Về vai trò sáng lập lịch

sử triết học của Arixtốt

Những điều mà chúng tôi nêu trên chỉ là nhằm làm rõ cái điềm khởi đầu lịch

sử triết học và coi Arixtốt là người đại diện cho điểm khởi đầu ấy với tư cách là người

sáng lập ra môn học này, mặc dù đó chỉ là sự mở đầu với nội dung chưa thật rõ ràng

và hình thức còn rất sơ khai. Toàn bộ sự vận động, phát triển của lịch sử triết học và

những thành tựu mà nó đạt được sau này không thể tách rời điểm khởi đầu ấy. Có

thể còn có nhiều cách tiếp cận và luận giải vấn đề này. Song, tên tuổi, sự nghiệp và

những cống hiến của Arixtốt đối với sự hình thành và phát triển của lịch sử triết học

đã được khẳng định.

Lịch sử triết học bắt đầu từ đâu? Ai là người sáng lập ra lịch sử triết học? Vấn đề

này đã và đang thu hút tự quan tâm nghiên cứu và tranh luận của nhiều nhà triết học, đã

có nhiều quan điểm, nhận định khác nhau về vấn đề này. V.Gátpi - nhà nghiên cứu lịch

sử triết học cổ đại nổi tiếng, trong "Arixtốt - nhà lịch sử triết học" (xuất bản năm 1969 ở

Kiép - Liên Xô) đã khẳng định Arixtốt ( 384-322 TCN) là nhà triết học lớn nhất, có bộ

óc bách khoa của triết học Hy Lạp cổ đại, là người đầu tiên không chỉ đặt nền móng

vững chắc cho lâu đài triết học, logic học và khoa học hiện đại, mà còn là người đầu tiên

đặt nền móng cho lịch sử triết học. Nói cách khác, theo ông, bắt đầu từ Arixtốt, lịch sử

triết học mới ra đời và phát triển.

V.Gátpi cho rằng, hơn các nhà triết học cùng thời, Arixtốt có bộ óc bách khoa,

ông không những kế thừa được những tinh hoa tư tưởng triết học thời ấy, mà còn tổng

kết, tìm ra những giá trị tiến bộ của tư tưởng văn hóa, triết học và nâng chúng lên tầm

cao mới. Khác với các nhà triết học trước đó, Arixtốt không chỉ tổng kết, hệ thông hóa,

phân loại các tài liệu lịch sử triết học, mà còn giải thích, làm rõ thêm nhiều luận điểm

triết học của các bậc tiền bối. Gátpi đã phê phán quan điểm của nhà triết học

Trônơnhítxa khi ông này cho rằng, dường như Arinxtốt đã "góp nhặt" các quan điểm

trong những học thuyết triết học để "nhào nặn" thành quan điểm triết học của riêng

mình, đã "vay mượn" ý tưởng của người khác để làm giàu tư tưởng triết học của mình.

Bác bỏ quan niệm không đúng của Trônơnhítxa và dựa vào các quan điểm, học thuyết

của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, Gátpi đã làm rõ ý nghĩa triết học và vai trò của

Arixtốt và tư cách là người đầu tiên nghiên cứu lịch sử triết học và sáng lập ra môn học

này.

Trong tác phẩm của mình, Gátpi không chỉ làm nổi bật học thuyết về vận động

của Arixtốt, mà còn từ quan điểm vận động này biểu đạt ý tưởng về sự vận động tư

tưởng trong lịch sử phát triển của nó. Gátpi đã chứng minh một cách thuyết phục vai trò

và ý nghĩa triết học của học thuyết triết học Arixtốt và coi học thuyết này là khởi nguồn

của sự phát triển tư tưởng lịch sứ triết học. Từ những đánh giá đó, Gátpi đã khẳng định

Arixtốt là người mở đầu, là ông tổ của lịch sử triết học. Arixtốt xứng đáng được gọi như

vậy, mặc dù còn có những hạn chế lịch sử nhất định, nhưng nếu không có ông, không có

người đại điện cho những người mở đầu thì chúng ta không thể có lịch sử khoa học triết

học ngày nay.

