiêm Thành quấy rối biên giới phía Nam. Vua Trần

Duệ Tông sai quan Hành khiển Đỗ Tử Bình đem quân vào giữ Châu Hóa.

Vua Chiêm bấy giờ là Chế Bồng Nga đem 10 mâm vàng dâng triều đình nhà

Trần tạ lỗi nhưng Đỗ Tử Bình biển thủ đồ lễ, ông ta trao quyền cho phó tướng

rồi một mình đem đội chiến thuyền về kinh. Sau khi cất giấu của cải ông vào

cung tâu sai với triều đình là Chế Bồng Nga ngạo mạn hỗn xược, phải trừng

trị, cho nên vua Trần tức giận nên quyết đánh Chăm Pa.

19

Tháng 6 năm 1376, vua Duệ Tông xuống chiếu xuất quân. Triều Trần lúc

này đang thoái trào, gian thần lộng hành, nhân dân đói khổ, trăm họ lầm than.

Vì vậy, gây chiến tranh lúc này là không nên. Các quan ngự sử như trung tán

Lê Tích, đại tướng quân Đỗ Lễ đã can ngăn nhưng không được. Ngự sử đại

phu Trương Đỗ đã ba lần dâng “Bãi chiến sớ”, phân tích tình hình đất nước.

Ông cho rằng vua mới lên ngôi nên cần chấn chỉnh đất nước để Chiêm Thành

thần phục, không nên thân chinh đi đánh lúc này. Tiếc rằng lời can ngăn của

ông đã không được nhà vua lưu tâm.

Thời phong kiến, vua nắm quyền tối cao cho nên nói trái ý vua là điều

mà viên quan nào cũng hết sức tránh, nếu không muốn mất chức quyền, bổng

lộc và chuốc họa vào thân. Trương Đỗ ba lần dâng “Bãi chiến sớ” trái ngược

hẳn với quyết định của vua, thật là một người chính trực và dũng cảm.

Dưới thời vua Trần Duệ Tông ngoài Quý phi Bích Châu còn có một số

trung thần thấy được những sai lầm của vua và nhu cầu giải quyết tình trạng

khủng hoảng của đất nước. Tiếc rằng vua Duệ Tông quyết tâm ra trận, quyết

tâm làm theo ý mình. Trong trận chiến với Chăm Pa năm 1377, Duệ Tông tử

trận.

Trong đời vua Trần Duệ Tông, triều đình và nhân dân không còn đoàn

kết một lòng, sự oán hận, căm phẫn của nhân dân ngày càng tăng lên. Trước

đó, trong thời bình các vua Trần quan tâm đến đê điều nên đời sống nhân dân

luôn ổn định. Khi có giặc tới nhân dân đồng lòng cùng vua đánh giặc… Tuy

nhiên, lúc này Trần Duệ Tông không còn anh minh, tướng tài không được

trọng dụng, những cải cách xã hội không được tin theo thực hiện, cuộc đấu

tranh giữa xu hướng bảo thủ và những nho sĩ muốn cải cách đất nước không

thể giải quyết đã ngày càng kéo đất nước lún sâu vào suy thoái. Trong nội bộ

hoàng tộc không còn đồng lòng khôi phục triều chính mà tìm cách thanh

trừng lẫn nhau, đặt quyền lợi cá nhân lên trên quyền lợi dân tộc. Kinh tế nông

nghiệp đóng vai trò chủ đạo giờ lại sa sút nghiêm trọng đã dẫn đến việc nông

20

dân gia nô nổi dậy khởi nghĩa chống lại triều đình, địa chủ, quan lại hoặc bỏ

trốn khỏi các điền trang. Thêm vào đó, các cuộc tấn công đánh phá của Chăm

Pa càng làm cho nhân lực, vật lực trong nước suy yếu, mọi nỗi khổ đè lên đầu

nhân dân. Triều đình mâu thuẫn, rối ren, tài chính ngày càng kiệt.

Trong bối cảnh rối loạn thời đó, có những bậc hiền tài muốn giúp vua

cứu nguy cho xã tắc nhưng vua Duệ Tông tính hiếu chiến nên không bận tâm

đến những kế sách, những lời khuyên răn của những bậc đại thần trong triều.

Cuối cùng những người dám nói lên nỗi lòng lại không được vua thấu hiểu,

họ bất mãn và từ quan, còn lũ lộng thần thì tiếp tục hoành hành người dân.

Nguyễn Thị Bích Châu với vị trí là một thứ phi đã nổi lên như một nhân vật

chính trị sắc sảo, một nhà cải cách mang tư tưởng Nho giáo. Tài năng của bà

được thể hiện rõ nhất trong việc thảo bản Kê minh thập sách - 10 kế sách trị

nước dâng lên vua Trần Duệ Tông với mong muốn nhà vua sẽ xem xét và

chỉnh đốn việc nước nhằm chăm lo đời sống cho nhân dân và tuyển người tài

giúp nước.

Nguyễn Thị Bích Châu là một phụ nữ thông minh nên bà thấu hiểu sự

lầm than của nhân dân và sự mục nát trong triều Trần. Hơn nữa sớm tối bên

vua bà còn nhận thấy sự hiếu chiến của vua, lúc này vua Duệ Tông không

quan tâm đến việc chấn chỉnh lối trị nước để an dân, khôi phục lại sự hưng

thịnh của triều Trần như các bậc vua trước đã làm mà lại quan tâm nhiều đến

việc đem quân đi đánh Chiêm Thành. Để khuyên răn vua, Bích Châu đã soạn

thảo bản Kê minh thập sách dâng lên với mong muốn vua có thể nhận ra được

việc cần kíp phải làm trước mắt là ổn định tình hình trong nước, tránh hao tổn

sức lực và của cải cho việc binh đao.

1.3.2. Nội dung

Kê minh là gà gáy sáng - một cụm từ vốn có từ lâu đời trong đời sống

văn hóa của nước ta và một số nước phương Đông. Từ “kê minh” có xuất xứ

từ bài thơ Kê minh trong Kinh thi - một bộ sách của Trung Quốc. Bài thơ này

21

có nội dung nói về một bà phi khuyên răn vua nên dậy sớm tầm gà gáy để còn

thiết triều, nhắc nhở vua phải để tâm đến việc đại sự. Khi mở rộng ý nghĩa ra

là tiếng gà gáy sáng nhằm nhắc nhở mọi người thức dậy đúng lúc để còn làm

việc.

Là tác giả của Kê minh thập sách, Nguyễn Thị Bích Châu đã viết một

bản điều trần dâng vua Trần Duệ Tông - người đứng đầu triều đình để nêu lên

những giải pháp cai trị đất nước.

一日:扶國本,苛暴去則人心自安

二日:守舊規,薠繞 革則朝綱不紊

三:抑權臣以防蠹政

四:汰冗灆以省漁民

五:願振儒風使爍火與日光而盡照

六:願求直諫令城門與言路而並開

七:揀兵當右勇力而左身扌

八:選將宜後世家而先鞱略

九:器械貴其堅銳不必文華

十:陣法教以止薺何須舞調

Nguyên văn chữ Hán mười điều trong Kê minh thập sách:

Phiên âm nguyên bản Kê minh thập sách:

Thiết duy: Khúc đột tỷ tân, chế trị tu tòng vị loạn; triệt tang trù hộ, cư an

yếu thẩm tư nguy. Cái nhân tình dị nịch ư yến an, nhi thế đạo nan thường

ư bình trị. Thị dĩ, tiến vô đãi vô hoang chi giới, Cao Dao tiên tự viết

“đô”; đương bất huyết, bất nhẫn chi thời, Giả Phó dự vi thái tức. Thị nãi

ái quân nhi phòng tiệm, thực phi vi chúng dĩ minh kỳ. Thần tiện thiếp

Bích Châu, thiếu xuất bồng môn, trưởng bôi tiêu thất. Thưởng tứ lũ

mông yến hạnh, quyền liên điệp hạ ư long tri. Bố Ngu hậu chi y thường,

22

cảm nghĩ tu mi nam nữ; thoát Khương phi chi trâm nhĩ, nguyện tiên quan

đới đình thần. Cẩn cụ thập điều, mậu trần nhất đắc.

Nhất viết: phù quốc bản, hà bạo khứ tắc nhân tâm tự an.

Nhị viết: Thủ cựu quy, phiền nhiễu cách, tắc triều cương bất vẫn.

Tam: Ức quyền thần dĩ phòng đố chính.

Tứ: Thải nhũng lãm dĩ tỉnh ngư dân.

Ngũ: Nguyện chấn Nho phong sử tước hỏa dữ nhật quang nhi tận chiếu.

Lục: Nguyện cầu trực dán lệnh thành môn dữ ngôn lộ nhi tịnh khai.

Thất: Giản binh dương hữu dũng lực nhi tả thân tài.

Bát: Tuyển tướng nghi hậu thế gia nhi tiên thao lược.

Cửu: Khí giới quý kỳ kiên nhuệ bất tất văn hoa.

Thập: Trận pháp giáo dĩ chỉnh tề hà tu vũ điệu.

Phù duy sổ sự, thậm thiết thời nghi.

Mạo đầu cần bộc chi cô trung, phục ký sô nghiêu chi quảng nạp. Thiện

tất hành nhi tệ tất khử. Đế kỳ niệm tai! Quốc dĩ trị dân dĩ an, thiếp chi

nguyện dã.

Nguyễn cơ Bích Châu (Nguyễn Khắc Mai và Trần Băng Thanh, 2015).

Dịch nghĩa nguyên bản:

Trộm nghĩ, sửa bếp dời củi, gây nền trị từ khi chưa loạn; lấy dâu ràng tổ,

vào lúc yên nên tính lúc nguy. Vì nhân tình dễ đắm đuối sự yên vui, mà

thế đạo khó được thường bình trị. Cho nên, Cao Dao trước dâng lời ca

ngợi rồi khuyên chớ biếng nhác chơi bời. Giả Nghị ở vào thời không

máu chảy gươm khua vẫn tâu lời than thở. Chính bởi yêu nhà vui mà

ngăn trước, đâu phải làm khác người để khoe tài. Kẻ thiếp hèn là Bích

Châu, lúc nhỏ vốn nhà nghèo khó, lớn lên được tuyển vào cung, đầm

thắm thương yêu, chứa chan ban thưởng. Vá xiêm áo vua Ngu, dám đâu

sánh người nam tử; trút trâm cài Khương hậu, khuyên vua nghĩ tới triều

đình. Mạo muội tỏ bày, mười điều chỉ mong được một.

Một là vun gốc nước trừ hà khắc bạo ngược cho dân chúng yên vui.

Hai là giữ nếp xưa, bỏ phiền nhiễu để kỷ cương không rối.

23

Ba, ngăn chặn lũ lộng quyền để phòng chính sự sâu mọt.

Bốn, thải loại bọn tham nhũng để trừ tệ đục khoét của dân.

Năm, xin chấn hưng nho phong khiến ánh đuốc cùng mặt trời chiếu

khắp.

Sáu, xin cầu lời nói thẳng cho cổng thành cùng đường ngôn luận rộng

mở.

Bảy, kén quân trước có dũng lực sau mới kể thân hình.

Tám, chọn tướng cần người thao lược, chớ nể con ông cháu cha.

Chín, khí giới quý hồ bền sắc chuộng chi vẽ vời.

Mười, trận pháp cốt ở chỉnh tề đâu cần múa khéo.

Mấy việc kể trên, thật hợp thời nay.

Một tấm lòng trung, mạo muội tỏ bày.

Lời quê mộc mạc, xin vua xét lấy.

Điều dở thì bỏ, thi hành điều hay.

Nước được thịnh trị, dân được vui vầy,

Đó là tấm lòng thiếp vậy. (Nguyễn Khắc Mai và Trần Băng Thanh, 2015)

Theo điều 1 trong bản Kê minh thập sách, Nguyễn Thị Bích Châu cho

rằng dân là gốc của nước nên phải “vun gốc nước”. Nhưng để làm được điều

này, nhà nước cần phải nghiêm khắc trừng trị những kẻ bạo ngược cho “dân

chúng yên vui”.

Theo điều 2, kỷ cương là những phép tắc của một quốc gia nhằm bảo

đảm cho trật tự xã hội nên giữ cho kỷ cương không bị rối loạn là điều quan

trọng. Và giữ nếp xưa và bỏ phiền nhiễu là cách để thực hiện được điều đó.

Theo điều 3, để có một bộ máy nhà nước vững mạnh, “không sâu mọt”,

cần phải ngăn chặn những kẻ lợi dụng quyền hành để quấy nhiễu dân chúng

và chuộc lợi cho cá nhân.

Theo điều 4, Nguyễn Thị Bích Châu cho rằng bọn tham nhũng là những

kẻ đục khoét nhân dân, vì vậy phải thải loại. Đây là điều cấp bách cần giải

quyết lúc này.

24

Theo điều 5, cần phải nâng cao dân trí, cổ động Nho phong, mở rộng

việc giáo dục học hành để dân hiểu biết và mở mang trí tuệ.

Theo điều 6, Nguyễn Thị Bích Châu đã đề cấp đến việc xây dựng và mở

rộng thực hiện dân chủ. Nếu không thực hiện được dân chủ trong nhân dân thì

thực sự nguy hại cho đất nước.

Theo điều 7, điều quan trọng khi tuyển chọn quân, ưu tiên đầu tiên là

phải có lòng dũng cảm, sự gan dạ để đối mặt với kẻ thù. Sau đó, mới kể đến

thân hình, vóc dáng của họ.

Theo điều 8, khi chọn tướng cần chọn người tài và có năng lực thực sự

chứ không dựa vào gia thế.

Theo điều 9, Nguyễn Thị Bích Châu đã đề cập đến tiêu chí chọn vũ khí

cần thiết cho trận chiến chỉ là bền và sắc. Tức là quan trọng ở chất lượng chứ

không phải ở hình thức.

Theo điều 10, đánh giặc cần bố trí lực lượng chỉnh tề, hợp lý.

Để đánh giá hết được giá trị của bản Kê minh thập sách, ta phải nhìn vào

bối cảnh lịch sử mà bản kê minh ra đời. Như đã phân tích ở trên, trong khi

triều Trần đang rối loạn, bản Kê minh thập sách ra đời với các biện pháp

nhằm chỉnh đốn lại triều đình và ổn định lại đất nước thì quả là đáng quý.

Thiết nghĩ không phải ai cũng có thể nhìn ra được bối cảnh đất nước lúc này

và đề ra được những biện pháp thiết thực như thế.

Điểm lại thấy Kê minh thập sách của Nguyễn Bích Châu là một tác

phẩm rất thiết thực, được trình bày gọn gàng, súc tích và đanh thép, bao quát

được nhiều phương diện của các vấn đề quốc kế dân sinh. Có sáu điều thuộc

lĩnh vực dựng nước, bốn điều thuộc kế sách giữ nước và xây dựng lực lượng

quân sự. Nguyễn Thị Bích Châu đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể về đường lối

chính trị, văn hóa, quân sự.

Những vấn đề được nêu trong Kê minh thập sách đã thấy rải rác ở nhiều

học giả, nhiều nhà chính trị trước đây (trong các sách của các tác giả kinh

25

điển ở Trung Quốc). Tuy nhiên, Nguyễn Thị Bích Châu đã rút ra được những

điểm quan trọng nhất, thiết thực nhất để đưa ra những đường lối chính trị, văn

hóa, quân sự phù hợp với thời đại của nhà Trần và có giá trị cho đến ngày

nay.

1.3.3. Bài học lịch sử từ bản Kê minh thập sách

a. Đối với vương triều Trần

Kê minh thập sách ra đời vào thời kỳ cuối của nhà Trần thực sự có ý

nghĩa quan trọng. Quý phi Bích Châu lại trực tiếp chứng kiến tình hình triều

chính và xã hội lúc đó. Bà là người yêu nước, thương dân, không bằng lòng

hưởng vinh hoa cho riêng mình mà hết lòng trăn trở cho vận mệnh đất nước.

Bích Châu sớm nhận thấy nguy cơ đổ nát của triều chính nên đã dâng bản Kê

minh thập sách để cứu vãn tình thế, giúp vua đưa ra kế sách để giải quyết mọi

khó khăn trong nước. Tiếc rằng vua Duệ Tông tính cách hiếu chiến, quá tin

vào Đỗ Tử Bình nên vẫn quyết định đi đánh Chiêm Thành để rồi bị thua trận,

tử nạn trong cuộc chiến. Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi rõ: “Vua ở ngôi bốn

năm, thọ 41 tuổi. Vua ương gàn cố chấp, không nghe lời can, khinh thường

quân giặc nên mang họa vào thân, chứ không phải do bất hạnh” (Ngô Sĩ Liên

và các sử thần triều Lê, 1998).

Tuy nhiên, việc vua Trần Duệ Tông không thực hiện những điều trên

không có nghĩa là bản Kê minh thập sách này không có ý nghĩa đối với triều

Trần. Chính qua bản kế sách này mới thấy được tầm nhìn của một người phụ

nữ thời kỳ này và bối cảnh của nhà Trần nửa cuối thế kỷ XIV. Từ đó lý giải

được nhiều vấn đề lịch sử đặt ra về giai đoạn cuối nhà Trần.

 Bài học lấy dân làm gốc, nhà lãnh đạo phải có tư tưởng thân dân

Bài học này được thể hiện khá rõ nét trong điều 1 và điều 6 của Kê minh

thập sách.

Một trong những biện pháp giữ nước là “lấy dân làm gốc”. Dân chính là

những người xây dựng và bảo vệ đất nước. Trần Quốc Tuấn - vị tướng thấm

26

nhuần tư tưởng này đã từng nói phải “khoan thư sức dân” để giữ thế bền

vững. Trần Quốc Tuấn luôn lấy dân làm trọng, ông luôn động viên tinh thần

quân sĩ vượt qua mọi khó khăn để giữ lấy độc lập dân tộc.

Tư tưởng thân dân không phải đến thời Trần mới xuất hiện mà từ thời Lý

các nhà vua đã luôn quan tâm chăm lo cho nhân dân, giảm nhẹ hình phạt, đưa

ra luật bảo vệ dân. Đến thời Trần con người lại càng được đề cao, đặc biệt khi

đạo Phật hưng thịnh thì lòng từ bi, yêu thương con người lại càng được lan

tỏa. Trần Hưng Đạo đề xướng “Đạo”, “Khoan sức dân để làm kế sâu rễ bền

gốc”,… Trần Quốc Tuấn đã có tổng kết quý giá về sức mạnh của nhân dân và

sự cần thiết huy động sức mạnh to lớn ấy trong chiến tranh:" ““Chúng chí

thành thành” - ý chí của nhân dân là bức thành kiên cố” (Vũ Như Khôi,

2017).

Trong ba lần nhà Trần tổ chức kháng chiến chống quân Nguyên - Mông,

nếu không có sự đoàn kết một lòng giúp vua cứu nước của toàn dân liệu rằng

một đất nước bé nhỏ như Đại Việt khi ấy có đủ sức để chiến thắng được kẻ

thù hung hãn mà bất cứ quốc gia nào cũng khiếp sợ. Nhân dân đoàn kết, một

lòng trung thành với vua với đất nước, là thứ sức mạnh vô hình nhưng vô

cùng mạnh mẽ mà không phải lúc nào cũng có được. Nguyễn Thị Bích Châu

đã nhìn về giai đoạn trước và hiểu được rằng thời Lý Trần đất nước phát triển

và vượt qua được họa ngoại xâm là do lấy dân làm gốc, quan tâm đến đời

sống của dân. Bà đúc kết những điều đó vào bản Kê minh thập sách để trị

nước và giữ nước. Thông qua điều 1 và điều 6 của bản kế sách, bà muốn nhắc

nhở vua Trần Duệ Tông hãy nhìn lại những gì ông cha đã làm để chấn chỉnh

lại cách điều hành đất nước. Muốn để dân tin và trung thành thì trước hết phải

xem ông vua đó, triều đại đó mang lại gì cho cuộc sống của họ. Ở những triều

đại trước lòng dân đoàn kết, tất cả đồng tình một lòng hướng về vua, quyết

tâm dùng tất cả tài sản và tính mạng của mình ra để bảo vệ đất nước. Bởi vì

lúc ấy thiên hạ thái bình, vua quan chăm lo cho dân và lắng nghe lòng dân nên

27

cuộc sống của họ được ổn định. Trong lòng mỗi người dân luôn cảm thấy

may mắn và biết ơn vì đã cho họ một cuộc sống tốt đẹp. Từ đó niềm tin của

họ đặt vào nhà vua và triều đình ngày một lớn hơn. Khi đất nước lâm nguy,

họ sẵn sàng từ bỏ tất cả để cùng vua bảo vệ đất nước đồng thời cũng là bảo vệ

chính lợi ích và cuộc sống của họ. Chính vì vậy, trong bối cảnh nhà Trần đang

trên đà suy vong, muốn “lấy dân làm gốc” thì trước hết phải có được lòng

dân, để có được lòng dân thì phải biết lắng nghe và thấu hiểu. Người dân chỉ

cần một vị vua anh minh, những vị quan vì dân để họ có thể an tâm sinh sống

và làm ăn. Khi dân có cuộc sống ổn định thì nước mới có thể vững vàng và đủ

sức mạnh để đương đầu với kẻ thù.

Cuối bản Kê minh thập sách, Bích Châu khuyên nhà vua: “Mấy điều vừa

kể, thật là thiết dụng cho ngày nay. Thiếp xin phơi bày tấm lòng trung, mong

được bề trên soi xét. Nước được trị, dân được yên, đó là ước nguyện của thiếp

vậy”.

Sở dĩ Bích Châu hết sức khuyên răn nhà vua không nên động binh là vì

bà nhận thấy điều cần kíp lúc này là nên vực dậy tiềm lực trong nước. Trong

bối cảnh đất nước lúc đó không có gì có thể đảm bảo một chiến thắng chắc

chắn mà có khi còn làm cho tình hình đất nước rối ren hơn. Cho đến khi bà

hiến mình để đoàn quân được tai qua nạn khỏi bà cũng dặn dò nhà vua “Sau

khi thiếp đi, mong bệ hạ chăm lo văn trị, bớt việc vũ công, giản kiệm và yêu

người, học đạo lý nhân nghĩa của các đế vương, để làm kế lâu dài cho nước

nhà. Được như thế thì u hồn thiếp trong cõi u minh có thể được an ủi vậy”. Ta

thấy rằng đến cả cái chết ngay trước mắt mà tâm nguyện của vị Quý phi này

cũng chỉ mong rằng nhà vua sau khi trở về hãy chăm lo cho đất nước. Khát

vọng hòa bình, an dân, mong muốn một đất nước thái bình luôn là tâm

nguyện của Quý phi.

Nhìn tổng thể mười kế sách, tư tưởng của tác giả luôn đề cao nhân dân,

coi dân là gốc của nước. Về sau tư tưởng “lấy dân làm gốc” vẫn được rất

28

nhiều vị vua và các vị hiền tài sử dụng vào thực tiễn của đất nước. Ví như

trong bài Bình Ngô Đại Cáo mở đầu Nguyễn Trãi đã viết:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.…”

Hay trong Thập điều khải của Quan Thái thường tự khanh Bùi Sĩ Tiêm

dâng lên chúa Trịnh có viết: ““Chăm đời sống của dân để bền mệnh mạch” -

Dân là mệnh mạch của nước” (Vũ Như Khôi, 2017).

Như vậy, ta có thể thấy rõ một điều là đối với việc trị nước, việc đề cao

nhân dân, lấy nhân dân làm gốc là một tư tưởng vô cùng sáng suốt. Nó được

đề cập và áp dụng một cách rộng rãi qua nhiều triều đại khác nhau và đều đưa

đến những kết quả tốt đẹp. Tất cả những điều đó đã chứng minh tính đúng đắn

và cần thiết của tư tưởng thân dân mà Bích Châu đã đề ra với mong muốn đưa

nhà Trần thoát khỏi sự khủng hoảng và bế tắc. Chỉ đáng tiếc một điều là

những tư tưởng đúng đắn ấy lại không được nhà vua để tâm và thực hiện.

Sau này những nhân vật nổi tiếng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh

Khiêm,… cũng đã đề cập đến đã chứng tỏ tính đúng đắn của tư tưởng thân

dân mà Bích Châu đã đề ra.

 Bài học về đường lối quân sự, cách chọn tướng cầm quân

Ngay từ khi mới thành lập, nước ta đã phải đương đầu với giặc ngoại

xâm, dựng nước đi đôi với giữ nước. Kê minh đã mách bảo bốn điều về quân

sự là binh, tướng, vũ khí và trận pháp.

Theo điều 7 của Kê minh thập sách, bà Bích Châu cho rằng: “kén quân

trước có dũng lực sau mới kể thân hình”. Bước ra chiến trận, đó chính là sàn

đấu sinh tử, là dùng mạng sống của mình ra để đánh cược. Vậy nên, mỗi

người lính ra trận trước hết là phải có lòng dũng cảm. Lòng dũng cảm sẽ giúp

chúng ta vượt qua được nỗi sợ hãi, vượt qua được những khó khăn gian khổ

mà ta không thể lường trước được. Khi tuyển quân người ta vẫn thường chọn

những người trai tráng khỏe mạnh, đó chính là thể lực. Bước ra chiến trường,

29

anh dũng cảm, anh khôn khéo nhưng anh cũng cần phải có cả thể lực. Xây

dựng và luyện tập để có được một đội quân có lòng dũng cảm và thể lực tốt

đó chắc chắn sẽ là một đội quân hùng mạnh.

Điều 8 của kế sách viết: “chọn tướng cần người thao lược, chớ nể con

ông cháu cha”. Người ta nói quân đông phải có tướng tài. Bên cạnh việc chiêu

mộ và luyện tập để có được một đội quân tinh nhuệ, việc tìm được một người

tướng tài để chỉ huy là vô cùng quan trọng. Vậy nên, khi tuyển tướng đừng

nhìn vào gia thế mà cần phải nhìn vào năng lực, tài thao lược của người đó.

Lịch sử cũng chứng kiến có những lúc vua sai lầm trong việc chọn tướng nên

thất bại trước quân địch. Vua Trần Duệ Tông đã từng sai lầm trong việc chọn

tướng cầm quân đi đánh Chiêm Thành: “Khi quân Việt đến chân thành Đồ

Bàn, quân Chiêm từ 4 phía đổ ra đánh. Quan quân thua to. Vua Duệ Tông

chết trong đám loạn quân. Bọn Đỗ Tử Bình lĩnh hậu quân, hèn nhát không

đem quân lên cứu, Hồ Quý Ly cũng bỏ chạy. Thế mà về kinh đô Hồ Quý Ly

không hề bị trách cứ, Đỗ Tử Bình chỉ phải giáng xuống làm lính mà thôi”

(Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng, 2017). Như vậy trong việc tuyển chọn tướng

cầm quân vua cần sáng suốt, cân nhắc kỹ lưỡng để chọn được người thực sự

có tài cầm quân.

Điều 9 của Kê minh thập sách cũng chỉ rõ: “khí giới quý hồ bền sắc

chuộng chi vẽ vời”. Đã ra chiến trận, gươm dao là vũ khí của cuộc chiến sống

còn. Thế nên, vũ khí chỉ cần tốt, sắc, bền và có tính chiến đấu cao. Không cần

mẫu mã cầu kì, vừa tốn công rèn dũa, vừa tốn kém chi phí mà chẳng được gì.

Và điều 10 của kế sách, viết: “trận pháp cốt ở chỉnh tề đâu cần múa

khéo”. Đánh trận, bày bố trận pháp không phải để phô trương quân lực của

mình với kẻ thù mà là bố trí trận pháp như thế nào để đánh cho thắng, đánh

sao cho ít tổn thất nhất.

Từ bốn điều về binh vận nêu ở trên Bích Châu nhắc nhở vua rằng việc

chọn tướng cốt người thao lược chứ không phải vì kiêng nể mà chọn con ông

30

cháu cha. Qua kế sách của Bích Châu, có thể nói bà là người phụ nữ có tầm

nhìn. Nhìn về thời kỳ chống Nguyên - Mông của nhà Trần, các vị vua Trần

giữ được đất nước là do chọn được tướng tài mà rất nhiều tướng không phải là

người dòng họ Trần.

Nguyễn Thị Bích Châu sáng suốt khi nhìn nhận rằng chọn và dùng người

cần coi trọng phẩm chất, năng lực. Chọn người cũng không cần nhìn vào gia

thế, xuất thân. Chính cách chọn người công tâm và trọng năng lực của bà sẽ

giúp vua chọn được những người thực sự có tài để chỉnh đốn lại đất nước.

 Bài học hành chính, tham nhũng

Như đã đề cập ở phần bối cảnh lịch sử thời Trần, sau những võ công

oanh liệt thuở “Hào khí Đông A”, nhà Trần bắt đầu rơi vào thời kì khủng

hoảng triền miên của một chế độ quý tộc nông nô đã trở nên lạc hậu với sự

phát triển của xã hội. Chế độ trang ấp giai đoạn đầu có phát huy tác dụng như

mở rộng được diện tích đất đai, tạo nên tinh thần đoàn kết chống giặc ngoại

xâm nhưng càng về sau chính điền trang lại kìm hãm sức sản xuất của xã hội.

Trong triều đình nhà Trần lại lục đục, bọn nịnh thần tham nhũng hoành hành.

Nhân dân không còn tin tưởng vào triều đình như trước, giặc cướp nổi lên

khắp nơi.

Giai đoạn trước đó, tham quan nịnh thần trong triều đình đã trở thành

một vấn nạn. Thời vua Trần Dụ Tông Chu Văn An đã bất bình tới mức dâng

thất trảm sớ đề nghị chém 7 tên nịnh thần nhưng nhà vua không nghe nên ông

từ quan lui về ở ẩn. Suốt từ thời vua Trần Dụ Tông cầm quyền đến thời vua

Trần Duệ Tông thì nước ta trượt dài trên con đường khủng hoảng, không có vị

vua nào đủ năng lực và sáng suốt để vực dậy triều đại này.

Tiêu biểu là sự kiện năm 1376, chúa Chiêm là Chế Bồng Nga mang quân

xâm lấn. Duệ Tông đã sai Đỗ Tử Bình đi đánh Chế Bồng Nga sợ hãi xin dâng

mười mâm vàng tạ tội. Thế nhưng Tử Bình lại giấu vàng đi không những thế

ông ta còn tâu về triều rằng chúa Chiêm kiêu ngạo không thần phục. Chính sự

31

kiện này cũng thể hiện ngay những quân thần nhà vua tin tưởng nhất cũng vì

tham những, vì quyền lợi riêng mà gây ra mối hậu họa cho vua. Đây chính là

minh chứng rõ ràng nhất cho thấy ngay cả những người thân tín bên vua cũng

không thể tin tưởng. Vậy thì thử hỏi nạn tham những này còn gây ra những tai

họa tới đâu.

Thấy được thực trạng đó, Nguyễn Thị Bích Châu đã tỏ ý nhắc nhở vua

Trần Duệ Tông. Điều này thể hiện rõ qua điều 3 và điều 4 của bản Kê minh

thập sách: “ngăn chặn lũ lộng quyền để phòng chính sự sâu mọt”; “thải loại

bọn tham nhũng để trừ tệ đục khoét của dân”.

Khi nói về nạn tham nhũng, Nguyễn Thị Bích Châu dùng những từ rất

đắt như “lộng quyền” và “đục khoét”. Nhìn nhận một cách khách quan ta có

thể thấy lúc này vương quyền đã không còn tập trung duy nhất vào tay vua,

nội bộ triều đình đã bị chia thành nhiều phe phái khác nhau và tất cả những

phe phái này đều lợi dụng việc nhà vua bỏ bê chính sự, ra sức lộng quyền,

hạch sách bóc lột nhân dân, làm cho thế lực của mình ngày càng lớn mạnh lên

và mục đích cuối cùng đó là lật đổ ngôi vua để chiếm lấy ngai vàng. Chính vì

vậy để có thể yên tâm lo chuyện chính sự và cũng cố lại vương quyền vào tay

vua thì trước hết phải ngăn chặn cho bằng được lộng quyền.

Trong triều các phe phái nổi lên, ra sức lộng quyền dẫn đến việc hình

thành một đội ngũ quan tham. Nếu như vua quan ngày trước luôn hướng về

dân, lo cho dân từng bữa cơm giấc ngủ, lắng nghe tâm tư nguyện vọng của

muôn dân bách tính, thì giờ này, quan lại nổi lòng tham không đáy, chỉ chăm

chăm làm sao vét cho hết của dân để làm đầy túi mình. Người dân khi ấy gặp

phải thiên tai, hạn hán, dịch bệnh, mất mùa. Những yếu tố khắc nghiệt của

thời tiết đã khiến cho người nông dân vốn sống vào nghề nông “trông trời,

trông đất, trông mây” lâm vào cảnh đói nghèo. Vua quan đã chẳng thể nhìn

thấu, không đưa ra được những biện pháp để giúp dân vượt qua khó khăn. Lại

32

tăng thêm sưu, thêm thuế, khiến cho đời sống của người dân vốn đã khó khăn

nay lại bị đẩy vào ngõ cụt.

Đói nghèo sinh ra hàng loạt những rối ren. Trộn cướp nổi lên khắp nơi,

người dân bỏ xứ đi tha hương cầu thực. Cuộc sống bế tắc, người dân sinh

lòng oán hận, họ nổi lên đấu tranh, chống lại bọn quan tham, chống lại triều

đình. Kinh tế nghèo nàn lạc hậu, đời sống nhân dân khó khăn, trộm cướp khắp

nơi, phong trào nông dân phát triển mạnh mẽ. Tất cả đã phản ánh thực trạng

kinh tế - xã hội rối ren của nhà Trần lúc bấy giờ. Để có được một đất nước

vững mạnh, một xã hội bình yên thì phải có được lòng dân. Do đó muốn lấy

lại niềm tin từ nhân dân thì phải loại cho hết bọn tham quan, những kẻ đang

ngày đêm đục khoét của dân để sống trong nhung lụa.

Bà Bích Châu cho rằng phải ngăn chặn những kẻ lộng quyền thì nhân

dân mới có cuộc sống yên ổn được, triều chính mới đỡ rối loạn. Còn bọn tham

nhũng cần phải bị thải đi. Bích Châu mong muốn vua xem xét và thải loại bọn

“lộng quyền” và bọn “đục khoét” để dân chúng được yên vui.

Nguyễn Thị Bích Châu cũng giống như nhiều nhân tài thời trước, trong

đó có Chu Văn An đã nhìn thấy được sự tha hóa trong triều đình nhà Trần và

cho rằng phải có kế sách trừng trị và thức tỉnh nhà vua.

Sống và chứng kiến nhiều sự việc xảy ra trong cung Nguyễn Thị Bích

Châu là người thấu hiểu sâu sắc bối cảnh xã hội và nền hành chính triều Trần

lúc bấy giờ nên bà đã đưa ra những kế sách để chỉnh đốn nền hành chính đất

nước. Tác phẩm Kê minh thập sách không dài mà chỉ vọn vẻn 10 điều nhưng

đã khái quát được những tiêu chí để xây dựng một đất nước cường thịnh.

Từng câu chữ trong kế sách thật sâu sắc và đáng giá.

Để ổn định đất nước, pháp luật phải nghiêm minh, kẻ gian phải bị trừng

trị thích đáng, có như thế nước mới yên, dân mới phục. Công bằng là điều mà

vua phải làm để được an dân. Để đất nước phát triển, bộ máy quan lại phải

trong sạch, phải tuyển được người tài giúp việc cho vua, họ phải thực sự tận

33

tâm trung với nước với dân chứ không phải lợi dụng chức quyền để đục khoét

của dân. Ngay thời điểm này, việc trừng trị những kẻ nịnh thần, tham nhũng

là việc làm cần kíp để tránh nhà Trần đi vào con đường diệt vong.

Tóm lại, khi xem xét và nhận định giá trị của bản Kê minh thập sách

chúng ta phải đặt nó trong yêu cầu cấp bách của xã hội Đại Việt cuối thế kỷ

XIV mới có thể thấy hết được giá trị của bản kế sách. Vào giai đoạn cuối thời

Trần khi triều đại này đang có nhiều dấu hiệu suy thoái thì sự xuất hiện của

bản Kê minh thập sách thực sự có ý nghĩa. Nguyễn Thị Bích Châu dù là phận

làm phi nhưng lại mang trong mình một tư tưởng lớn, người phụ nữ ấy với

vốn kiến thức sâu sắc đã tự hoạch định đường lối, chính sách để giúp vua

dựng nước và giữ nước. Mười điều nhắc đến trong kế sách của bà thực sự hợp

lý, hợp thời và mới mẻ. Sự thông tuệ của Quý phi Bích Châu được nhà vua

khen ngợi nhưng vì lòng hiếu chiến, chỉ tập trung cho cuộc chiến với Chiêm

Thành do đó bản kế sách của bà không được áp dụng. Điều này cho thấy vua

Duệ Tông chưa đủ sáng suốt để nhìn nhận thực trạng đất nước và đưa kế sách

này vào thực tế.

b. Đối với ngày nay

Kê minh thập sách ra đời từ cuối thế kỷ XIV đến nay đã hơn sáu thế kỷ.

Nếu Đại Việt thế kỷ XIV đang khủng hoảng thì Việt Nam của thế kỷ XXI lại

đang trên đường phát triển và vươn mình ra thế giới. Thế nhưng giá trị của

bản kế sách này lại vẫn y nguyên giá trị trong bối cảnh đất nước hiện nay.

Giá trị của Kê minh thập sách tuyệt vời ở chỗ nó giống như một công

thức để mỗi đời sau đều có thể đem giải quyết các bài toán cụ thể về các mặt

chính trị, kinh tế, văn hóa, dân sinh của thời đại mình đang sống. Đặc biệt là

các nhà lãnh đạo đất nước thời nay cần có nhiều lưu tâm. Khi soi vào thực

trạng nước ta hiện nay mới thấy sự thấm thía từ những bài học từ kế sách của

Quý phi Bích Châu.

34

 Bài học về dân chủ

Bài học dân chủ, lấy dân làm gốc là tư tưởng tiến bộ của bản Kê minh

thập sách. Bài học này thể hiện rõ ở Điều 6 của kế sách. Tác giả của bản kế

sách nhắc nhở chúng ta rằng cần “mở rộng của cho ngôn luận như mở rộng

cửa thành để cầu lời nói thẳng” của bậc trung thần và của nhân dân. Rõ ràng

không chỉ thời Trần mà ngày nay khi chúng ta theo chế độ Xã hội chủ nghĩa,

bầu cử thông qua sự tín nhiệm của nhân dân thì tư tưởng này lại càng hợp lý.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là

nước nhà do nhân dân làm chủ”, “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân

là người chủ”, “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là

chủ”. Trong tác phẩm “Thường thức chính trị” viết năm 1953, Hồ Chí Minh

chỉ rõ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ... Nhân

dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi

hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Xã hội nào bảo đảm cho điều đó được

thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ”.

Chế độ của nước ta hiện nay do dân làm chủ, “nâng thuyền cũng là dân,

lật thuyền cũng là dân” và Đảng là đầy tớ trung thành của dân. Như vậy, dân

là nền tảng, là gốc của chế độ, lòng dân có yên, đời sống của dân có no đủ thì

đất nước mới mong giàu mạnh, nền chính trị mới có thể vững vàng. Chính vì

vậy, lời nhắc nhở của Quý phi Bích Châu còn vang vọng đến thời đại chúng

ta, đặc biệt những người lãnh đạo phải nhận thức được vai trò của nhân dân

trong việc xây dựng xã hội.

 Bài học chống tham nhũng

Ngày nay tham nhũng được xem là vấn nạn của toàn cầu, của tất cả các

quốc gia trên thế giới và trong đó có cả Việt Nam. Chống tham nhũng đòi hỏi

sự phối hợp chặt chẽ giữa các quốc gia, quốc tế và thế giới, nhất là trong bối

cảnh toàn cầu hóa và hội nhập.

35

Ở Việt Nam, nạn tham nhũng biểu hiện phức tạp đủ mọi sắc thái, loại

hình, mức độ, cũng như hậu quả. Tham nhũng là một trong những con sâu

mọt đục khoét dần dần nhưng để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng, đó

là:

Xã hội bất an, bất ổn, tiềm ẩn những mâu thuẫn, xung đột có nguy cơ

phá hỏng sự nghiệp đổi mới và các mục tiêu phát triển của nước ta.

Đạo đức xã hội, đạo đức gia đình và cá nhân rơi vào trạng thái suy đồi.

Các giá trị tinh thần nền tảng bị xem nhẹ, bệnh vô cảm tràn lan, niềm tin

và lòng tin của người dân ngày càng giảm sút.

Kinh tế chậm phát triển, lạm phát tăng cao và khủng hoảng có nhiều dấu

hiệu tăng lên. Nợ xấu, nợ công gia tăng, tới mức nguy hiểm. Tham nhũng

còn có thể làm hỏng cả vị thế và uy tính của của Việt Nam trên trường

quốc tế, làm giảm sút nghiêm trọng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, gây

thiệt hại lớn cho phát triển tiềm lực quốc gia.

Làm suy yếu Đảng và Nhà nước, đe dọa tới sinh mệnh của Đảng và sự

tồn vong của chế độ.

Do đó, việc chống tham nhũng ngày càng trở nên cấp thiết. Công cuộc

phòng và chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay đang được Đảng nhà nước

và toàn dân chung tay thực hiện một cách mạnh mẽ.