Vào nhưng năm 20 - 30 của thế kỷ XX, vấn đề khởi nguồn của lịch sử triết học và

cuộc tranh luận Arixtốt có phải là người sáng lập ra lịch sử triết học đã trở thành một

trong những đề tài sôi nổi trong giới triết học Liên Xô. Đanhenlia - nhà triết học Grudia

nổi tiếng, trong tác phẩm "Arixtốt viết về các bậc tiền bối" (Nxb Tờbilixi, 1978), đã

khẳng định: các tác phẩm của Arixtốt có một ý nghĩa quan trọng vì nó là minh chứng về

nguồn gốc của lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại. Điều này là đúng, nhưng coi Arixtốt là

người sáng lập ra lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại thì chúng ta chưa có đủ cơ sở để khẳng

định điều đó. Tuy nhiên, Đanhenlia đã nghiên cứu rất công phu các tài liệu, tìm được

phương pháp tiếp cận phù hợp để nghiên cứu và hiểu được ý đồ tổng kết lịch sử triết học

của Arixtốt. Trong kết quả nghiên cứu của mình, ông đã đưa ra những kết luận xác đáng:

(1) Arixtốt là người đã có công hệ thống hóa triết học trong thế giới cổ đại với một sự

chính xác đến mức kinh ngạc, là người đã vạch ra cả cấu trúc logic của các quan điểm,

các học thuyết triết học trước đó, đem lại sự tường minh cho các vấn đề phức tạp. (2)

Arixtốt không chỉ là người đã có công tổng kết tư tưởng triết học, làm sống lại những tư

tưởng của các bậc tiền bối, mà còn là người tổ chức, định hướng cho công tác nghiên

cứu và phát triển triết học của những người kế tục ông. (3) Trong đi sản triết học của

Arixtốt, không côn nghi ngờ gì nữa, đã có những tuyển tập các công trình, luận văn

nghiên cứu về lịch sứ triết học. Chúng ta có thể tìm thấy nó trong các tác phẩm của

Arixtốt và trong các tài liệu triết tiệc kể từ sau Arixtốt cho đến nay.

Qua nghiên cứu các tài liệu lịch sử triết học, chúng ta có thể thấy một điểm chung,

khá thống nhất là về cơ bản, các nhà nghiên cứu triết học Arixtốt đều cho rằng, Arixtốt

là người sáng lập lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại, các tác phẩm của ông là nguồn gốc để

nghiên cứu lịch sử triết học thời ấy. Arixtôt đả định nghĩa triết học là khoa học, đánh giá

cao ý nghĩa và giải thích khá sâu sắc nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội của triết

học. Sự giải thích của ông về vấn đề này cho đến tận ngày nay, qua bao nhiêu thăng

trầm của hàng chục thế kỷ, có nhiều luận điểm vẫn còn hợp lý, có giá trị thời sự. Hêgen

và sau này là Mác, Ăngghen, Lênin đều đánh giá cao vai trò và ý nghĩa triết học của

Arixtốt. Logic phát triển triết học của Cantơ, Hêgen, của Mác, Ăngghen và Lênin đều

xuất phát từ các bậc tiền bối như Arixtốt. Về sự giống nhau của chủ nghĩa duy tâm

nguyên thuỷ và chủ nghĩa duy tâm hiện đại, Lênin viết: "Cantơ, Hêgen, ý niệm về

Thượng đế, chẳng phải là cũng cùng một loại đấy sao, cũng đều xuất phát từ Arixtôt" tác

giả nhấn mạnh).

Tư những điều phân tích trên đây, Đanhenlia đã gián tiếp khẳng định lịch sử triết

học Hy Lạp cổ đại bắt đầu từ Arixtốt. Nhưng Arixtốt có phải là người đầu tiên sáng lập

ra lịch sử triết học không? Đanhenhia không trả lời dứt khoát vấn đề này.

Nhưng theo cách giải thích của ông thì đây là vấn đề hết sức nghiêm túc, đòi hỏi sự

nghiên cứu công phu, thận trọng khi đánh giá đưa ra nhận xét, kết luận. Ông đặt ra việc

cần thiết phải xây dựng những yêu cầu và tổ chức hội thảo khoa học để các nhà triết học

bàn luận và đi đến thống nhất về việc nêu ra các tiêu chí đánh giá người sáng lập lịch sử

triết học. Với quan điểm ấy,theo ông, thậm chí ngay cả Hêgen cung chưa có đầy đủ các

tiêu chí để được gọi là người sáng lập ra lịch sử triết học.

Vào những năm 70 của thế kỷ XX, ở Mátxcơva (Liên Xô), xuất hiện một công

trình nghiên cứu có tiếng vang lớn của Lôxép: Lịch sử mỹ học cổ đại - Arixtôt và các tác

phẩm kinh điển. Trong tác phẩm này, Lôxép khẳng định: Arixtốt là người sáng lập lịch

sử triết học Hy Lạp cổ đại. Những luận điểm xuất phát để ông khẳng định Arixtốt là nhà

lịch sử triết học đầu tiên là dựa vào các khái niệm của lịch sử triết học. Từ việc phân

tích, làm rõ các khái niệm triết học, ông phân chia ra các nguyên tắc cơ bản và các yếu

tố cấu thành lịch sử triết học, tìm ra đối tượng và phương pháp nghiên cứu của

nó. Theo Lôxép:

(1) Lịch sử triết học nghiên cứu sự phát triển có tính logic lịch sử của tư tưởng

triết học.