Theo Nguyễn Thị Bích Châu từng đề xuất trong Kê minh thập sách, cần

phải thải loại bọn tham nhũng để chúng không thể đục khoét của dân làm ảnh

hưởng đến nền kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước. Để làm được điều đó,

cần có sự quyết tâm cao, sự đồng lòng nhất tề chung tay của toàn Đảng toàn

dân. Trước hết cần phải đẩy mạnh giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức trách

nhiệm trong toàn Đảng, toàn dân, trong Nhà nước và các đoàn thể, tạo ra áp

lực xã hội và đề cao dũng khí của cả dân tộc trong việc giải quyết nạn tham

nhũng. Hai công cụ đắc lực cho việc chống lại “cơn lũ” tham nhũng nguy

hiểm này là pháp luật và đạo đức. Cuộc vận động học tập và làm theo tư

36

tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh hiện nay và về sau phải tạo được

sức mạnh, trở thành động lực chính trị, tinh thần trong chống tham nhũng.

Phải tiến hành nghiêm chỉnh việc dạy và học, giáo dục và thực hành đạo đức

trong toàn xã hội, từ gia đình, nhà trường đến các công sở, các tổ chức kinh tế

- xã hội, các công ty, doanh nghiệp, tập đoàn.

Hiện nay, Pháp luật Việt Nam đặc biệt quan tâm đến vấn đề chống tham

nhũng, coi đó là một tội ác xã hội cần trừng trị để bảo vệ cái thiện và vì lành

mạnh của xã hội.

 Bài học về cải cách hành chính

Để có nền hành chính minh bạch, hữu hiệu, không phiền nhiễu phải chú

ý đến việc phải xử lý như thế nào với hai tệ nạn đã có từ thời xưa, mà ngày

nay còn tồn tại trong những hình dạng mới: lộng quyền và tham nhũng.

Muốn giữ được nền cơ đất nước, sau khi diệt kẻ hà bạo thì phải “giữ nếp

cũ”, tức là phải giữ gìn và phát huy truyền thống của dân tộc, duy trì kỷ

cương phép nước, pháp luật phải nghiêm minh công bằng thì lòng dân không

rối. Phải làm cho bộ máy quan lại trong sạch, cần có thiết chế ngăn ngừa

những kẻ có quyền lực sẽ lợi dụng chức quyền để trở thành sâu mọt đục khoét

của dân. Đó là bài học về xây dựng và thực hiện nghiêm minh pháp luật.

Chú trọng phẩm chất năng lực con người, đề cao thực chất nội dung chứ

không chạy theo hình thức, không chạy theo đua đòi thành tích là một bài học

còn nguyên giá trị trong quản lý hành chính nhà nước hôm nay.

Công lý có đến được với người dân hay không phụ thuộc vào đạo đức trí

tuệ của những người “cầm cân nảy mực” trong chỉnh thể nhà nước, phụ thuộc

vào đạo đức công vụ và sự nghiêm minh của pháp luật, phụ thuộc vào sự cống

hiến của đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, tài năng, tận tụy làm công bộc

của nhân dân. Muốn cải cách hành chính thành công không chỉ cần tăng

cường học tập, áp dụng tiến bộ của nền hành chính của các nước trên thế giới

mà còn cần phải nghiên cứu tìm kiếm những bài học được đút rút từ trong lịch

37

sử hành chính của đất nước. Cải cách hành chính là một quá trình đầy gian

nan, thử thách, phải vượt qua nhiều khó khăn, phức tạp, cần sự quyết tâm,

kiên trì của cả hệ thống chính trị; cần có sự kiểm tra, đánh giá thường xuyên;

xác định trọng tâm, trọng điểm qua từng thời đoạn; sử dụng các công cụ hữu

hiệu để tạo đòn bẩy thúc đẩy; gắn với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở;

thu hút sự tham gia của các cơ quan truyền thông; quan tâm đào tạo nguồn

nhân lực ngày càng chuyên nghiệp nhằm đáp ứng mục tiêu, nội dung, yêu cầu

của cải cách hành chính và công cuộc đổi mới ở nước ta.

 Bài học về đường lối quân sự, chọn tướng

Ngày nay, việc chọn người đứng đầu không chỉ trong quân sự mà mọi

lĩnh vực trong xã hội cả công cả tư. Nhờ có người chỉ huy tài giỏi mà đạt

nhiều thành công to lớn. Tuy nhiên, trong nhiều lĩnh vực việc tuyển chọn

người tài còn nhiều hạn chế dẫn đến mất thời cơ, mất thời giờ và tiền của của

nhân dân và xã hội. Cha ông ta biết tổng kết vai trò của người hiền tài mà

khắc vào bia đá “hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Đọc lại Kê minh thập

sách của Nguyễn Thị Bích Châu như một lời mách bảo nhằm xét lại cách ứng

xử lâu nay để tìm kiếm người tài cho tương lai của đất nước.

Cách nhìn nhận của bà trong chiến lược dùng người là phải coi trọng

phẩm chất, năng lực chứ không chỉ nhìn hình thức bên ngoài. Tuyển dụng

nhân tài phải nhìn vào trí tuệ tài năng thực tế chứ không nhìn vào gia thế, xuất

thân. Sáng suốt thay, cách nhìn của bà đã để lại cho chúng ta một bài học về

khoa học tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch vững

mạnh.

Chú trọng phẩm chất năng lực con người, đề cao thực chất nội dung chứ

không chạy theo hình thức, không chạy theo đua đòi thành tích là một bài học

còn nguyên giá trị trong quản lý hành chính nhà nước hiện nay; đồng thời

cũng là bài học về xây dựng thế trận quốc phòng an ninh vững mạnh.

38

Ở nhiều lĩnh vực điều hành vĩ mô ta chưa chọn được người tài thao lược

nên cần phải có cơ chế hợp lý để tuyển chọn được người tài cho đất nước.

Việc xây dựng một đội ngũ nhân lực tận tâm và có trí tuệ phục vụ cho

đất nước là điều mà tất cả các nước trên thế giới đều quan tâm. Để có được

nguồn nhân lực vừa có tâm vừa có tài thì cần hai yếu tố đó chính là đạo đức

và giáo dục. Việt Nam là một quốc gia có lịch sử hàng nghìn năm, trong suốt

chiều dài lịch sử đó cò một tư tưởng luôn trường tồn với thời gian đó là

“Trung quân, ái quốc”. Xét về bối cảnh thời xưa thì đó là một lòng trung

thành với vua với quốc gia. Trong bối cảnh hiện đại ngày nay, khi chế độ xã

hội phong kiến đã bị xóa bỏ và thay vào đó là một chế độ mới hiện đại hơn

văn minh hơn thì tư tưởng “Trung quân, ái quốc” được chuyển thành “Trung

với nước, hiếu với dân”. “Trung” ở đây là trung thành với đất nước, cống hiến

hết mình cho nhân dân, luôn trung thành với Đảng và Nhà nước, cống hiến tài

năng và phẩm giá của mình cho đất nước, cùng chung tay bảo vệ và xây dựng

đất nước ngày càng giàu đẹp hơn.

Nếu như đạo đức là do ý thức của mỗi người thì tài năng, trí tuệ lại là sản

phẩm của quá trình học tập, rèn luyện. Để có thể tuyển dụng được nhân tài thì

trước hết phải bắt đầu từ khâu đào tạo. Đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư

cho sự phát triển. Phát triển giáo dục, tìm kiếm và bồi dưỡng nhân tài đó

chính là những việc làm cần thiết của chúng ta lúc này.

Song trên thực tế, Việt Nam đã và đang diễn ra tình trạng “chảy máu

chất xám” do chính sách đãi ngộ và thu hút nhân tài của nước ta còn gặp

nhiều hạn chế. Người tài không có cơ hội để phát triển bản thân cũng như

không có những đãi ngộ tương xứng với trình độ và kĩ năng của họ.

Bởi vậy, để có thể xây dựng được một đội ngũ nhân lực vừa có tâm vừa

có tài để phục vụ cho đất nước, Đảng và Nhà nước cũng như ngành giáo dục

Việt Nam cần phải đưa ra những biện pháp thiết thực và hiệu quả để giải

39

quyết tình trạng “chảy máu chất xám”. Có như vậy, đất nước mới ngày càng

phát triển.

Cách nhìn sáng suốt của Nguyễn Thị Bích Châu đã để lại đến ngày nay

cho chúng ta một bài học về khoa học tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ

công chức trong sạch vững mạnh.

 Bài học về “chấn Nho phong”

Trong điều 5, Nguyễn Thị Bích Châu đã nhắc đến “chấn Nho phong”.

Nho phong không chỉ có nghĩa là sự học, mà còn là cốt lõi, chất lượng con

người, chất lượng của sự học. Đó là sự mách bảo sáng suốt cho nền giáo dục

và nền văn hóa của ta hôm nay.

Xã hội đang ngày càng văn minh và tiến bộ điều đó đòi hỏi chúng ta phải

không ngừng nỗ lực và học hỏi để không bị bỏ lại đằng sau và trở thành lạc

hậu. Bác Hồ đã từng nói “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Như vậy, ta

có thể thấy được tầm quan trọng của giáo dục đối với sự thịnh suy của một

quốc gia. Giáo dục chính là con đường đầu tiên để tạo nên giá trị của con

người, cũng là cách thức tốt nhất để tạo nên một đất nước văn minh và giàu

mạnh. Chú trọng đến giáo dục sẽ giúp chúng ta nhìn nhận và tiếp thu những

điều tiến bộ trên thế giới, đồng thời sẽ tạo ra một nguồn lao động dồi dào có

trình độ cao để góp phần xây dựng đất nước ngày càng phát triển.

Ngoài ra, trong những năm gần đây, vấn đề tha hóa đạo đức đã trở thành

một vấn nạn, các mối quan hệ truyền thống như cha mẹ - con cái, con cháu -

ông bà, người với người đang dần bị sai lệch, lừa đảo và căn bệnh vô cảm đã

trở nên rất phổ biến, tình trạng tham nhũng diễn ra phức tạp gây ra những

thiệt hại rất lớn cho đất nước. Việc suy đồi đạo đức đã bắt đầu ở mức báo

động, điều này dấy lên một hồi chuông cảnh tỉnh về việc giáo dục con người

về cả trí tuệ và nhân cách.

Để quốc phú dân cường, dân giàu nước mạnh, dân chủ, văn minh….thì

đất nước, xã hội ấy phải được nuôi dưỡng bằng văn hóa. Lý tưởng văn hóa

40

của Kê minh thập sách là chấn hưng Nho phong. Nho phong ngày xưa được

coi như là cái chất tốt đẹp của trí tuệ và đức hạnh của mỗi người. Sự phát triển

văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật hiện đại cũng phải nhắm tới lý tưởng

văn hóa đó.

Hiện nay, nước ta đang bắt tay thực hiện nhiều nhiệm vụ quan trọng như

tăng hiệu quả cạnh tranh của nền kinh tế, chấn hưng nền giáo dục, văn hóa và

khoa học. Mở “túi gấm” Kê minh thập sách, chúng ta sẽ thấy được sự “mách

bảo thần minh”. Hồn thiêng của tổ tiên và văn hóa Việt đang chỉ cho ta phải

bước vào thời đại mới với một tầm nhìn, một trí tuệ, một quyết chí mạnh mẽ,

sáng suốt.

Quả thật, Kê minh thập sách là những tư tưởng chiến lược mà bất cứ ai

hiểu được, cảm nhận được và tìm mọi cách để đưa vào thực tiễn hành động sẽ

đảm bảo được thắng lợi. Cố nhiên không thể có thắng lợi nếu chỉ nói, không

làm hoặc làm một cách hình thức. Có thể nói, đó là tiêu chuẩn lý tưởng, là

“khuôn vàng thước ngọc” để đo lường, kiểm nghiệm đúng sai, tốt xấu của

mọi chủ trương chính sách, mọi đường lối của Đảng và Nhà nước ta.

Kê minh thập sách là “minh triết”, là “linh hồn” của những đạo lý mới để

góp phần hình thành một cộng đồng xã hội Việt Nam hiện đại. Mong rằng các

nhà lãnh đạo sẽ áp dụng những điều của cha ông chỉ dạy để thực hiện mục

tiêu và hành động của mình.

Trong một buổi tọa đàm về Chế thắng phu nhân và Kê minh thập sách

của các nhà khoa học do Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân huyện Kỳ

Anh tỉnh Hà Tĩnh tổ chức, ông Nguyễn Khắc Mai, Thường vụ hội khuyến học

Việt Nam cho rằng tư tưởng trong Kê minh thập sách vẫn còn rất mới, rất thời

sự dù đã ra đời gần 700 năm. Theo ông, Kê minh thập sách là một áng văn

ngắn, lời ít nhưng ý tứ lại rất rộng và nghĩa lý sâu sắc. Đây được xem là

những kế sách dựng nước và giữ nước của người Việt, xuyên suốt mọi thời

đại. Ông cũng nhấn mạnh Kê minh thập sách chứa đựng những “minh triết”,

41

“sự khôn ngoan, thông tuệ”, có giá trị khái quát như những định đề có thể vận

dụng trong những bài toán chính trị, nhân sinh của thời đại ngày nay. Tư

tưởng của Kê minh thập sách là thấm nhuần bản sắc văn hóa Việt Nam để mở

cửa, hội nhập, giao lưu, cạnh tranh, dân chủ, văn minh,… là phương sách

dựng nước và giữ nước.

Giáo sư Vũ Ngọc Khánh thảo bài văn tế Chế Thắng phu nhân, tiếng đọc

văn tế vang lên xao động cả một vùng đồng ruộng, núi non, sông nước, biển,

trời Kỳ Hoa:

Bài Kê minh thập sách là của muôn đời

Đấng liệt nữ bích châu là vị thầy vạn thuở…

Theo mười điều ấy, nước tất thịnh cường

Làm mười điều này dân càng an lạc…

Như vậy, bà Nguyễn Thị Bích Châu là người phụ nữ đầu tiên dâng kế

sách dựng nước và giữ nước lên nhà vua, tuy không được vua Trần Duệ Tông

thực hiện theo nhưng kế sách dựng nước và giữ nước trong Kê minh thập sách

là một trong những đóng góp to lớn của bà với lịch sử dân tộc, nó còn nguyên

giá trị ở thời đại hiện nay và cả mãi về sau.

Ông Nguyễn Phúc Giác Hải nói: “Kê minh thập sách là thông điệp của tổ

tiên gửi cho con cháu thế kỷ XXI. Nước Nam thường có thánh tài. Sự hiển

linh của thần thánh không còn là sự lạ với chúng ta” (Phan Thư Hiền, 2002).

42

Tiểu kết chương 1

Nguyễn Thị Bích Châu là người phụ nữ sinh ra trong thời đại mà tiếng

nói của người phụ nữ bị hạn chế. Với vai trò là một Quý phi, bà đã không

chọn một cuộc đời an nhàn mà chấp nhận dấn thân vì dân vì nước.

Cả cuộc đời từ lúc vào cung cho đến khi ngã xuống, Quý phi Nguyễn

Thị Bích Châu đã luôn sống với những ý nguyện “thân dân” tốt đẹp. Đây

cũng chính là phần lương tri ẩn sâu trong tiềm thức dân tộc chỉ chờ thời cơ là

phát sáng. Tuy nhiên, dưới thời vua Trần Duệ Tông, phần lương tri đó lại

không có cơ hội để trở thành hiện thực.

Bởi một lòng vì nước vì dân, bà chấp nhận hy sinh tính mạng của mình.

Cái chết của bà là một sự trả giá cho những ước vọng quá khổ, những ước

vọng đi trước thời đại nhưng bản thân nó không hề mang ý nghĩa của sự tuyệt

vọng. Trái lại đó là cái chết thiêng liêng đã “hiển linh” thành một sức mạnh

thần bí hộ vệ dân chúng trong đời sống tín ngưỡng của cộng đồng nhiều thế

kỷ nay. Cái chết của bà đã nhen nhóm cho những người đương thời, từ vua

cho đến người dân một niềm tin vào sự sống, vào sức mạnh của truyền thống

lâu bền.

Và với những lời khuyên sâu sắc, thấm đậm tinh thần dân tộc xuất phát

từ trái tim và khối óc của một người phụ nữ vốn chỉ quen với nhung lụa ấy đã

khiến cho người đương thời cũng như hậu thế phải tôn kính, vinh danh và

ngưỡng mộ.

Tác phẩm Kê minh thập sách của Nguyễn Thị Bích Châu là kế sách

khuyên vua chăm lo sửa sang việc nước. Trải qua hơn 600 năm, kế sách vẫn

còn nguyên giá trị, tiếp tục là bài học cảnh tỉnh về an dân, trị quốc cho những

ai nắm trong tay quyền lực,…

Kê minh thập sách là tác phẩm ngắn gọn nhưng lời lẽ đanh thép, nội

dung bao hàm nhiều phương diện của quốc kế dân sinh, chứa đựng cả chiến

lược lẫn sách lược của ba vẫn đề cốt lõi: chính trị, văn hóa, quân sự. Giá trị

43

của bản kế sách không những có giá trị đối với với vương triều Trần mà còn

rất thiết thực với xã hội hiện đại. Cho đến hôm nay, nội dung của Kê minh

thập sách vẫn còn nguyên giá trị, là bài học về an dân, trị quốc.

Kê minh thập sách thực chất là một chính sách toàn diện nhằm cải tổ bộ

máy nhà nước chuyên chế trên cơ sở mầm mống phôi thai của tinh thần dân

chủ. Khi thấy chính sự đất nước rối ren, vua tôi tranh nhau quyền lực, thấy rõ

sự khủng hoảng của nhà Trần đã đến thời kỳ mạt vận, bà Bích Châu đã mượn

chữ Kê minh để gióng lên một tiếng gà báo sáng. Báo sáng là thức tỉnh để

tránh sự u muội, tối tăm.

Tuy nhiên, hầu như các công trình đã đề cập chỉ tập trung nói về cuộc

đời, cái chết và bình luận về bản Kê minh thập sách của bà. Ngay cả đánh giá

vai trò của Kê minh thập sách cũng mới đề cập đến tác dụng đối với ngày nay

mà chưa đánh giá được vai trò của văn bản này đối với triều Trần. Hơn nữa

tất cả các công trình trên hầu như chưa đề cập cụ thể đến quá trình hình thành

và phát triển của nhà Trần, đặc biệt là giai đoạn cuối triều Trần để làm nổi bật

được giá trị to lớn của bản Kê minh thập sách. Chính vì vậy, trong đề tài này

người viết đi vào nghiên cứu bối cảnh nước ta cuối triều Trần từ đó đánh giá

vai trò và đóng góp của Nguyễn Thị Bích Châu trong công cuộc dựng nước

thời Trần. Từ đó liên hệ thực tế, vận dụng những tư tưởng của Nguyễn Thị

Bích Châu trong công cuộc dựng nước và giữ nước ngày nay.

Ngày nay, Kê minh thập sách chính là nền tảng của khái niệm về một

quốc gia “Hòa bình, độc lập, dân chủ và hùng cường”.

44

Chương 2. NGUYỄN THỊ BÍCH CHÂU TRONG SỰ NGHIỆP GIỮ

NƯỚC THỜI TRẦN VÀ TRONG TỤC THỜ ĐẠO MẪU

2.1. Vai trò của Nguyễn Thị Bích Châu trong sự nghiệp dựng nước qua

đối chiếu với các nhân vật phụ nữ triều Trần

2.1.1. Triều Trần trong lịch sử Việt Nam - Dựng nước và giữ nước

a. Công cuộc dựng nước thời Trần

Nhà Trần ổn định tình hình chính trị - xã hội:

Các vua Trần đã xây dựng một cấu trúc chính trị - xã hội khá cân bằng và ổn

định, có khả năng huy động được sức mạnh của toàn dân, đặc biệt là sức

mạnh của cộng đồng, làng xã - lực lượng chính tạo ra của cải vật chất cho xã

hội và cũng chính là lực lượng nòng cốt trong các cuộc đấu tranh chống kẻ

thù xâm lược. Đại Việt là quốc gia đất không rộng, người không đông lại

thường xuyên bị thế lực ở phương Bắc đe dọa nên công cuộc xây dựng và bảo

vệ tổ quốc phải mang tính nhân dân rộng khắp, dựa trên sự thống nhất và

đoàn kết tuyệt đối giữa các thành phần, giai cấp trong xã hội với nhà nước

trung ương tập quyền phong kiến. Do đó muốn xây dựng được khối đoàn kết

dân tộc phải có sự kết hợp hài hoà giữa pháp trị và đức trị trong kế sách tổ

chức và quản lý xã hội.

Nhà Trần xây dựng tiềm lực đất nước lớn mạnh, đủ sức đương đầu

với khó khăn thử thách

Xây dựng tiềm lực kinh tế

Thực tiễn lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cho

thấy trước và sau mỗi cuộc kháng chiến tổ tiên ta đều tiến hành xây dựng đất

nước trên các mặt, làm cho đất nước có đủ sức mạnh sẵn sàng chống lại và

chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Dân tộc ta đã đứng vững và chiến thắng kể

cả thế lực xâm lược và hung bạo của thời đại. Chúng ta làm được điều đó là

nhờ vào sức mạnh chiến đấu của toàn dân, của cả nước mà nòng cốt là lực

lượng vũ trang hùng hậu gồm cả lực lượng thường trực và hậu bị rộng rãi, sức

45

mạnh kết hợp của nhiều mặt trong đó tiềm lực vật chất to lớn biểu hiện tập

trung ở lương nhiều, binh mạnh. Cuối thời Lý nước Đại Việt rơi vào tình

trạng khủng hoảng, kinh tế sa sút. Vua quan ăn chơi sa đọa, không chăm lo

đến đời sống nhân dân. Hạn hán, lũ lụt xảy ra liên miên, nhân dân khổ cực,

các thế lực phong kiến nổi dậy quấy phá.

Ngay từ đầu thời Trần vấn đề nông nghiệp đã được chính quyền trung

ương rất quan tâm, đặc biệt là đắp đê. Thuế khóa thời Trần được giảm nhẹ

cho dân. Triều đình cũng cho phép các vương, hầu có quyền chiêu tập những

người nghèo khó, lưu lạc đi khai khẩn đất hoang để mở mang thêm ruộng

nương.

Nông nghiệp thời Trần được quan tâm thông qua việc pháp luật bảo vệ

sản xuất nông nghiệp. Các điều lệ để bảo vệ các công trình thủy lợi và trâu bò.

Ngoài đắp đê ngăn nước sông, nhà Trần còn chú trọng đến việc tổ chức đắp

đê biển để ngăn nước mặn. Đê biển là những công trình mới có từ thời Trần.

Các điền trang thường nằm ở ven biển nên các quý tộc nhà Trần thường cho

nô tì đắp đê tại ven biển để tránh nước mặn tràn vào các điền trang…điều này

từ trước tới nay chưa có triều đại nào làm được.

Tóm lại, việc đắp đê đã thể hiện một bước tiến toàn diện về sức mạnh

của nhà nước, về tổ chức xã hội. Nó có tác dụng lớn trong việc đảm bảo và

thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Nhân dân ta thời đó khó có thể tự liên kết, hợp

sức lại để xây dựng đê điều phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nhà nước đã

rất thành công trong việc tạo ra mối liên kết chặt chẽ để huy động nhân lực

nhằm giải quyết khó khăn trong cả nước. Chính những hành động quan tâm

đến đời sống của nhân dân đã làm cho tiềm lực nước ta ngày càng lớn mạnh,

nhân dân đoàn kết tin tưởng triều đình và cuối cùng đất nước đã đủ nhân lực

và vật lực để đương đầu với giặc ngoại xâm.

Lòng tin, sự ủng hộ của người dân vào triều đình càng được củng cố khi

những phần ruộng của họ bị các đoạn đê lấn vào thì được nhà nước đền bù.

46

Dưới thời Trần đã xuất hiện những điền trang của quý tộc và quan lại, họ

sở hữu diện tích đất đai lớn. Việc lập điền trang gắn với quá trình khẩn hoang

mở rộng diện tích canh tác, kích thích sự phát triển nông nghiệp, còn việc đào

kênh mương tưới tiêu lại gắn với quá trình lập làng mới. Đây chính là quá

trình tạo nên sự gắn kết, chia sẻ vì công việc chung của người dân, là nền tảng

tạo nên tình yêu nước và ý chí quyết tâm đánh giặc bảo vệ đất nước trước

những hiểm họa ngoại xâm. Thái ấp, điền trang còn là nơi tích trữ lương thực,

dự trữ sức người, sức của cho thời chiến, tạo được nền quốc phòng ngay trong

thời bình. Trong thời bình, điền trang chính là một hình thức để mở rộng địa

bàn, phạm vi cư trú của cư dân, vì vậy đây được xem là hình thức mở mang

bờ cõi của nhân dân ta. Chính sách ban cấp Thái ấp của nhà Trần là một sự

kết hợp chặt chẽ giữa ba mặt chính trị - kinh tế - quốc phòng. Đây là một nét

đặc sắc trong chính sách đối nội của triều đại này.

Thời nhà Trần, ngành thủ công nghiệp cũng phát triển mạnh, quan

xưởng tiếp tục được xây dựng, nhà nước chế tạo nhiều binh khí, đồ trang sức,

đúc tiền, chuông, xây đền đài, cung điện…Thủ công nghiệp trong nhân dân

cũng là một bộ phận quan trọng và phổ biến của ngành thủ công nghiệp thời

Trần, nó làm nên đặc trưng của nền kinh tế tiểu nông thời bấy giờ.

Chính sự phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp đã thúc đẩy sự

phát triển của thương nghiệp thời Trần. Chợ lớn nhỏ mọc lên nhiều nơi, chợ

kết hợp với phố là thị trường địa phương của hương, phủ nhằm giải quyết nhu

cầu của các tầng lớp nhân dân trong vùng. Tiền tệ đóng vai trò quan trọng

trong xã hội. “Để thuận tiện cho việc trao đổi buôn bán hàng hóa trong xã hội,

nhà Trần xuống chiếu cho dân gian dùng tiền “tỉnh bách” mỗi tiền là 69 đồng.

Tiền nộp cho nhà nước (tiền “thượng cung”) thì mỗi tiền là 70 đồng” (Nguyễn

Thị Thùy Duyên, 2017). Đối với ngoại thương, thời kỳ này nước ta không chỉ

giao lưu với bên ngoài bằng đường bộ mà còn thông qua đường biển. Cảng

Vân Đồn là nơi tiếp nhận nhận hàng hoá từ bên ngoài vào nước ta, đây là một

47

thương cảng lớn nhưng sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông

việc buôn bán ở đây bị hạn chế.

Tóm lại, ngay từ khi cầm quyền nhà Trần đã tập trung khôi phục tiềm

lực kinh tế - xã hội nhằm ổn định và phát triển đất nước. Nhờ vậy dưới thời

nhà Trần trị vì nước ta đủ sức đương đầu với đội quân Nguyên - Mông. Thành

tựu ấy không phải triều đại nào cũng làm được.

Xây dựng tiềm lực quân sự

Chính sách kết hợp kinh tế với quốc phòng thời nhà Trần là chính sách

“ngụ binh ư nông” nhằm bảo đảm lực lượng lao động cho sản xuất nông

nghiệp và kịp thời điều động mọi đinh tráng vào lính khi có chiến tranh. Đây

là một sáng tạo độc đáo khi kết hợp kinh tế với quốc phòng phù hợp với một

nước nhỏ, sản xuất nông nghiệp, tiềm lực kinh tế quốc phòng có hạn, phải

chống lại những đạo quân xâm lược lớn.

Chính sách này xuất phát từ thực tiễn nước ta là một quốc gia nhỏ nhưng

vị trí địa lý thuận lợi nên từ khi mới lập quốc đã phải đương đầu với họa xâm

lăng. Để có thể vừa xây dựng và bảo vệ được độc lập cho dân tộc, không có

cách nào khác là toàn dân phải tham gia sản xuất và chiến đấu chống kẻ thù.

“Ngụ binh ư nông” là một phương thức kết hợp chặt chẽ giữa “binh” và

“nông”, tức là tổ chức lực lượng vũ trang ba cấp gắn với nông nghiệp và nông

thôn. Khi trong nước không có việc thì cho quân lính về làm ruộng, khi có

chiến tranh thì sẵn sàng ra trận chiến đấu chống kẻ thù. Lịch triều hiến

chương loại chí có đoạn viết: “Nhà Trần theo phép nhà Lý, binh túc vệ đều

cấp bổng hàng năm, số bổng bao nhiêu không rõ còn bình các đạo thì đều

phải chia phiên về làm ruộng cho đỡ tốn lương” (Phan Huy Chú, 1961).

Quân đội thời Trần ngoài lực lượng chính là quân triều đình, quân địa

phương thì còn có lực lượng dân binh là lực lượng dân chúng vũ trang đông

đảo sẵn sàng được động viên trong thời chiến.

48

Có thể nói đây là một chính sách hay của nhà Trần vì nhà nước có được

quân đội thường trực cần thiết khi có biến cố xảy ra, đồng thời lại có sẵn một

lực lượng quân dự bị đông đảo nằm trong các làng xã, lực lượng này sẽ ra

chiến đấu khi đất nước lâm nguy. Với chế độ quân lính vừa được chia phiên

thay nhau về nhà sản xuất, nhà nước đã tạo điều kiện cho quân lính được

thường xuyên luyện tập quân sự để sẵn sàng chiến đấu khi tổ quốc lâm nguy,

giảm bớt được chi phí quốc phòng, lại giải quyết được nhu cầu thiếu nhân lực

phục vụ cho việc sản xuất nông nghiệp - nền tảng của nền kinh tế quốc gia.

Chính sách này đã thể hiện rõ cách thức xây dựng lực lượng vũ trang phòng

giữ đất nước nằm trong nhân dân, sản xuất được gắn liền với sự nghiệp đấu

tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc.

Chính vì nhà Trần làm tốt việc xây dựng đất nước nên tới lúc đất nước

lâm nguy thì sức mạnh toàn dân tộc được huy động. Chủ trương của nhà Trần

là “lấy đoản binh thắng trường trận, lấy ngắn đánh dài, xây dựng tình đoàn kết

trong quân đội” và “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”. Nhà Trần biết

“lấy dân làm gốc”, tạo nên tinh thần đoàn kết dân tộc, điều này tạo nên nhân

tố quan trọng để nhà Trần đánh bại kẻ thù xâm lược. Đây cũng chính là bài

học cho các đời vua Trần giai đoạn sau. Các vị vua cuối triều Trần đã không

nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng và quản lý đất nước nên

cuối cùng dẫn đến sự suy vong của triều đại.

Thực tiễn cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông đã cho thấy việc tổ

chức quân đội và chính sách xây dựng lực lượng vũ trang của nhà Trần trong

thế kỷ XIII là đúng đắn, sáng tạo. Quân đội nhà Trần có số lượng đông khi

cần thiết, trở về phục vụ sản xuất khi thời bình. Lúc thường quân số nhà Trần

chưa đến 10 vạn, nhưng trong kháng chiến chống quân Nguyên - Mông có lúc

triều đình đã huy động được 20 vạn quân đánh giặc. Chiến thắng Đông Bộ

Đầu (1258), Hàm Tử, Tây Kết (1285) và đặc biệt là chiến thắng Bạch Đằng

(1288) đã cho thấy sức mạnh của đội quân này trong thời kỳ Đại Việt hưng

49

thịnh. Để có thể tạo nên sức mạnh ấy, giải pháp tốt nhất là xây dựng tiềm lực

kinh tế với quốc phòng để chuẩn bị cho chiến tranh giữ nước. Nhà Trần là

triều đại thực hiện rất thành công chính sách “ngụ binh ư nông”, huy động

được mọi nguồn lực của quốc gia và sức mạnh của nhân dân để giữ nước.

Tiếc rằng từ giai đoạn của vua Trần Dụ Tông về sau các vua Trần đã không

rút ra được bài học từ ông cha mình, xa rời nhân dân, dẫn đến sự suy vong

của triều đại.

Nhà Trần tập hợp sức dân tạo nên khối đoàn kết trong nước, lãnh đạo

thành công quân dân đánh giặc, bảo vệ đất nước, giữ vững nền độc lập dân

tộc

Các vua Trần có khả năng tập hợp được đông đảo nhân dân, được nhân

dân tin yêu, chung sức, đồng lòng tiến hành thắng lợi công cuộc xây dựng

kinh tế - xã hội cũng như chống ngoại xâm, sáng tạo nên những giá trị rực rỡ

của văn minh Đại Việt. Đặc biệt là đóng góp của nhà Trần trong việc tập hợp

sức dân chống lại quân Nguyên - Mông. Vì vậy, hai trận xâm lược đại quy mô

vào năm 1285 và 1288, giặc đã huy động quá nửa triệu quân với hàng trăm

viên danh tướng đã từng chinh phục hàng chục quốc gia.

Nếu chỉ so sánh về tiềm lực kinh tế, sức mạnh quân sự, về đất đai và dân

số thì nước ta không phải là đối thủ của đế quốc Nguyên nhưng cả hai cuộc

xâm lăng liên tiếp trong 3 năm của giặc đều đại bại.

Ngay lần xâm lược đầu tiên của quân Nguyên - Mông vua Trần Thái

Tông đã chỉ huy quân ta đánh mãnh liệt khiến toàn bộ quân giặc hốt hoảng bỏ

kinh thành tháo chạy. Tất cả của cải chúng vơ vét được đều để lại hết. Dọc

đường trở về chúng không dám dừng lại, không dám cướp bóc nên nhân dân

ta gọi chúng là “giặc Phật”.

Cuối năm 1284, Hốt Tất Liệt tiếp tục phái 50 vạn hùng binh với đích

thân con trai y là Thoát Hoan chỉ huy cùng đội ngũ tướng lĩnh bách chiến

chưa từng gặp đối thủ xứng tầm. Tuy nhiên, quân dân Đại Việt đã mưu trí,

50

kiên cường chống giặc. Hàng chục vạn quân giặc bị giết và bị bắt. Chưa đầy

bảy tháng từ khi quân giặc vào xâm lược nước ta chúng đã phải vội vã tháo

chạy.

Tiếp đó, đợt chống xâm lược lần thứ 3 sau 2 năm cũng chuẩn bị hết sức

chu đáo. Cuối năm 1287 đầu năm 1288, hai mặt thủy bộ giặc rầm rộ kéo vào

nước ta. Lần này ta kháng giặc chủ động hơn, tinh thần binh sĩ và muôn dân

hăng hái kiên cường. Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 đã kết thúc vẻ vang

cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ 3 của Đại

Việt.

Như vậy, nhà Trần đã khéo kế thừa các ưu điểm nổi bật của nhà Lý từ đó

tạo dựng Đại Việt thành một quốc gia văn hiến và cường thịnh với các chính

sách về kinh tế, quân sự và tôn giáo. Đồng thời nhà Trần đã thực hiện chính

sách thân dân, chăm lo đời sống của dân về mọi mặt, dân chủ hóa nền cai trị

bằng pháp luật cũng như thực hiện chính sách tuyển binh lính, đoàn kết sức

mạnh quân dân cùng thực hiện nhiệm vụ chung của đất nước.

Ngoài ra, nhà Trần còn có chính sách đoàn kết những dân tộc vùng biên giới

bằng cách dùng quan hệ hôn nhân kết hợp với chính sách vỗ về các tù trưởng

bằng việc cho trấn thủ các vùng biên giới. Điều này đã thể hiện nghệ thuật giữ

nước của nhà Trần.

Trong lịch sử Việt Nam, nhà Trần là triều đại phong kiến đầu tiên có thể

tạo được sự đồng lòng, nhất chí tối cao từ trên xuống dưới, từ quân đến dân,

“Hào khí Đông A” là một trong những điểm nổi bật của nhà Trần. từ già đến

trẻ.

Xây dựng một vương triều mới, nhà Trần đã thực sự làm rạng rỡ giống

nòi, tạo nên một “Hào khí Đông A” lẫy lừng với ba lần đánh tan quân xâm

lược Nguyên - Mông - một đội quân thiện chiến khét tiếng mà gót giày xâm

lược đang ngự trị khắp Á, Âu thời đó.

51

Tóm lại, dù đất nước ở thời chiến hay thời bình thì tư tưởng yêu nước,

thương dân của vua tôi nhà Trần vẫn không hề thay đổi. Lòng yêu nước nồng

nàn, triết lý nhân sinh, tinh thần đoàn kết, khẳng định chủ quyền quốc gia dân

tộc của những người đứng đầu đất nước đã giúp nước ta vững vàng vượt qua

mọi khó khăn.

Nhà Trần xây dựng và phát triển văn hóa - giáo dục - khoa học

kỹ thuật

Dưới sự trị vị của triều Trần các hoạt động văn hóa phong phú, mang

đậm tính dân tộc. Nhà Trần giữ nguyên chủ trương tam giáo đồng nguyên từ

thời Lý và lấy đạo Phật làm quốc đạo nhưng đẩy lên một bước cao hơn. Chùa

chiền được xây dựng nhiều hơn, nhà nước cho đúc chuông thờ Phật khắp nơi.

Nhiều vị vua nhà Trần đã có nhiều đóng góp cho lịch sử Phật giáo Việt Nam.

Trần Thái Tông được người đời ví như một “ngọn đuốc thiền học”. Và Trần

Nhân Tông - một vị vua hai lần chiến thắng quân Nguyên đã trở thành vị

thiền sư lỗi lạc, luôn đề cao yếu tố con người, đem lại niềm tin vững chắc và

sức mạnh tinh thần cho con người. Nhân Tông hô hào nhân dân sống hướng

thiện, sống cuộc sống nhẹ nhàng, vị tha. Ông trở thành thuỷ tổ phái Thiền

Trúc Lâm Yên Tử, một phái Thiền để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng

Việt Nam.

Cùng với Phật giáo, Nho giáo thời kỳ này cũng có vai trò đáng kể trong

giai cấp thống trị và đời sống nhân dân. Trong xã hội phong kiến Nho giáo

ngày càng ảnh hưởng đến giai cấp thống trị với tư tưởng “tam cương ngũ

thường”. Các nhà Nho được vua Trần tín nhiệm, các kỳ thi tuyển chọn Nho sĩ

được tổ chức nghiêm túc, những chức vụ quan trọng trong triều đình đều có

mặt của các nhà Nho. Các nhân vật như Trương Hán Siêu, Chu Văn An… là

những nhân tài giúp vua Trần đưa ra nhiều kế sách trị nước, an dân. Nho giáo

ngày càng chiếm ưu thế trong giới cầm quyền chính trị.

52

Giáo dục cũng là lĩnh vực được nhà Trần quan tâm. Việc tuyển chọn

nhân tài thông qua thi cử cho thấy nhà Trần rất quan tâm đến việc tuyển chọn

nhân tài cho đất nước đã thể hiện tầm nhìn xa của những người cầm quyền.

Giai cấp cầm quyền nhà Trần không chỉ có đội ngũ những người trong dòng

tộc mà ngày càng được bổ sung lực lượng thông qua thi cử.

Nhà Trần cũng có nhiều đóng góp cho dân tộc trong lĩnh vực ngoại

giao

Nhà Trần rất khéo léo trong cư xử với các thế lực cát cứ. Chính đường

lối ngoại giao đúng đắn đã góp phần không nhỏ cho những chiến thắng của

nước ta trước kẻ thù Nguyên - Mông, giữ mối quan hệ linh hoạt, mềm dẻo,

đôi khi sử dụng đối sách hòa hoãn với kẻ thù để có thời gian chuẩn bị lực

lượng đánh giặc.

Một trong những thành quả lớn nhất trong chính sách đối ngoại của nhà

Trần với Chiêm Thành là lãnh thổ nước ta được mở rộng thông qua cuộc hôn

nhân giữa công chúa Huyền Trân và vua Chế Mân.

Tóm lại, nhà Trần đã có nhiều đóng góp lớn cho lịch sử dân tộc. Trước

hết các vua Trần tập trung ổn định chính trị xã hội. Tiếp đó tập trung khôi

phục và phát triển kinh tế, tập hợp sức mạnh của nhân dân để chống lại giặc

ngoại xâm. Bảo vệ xuất sắc nền độc lập dân tộc. Ngoài ra, nhà Trần còn có

nhiều đóng góp lớn trong các lĩnh vực văn hóa - giáo dục - ngoại giao của

nước nhà.

b. Công cuộc giữ nước thời Trần

 Nhà Trần lãnh đạo quân dân đánh giặc

Thế kỷ XIII, đất nước Đại Việt đã 3 lần liên tiếp đánh bại quân Nguyên -

Mông. Chiến tích to lớn ấy của Đại Việt gắn liền với tên tuổi của các tướng

lĩnh xuất sắc và ba vị vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân

Tông.

Kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258)

53

Dự định tấn công Đại Việt được Mông Kha dự tính từ lâu và đẩy mạnh

sau khi xâm lược Đại Lý. Mông Kha sai Hốt Tất Liệt chỉ huy quân thực hiện

hai nhiệm vụ đánh chiếm Đại Việt và từ Đại Việt đánh lên Nam Tống. Nếu

chiếm được Đại Việt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Nguyên - Mông thực hiện

các cuộc viễn chinh xuống Đông nam Á.

Về phía nhà Trần do thường xuyên theo dõi và biết rõ âm mưu xâm lược

của Nguyên - Mông nên đã chuẩn bị cho cuộc kháng chiến. Tháng 1-1258, ba

vạn quân Nguyên - Mông do Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy tiến vào xâm

lược nước ta. Quân giặc theo đường sông Thao tiến xuống Bạch Hạc (Việt

Trì, Phú Thọ) rồi tiến thẳng xuống Bình Lệ Nguyên (Vĩnh Phúc) thì bị chặn

lại ở phòng tuyến do vua Trần Thái Tông trực tiếp chỉ huy.