(2) Sự thống nhất và tính lặp lại những vấn đề triết học là do vấn đề cơ bản của

triết học quy định và do sự quy định cửa trình tự logic - lịch sử tư tưởng triết học.

(3) Sự phát triển tư tưởng triết học là lịch sử tìm tòi, phát hiện chân lý trong cuộc

đấu tranh giữa các quan điểm đối lập. Đây là một quá trình phát triển biện chứng, được

thực hiện theo nguyên tắc: lọc bỏ cái cũ, lỗi thời, giữ lại cái tiến bộ để kế thừa, phát

triển. Những tiêu chí để gọi lịch sử triết học là một khoa học được hình thành trong quá

trình phát triển lâu đài của bản thân nó và diễn ra với các điều kiện lịch sử rất khác nhau.

Có thể nói rằng, sự bắt đầu lịch sử triết học có mối quan hệ chặt chẽ với việc phát hiện

ra các yếu tố cấu thành của chính nó, với việc tổng kết, khái quát các học thuyết triết học

trước đó, ngay cả ở hình thức đầu tiên, chưa phát triển, chưa hoàn thiện.

Những thành tựu đạt được một cách nghiêm túc, có ý nghĩa về mặt khoa học trong

nghiên cứu lịch sử triết học gắn liền với tên tuổi của Hêgen. Chính Hêgen là người đầu

tiên đem lại cho lịch sử triết học không chỉ một tên gọi với đúng nghĩa của nó, mà còn

xác lập cho nó một vị thế nhất định trong khỏa học triết học. Kể từ ngày ấy sự tồn tại các

tư tưởng trong lịch sử triết học, nhất là giai đoạn trước khoa học, trở thành một bộ phận

không thể tách rời trong dòng chảy lịch sử triết học mà đỉnh cao là lịch sử triết học với

tư cách một khoa học được Mác, Ăngghen sáng lập ra, sau này được Lênin phát triển.

Như vậy, lịch sử triết học bắt đầu ở nơi mà trình độ tư duy trừu tượng, khái quát đã phát

triển khá cao, việc tổng kết và hệ thống hóa các tri thức của loài người được thực hiện

bằng phương pháp kết hợp chặt chẽ giữa cái lịch sử và cái logic trên cơ sở nhất nguyên

luận. Nhờ đó mà quan điểm, học thuyết mới ra đời, nó vừa là sản phẩm của quá trình tư

duy của chủ thể, có sự kế thừa và phát triển các thành tựu của học thuyết triết học trước

đó, vừa là sản phẩm của sự tổng kết, khái quát những kinh nghiệm của đời sống thực

tiễn.

Rõ ràng, lịch sử triết học không phải là khoa học lịch sử, mà chính xác hơn là

khoa học triết học, với một ý nghĩa xác định, nó là triết học về lịch sử khách quan. Cho

nên, vấn đề phát sinh của môn khoa học này chỉ có thề xem xét và đặt nó trong giới hạn

phát triển của triết học. Có như vậy, mới phân biệt rõ khía cạnh triết học lịch sử của lịch

sử triết học, túc là lịch sử triết học với đúng nghĩa của từ này, còn sự mô tả đời sống và

liệt kê các sự kiện thì khoa học lịch sử đảm nhận và phản ánh bằng những con đường

riêng của nó.

Cho đến nay sự tìm kiếm điểm khởi đầu của quá trình phát sinh lịch sử triết học

vẫn còn tiếp tục. Nhiều nhà triết học macxít đã coi Arixtốt là người mở đầu lịch sử tư

duy triết học, là người đã giải phóng triệt để tư duy tiền khoa học, là người đầu tiên đã

tổng kết, khái quát lịch sử tri thức nhân loại và đưa triết học phát triền lên tầm cao mới

nhờ việc phê phán học thuyết về “con số" của Pitago, học thuyết về “ý niệm" của Platôn.