Địa hình Bình Lệ Nguyên khá thuận lợi cho đội quân Nguyên - Mông

phát huy sở trường của chúng. Trận địa của quân ta bị lấn dần. Những tên lính

Nguyên - Mông bắn vào voi của ta, voi hoảng sợ lồng quay lại trước sức tiến

công của chúng. Quân ta rời trận địa đến sách Cụ Bản thì có quân tiếp viện

của tướng Phạm Cụ Chích đến tiếp. Phạm Cụ Chích đem quân ra chặn giặc và

ông hi sinh, nhưng quân Trần rút lui an toàn. Khi Vua xuống thuyền rút lui

quân Nguyên - Mông bắn theo. Sau một thời gian cố thủ không được, triều

đình rút lui khỏi kinh đô để bảo toàn lực lượng.

Những tình tiết trên cho thấy, giai đoạn đầu quân Trần gặp nhiều khó

khăn trong việc đối đầu với đội quân mạnh như Nguyên - Mông. Tuy nhiên,

nhà Trần đã khéo léo vận dụng chiến thuật “vườn không nhà trống” để đối

phó với giặc. Quân Nguyên - Mông tiến vào kinh đô Thăng Long nhưng lại

thấy cảnh kinh đô trống không, vắng lặng. Quân giặc khó khăn về mặt hậu

cần, chúng đã ra vùng xung quanh kinh đô để hòng cướp bóc lương thực

nhưng cũng bị nhân dân các hương ấp chống cự quyết liệt. Tiêu biểu nhất là

cuộc chiến đấu bảo vệ làng xóm của nhân dân Cổ Sở (Yên Sở, Hoài Đức, Hà

Tây). Nghe tin giặc kéo đến, nhân dân ở đây đã tự tổ chức lực lượng vũ trang

54

đào hào bao quanh làng, dựng lũy chiến đấu. Khi giặc kéo đến làng, kị binh

không vượt qua được hào, lại bị cung nỏ bắn ra, chúng phải rút lui và chấp

nhận thất bại. Qua sự kiện này ta thấy quân Nguyên - Mông đã thất bại ngay

từ những đợt tấn công đầu tiên vào xóm làng. Chỉ một thời gian ngắn chúng

đã mất hết nhuệ khí chiến đấu. Chúng không những không có lương ăn mà

còn bị nhân dân xung quanh chống lại. Nắm bắt được tình hình, nhà Trần đã

quyết định tập trung binh lực phản công lớn ở Đông Bộ Đầu.

Ngày 29-1-1258, quân Nguyên - Mông thua trận, phải rời khỏi Thăng

Long. Trên đường rút chạy chúng bị quân nhà Trần truy kích. Khi đến vùng

Quy Hóa (Yên Bái, Lào Cai) quân giặc tiếp tục bị quân của Hà Bổng chặn

đánh, quân giặc hốt hoảng tháo chạy về nước. Cuộc kháng chiến chống quân

Nguyên - Mông lần thứ nhất của nhân dân ta kết thúc thắng lợi.

Kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ hai (1285)

Sau khi thất bại trong cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ nhất Hốt Tất Liệt

luôn tìm cách để xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Đoán được âm mưu của quân

Mông, giữa năm 1282, vua tôi nhà Trần đã gấp rút chuẩn bị kháng chiến.

Tháng 11-1282 vua Trần mở Hội nghị Bình Than để bàn kế đánh giặc Sau

Hội nghị này các tướng lĩnh được phân chia đem quân trấn giữ những nơi

hiểm yếu, quan trọng.

Đến tháng 1-1285 thượng hoàng Thánh Tông mở Hội nghị Diên Hồng.

Hội nghị này đã thể hiện rõ quyết tâm đánh giặc của nhân dân ta. Nhà Trần tổ

chức cuộc tập trận lớn và duyệt binh ở Đông Bộ Đầu rồi chia quân đóng giữ

nhiều nơi hiểm yếu.

Cuối tháng 1-1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan tổng chỉ huy

tràn vào xâm lược Đại Việt.

Ngày 2-2-1285, quân giặc chia làm 6 múi đánh vào Nội Bàng (Bắc

Giang). Trần Quốc Tuấn chỉ huy đạo quân chặn giặc nhưng do thế giặc quá

mạnh nên quân của ông bị tổn thất nặng. Ông quyết định cho quân lui về Vạn

55

Kiếp. Trong tình thế khó khăn đó, Thánh Tông vờ hỏi Trần Quốc Tuấn “thế

giặc như thế ta phải hàng thôi”. Ông nghiêm chỉnh trả lời: “Bệ hạ chém đầu

tôi rồi hãy hàng”. Câu nói khảng khái này đã chứng tỏ quyết tâm đánh giặc và

lòng yêu nước sâu sắc của Trần Quốc Tuấn.

Quân Thoát Hoan tập trung một lực lượng lớn tấn công vào Vạn Kiếp.

Trước thế giặc mạnh, quân Trần lùi về Thăng Long, sau đó rút về Thiên

Trường (Nam Định). Nhân dân ở Thăng Long thực hiện lệnh “Vườn không

nhà trống” của triều đình.

Thoát Hoan chiếm được Thăng Long và cố gắng kiểm soát vùng chiếm

đóng. Tuy nhiên, khi các đồn trại được dựng lên thì nhân dân địa phương và

các vương hầu quý tộc lại tổ chức tiêu diệt. Một lần nữa nhân dân làng Cổ Sở

lại tiếp tục đào hào dựng lũy lập “làng chiến đấu”.

Toa Đô được lệnh chỉ huy một lực lượng mạnh mở cuộc tấn công lớn

đánh xuống phía Nam để tạo thế “gọng kìm” để tiêu diệt quân chủ lực của ta

và bắt sống toàn bộ đầu não của cuộc kháng chiến. Thấy thế giặc mạnh, một

số quý tộc Trần đã đầu hàng giặc. Cuộc kháng chiến của quân dân nhà Trần

gặp rất nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, kế hoạch của Thoát Hoan không thực hiện được, quân

Nguyên - Mông rút về Thăng Long chúng rơi vào thế bị động và thiếu lương

thực. Tháng 5-1285, lợi dụng thời cơ, quân Trần tổ chức phản công, đánh bại

quân giặc ở nhiều nơi như Tây Kết, cửa Hàm Tử, bến Chương Dương và tiến

vào giải phóng Thăng Long. Bị phản công bất ngờ, quân giặc tháo chạy

nhưng tiếp tục bị quân Trần phục kích, chặn đánh. Thoát Hoan hốt hoảng

chạy về nước.

Ngoài đội quân của Thoát Hoan, nhà Trần còn tổ chức chặn đánh quân

của Toa Đô ở Tây Kết, hàng vạn tên giặc bị tiêu diệt. Tướng Toa Đô bị chém

đầu. Với sự góp sức của các vị tướng tài năng như Trần Quốc Tuấn, Trần

Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản…và sự đồng lòng của nhân

56

dân tháng 7-1285 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông đã hoàn toàn

thắng lợi.

Kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ ba (1287-

1288)

Sau hai lần xâm lược nước ta thất bại, Hốt Tất Liệt không những không

từ bỏ âm mưu thôn tính nước ta mà còn điên cuồng chuẩn bị cuộc tấn công

tiếp theo để lấy lại danh dự.

Toàn bộ quân viễn chinh lần thứ ba lại được đặt dưới quyền thống lãnh

của Thoát Hoan. Ông ta là người đã biết rõ địa hình của nước ta nên Hốt Tất

Liệt rất tự tin khi giao nhiệm vụ tiến đánh Đại Việt. Không những cử tên

tướng từng chinh chiến ở nước ta mà chuẩn bị một lực lượng quân đội rất

mạnh. Nếu hai lần trước chúng chỉ dùng bộ binh thì lần này đã rút kinh

nghiệm đầu tư thêm lực lượng thủy binh khá mạnh mang theo lương thực đầy

đủ để đối phó với tình trạng “vườn không nhà trống”.

Cuối tháng 12-1287, Thoát Hoan cùng với nhiều danh tướng đem theo

hơn 30 vạn quân chia làm nhiều cánh tiến vào nước ta. Cánh quân bộ do

Thoát Hoan chỉ huy vượt biên giới đánh vào Lạng Sơn và Bắc Giang. Tiếp

đó, Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy quân kéo đến chiếm đóng Vạn Kiếp và ra

sức xây dựng nơi đây thành căn cứ vững chắc để định đánh lâu dài với quân

ta. Ô Mã Nhi chỉ huy quân theo đường biển tiến vào nước ta, ngược sông

Bạch Đằng kéo đến Vạn Kiếp hội quân với quân Thoát Hoan.

Về phía ta, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn lại được cử làm tổng chỉ

huy lực lượng vũ trang. Thế giặc lần này mạnh nên buổi đầu của cuộc chiến

quân ta gặp nhiều khó khăn phải rút về ven biển để bảo toàn lực lượng. Trong

hoàn cảnh khó khăn đó, nhà Trần đã nhận được sự đồng lòng sát cánh của

nhân dân. Trên đường tiến quân của giặc, nhân dân đều cất giấu lương thực để

triệt nguồn tiếp lương thực của chúng, đồng thời cùng dân binh đẩy mạnh

hoạt động đánh địch làm cho chúng tiêu hao sinh lực và rối đội hình.

57

Với lực lượng đông, mạnh và hiếu chiến, đầu năm 1288, Thoát Hoan đã

chiếm được thành Thăng Long và đợi sự tiếp viện lương thực từ Trương Văn

Hổ. Tuy nhiên đoàn thuyền lương của chúng đã bị quân ta do Trần Khánh Dư

chỉ huy chặn đánh. Trong tình cảnh mất hết lương thực và đội thủy binh của

Ô Mã Nhi cũng bị tiêu diệt, Thoát Hoan hoang mang lo sợ và phải bỏ Thăng

Long về Vạn Kiếp tổ chức phòng thủ. Quân Nguyên - Mông đã rơi vào thế bị

động và ngày càng rệu rã. Thoát Hoan quyết định cho quân rút theo đường

Lạng Sơn để về nước còn Ô Mã Nhi dẫn quân thủy rút theo đường sông Bạch

Đằng.

Về phía quân ta, Trần Quốc Tuấn đã quyết định đóng cọc trên sông Bạch

Đằng và lợi dụng nước thủy triều lên xuống để nhử địch vào bãi cọc ngầm.

Đầu tháng 4 - 1288, Ô Mã Nhi chỉ huy quân rút về đường thủy. Đợi khi quân

của giặc tiến gần tới bãi cọc ngầm Trần Hưng Đạo cho quân ra đánh và giả vờ

thua chạy, quân giặc đuổi theo và lọt vào trận địa mai phục, đúng lúc này

nước triều xuống nhanh. Quân Trần đổ bộ ra đánh, quân giặc bất ngờ, tranh

nhau tháo chạy nhưng thuyền của chúng đâm vào các bãi cọc ngầm đang nhô

lên nên bị vỡ và đắm xuống sông. Nhiều bè lửa trôi nhanh theo dòng nước đốt

cháy thuyền giặc, số quân nhảy được lên bờ cũng bị quân ta tiêu diệt. Toàn bộ

quân thủy binh của giặc bị tiêu diệt, Ô Mã Nhi bị bắt sống.

Cánh quân của Thoát Hoan trên đường rút chạy cũng bị quân dân ta tập

kích liên tiếp. Cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba do nhà Trần

chỉ huy đã kết thúc thắng lợi.

Như vậy, trong những trận chinh chiến của mình, quân Nguyên - Mông

đã ba lần đại bại trước Đại Việt - một quốc gia nằm ở phía Nam Trung Hoa.

Sự thất bại đó càng khẳng định chiến thắng vĩ đại của quân dân nhà Trần

trước một lực lượng quân tinh nhuệ như Nguyên - Mông. Thắng lợi của ba lần

kháng chiến chống quân Nguyên - Mông đã đập tan tham vọng và ý chí xâm

lược Đại Việt của đế chế Nguyên, bảo vệ được độc lập toàn vẹn lãnh thổ và

58

chủ quyền quốc gia của dân tộc, đánh bại một kẻ thù hùng mạnh và tàn bạo

nhất thế giới bây giờ. Thắng lợi này cũng góp phần ngăn chặn những cuộc

xâm lược của quân Nguyên đối với các nước phương Nam, làm thất bại mưu

đồ thôn tính miền đất còn lại ở châu Á và đánh chiếm toàn bộ Trung Quốc

của Hốt Tất Liệt.

2.1.2. Đánh giá vai trò của Nguyễn Thị Bích Châu qua đối chiếu với

các nhân phụ nữ triều Trần

Nhà Trần là một triều đại nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Triều đại này

để lại nhiều dấu ấn không những về chiến công chống ngoại xâm, xây dựng

Đại Việt cường thịnh mà còn bởi vai trò của nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng

trong đó có Trần Thị Dung, An Tư, Huyền Trân và Nguyễn Thị Bích Châu.

Cả bốn nhân vật được nhắc đến đều có đóng góp ở những khía cạnh khác

nhau cho nhà Trần.

Nguyễn Thị Bích Châu là người có đóng góp to lớn cho công cuộc dựng

nước thời Trần. Thông qua bản Kê minh thập sách dâng vua Trần Duệ Tông

cho thấy bà là người giỏi tổ chức trong tư tưởng. Mười kế sách trong bản Kê

minh đã thể hiện rõ các biện pháp nội trị trên tất cả các lĩnh vực của đời sống

chính trị - xã hội để góp phần tổ chức và phục hưng đất nước. Người phụ nữ

này cũng chấp nhận hy sinh thân mình vì quyền lợi dân tộc.

Đối chiếu Nguyễn Thị Bích Châu với Trần Thị Dung

Trần Thị Dung được biết đến là người có vai trò quan trọng trong lịch sử

chống ngoại xâm bảo vệ đất nước của dân tộc. Trần Thị Dung không trực tiếp

cầm binh đối mặt với kẻ thù nhưng bà đã góp một phần không nhỏ trong

chiến thắng vang dội của triều Trần trong cuộc kháng chiến chống quân

Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258).

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông năm 1258, trước

thế giặc mạnh, chủ trương của triều đình nhà Trần là tạm thời rút khỏi thành

Thăng Long, thực hiện “vườn không nhà trống” nhằm tiêu hao sinh lực địch

59

rồi sau đó tổ chức đánh úp. Cuộc rút lui khỏi thành Thăng Long gặp rất nhiều

khó khăn và phức tạp bởi ngoài lực lượng quân đội còn có hoàng tộc, thân

nhân quan lại. Nhận thấy năng lực và trách nhiệm của phu nhân Thái sư Trần

Thị Dung, triều đình đã ủy thác cho bà toàn bộ trọng trách bảo đảm an toàn

cho hoàng gia và tích trữ hậu cần cho quân đội trong cuộc rút lui. Trước khi

quân ta rút khỏi Thăng Long, bà đã đôn đốc công việc chuẩn bị tích trữ lương

thực, vận chuyển về vùng hậu phương an toàn. Dưới sự chỉ huy của bà, các

thuyền bè lánh nạn có thu giấu binh khí đều bị khám xét và tịch thu để dùng

vào việc quân. Tháng chạp năm Đinh Tỵ (1257), khi quân nhà Trần cho bày

trận ở bên sông chặn giặc Nguyên - Mông thì Linh Từ quốc Mẫu Trần Thị

Dung chỉ huy hoàng gia lặng lẽ, trật tự tản cư khỏi kinh thành Thăng Long.

Quân Nguyên - Mông vào kinh thành nhưng Thăng Long là một trận địa

“vườn không nhà trống” - không người, không lương thực. Ngày 24 tháng

Chạp, quân dân nhà Trần mở trận đánh úp ở Đông Bộ Đầu, quân Nguyên -

Mông rơi vào tình thế quẫn bách và không kịp trở tay, đành rút chạy về nước.

Thành Thăng Long được giải phóng sau 9 ngày bị giặc chiếm đóng. Cuộc

kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258) của quân dân

nhà Trần thắng lợi lớn, chiến công đó có sự đóng góp không nhỏ của Trần Thị

Dung.

Nguyễn Thị Bích Châu và Trần Thị Dung đều là hai người phụ nữ quý

tộc nhà Trần. Trần Thị Dung là người có tư duy tổ chức trong thực tế, bà hoàn

thành nhiệm vụ tổ chức tích trữ hậu cần cho quân đội trong cuộc rút lui khỏi

thành Thăng Long. Bà còn chỉ huy hoàng gia rút khỏi hoàng thành an toàn.

Trong khi đó, Nguyễn Thị Bích Châu lại là người tổ chức trong tư tưởng. Khi

nhìn thấy thực trạng xã hội thời Trần, bà mong muốn ổn định lại đất nước và

dâng lên vua bản Kê minh thập sách. Bà đề ra kế sách “thân dân”, thải loại kẻ

lộng quyền, cách chọn tướng và chú trọng Nho phong. Nguyễn Thị Bích Châu

đã đưa ra giải pháp để tổ chức lại mọi mặt của đất nước. Đặc biệt những kế

60

sách này được viết trong giai đoạn vua Trần Duệ Tông chỉ tập trung cho cuộc

chiến với Chăm Pa, không quan tâm đến tình hình đất nước thì lại càng có giá

trị. Thực tế lịch sử cho thấy một ý tưởng tốt nhưng không gặp thời thì sẽ

không mang lại kết quả, thậm chí không được thực hiện. Bản Kê minh thập

sách của Nguyễn Thị Bích Châu là một kế sách hay và cần thiết cho đất nước

trong thời điểm lúc bấy giờ. Tuy nhiên, vì một vị vua không đủ sáng suốt để

nhận ra giá trị của những kế sách đó nên mong muốn phục hưng đất nước của

bà không thành hiện thực. Để những kế sách của Nguyễn Thị Bích Châu được

thực hiện thì phải “thiên thời - địa lợi - nhân hòa” nhưng đáng tiếc là không

thể bởi lẽ “nhân chẳng hòa”. Giống như Nguyễn Thị Bích Châu, Trần Thị

Dung cũng là một người phụ nữ có tầm nhìn và mong muốn đóng góp sức cho

sự thịnh trị của đất nước. Chỉ khác rằng, mong muốn của bà đã thành hiện

thực vì gặp được vị vua anh minh đủ để nhận ra tài năng của bà.

Đối chiếu Nguyễn Thị Bích Châu với An Tư công chúa

An Tư công chúa, còn gọi là Thiên Tư công chúa, là con gái út của vua

Trần Thái Tông. Bà cũng là em gái của Trần Thánh Tông và là cô ruột của

Trần Nhân Tông. Cuộc đời của An Tư công chúa được sử Việt chép rất sơ

lược.

Đầu năm 1285, quân đội nhà Nguyên đã đánh tới Gia Lâm vây hãm

Thăng Long. Thái thượng hoàng Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đi

thuyền nhỏ ra vùng Tam Trĩ, còn thuyền ngự thì đưa ra vùng Ngọc Sơn để

đánh lạc hướng đối phương nhưng quân Nguyên vẫn phát hiện ra. Ngày 9

tháng 3 cùng năm, thủy quân Nguyên đã bao vây Tam Trĩ suýt bắt được hai

vua, nhiều tôn thất nhà Trần như Trần Lộng, Trần Kiện, Trần Ích Tắc... đã

quy hàng quân Nguyên. Bấy giờ tướng Trần Khắc Chung được sai đi sứ để

làm chậm tốc độ tiến quân của giặc nhưng không có kết quả. Trong lúc đó,

cần phải có thời gian để củng cố lực lượng, tổ chức chiến đấu phản công, kế

sách đối phó hữu hiệu nhất đó chính là "Mỹ nhân kế". Nhằm mục đích có thời

61

gian để củng cố lực lượng, Thượng hoàng Trần Thánh Tông bất đắc dĩ phải

dâng em gái út của mình chính là An Tư công chúa cho tướng Thoát Hoan để

tạm cầu hòa. “Khi giặc Mông - Cổ xâm lấn nước ta, thế lực hết sức mạnh mẽ,

vua Trần Nhân Tôn dùng kế dâng bà cho Thoát Hoan để thư nạn nước (mùa

xuân năm ất dậu, 1285)” (Nguyễn Huyền Anh, 1972). Được sự đồng ý của An

Tư, nhà Trần đã cử người đưa bà sang thương thuyết với giặc. “Một ngày

trong tháng 2, Trung Hiếu hầu Trần Dương nhận lệnh đi thương thuyết giảng

hòa, rồi quan hầu cận là Đào Kiên đưa An Tư sang dinh tướng Nguyên -

Mông. Và chẳng bao lâu, dưới sự chỉ huy kháng chiến của Trần Quốc Tuấn,

quân cướp nước bị dẹp tan” (Nguyễn Q Thắng và Nguyễn Bá Thế, 1997).

Với một trọng trách vô cùng nặng nề được vua giao phó, Công chúa An

Tư sang trại giặc không phải với tư cách đi lấy chồng mà là vật cống nạp,

cũng là một người nội gián. Kể từ tháng 4 - 1285, sau khi An Tư công chúa

chung sống bên cạnh tướng giặc Thoát Hoan, những bí mật quân sự của giặc

đã được tiết lộ đã tạo cơ hội cho quân nhà Trần bắt đầu phản công hầu khắp

các mặt trận khiến cho quân Nguyên đại bại, Thoát Hoan phải chui vào ống

đồng để lên xe bắt quân kéo chạy về nước.