Có lẽ là như vậy, và lịch sử triết học đã ra đời từ đó. Nét đặc biệt của thời đại Arixtốt

chính là giai đoạn tổng kết và tích luỹ tri thức mà người cổ đại đã đạt được là giai đoạn

mà sự vận động và tiến bộ xã hội diễn ra rất nhanh, trên nền tảng ấy triết học phát triển

và đã đem lại một cách nhìn mới về thế giới trong một chỉnh thể thống nhất. Những hệ

thống triết học như thế có thể tìm thấy ở triết học tự nhiên của Êmpêđốccđơ và hệ thống

triết học của Pácmênít. Hơn thế nữa, chúng ta có thể tìm thấy sự sống động và tính đa

dạng trong di sản triết học của Platôn, nơi mà mỗi sự kiện được ông miêu tả, nhận xét,

đánh giá đều toát lên những khía cạnh của lịch sử triết học.

Có thể nói, người đầu tiên nêu ra khuynh hướng cơ bản trong triết học và cuộc

đấu tranh giữa hai khuynh hướng chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm chính là

Platôn, mặc dù ông không quan tâm nghiên cứu, khảo sát các học thuyết triết học của

các bậc tiền bối và cũng không có ý thức sử đụng các học thuyết ấy làm cơ sở để luận

chứng trong các đối thoại và tranh luận của mình. Nhưng sự thực thì khi giảng bài, đàm

luận, tranh luận... Platôn không thể không sử dụng những tài liệu lịch sử triết học. Tuy

nhiên, sự vận động, phát triển tư duy triết học luôn tuân theo nhưng quy luật logic của

nó và như thế, phải đến Arixtốt thì lịch sử triết học mới ra đời và có một vị thế nhất

định. Arixtốt trở thành người đầu tiên tổng kết và hệ thống hóa tư tưởng triết học trong

lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại theo nghĩa rộng của từ này, còn theo nghĩa hẹp, Anxtốt là

người đầu tiên phân loại tri thức khoa học, mặc dù đó mới chỉ là ban đầu, còn rất sơ

khai. Vượt lên những người đương thời, Arixtốt đã sử dụng phương pháp logic để điên

đạt quan điểm của mình. Xét ở quan hệ này, có thể nói, Arixtốt là bậc tiền bối của

Hêgen. Bởi vì, những điểm cơ bản trong quan điểm lịch sử triết học của Hêgen không

phải là cái gì khác, mà chính là sự hoàn thiện những ý tưởng của Arixtốt đã phác thảo 23

thế kỷ trước đó. Lênin nhận xét: "Logic của Arixtốt là nhu cầu, là sự cố gắng tìm tòi, là

sự đến gần với logic của Hêgen".

Nhằm hệ thống hóa và phân loại tri thức khoa nọc, Arixtốt đã thu thập một khối

lượng lớn các tài liệu lịch sử triết học, kể cả tài liệu của chủ nghĩa duy vật và của chủ

nghĩa duy tâm, đồng thời sử dụng phương pháp logic - lịch sử để tổng hợp và phân loại

các tài liệu ấy. Công lao cửa Arixtốt không chỉ là tổng kết lịch sử triết học thời ấy, mà

quan trọng hơn là tìm ra một phương pháp mới phương pháp thống nhất logic lịch sử

trong nghiên cứu lịch sử triết học. Arixtốt không chỉ nghiên cứu những quy luật logic

của tư duy con người, mà còn xác lập phong cách khoa học để xem xét các vấn đề triết

học, phê phán những sai lầm trong học thuyết “con số" của Pitago, học thuyết “ý niệm"

của Platôn, chống lại sự đồng nhất cái tồn tại và cái không tồn tại của Pắcmênít. Tên tuổi

của Arixtốt gắn liền với việc nghiên cứu các hiện tượng và những sự kiện diễn ra ở

những điểm khác nhau trong mối quan hệ với không gian và vận động như một quá trình

tạo lập và huỷ diệt, sáng tạo và phá huỷ. Quan niệm của ông là đúng, bởi sự sinh thành,

phát triển và diệt vong của vạn vật đều tuân theo quy luật khách quan, không ai có thể

làm trái quy luật hoặc đi ngược lại lịch sử.

Chúng ta không thể đặt ra các điều kiện và đòi hỏi các bậc tiền bối phải giải quyết

các vấn đề triết học của lịch sử thế này hay thế khác. Xét hoàn cảnh và trình độ nhận

thức ở thời ấy thì những gì mà họ làm được thật đáng làm ta kinh ngạc và rất đáng trân

trọng. Vấn đề là ở chỗ, họ là những người đi đầu trong việc tạo dựng và thiết lập nên

những quan điểm lịch sử triết học đầu tiên, khai phá con đường mà sau này, các nhà triết

học của nhiều thời đại đã đi trên con đường ấy.