Như vậy, chính công chúa An Tư hi sinh quyền lợi của cá nhân để đổi

lấy quyền lợi cho dân tộc: “Tuân lệnh vua và vì an nguy của xã tắc, công

chúa An Tư từ bỏ cuộc sống êm ấm, nhung lụa trong cung đình, vĩnh biệt bè

bạn để hiến dâng tuổi trẻ, đời con gái, kể cả tính mạng để lâm trận đơn độc

và làm nội gián cho triều Trần” (Nhóm trí thức Việt, 2014a). Bà đã kiềm chế

được sự hung hãn của kẻ thù, cung cấp nhiều thông tin để quân ta nắm bắt

tình hình, phản công quân giặc. Thoát Hoan vì si mê nhan sắc của An Tư nên

lần lữa tấn công thành Thăng Long cũng như chậm trễ trong việc tiến đánh.

Nhìn lại bối cảnh lịch sử lúc đó ta thấy nếu không có sự hy sinh của bà

thì làm sao quân ta có đủ thời giờ rút lui an toàn ra khỏi thành Thăng Long để

chỉnh đốn binh mã và tinh thần để chuẩn bị những trận phản công sấm sét

62

đánh đuổi quân xâm lược. Nhờ có thời gian và những thông tin mật nên chỉ

trong vòng 5 tháng sau đó, quân dân ta đã đánh tan 20 vạn quân xâm lược.

Thoát Hoan vì say mê bà nên đã chậm trễ trong việc tấn công vào kinh đô của

ta và đây là một cơ hội ngàn vàng cho triều đình nhà Trần trong lúc nguy cấp.

Trong cuốn sách “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam” có đoạn đánh giá vai

trò của An Tư công chúa đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân

Nguyên - Mông lần thứ hai “Trong chiến công này rõ ràng là có sự đóng góp

của công chúa An Tư, người đã hi sinh vì nạn nước” (Nguyễn Q Thắng và

Nguyễn Bá Thế, 1997).

Tóm lại, An Tư - một công chúa xinh đẹp của nhà Trần đã nhận thức

được vai trò của mình trong việc hỗ trợ cuộc kháng chiến chống quân Nguyên

- Mông dưới thời Trần. Bà đã chấp nhận xã thân để đổi lại sự hòa hoãn của

quân giặc. Nhờ đó, nhà Trần đã phá được thế giặc mạnh. Cũng giống như An

Tư công chúa, Nguyễn Thị Bích Châu cũng chấp nhận hiểm nguy khi thân

chinh ra trận. Cuối cùng vì sự an toàn của vua và quân nhà Trần, bà đã chấp

nhận hy sinh tính mạng. Như vậy, cả An Tư công chúa và Nguyễn Thị Bích

Châu là những người phụ nữ dám từ bỏ cuộc sống vinh hoa trong cung cấm

dám hy sinh vì sự tồn vong của đất nước.

Đối chiếu Nguyễn Thị Bích Châu với Huyền Trân công chúa

Huyền Trân là con gái của vua Trần Nhân Tông, em gái của vua Trần

Anh Tông. Bà là một công chúa tài sắc vẹn toàn và có nhiều đóng góp cho

nhà Trần. Đóng góp lớn nhất của bà là chấp nhận cuộc hôn nhân được sắp đặt

của vua cha để đổi lấy sự hòa hiếu giữa Chăm pa và Đại Việt, mở rộng lãnh

thổ nước ta về phía Nam.

Đại Việt và Chiêm Thành đã trải qua những trận chiến liên miên không

dứt kéo dài trong hơn 200 năm từ đời nhà Lý đến nhà Trần, chỉ đến khi cùng

bị quân Nguyên xâm lược hai bên mới ngừng xung đột, chống kẻ thù chung.

63

Trong kháng chiến chống Nguyên - Mông, một kế sách rất nguy hiểm

của nhà Nguyên là năm 1282 mở cuộc chinh phạt Chăm Pa để vừa xâm chiếm

Chăm Pa, vừa tạo lập một bàn đạp mở cuộc tấn công từ phía Nam lên phối

hợp với ba hướng tấn công chủ yếu từ phía bắc xuống, tạo thành bốn gọng

kìm bao vây, đánh bại nước Đại Việt. Đồng thời nhà Nguyên còn bắt nhà

Trần phải cho mượn đường và cung cấp lương thực cho quân Nguyên nhằm

gây mầm chia rẻ và xung đột giữ hai nước. Trong tình thế đó, nhà Trần không

những không chấp nhận các yêu sách của nhà Nguyên mà còn phái quân đội

vào Nam giúp Chăm Pa cùng chiến đấu chống kẻ thù chung. Thắng lợi của

cuộc kháng chiến chống Nguyên của Chăm Pa năm 1282-1283 có sự tham gia

trợ lực của Đại Việt và chiến thắng đó lại làm phá sản một kế hoạch quân sự

của nhà Nguyên, tạo thuận lợi cho thắng lợi của Đại Việt trong kháng chiến

chống Nguyên năm 1285. Trong lịch sử quan hệ Đại Việt - Chăm Pa, đây là

biểu tượng đẹp đẽ của tinh thần đồng minh chiến đấu của hai nước.

Để giữ được tinh thần đoàn kết, hòa hiếu này thật không hề dễ dàng, vì

vậy sau chuyến du ngoạn ở đất Chiêm vào năm 1301, thượng hoàng Trần

Nhân Tông đã thực hiện quyết sách đối ngoại hứa gả công chúa Huyền Trân

cho vua Chế Mân để thắt chặt quan hệ bang giao hòa hiếu giữa hai nước Đại

Việt - Chăm Pa. Nói về mục đích của cuộc hôn nhân này, sách Những công

Thái thượng hoàng nói rõ với Trần Anh Tông. Việc gả Huyền Trân về

đất Chiêm Thành không phải là một lời hứa khi cao hứng của ông mà là

một đường lối chính trị đã được tính toán một cách kỹ lưỡng. Từ khi

Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn hai lần đánh tan giặc xâm lược

Nguyên - Mông thì chúng vẫn không ngừng nhòm ngó Đại Việt. Chúng

chỉ chờ cơ hội Đại Việt và Chiêm Thành dấy loạn sẽ tràn sang để ngư

ông đắc lợi.

chúa nổi tiếng của các triều đại Việt Nam có đoạn viết:

64

Nếu như Đại Việt và Chiêm Thành giữ được mối quan hệ bang giao tốt

đẹp thì chắc chắn bọn xâm lược đầy dã tâm phương Bắc sẽ không dám

nhăm nhe Đại Việt ta nữa. Việc gả Huyền Trân cho Chế Mân chắc chắn

sẽ củng cố mối quan hệ khá yên ổn lâu nay giữa hai nước. Nếu được như

vậy chúng ta sẽ không phải lo lắng trước thế lực của bọn giặc phương

Bắc nữa (Nhóm Trí thức Việt, 2014a).

Năm 1306, vua Trần Anh Tông đồng ý gả Huyền Trân công chúa được

gả cho Quốc vương Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý (từ

đèo Hải Vân, Thừa Thiên - Huế đến phía bắc Quảng Trị ngày nay).

Việc công chúa Huyền Trân thuận theo ý phụ vương là Thái thượng

hoàng Trần Nhân Tông về làm vợ vua Chế Mân nước Chiêm Thành đã góp

phần thắt chặt tình bang giao giữa hai nước, tạo mối thâm tình để chống kẻ

thù chung - giặc Nguyên - Mông vẫn đang ngày đêm nhòm ngó. Đặc biệt là

việc dâng châu Ô, châu Lý của vua Chế Mân để cầu hôn Huyền Trân công

chúa đã giúp nước ta mở rộng bờ cõi về phía Nam. “Huyền Trân được xem có

là công với đất nước. Nhờ có bà mà địa giới ta được mở rộng từ Hoành Sơn

vào đến Bình Trị Thiên” (Nguyễn Bích Ngọc, et al., 2010). Chính vì thế, các

triều đại sau này đều sắc phong bà là thần hộ quốc.

Như vậy, Huyền Trân đã góp phần giữ gìn biên giới phía Nam và mở

rộng bờ cõi của nước Đại Việt. Công chúa Huyền Trân mặc dù không muốn

xa nhà để về làm Hoàng hậu một nước tận phía Nam không một người quen

biết nhưng rồi vì đất nước và sự yên ổn của con dân Đại Việt mà hi sinh

quyền lợi của mình. Vâng mệnh vua cha là Trần Nhân Tông và vua anh Trần

Anh Tông, Huyền Trân đã gác tình riêng, gạt lệ xuống thuyền theo chồng, trở

thành sứ thần đi giao hảo, lập mối hòa hiếu giữa Đại Việt với Chiêm Thành.

Nhờ cuộc hôn nhân này mà hai dân tộc được sống trong hòa bình nhiều năm.

Nếu như Huyền Trân công chúa chấp nhận một cuộc hôn nhân sắp đặt

(ngoại trị) để đổi lấy sự bình yên cho muôn dân thì Nguyễn Thị Bích Châu lại

65

trăn trở vì sự ổn định của đất nước và ấm no của nhân dân qua các kế sách

(nội trị). Trước thực trạng đất nước rối loạn, nhân dân đói khổ, Nguyễn Thị

Bích Châu đã dâng kế sách lên vua với mong muốn phục hưng đất nước. Khi

đối mặt với cái chết, tâm nguyện của bà là mong vua “sửa văn nghi võ”, “giản

kiệm và yêu người”, “học việc nhân nghĩa của đế vương”, “dựng nước lâu

dài”. Điều đó càng cho thấy bà là một người hết lòng vì nước vì dân mà quên

mình.

Tóm lại, cả bốn người phụ nữ triều Trần đều tài sắc vẹn toàn và có

những đóng góp lớn cho đất nước. Trần Thị Dung là người có đóng góp trong

cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất. An Tư lại chấp

nhận hi sinh thân mình nghe theo sự sắp đặt của vua cha quân Trần có đủ thời

gian, thông tin chuẩn bị phản công quân địch. Huyền Trân lại có vai trò lớn

trong việc tạo ra mối quan hệ hòa hiếu giữa Đại Việt và Chiêm Thành, mở

rộng lãnh thổ nước ta về phía Nam. Bích Châu lại là người có tầm nhìn toàn

diện trong tình cảnh đất nước đang dần suy vong. Bà đã đưa ra được kế sách

để phục hưng lại đất nước. Những kế sách của bà không những có giá trị đối

với triều Trần mà còn có giá trị đến ngày nay. Hơn nữa bà lại là người tự

nguyện chấp nhận hiểm nguy chứ không phải do vua Duệ Tông hay ai sắp

đặt, cuối cùng tự nguyện hi sinh tính mạng của mình vì đất nước.

66

2.2. Nguyễn Thị Bích Châu và Đạo Mẫu ở Việt Nam nói chung và ở Kỳ

Anh (Hà Tĩnh) nói riêng

2.2.1. Đạo Mẫu ở Việt Nam

Trong hệ thống tín ngưỡng dân gian của nước ta, tín ngưỡng thờ Mẫu đã

trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người con đất

Việt. Đạo Mẫu đã đi vào cuộc sống con người Việt Nam như một sự sùng bái,

tôn thờ khó cưỡng. Dù không vào các mùa lễ hội nhưng những phủ, điện, đền

thờ Mẫu luôn nghi ngút khói hương. Người dân tìm tới đây như tìm về cội

nguồn, tìm sự che chở như một thứ tình cảm đặc biệt đầy thành kính giúp họ

xua tan nỗi nhọc nhằn, bất hạnh hướng tới sự bình yên, may mắn.

Những tài liệu văn bản ghi chép về các Thánh Mẫu thường xuất phát từ

thần thoại, huyền thoại, truyện kể dân gian và đồng thời cũng có hiện tượng

ngược lại là huyền thoại hóa, dân gian hóa các văn bản thần thần tích, thần

phả. Tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt Nam đã có giá trị và tầm ảnh hưởng lớn,

Ngày 1 - 12 - 2016, tại Phiên họp Uỷ ban Liên Chính phủ về bảo vệ di

sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO diễn ra tại thành phố

Addis Ababa, Cộng hòa dân chủ Liên bang Ethiopia, di sản “Thực hành

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” tại 21 tỉnh thành của Việt

Nam (các tỉnh từ Thừa Thiên Huế trở ra và thành phố Hồ Chí Minh) đã

chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật

thể đại diện của nhân loại và Lễ đón bằng UNESCO ghi danh. (Wiki)

được UNESCO ghi danh.

“Mẫu” nghĩa là mẹ, người mẹ có công lao to lớn trong việc sinh thành

và nuôi dưỡng nhân cách một con người. Xuất phát từ khát vọng, mong muốn

về một cuộc sống bình yên, mùa màng tươi tốt, thoát khỏi thiên tai…con

người đã tạo nên hình tượng người mẹ mới. Mọi nguồn sống giúp con người

sinh tồn đều được gọi là mẹ. Mẹ chính là “nguồn sống của từng đơn vị tế bào

xã hội” (Nguyễn Hữu Thông, 2001). Mẹ đã vươn tới một biểu tượng mang

67

tính trừu tượng hơn nhưng không nằm ngoài các phẩm chất yêu thương, che

chở, bao bọc và luôn giành cho con cái những điều tốt đẹp nhất.

a. Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam

Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam xuất phát từ chế độ Mẫu hệ. Thời kỳ

nguyên thủy, người phụ nữ đóng vai trò họ có quyền quyết định mọi vấn đề

trong gia đình, bộ tộc.

Từ xưa đến nay, vị trí và vai trò của người phụ nữ trong gia đình, cộng

đồng luôn được tôn vinh. Người mẹ là chỗ dựa tinh thần, vật chất và tình cảm.

Chính sự cao quý và gần gũi đó nên hình tượng mẹ gắn liền với các hiện

tượng tự nhiên như: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thủy,… Nhân dân tôn vinh các

vị nữ thần, tin tưởng ở sức mạnh và khả năng siêu phàm của các Mẫu. Họ

hướng về Mẫu với lòng biết ơn và cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng

tươi tốt và che chở sự sống trước những tai họa.

Ở Việt Nam, hình tượng Mẫu thần được biểu hiện một cách đa dạng

trong sinh hoạt tinh thần người Việt. “Trong số 1000 di tích văn hóa thì đã có

đến 250 di tích thờ cúng các vị thần hay danh nhân là nữ” (Nguyễn Hữu

Thông, 2001). Tín ngưỡng dân gian của người Việt luôn gắn Mẫu với chức

năng tạo lập thiên địa. “Mẫu” là hình tượng thân thiết, gần gũi với niềm tin

dân gian trong quá trình sinh tồn trước những thách thức của thiên nhiên với

cuộc sống của người nông dân.

Ban đầu, người Việt Nam coi tự nhiên như người mẹ và tôn thờ, trải qua

thời gian với xu hướng “lịch sử hóa”, “địa phương hóa” và “nhân hóa”, nhân

vật Mẫu đã được gắn với nhiều huyền tích có công với nước, thương yêu

người dân, thậm chí, gắn với những nhân vật có thật. Vì thế, xuất hiện việc

thờ Mẫu thần là các Vương Mẫu, Quốc Mẫu, Thánh Mẫu như Ỷ Lan, Mẹ

Gióng, Thiên Ya Na, Linh sơn Thánh Mẫu, Thánh Mẫu Nguyễn Thị Bích

Châu,…

68

Cùng với giá trị nhân bản, đạo đức, hình thức thờ tự này đã chuyển tải

những giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam. Tục thờ Mẫu cũng thể hiện một

cách độc đáo tinh thần yêu nước, đạo lý uống nước nhớ nguồn thông qua việc

tôn vinh những người có công với đất nước. Các nhân vật được thờ ở các phủ,

điện thờ Mẫu thường là những anh hùng đã anh dũng chiến đấu hy sinh vì nền

độc lập, tự do của dân tộc.

Đạo Mẫu chính là một thứ chủ nghĩa yêu nước đã được tâm linh hóa, tôn

thờ đạo Mẫu tức là tôn thờ các anh hùng dân tộc, những người có công với

dân, với nước.

b. Tín ngưỡng thờ Mẫu các miền ở Việt Nam

Tín ngưỡng thờ Mẫu ngày càng phát triển sâu rộng và phổ biển ở khắp

mọi địa phương trong cả nước. Mỗi vùng miền có sắc thái văn hóa khác nhau

nên có ảnh hưởng và chi phối để tạo nên diện mạo của tín ngưỡng thờ Mẫu.

Thờ Mẫu ở Bắc Bộ:

Bắc Bộ khu vực đầu tiên ở nước ta tiến hành tục thờ Mẫu. Từ thế kỷ XV

trở về trước, nhà nước phong kiến phong thần cho một số Nữ thần, hình thức

thờ Mẫu thần với các danh xưng như Quốc Mẫu, Vương Mẫu, Thánh Mẫu

như hiện tượng thờ Âu Cơ, Đinh Triều Quốc Mẫu. Từ thế kỷ XV - XVI, Mẫu

thần bản địa Việt Nam tiếp xúc với đạo giáo Trung Hoa và hình thành nên

đạo Mẫu tam phủ, tứ phủ. Đạo Mẫu ở miền Bắc có 3 lớp: Thờ Nữ thần, thờ

Mẫu thần và thờ Mẫu tam phủ - tứ phủ. Như vậy, hình thức thờ Mẫu Tam phủ

(Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Địa) đến Tứ phủ (Mẫu Thoải, Mẫu

Thượng Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thượng Ngàn) chính là sự hòa trộn giữa tín

ngưỡng thờ Nữ thần và Mẫu thần bản địa với ảnh hưởng của đạo giáo Trung

Hoa.

Như vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Bắc đã phát triển một cách phong

phú và đa dạng nhằm nâng cao địa vị của các nữ thần, đặc biệt là nữ thần có

69

liên quan đến 4 yếu tố chiếm vị trí quan trọng trong đời sống tâm thức của

con người và trong sản xuất đó là: trời, đất, nước, rừng.

Thờ Mẫu ở Trung Bộ

Ở Bắc Trung Bộ, dạng thức thờ Mẫu có nhiều nét tương đồng với Bắc

Bộ. Hình thức thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, đạo

Mẫu ở vùng Bắc Trung Bộ vẫn có điểm khác biệt so với miền Bắc. Rõ nhất là

không xuất hiện việc hầu đồng, hát văn. Xét ở góc độ văn hóa với tính phong

phú, hỗn dung, việc thiếu vắng hát văn là một điều đáng tiếc trong tín ngưỡng

thờ Mẫu, song lại phản ánh phần nào sự đơn giản trong thực hành lễ nghi tín

ngưỡng của người miền Trung.

Ở Nam Trung Bộ, đặc trưng cơ bản của dạng thức thờ Mẫu là tín ngưỡng

thờ Mẫu không có sự hiện diện của Mẫu Tam phủ, Tứ phủ mà chỉ có hình

thức thờ Nữ thần và Mẫu thần. Hình thức thờ Nữ thần như thờ Tứ vị Thánh

nương, Bà Ngũ Hành và hình thức thờ Thánh Mẫu như thờ Thiên Y A Na,

Poh Nagar. Trong đó, Poh Nagar là hình ảnh bà mẹ nhiệm màu đã xóa đi ngăn

cách tôn giáo, gắn mọi người với nhau trong hình ảnh đàn con cùng một mẹ.

Thờ Mẫu ở Nam Bộ

So với ở Bắc Bộ, tục thờ Nữ thần và Mẫu thần có sự phân biệt nhất định

với biểu hiện rõ rệt là thông qua tên gọi và xuất thân của các vị thần thì ở

Nam Bộ sự phân biệt giữa hình thức thờ Nữ thần và Mẫu thần ít rõ rệt hơn. Sở

dĩ tục thờ Mẫu ở Nam Bộ có quan hệ mật thiết, gắn bó với tục thờ Mẫu thần

là do khi người Việt ở miền Bắc và miền Trung di cư vào họ đã mang theo tín

ngưỡng cũ và tiếp nhận những ảnh hưởng của các cư dân sống ở Nam Bộ từ

trước. “Tín ngường thờ Mẫu ở Nam Bộ có sự kế thừa, tiếp thu và sáng tạo, đã

chuyển hóa Linga và Yoni sang ban cô - ban cậu, được thờ phối tự với Chúa

Xứ thánh Mẫu” (Thích Minh Nghiêm, 2010). Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ

cũng trở nên phong phú nhờ sự giao lưu văn hóa giữa người Việt với người

Khmer, người Việt với người Hoa. “Từ đó chúng ta có thể thấy, có hiện tượng

70

tích hợp nhiều lớp văn hóa khác nhau: lớp văn hóa Phù Nam, lớp văn hóa cổ

truyền Khmer, lớp văn hóa Chăm và lớp văn hóa Việt” (Thích Minh Nghiêm,

2010).

Những Nữ thần được thờ phụng ở Nam Bộ như Bà Ngũ Hành, Tứ vị

Thánh nương, Bà Thuỷ Long, Bà Chúa Động, Bà Tổ Cô,...và những Mẫu thần

được thờ phụng như Linh Sơn thánh Mẫu (núi Bà Đen), Chúa Xứ thánh Mẫu

(núi Sam), Thiên Hậu thánh Mẫu Bà Chúa Xứ, Bà Đen, Bà Chúa Ngọc, Bà

Thiên Hậu,...

Tóm lại, tín ngưỡng thờ Mẫu là nơi gửi gắm niềm tin, hy vọng, là chỗ

dựa tâm linh cho một bộ phận dân cư khi họ tin và đi theo thứ tín ngưỡng này.

Ngoài ra, lễ hội trong tín ngưỡng thờ Mẫu còn mang tính thiêng liêng, phản

ánh tình cảm, sự ngưỡng mộ về vai trò của người mẹ trong các lĩnh vực của

đời sống xã hội. Trong sinh hoạt của tín ngưỡng thờ Mẫu đã giúp liên kết mọi

người, thậm chí vượt ra khỏi giới hạn của tư tưởng định kiến tôn giáo hoặc sự

cục bộ địa phương để cùng hướng về một đối tượng linh thiêng, với một lễ

hội thống nhất. Nó còn phát khởi mối thiện tâm trong mỗi con người trong

các mối quan hệ xã hội.

Biểu tượng của thánh Mẫu mang một ý chí kiên cường, sức mạnh tổng

hợp để chiến thắng giặc ngoại xâm, thiên tai nhằm xây dựng và bảo vệ tổ

quốc. Đây chính là nét đẹp truyền thống của người Việt Nam. Vai trò và ảnh

hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu còn được thể hiện qua cách ứng xử, tấm lòng,

tâm hồn thật đẹp của các nhân vật được tôn thờ, nhất là những cái đẹp của

người phụ nữ Việt Nam là một biểu tượng cần được đề cao và luôn ghi nhớ.

Những giá trị văn hóa của Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng được xem là có vai

trò, vị trí vô cùng quan trọng trong sinh hoạt tín ngưỡng, nếu gạt bỏ những

tiêu cực thì tín ngưỡng thờ Mẫu đã góp phần đáng kể cho bản sắc văn hóa

Việt Nam: Từ truyền thuyết, văn chầu, trang phục trong điện thần đều là nét

độc đáo về văn hóa, nghệ thuật. Ngoài ra, bên cạnh hát chầu văn theo nhạc

71

điệu còn có múa đồng. Đó là những di sản văn hóa dân tộc rất quý giá cần

được đánh giá đúng mực, cần bảo tồn và phát triển.

Nước ta đang trong quá trình phát triển và hội nhập. Thông qua sự tiếp

xúc, giao lưu trong và ngoài nước văn hóa tinh thần càng trở nên phong phú,

đa dạng. Tuy nhiên, một số giá trị truyền thống, những sự kiện lịch sử dân tộc

mà ông cha ta để lại đang có nguy cơ bị lãng quên hoặc không được quan tâm

đúng mức. Bên cạnh đó, cơ chế thị trường cũng đặt ra hàng loạt vấn đề cần

lưu tâm. Một số người đến với Mẫu không còn xuất phát từ nhu cầu tâm linh

mà bởi nhu cầu kinh tế.

Trong bối cảnh đó, tín ngưỡng thờ Mẫu cần được quan tâm đúng mức,

hạn chế những tác động có hại cho sự phát triển văn hóa, phần lễ hội cần được

tổ chức chất lượng, đúng với giá trị tâm linh. Lễ hội cần truyền tải được giá trị

tốt đẹp của đạo Mẫu, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống lịch sử, văn hóa

cho người dân.

2.2.2. Đạo Mẫu ở Kỳ Anh (Hà Tĩnh)

Nằm trong không gian tín ngưỡng của vùng Bắc Trung bộ, người Hà

Tĩnh từ rất sớm đã coi trọng tín ngưỡng thờ Mẫu. Gần như ở các huyện trong

tỉnh đều có các điểm thờ Mẫu.Trên địa bàn Hà Tĩnh, nhân dân lập điện thờ

các vị Thánh Mẫu chính gốc Hà Tĩnh hoặc liên quan mật thiết với mảnh đất

này như Thánh Mẫu Bích Châu (Kỳ Anh), Ngọc Trần Thánh Mẫu (Nghi

Xuân), Bạch Ngọc Thánh Mẫu (Đức Thọ),… Các vị Thánh Mẫu được thờ

trên đất Hà Tĩnh đều có những đặc điểm tiêu biểu như: lòng yêu nước, thương

dân, chí căm thù giặc; sự phù trợ, che chở cho người lương thiện, tình cảm

nồng hậu và nhân từ,…

Ở vùng đất Kỳ Anh tục thờ Mẫu đã có từ rất sớm, tiêu biểu nhất là đền

thờ Thánh Mẫu Nguyễn Thị Bích Châu.

Đây là một nhân vật lịch sử có thật, một người phụ nữ có công lớn với

đất nước, bà luôn trăn trở vì sự tồn vong của dân tộc và bình yên cho nhân

72

dân. Mọi tâm huyết của bà được thể hiện rõ trong bản Kê minh thập sách. Bà

đã đưa ra nhiều kế sách để giúp vua phục hưng đất nước. Tiếc rằng, trong

chuyến hành quân cùng vua đi đánh Chiêm Thành, bà đã hi sinh. Thi thể bà

được an táng tại cử biển Kỳ Hoa (huyện Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh).

Năm 1470, vua Lê Thánh Tông cất quân đi đánh Chiêm Thành, sau khi

trở về đã sai lập đền thờ và sắc phong Nguyễn Thị Bích Châu là “Chế Thắng

phu nhân”. Từ đó, nhân dân càng thêm ngưỡng mộ, tôn kính và hương khói

cho ngôi đền của bà.

Như vậy, đạo Mẫu ở Kỳ Anh gắn liền với việc tôn thờ Thánh Mẫu

Nguyễn Thị Bích Châu. Điều này cho thấy tín ngưỡng thờ Mẫu của nhân dân

ở đây có nhiều điểm hay và tiến bộ. Họ không tự tôn vinh hay sáng tạo ra một

nhân vật thần thánh mà thờ cúng và tôn vinh có cơ sở. Tín ngưỡng thờ Mẫu

của người dân Kỳ Anh gắn liền với cội nguồn dân tộc, thể hiện rõ tinh thần

yêu nước, lòng biết ơn của người dân đối với người phụ nữ có công lớn với

đất nước.

Đền Nguyễn Thị Bích Châu tọa lạc tại thôn Hải Khẩu, xã Kỳ Ninh,

huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Đền có nhiều tên gọi khác nhau như: đền Bà

Hải, đền Hải Khẩu, hay đền Chế Thắng phu nhân. Đền được xây dựng vào

cuối thế kỷ XIV theo kiểu kiến trúc “tiền miếu hậu lăng”.

Đền Bích Châu được xây dựng trên bãi đất pha cát biển rộng khoảng

4.500m2, quay về hướng Đông Nam. Nhìn ra phía trước, bên phải là cửa Khẩu

và núi Cao Vọng, bên trái là núi Ô Tôn, trước mặt là Vũng Áng và sau lưng

phía xa là núi Bàn Độ.

Đền được xây dựng từ cuối thời Trần với kiến trúc “Tiền miếu hậu lăng”

nhưng quy mô còn nhỏ. Đến năm 1471, đời vua Lê Thánh Tông đền được xây

lại với quy mô lớn gồm ba tòa điện. Say này đền được đầu tư xây dựng thêm

nhà sắc, miếu thờ thần, nhà đón tiếp, nhà chuông khánh, cổng chính, cổng

phụ… Hiện nay đền không giữ được hoàn toàn kiến trúc xưa nhưng hiện

73

trạng của đền còn khá nguyên vẹn. Đền thờ nằm gần biển nên một số công

trình xây dựng trước đây đã bị bồi lấp.

Toàn bộ khu di tích có thể chia thành hai khu vực: Khu công trình phụ

gồm cổng phụ, đường đi, cổng chính và nhà quan tả; Khu công trình chính

gồm hạ điện, trung điện và thượng điện nhà tiếp khách, nhà sắc và khu hành

lang.

Đền có ba tòa: hạ, trung và thượng điện; giữa trung điện và thượng điện

có nhà dâng hương. Ba điện nối liền nhau theo kiểu chữ Công (工). Hạ điện

khá rộng, mặt tiền trang trí công phu, có các ô trang trí đề tài tứ linh, bát bảo,

trên hết là hình lưỡng long chầu nguyệt. Phía trong có bức hoành phi đề mấy

chữ Thánh đức lưu phương (Đức của Thánh để mãi tiếng thơm). Phía dưới là

bàn thờ, phần trung điện có hơi hẹp hơn, hai bên tả hữu đặt tượng phù điêu

các quan hầu. Nối liền với thượng điện là nhà dâng hương với các đồ tế khí.

Phần thượng điện có ba gian. Bàn thờ có mân bồng, đồ tam sự và giá chuông.

Tượng chế thắng phu nhân được tạc một cách bình dị, dung nhan hòa dịu,

nhân hậu. Hai bên tả hữu gian phải có tượng võ tướng và tượng khâm sai. Bên

gian trái là nhà sắc. Truyền thuyết dân gian kể rằng, ở sau bàn thờ phu nhân là

mộ của người được an táng từ thế kỷ XIV, nhưng hiện nay vẫn chưa thể thẩm

tra được mức độ chính xác.

Năm 2010, tại đền thờ đã lập bia khắc bài Kê minh thập sách, mặt trước

khắc chữ Nho, mặt sau là bản dịch Quốc ngữ. Đền có thêm một văn vật có giá

trị văn hóa. Khách thập phương đến viếng đền đều dừng lại đọc những dòng

chữ được khắc trên bia. Chính vì vậy, giá trị của bản Kê minh thập sách ngày

càng được nhiều người biết đến. Trước đây người dân ở nhiều nơi tìm về và

nghĩ bà là “vị Thánh Mẫu”, sau này khi quay trở lại đền họ ngỡ ngàng vì bà là

một phụ nữ toàn tài và để lại một tác phẩm có giá trị cho đến ngày nay.

Đền Chế Thắng phu nhân được tôn vinh và giữ gìn từ bao đời nay. Nhân

dân gần xa tôn kính như thần để cầu an cầu lộc, cầu tài. Đền có sách thuốc và

74

những thẻ xăm giúp con người hướng thiện, tu tâm tích đức để đem đến điều

tốt đẹp cho đời. Hàng năm, cứ mỗi dịp tết đến xuân về, hàng vạn du khách

gần xa về đây dâng hương và cúng lễ để cầu mong những điều tốt đẹp trong

năm mới. Điều này càng thể hiện nhân dân luôn khao khát được bình an chính

như điều bà từng mong mỏi lúc còn sống. Hàng ngày đền thờ Nguyễn Thị

Bích Châu cũng đón từng đoàn khách về viếng thăm.

Tháng 7-2018, trong một dịp trở lại đây, người viết gặp và phỏng vấn

được khá nhiều người về đền tham quan. Khi được hỏi về lý do tìm về đền

hầu như các ý kiến đều nói về sự linh thiêng của ngôi đền. Tuy nhiên, điều

khiến người viết trăn trở nhất là họ không hiểu rõ những công lao, đóng góp

của vị “Thánh Mẫu” mình tôn sùng cho lịch sử dân tộc.

Chị Lê Thị Dung ở huyện Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) chia sẻ “Hàng năm tôi

đều đến thắp hương ở đây từ 1 đến 2 lần. Tôi cảm thấy bình yên và an lòng

khi tìm về đây. Cảm giác như được Bà che chở. Thế nhưng tôi không biết

nhiều về những đóng góp của Bà cho dân tộc ta”.

Anh Phan Ngọc Phước ở xã Kỳ Lạc, huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh) cho biết

“Người dân quê tôi hàng năm đều về đây rất đông để cầu mong sự bình an.

Đền rất thiêng và luôn là điểm tựa tâm linh đối với chúng tôi. Tuy nhiên thực

sự tôi chưa hiểu hết giá trị của bản “Kê minh thập sách ”.

Bà Phạm Thị Lan ở xã Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh (Hà Tĩnh) kể lại: “Tôi

đến đền thường xuyên, đền linh lắm cứ muốn tâm bình an, thanh thản, muốn

vượt qua khó khăn thì hãy tìm đến đây. Hàng năm tôi thấy khách về đây rất

đông. Đông nhất là ngày tết và ngày giỗ Thánh. Vào dịp đó người các nơi về

nhiều và đông đúc như ngày hội”.

Người viết may mắn được sống ở quê hương Kỳ Anh nên có rất nhiều

dịp đến thắp hương ở đền thờ Thánh Mẫu Nguyễn Thị Bích Châu. Những câu

chuyện kể của cư dân quanh đền càng cho thấy sự linh ứng của ngôi đền thờ.

Nhiều người gặp hoàn cảnh bế tắc đến cầu nguyện đều được giúp đỡ.

75

Tóm lại, đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu đang ngày càng hoàn thiện và

thu hút số lượng lớn khách gần xa. Trải qua hơn 600 năm với bao thăng trầm,

biến cố lịch sử, thiên tai địch họa, chiến tranh. Đền lại gần biển nhưng vẫn

đứng vững nguyên vẹn tôn nghiêm, cổ kính và thách thức thời gian. Khu đền

thờ ngày càng được các cấp ngành quan tâm, công tác tuyên truyền và giáo

dục về giá trị của ngôi đền cũng như bản Kê minh thập sách và đạt nhiều kết

quả. Đặc biệt bản Kê minh thập sách đã được chuyển thể thành vở Kịch, thơ

biểu diễn nhiều nơi và được nhân dân rất hoan nghênh.

Năm 1991, Bộ Văn hóa Thông tin đã ra quyết định công nhận và xếp

hạng đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu là di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh

cấp Quốc gia.

Trải qua các triều đại phong kiến, Nguyễn Thị Bích Châu đã được sắc

phong là Chế thắng Phu nhân, nhân dân tôn bà là Loan Nương Thánh Mẫu

hay Mẫu Kỳ Anh. Bà đã được tôn lên hàng Mẫu vào khoảng thời gian khá

sớm trong đời sống tâm linh của người dân Việt Nam. Hàng năm, người dân

huyện Kỳ Anh đã tổ chức lễ hội quy mô, nhộn nhịp để tướng nhớ Nguyễn Thị

Bích Châu và nhắc lại những đóng góp của bà đối với lịch sử dân tộc.

Lễ tôn vinh và nhớ ơn Chế thắng phu nhân tại đền không rõ khởi đầu từ

khi nào, chỉ biết rằng hằng năm người viết luôn chứng kiến cư dân ở đây tổ

chức lễ hết sức tôn nghiêm, thành kính. Hàng tháng đến các ngày mùng 1,

ngày rằm đền đều tổ chức lễ và lượng khách về đây rất đông. Trong năm vào

các ngày lễ Đoan Ngọ (5/5), lễ Trung Nguyên (rằm tháng 7), đặc biệt là các

ngày từ mùng 1 đến 15 tết và ngày lễ giỗ Thánh thì lượng khách về rất đông

và ban quản lý khu di tích cũng tổ chức lễ hội lớn để tưởng nhớ bà. Vào cuối

năm âm lịch, khi chuẩn bị kết thúc năm cũ để chào đón năm mới tại đền cũng

tổ chức nhiều nghi lễ như: Lễ tất niên, lễ Bán dạ, lễ Sang canh, lễ Rước, lễ

Dâng bánh chưng, lễ Tam tiết, lễ đóng cửa điện, lễ khai san, khai hạ tại cửa

điện và tại núi Cao Vọng.

76

Các nghi lễ cổ truyền thường được tổ chức như: lễ thục, lễ tế bò sống,

hội đua thuyền rồng, lễ dâng bánh chưng.

Tuy nhiên, lễ hội lớn nhất là dịp lễ trong ngày giỗ Thánh Mẫu Nguyễn

Thị Bích Châu. Trong không khí tưng bừng lễ hội và mùa xuân, lễ hội diễn ra

hàng năm vào ngày 11 tháng 2 (âm lịch). Lễ hội được tổ chức ngay trên bờ

biển Kỳ Anh. Dân làng và khách thập phương đúng kỳ hạn đã tập trung ở đó.

Trong dịp lễ giỗ Thánh thường diễn ra bốn nghi lễ chính đó là:

1. Lễ thục - lễ dâng thức ăn nấu chín:

Lễ này bắt đầu từ tối ngày 11 đến sáng ngày 12 tháng Hai. Người dân

thường dâng lên xôi nếp, thịt lợn, thịt gà…Điểm đặc biệt là vào thời gian này

tuyệt đối không dâng những đồ lễ chưa được nấu chín.

2. Lễ tế bò sống:

Lễ này bắt đầu sau khi lễ thục kết thúc, tức diễn ra vào sáng ngày 12.

3. Lễ đua thuyền rồng:

Tế xong là đến cuộc đua thuyền rồng. Dân làng rước bài vị ra bến sông

để mời bà chứng kiến cuộc đua. Thuyền đua là của làng Hải Khẩu, cùng với

thuyền ở nhiều làng khác. Mỗi thuyền có người đánh trống, đánh mõ, người

chèo dốc, chèo lái, và khoảng từ 10 đến 12 tay chèo, đều mặc quần áo, chít

khăn đỏ hay vàng tùy theo sự lựa chọn của mỗi làng. Chặng đua là ở ngay đầu

cửa khẩu, có phân tiêu chí hẳn hoi, để chọn thuyền đạt giải. Chiêng trống

vang lừng, cờ ngũ sắc rợp trời. Cả một cử biển Kỳ Hoa rầm rộ và náo nức.

Sau cuộc thi đua thuyền, ban tổ chức có trao giải. Giải thưởng lớn nhất mà ai

cũng háo hức là nhận được cờ Thánh. Nhưng vinh dự nhất là chiếc thuyền nào

về nhất thì được cầm lá cờ của Đức Thánh đưa về dâng lên ở trước đền thờ.

4. Lễ dâng bánh chưng

Trong các phẩm vật làm lễ nói trên kia, còn một thứ không thể thiếu là

bánh chưng. Nếp, đậu đã được các chức sắc trong làng giao cho một số người

không có tang chế và trồng ở đám ruộng cao ráo, bảo quản chu đáo trồng trên

77

một đám ruộng cao ráo, thu hoạch đầy đủ, để gần đến ngày hội thì giao cho

một số gia đình giỏi việc gia chánh gói và nấu bánh. Bánh chưng to có ba

chiếc, mỗi chiếc phải đến 5kg nếp và 1,5kg đậu, bánh chưng nhỏ có 12 cặp,

mỗi chiếc cũng đến 2kg nếp, nửa kg đậu. Tất cả các bánh ấy sẽ được dâng lên

bàn thờ từ tối ngày 11. Sau này, hàng năm vào dịp Tết, người ta cũng nấu

bánh chưng như thế này, đề đưa ra đình, thành một thứ tục lệ đầu xuân của

người làng Hải Khẩu.

Trước đây, lễ hội Chế thắng phu nhân không rầm rộ lắm, chỉ lặng lẽ ở xã

Kỳ Ninh, huyện Kỳ Anh một phần vì chúng ta phải tiến hành các cuộc kháng

chiến chống Pháp và chống Mỹ, một phần vì quan niệm của một số người khi

ta chưa tiến hành “mở cửa”. Nhưng thời gian gần đây, các nhà chức trách địa

phương từ xã đến huyện rồi nghành văn hóa tỉnh Hà Tĩnh đã rất quan tâm,

chủ trương khôi phục lại lễ hội chế thắng phu nhân cho đúng với giá trị của

nó. Ở trung ương, các nhà khoa học cũng thấy cần phải đặt lại vấn đề về sự

tồn tại và công lao của bà Bích Châu. Đã có những báo cáo có giá trị như một

sự thức tỉnh, sự gợi ý về nhân vật Nguyễn Thị Bích Châu và tác phẩm Kê

minh thập sách của bà. Nhiều tác giả như Trần Khắc Mai, Trần Thị Băng

Thanh, Vũ Văn Tuyển… đã công bố nhiều tác phẩm liên quan đến nhân vật

này.

Nguyễn Thị Bích Châu không những được nhân dân nhớ ơn, thờ phụng

mà còn được các triều đại phong kiến sắc phong. Từ nhà Lê, qua Tây Sơn và

đến nhà Nguyễn đều sắc phong cho Liệt nữ Nguyễn Thị Bích Châu và đền

Hải Khẩu. Hiện nay, tại đền thờ nhân vật có công trình nhà Sắc được xây

dựng để lưu giữ sắc phong. Tuy nhiên, nước ta đã trải qua nhiều biến cố, đặc

biệt là chiến tranh tàn phá nên hiện nay đền chỉ lưu giữ được 3 đạo sắc thời

nhà Nguyễn, đó là:

Thứ nhất là Sắc phong của vua Đồng Khánh, phiên âm: “Sắc phương

danh, Liệt tiết, Trợ hóa, Đôn di, Trai thực, Chế thắng, Bảo thuận, Thận ý,

78

Linh hiển phu nhân, Trung đẳng thần, hướng lai hộ quốc tỉ dân, nậm trứ

linh ứng, tiết kinh ban báu chiếu cấp tặng sắc lưu tự. Tứ kim phỉ ứng

cảnh mệnh diến niệm thần hưu, khả gia tặng Dực bảo trung hưng Trung

đẳng thần nhưng chuẩn hứa: Hà Tĩnh tỉnh, Kỳ Anh huyện, Bỉnh Lễ xã,

Hải Khẩu thôn y cựu phụng sự, thần kỳ tương hộ, bảo ngã lê dân. Khâm

tai!” (Đồng Khánh, nhị niên, thất nguyệt, sơ nhất thật).

Dịch nghĩa: Sắc ban cho Chế Thắng Linh hiển phu nhân, trung đẳng

thần với các mĩ tự: Phương danh, Liệt tiết, Trợ hóa, Đôn di, Trai thực,

Chế thắng, Bảo thuận, Thận ý. Lâu nay, thần đã có công hộ nước, giúp

dân, tỏ rõ linh ứng, xứng đáng được ban cấp sắc phong, chuẩn cho được

phụng thờ như trước. Nay nhà vua nghĩ đến công trạng của thần, xét nên

gia tặng thêm cấp bậc là “Dực bảo trung hưng Trung đẳng thần”. Chuẩn

cho thôn Hải Khẩu, xã Bỉnh Lễ, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh phụng thờ

như trước. Thần nên gắng sức, bảo hộ dân ta. Kính vậy thay!

(Ngày mồng 1 tháng 7 năm Đồng Khánh thứ hai - 1886).

Thứ hai là Sắc phong của vua Duy Tân, phiên âm: “Sắc Hà Tĩnh tỉnh,

Kỳ Anh huyện, Bỉnh Lễ xã, Hải khẩu thôn tòng tiền phụng sự: Phương

danh, Liệt tiết, Trợ hóa, Đôn di, Trai thực, Chế thắng, Bảo thuận, Thận ý,

Linh hiển phu nhân, Trung đẳng thần. Tiết kinh ban cấp sắc phong,

chuẩn hứa phụng sự Duy Tân nguyên niên, tấn quang đại lễ, kinh ban

báu chiếu đàm ân, lễ long đăng trật. Đặc chuẩn y cựu phụng sự, dụng chí

quốc khánh nhi thân tự điển. Khâm tai!” (Duy Tân tam niên, bát nguyệt,

thập nhất nhật)

Dịch nghĩa: Sắc ban cho thôn Hải Khẩu xã Bỉnh Lễ huyện Kỳ Anh. Tỉnh

Hà Tĩnh được phụng sự như trước. Thần hiệu là Chế Thắng Linh hiển

phu nhân, bậc trung đẳng với các mĩ tự là: Phương danh, Liệt tiết, Trợ

hóa, Đôn di, Trai thực, Chế thắng, Bảo thuận, Thận ý. Qua các lần ban

cấp sắc phong chuẩn cho phụng sự. Đến niên hiệu Duy Tân năm đầu,

nhân có lễ Tấn quang, nhà vua xuống chiếu ban ơn thăng cấp bậc cho

Thần là Dực bảo trung hưng Trung đẳng thần. Đặc chuẩn cho phụng sự

79

như trước, để ghi nhớ ngày Quốc khánh, kính trọng điển chương thờ tự.

Kính vậy thay!

(Ngày 11 tháng 8 năm Duy Tân thứ 3 - 1909)

Thứ ba là Sắc phong của vua Khải Định, phiên âm: “Sắc Hà Tĩnh tỉnh,

Kỳ Anh huyện, Bỉnh Lễ xã, Hải khẩu thôn tòng tiền phụng sự Nguyên

tặng Phương danh, Liệt tiết, Trợ hóa, Đôn di, Trai thực, Chế Thắng, Bảo

Thuận, Thận ý, Linh hiển phu nhân, Trung đẳng thần. Hộ quốc, tỉ dân,

nậm trứ linh ứng, tiết mông ban cấp sắc phong chuẩn hứa phụng sự. Tứ

kim chính trực trẫm tứ tuần đại khánh, tiết kinh ban háu chiếu đàm ân, lễ

long đăng trật, trước gia tặng: Trang huy thượng đẳng thần. Đặc chuẩn

phụng sự, dụng chí quốc khánh, nhi thân tự điển. Khâm tai!” (Khải Định

nhị niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật)

Dịch nghĩa: “Sắc ban cho thôn Hải Khẩu, xã Bỉnh Lễ, huyện Kỳ Anh,

tỉnh Hà Tĩnh, được phụng sự như trước. Nguyên trước đã tặng phong

thần Chế Thắng linh hiển Phu nhân, bậc Trung đẳng với các mĩ tự là:

Phương danh, Liệt tiết, Trợ hóa, Đôn di, Trai thực, Chế thắng, Bảo

thuận, Thận ý. Bởi đã có công giữ nước, giúp dân, tỏ rõ linh ứng, từng

được ban cấp sắc phong, chuẩn cho phụng sự. Nay nhân Trẫm có lễ

mừng Tứ tuần đại khánh, đã từng xuống chiếu ban ơn, rộng rãi cho thăng

phẩm trật. Nay ban tặng thần lên bậc: Trang huy Thượng đẳng thần. Đặc

chuẩn cho tiếp tục phụng sự, để ghi nhớ lễ Quốc khánh, tôn trọng điển

chương thờ phụng của nước nhà. Kính vậy thay!

(Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 2 (1917)

(Ban quản lý di tích lịch sử đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu, 2013).

Qua ba bài sắc phong của các vị vua Đồng Khánh, Duy Tân và Khải

Định, ta thấy công lao to lớn của Nguyễn Thị Bích Châu và sự linh ứng của

ngôi đền Hải Khẩu. Sự quan tâm của nhà nước đến ngôi đền thờ của Chế

thắng phu nhân đã diễn ra liên tục cho tới ngày nay và ngày càng thu hút được

sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều học giả.

80

Tóm lại, thờ Mẫu ở Kỳ Anh đã tạo nên nét đẹp văn hóa truyền thống, là

dòng chảy tiếp biến hướng về cội nguồn. Hằng ngày, nhân dân vẫn chăm lo

hương khói cho Mẫu và vẫn tiếp tục gửi gắm niềm tin về sự phò trợ của Mẫu

để hướng tới cuộc sống trần thế an vui.

Từ việc nghiên cứu khảo sát thực trạng văn hóa lễ hội truyền thống của

tín ngưỡng thờ Mẫu tại đền Thánh Mẫu Nguyễn Thị Bích Châu ở Kỳ Anh (Hà

Tĩnh) đã cho thấy vai trò của phần “lễ” và phần “hội” trong xã hội ngày nay là

là rất to lớn.

Thông qua các lễ hội trong năm, đặc biệt là lễ giỗ Thánh vào tháng 2 âm

lịch hằng năm đã góp phần củng cố thêm ý thức về cộng đồng, về tinh thần

đoàn kết trong nhân dân.

Tín ngưỡng thờ Mẫu tại đền cũng góp phần khơi dậy tính lương thiện và

sự chân thành của con người vì họ ngưỡng mộ công lao và tấm lòng vì nước

vì dân của Thánh Mẫu Nguyễn Thị Bích Châu và muốn thể hiện những điều

tốt đẹp trước vị Thánh Mẫu mà mình tôn thờ.

Đền thờ Thánh Mẫu Nguyễn Thị Bích Châu còn góp phần chấn hưng

nền văn hóa dân tộc, lưu truyền những tinh hoa văn hóa riêng của Kỳ Anh.

81

Tiểu kết chương 2

Sau khi thành lập năm 1226, triều Trần đã nhanh chóng khắc phục

những hậu quả của những năm loạn ly của triều Lý suy vong và thúc đẩy

mạnh mẽ sự phát triển toàn diện của đất nước. Trong lịch sử vương quyền

Việt Nam, nhà Trần là một triều đại lẫy lừng. Một triều đại đã làm nên “Hào

khí Đông A”, đưa đất nước thoát khỏi tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” khi đất

nước bị giày xéo dưới vó ngựa quân Nguyên Mông và làm nên chiến thắng

hiển hách. Đây cũng là vương triều đã nhen lên “ngọn lửa khai phóng”, tập

thành một trào lưu tư tưởng Thiền học vừa cởi mở vừa sâu sắc, mà đỉnh cao là

sự xuất hiện của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Để đạt những thành tựu lớn lao đó phải kể đến sự đóng góp của những cá

nhân xuất sắc là những hoàng đế và những danh tướng của vương triều Trần

cũng như những người phụ nữ trong triều đại này. Đó là những nhân cách có

tầm vóc hết sức to lớn.

Quý phi Nguyễn Thị Bích Châu đã đóng góp to lớn cho vương triều Trần

thông qua bản Kê minh thập sách. Đây là một người phụ nữ sống trong giai

đoạn rối ren của nhà Trần nhưng lại có tư tưởng tiến bộ, đi trước thời đại.

Tiếc rằng, những tư tưởng đó không được thực hiện.

Tuy nhiên, sự đóng góp của bà đã thể hiện được biểu tượng “Mẫu” trong

cuộc sống của người dân Việt tạo nên một sự chở che, bảo vệ cho dân chúng

qua các thời đại. Sự kính trọng và tôn vinh bà của hậu thế cũng là sự tôn thờ

một người mẹ.

82

KẾT LUẬN

Nghiên cứu về nhân vật lịch sử có tầm quan trọng nhằm góp phần tái

hiện lại chặng đường phát triển của lịch sử dân tộc. Mỗi nhân vật đều có một

vai trò riêng và có những đóng góp nhất định trong một giai đoạn lịch sử.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, qua mọi

thời kỳ phụ nữ có nhiều đóng góp to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã

hội, xây dựng quốc gia độc lập, tự cường, đấu tranh chống giặc ngoại xâm giữ

gìn nền độc lập của dân tộc. Trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, phụ nữ

Việt Nam đã góp tài năng, trí tuệ của mình trong tất cả các lĩnh vực như: Kinh

tế, chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục, tư tưởng... Những đóng góp của phụ

nữ Việt Nam trong các chặng đường qua sẽ là hành trang và kinh nghiệm quý

báu để phụ nữ Việt Nam tiếp tục đem tài năng, trí tuệ của mình góp phần vào

công cuộc xây dưng và bảo vệ đất nước.

Dưới triều đại nhà Trần đã có sự đóng góp của nhiều nhân vật lịch sử là

phụ nữ có tầm vóc. Nguyễn Thị Bích Châu đã để lại dấu ấn trong thời kì thời

Trần rơi vào khủng hoảng. Không giống với các mẫu nhân vật, Nguyễn Thị

Bích Châu có phần lý tưởng hóa, mang nhiều yếu tố huyền thoại. Những tài

liệu lịch sử - văn hóa cho thấy Nguyễn Thị Bích Châu là một nhân vật lịch sử

có thật sống trong cung vua Trần Duệ Tông. Những tài liệu này đã chứng

minh Nguyễn Thị Bích Châu có đóng góp trong thực tế đối với sự nghiệp

dựng nước nhà Trần thông qua tài liệu chứng minh tác phẩm do bà sáng tác

làm lời khuyên vua nhà Trần.

Dù vậy, Nguyễn Thị Bích Châu đã có tầm ảnh hưởng lớn không chỉ đối

với vương triều Trần mà còn cả ngày nay. Bà đã nổi lên như một chính trị gia

mặc dù bà chỉ là một phụ nữ trong thời kì phong kiến - thời kì mà tiếng nói

phụ nữ bị hạn chế. Qua tìm hiểu và làm rõ nhân vật lịch sử Nguyễn Thị Bích

Châu từ thân thế, đóng góp đối với triều Trần người viết đưa ra nhận xét trong

83

những người phụ nữ triều Trần bà là người có đóng góp trí tuệ nhất (đường

lối trị nước).

Kê minh thập sách là một trong những đóng góp lớn của Nguyễn Thị

Bích Châu đối với vương triều Trần. Mười điều trong bản Kê minh thập sách

là một lời khuyên răn nhẹ nhàng, gần gũi, đúng theo nghĩa người vợ khuyên

người chồng. Bản Kê minh thập sách đã thể hiện sự tuệ mẫn của bà, tiếc rằng

vua Trần Duệ Tông lại không thực hiện các nội dung của bản Kê minh, bỏ phí

tâm sức của người vợ hiền, người bề tôi trung, một lòng một dạ vì nước vì

dân, vì tồn vong của triều cục. Tuy nhiên, đến ngày hôm nay, bản Kê minh

thập sách vẫn còn nguyên giá trị. Những bài học về chính trị, quân sự, giáo

dục,... là những bí kíp để các thế hệ con cháu hôm nay học hỏi và vận dụng

nhằm góp phần xây dựng một đất nước cường thịnh.

Ngoài ra, những đóng góp và hy sinh của Nguyễn Thị Bích Châu góp

phần làm phong phú thêm tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam. Đền thờ Chế

thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu là minh chứng cho tục thờ đạo Mẫu.

Sự thờ phụng Thánh Mẫu Nguyễn Thị Bích Châu của nhân dân Kỳ Anh nói

riêng và Hà Tĩnh nói chung đã khẳng định công lao to lớn của bà đối với dân

tộc. Nguyễn Thị Bích Châu là vị thánh “thoát thai” từ nhân vật có thật trong

lịch sử - một con người có danh tiếng, có công trạng trong sự nghiệp dựng

nước dưới thời Trần. Bà góp phần làm rõ giá trị tinh thần, tâm linh của đạo

thờ Mẫu ở Việt Nam. Ở Việt Nam, đạo Mẫu thường tôn sùng người phụ nữ có

đóng góp đối với giang sơn, đất nước vì vậy qua việc tôn sùng này cho thấy

Nguyễn Thị Bích Châu đã có đóng góp lớn cho dân tộc.

Nhận thức về sự tồn tại và những đóng góp của Nguyễn Thị Bích Châu

góp phần làm cho đạo Mẫu trở thành một trong những tín ngưỡng bản địa

hàng đầu của nhân dân Kỳ Anh (Hà Tĩnh).

Tóm lại, vai trò lịch sử của Nguyễn Thị Bích Châu trong sự nghiệp dựng

nước của nhà Trần là to lớn. Bà đã thể hiện được vai trò của bậc “Mẫu nghi

84

thiên hạ”. Thế hệ ngày hôm nay ghi công và tôn thờ bà như một vị thánh Mẫu

chở che, bảo vệ và hộ mệnh cho nhân dân.

85

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Huyền Anh. (1972). Tiểu tự điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Sài Gòn:

Nhà in Thùy Phương.

Ban quản lý di tích lịch sử đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu. (2013). Hải khẩu

linh từ thần tích và lễ hội. Hà Nội: Nxb Văn hóa - Thông tin.

Phan Huy Chú. (1961). Lịch triều hiến chương loại chí (tập IV). Hà Nội: Nxb

Sử học.

Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng. (2017). Các triều đại Việt Nam. Nxb Thanh Niên.

Nguyễn Thị Thùy Duyên. (2017). Tư tưởng chính trị thời Trần: Nội dung, đặc

điểm và ý nghĩa lịch sử. Công ty cổ phần In khuyến học phía Nam.

Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê. (1998). Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch

tập II. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.

Phan Thư Hiền. (2002). Chế Thắng phu nhân (Loan Nương Thánh Mẫu). Hà

Nội: Nxb Văn hóa - Thông tin.

Khám phá di sản. (2017). Đền thờ Thánh Mẫu - Nguyễn Thị Bích Châu điểm

đến tâm linh tại Hà Tĩnh. Nhận từ https://www.khamphadisan.com/den-

tho-thanh-mau-nguyen-thi-bich-chau-diem-den-tam-linh-tai-ha-tinh/

Vũ Như Khôi. (2017). Văn hóa giữ nước Việt Nam: Những giá trị đặc trưng.

Hà Nội: Nxb Quân đội Nhân dân.

Phương Lan. (1968). Anh Thư nước Việt từ lập quốc đến hiện đại. Nxb

Đại Nam.

Phan Ngọc Liên. (2009). Phương pháp luận sử học. Hà Nội: Nxb Đại học

Sư phạm.

Công Lý. (2013). Viếng đền Bà Hải, nghĩ về các bài học lịch sử. Nhận từ

http://hatinh24h.com.vn/vieng-den-ba-hai-nghi-ve-cac-bai-hoc-lich-su-

a13527.html

Nguyễn Khắc Mai. (2015). Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu và

Đền thiêng Hải khẩu. Hà Nội: Nxb Phụ nữ.

86

Nhóm trí thức Việt. (2014a). Những công chúa nổi tiếng của các triều đại

Việt Nam. Hà Nội: Nxb Thời đại.

Nhóm trí thức Việt. (2014b). Những phi - hậu nổi tiếng của các triều đại Việt

Nam. Hà Nội: Nxb Thời đại.

Thích Minh Nghiêm. (2010). Nghi lễ thờ Mẫu: Văn hóa & tập tục. Hà Nội:

Nxb. Thời đại.

Nguyễn Bích Ngọc, Lưu Hùng Chương, Nguyễn Văn Thu. (2010). Từ điển

lịch sử Việt Nam phổ thông. Sài Gòn: Nxb Văn hóa - Thông tin.

Nguyễn Bích Ngọc. (2012). Nhà Trần trong văn hóa Việt. Thành phố Hồ Chí

Minh: Nxb Thanh niên.

Trương Hữu Quýnh, Phạm Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh. (2009). Đại cương

Lịch sử Việt Nam (tập 1). Hà Nội: Nxb Giáo dục Việt Nam.

Hồ Văn Sơn. (2002). Đền thiêng ở cửa biển. Nghệ An: Nxb Nghệ An.

Nguyễn Q Thắng, Nguyễn Bá Thế. (1997). Từ điển nhân vật lịch sử Việt

Nam. Hà Nội: Nxb Văn hóa.

Nguyễn Hữu Thông. (2001). Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam.

Huế: Nxb Thuận Hóa.

Tài liệu phỏng vấn trực tiếp tại địa phương.

Hà Vũ và Đặng Sơn. (2017). Uy nghiêm Lễ giỗ thứ 640 Chế thắng Phu nhân

Nguyễn Thị Bích Châu. Nhận từ https://infonet.vn /uy-nghiem-le-gio-

thu-640-che-thang-phu-nhan-nguyen-thi-bich-chau-post222648.info

Wiki. Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam. Nhận từ

https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%ADn_ng%C6%B0%E1%BB%A1n

g_th%E1%BB%9D_M%E1%BA%ABu_Vi%E1%BB%87t_Nam

PL1

PHỤ LỤC

PL1. Tượng Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu tại đền Bà Hải

Nguồn: Công Lý. (2013). Viếng đền Bà Hải, nghĩ về các bài học lịch sử.

Nhận từ http://hatinh24h.com.vn/vieng-den-ba-hai-nghi-ve-cac-bai-hoc-lich-

su-a13527.html

PL2

PL2. Đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu

Nguồn: Khám phá di sản. (2017). Đền thờ Thánh Mẫu - Nguyễn Thị Bích Châu

điểm đến tâm linh tại Hà Tĩnh. Nhận từ https://www.khamphadisan.com/den-tho-

thanh-mau-nguyen-thi-bich-chau-diem-den-tam-linh-tai-ha-tinh/

PL3

PL3. Bản Kê minh thập sách tại Đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu

Nguồn: Khám phá di sản. (2017). Đền thờ Thánh Mẫu - Nguyễn Thị Bích Châu

điểm đến tâm linh tại Hà Tĩnh. Nhận từ https://www.khamphadisan.com/den-tho-

thanh-mau-nguyen-thi-bich-chau-diem-den-tam-linh-tai-ha-tinh/

PL4

PL4. Lễ giỗ thứ 640 Chế thắng Phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu

Nguồn: Hà Vũ và Đặng Sơn. (2017). Uy nghiêm Lễ giỗ thứ 640 Chế thắng Phu

nhân Nguyễn Thị Bích Châu. Nhận từ https://infonet.vn/uy-nghiem-le-gio-thu-640-

che-thang-phu-nhan-nguyen-thi-bich-chau-post222648.info

PL5

PL5. Rước bài vị Chế thắng Phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu

Nguồn: Hà Vũ và Đặng Sơn. (2017). Uy nghiêm Lễ giỗ thứ 640 Chế thắng Phu

nhân Nguyễn Thị Bích Châu. Nhận từ https://infonet.vn/uy-nghiem-le-gio-thu-640-

che-thang-phu-nhan-nguyen-thi-bich-chau-post222648.info