Tính độc đáo và sâu sắc trong việc xác lập vị thế lịch sử triết học của Arixtốt được

thể hiện ở các nguyên tắc: (1) Nguyên tắc quan hệ hữu cơ giữa bản thể luận và phương

pháp nghiên cứu trên cơ sở của sự thống nhất giữa cái logic và cái lịch sử.(2) Nguyên

tắc nhất nguyên trong xem xét, phê phán các học thuyết triết học. (3) Nguyên tắc kế thừa

và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các quan điểm, học thuyết triết học trong ]ịch sử triết học.

Có thể tìm hiểu kỹ các nguyên tắc này trong phần I của "Siêu hình học" của Arixtốt,

nhất là khi ông bình xét quan điểm triết học về cái tồn tại và cái không tồn tại của

Pắcmênít và Kxênôphan. Tìm ra và sử dụng phương pháp logic - lịch sử để nghiên cứu

lịch sử triết học, Arixtốt đã chỉ ra mối liên hệ giữa học thuyết triết học của Êmpêđốccơlơ

và học thuyết của Anắcxagorơ. Theo Arixtốt, cả hai học thuyết này đều bắt nguồn từ học

thuyết của Anắcnmanđơrơ và giữa chúng cũng có sự khác nhau trong việc giải quyết vấn

đề khởi nguyên của thế giới.

Có thể nói, trên cơ sở phân tích các học thuyết khác nhau trong lịch sử triết học

Hy Lạp cổ đại, Arixtốt đã hình thành nên phương pháp logic - lịch sử, từ đó đưa ra

nguyên tắc nhất nguyên luận trong nghiên cứu lịch sử triết học. Nghiên cứu "Siêu hình

học" của ông, chúng ta thấy ông coi lịch sử của tư tưởng triết học chính là lịch sử con

người đi tìm chân lý. Theoông, tìm chân lý trong một mối quan hệ là rất khó, nhưng

trong nhiều mối quan hệ thì dễ hơn. Việc tìm chân lý trong lịch sử xã hội không thể dựa

vào một vài sự kiện, mà cần phải có sự khảo sát công phu từ nhiều góc độ khác nhau với

nhiều sự kiện khác nhau.

Arixtốt cho rằng, nếu không có sự kế thừa các học thuyết trước đó thì các khái

niệm mới đưa ra, các học thuyết mới hình thành chỉ là những tập hợp ngôn từ trống

rỗng, không có sức sống. Theo ông, những gì người đương thời có được đều không thể

tách rời và xa lạ với tiền nhiệm. Trên cơ sở kế thừa tư duy lý luận và kinh nghiệm lịch

sứ, chúng ta tồn tại và phát triển. Các thế hệ kế tiếp sau chỉ có thể bước qua và leo lên

nhưng nấc thang mới cao hơn, tiến lên phía trước là nhờ nghiên cứu lịch sử triết học và

tiếp thu, kế thừa những mặt tích cực ở những người đi trước.

Với sự nhạy cảm của trực giác, Anxtốt đã nêu ra sự cần thiết phải làm rõ sự khác

biệt giữa các học thuyết triết học, tính quy định của các điều kiện khách quan và nhân tố

chủ quan của nhà triết học đối với sự phát sinh, phát triển của mỗi học thuyết triết học.

Có như vậy mới tìm ra được các khía cạnh khác nhau của sự phát triển lịch sử triết học,

tìm ra mặt tiến bộ, tích cực để kế thừa, đồng thời lọc bỏ những hạn chế, không phù hợp,

không có giá trị, không có ý nghĩa.

Tuy nhiên, sau khi Arixtốt qua đời, những người kế tục ông đã không làm được

cái mà ông mong muốn. Phương pháp logic - lịch sử được các học trò của ông vận dụng,

nhưng không đạt được trình độ mà bậc thầy của mình đã có. Trong thời kỳ Trung cổ,

triết học phát triển rất chậm chạp. "Chủ nghĩa thầy tu đã giết chết cái gì là sống động ở

Arixtốt và làm thành bất tử cái gì đã chết rồi". Những gì mà Arixtốt đã làm và chuẩn bị

cho sự phát triển lịch sử triết học chỉ được thực hiện từ khi có triết học Phục hưng đến

nay.

Những điều mà chúng tôi nêu trên chỉ là nhằm làm rõ cái điềm khởi đầu lịch sử

triết học và coi Arixtốt là người đại diện cho điểm khởi đầu ấy với tư cách là người sáng

lập ra môn học này, mặc dù đó chỉ là sự mở đầu với nội dung chưa thật rõ ràng và hình

thức còn rất sơ khai. Toàn bộ sự vận động, phát triển của lịch sử triết học và những

thành tựu mà nó đạt được sau này không thể tách rời điểm khởi đầu ấy. Có thể còn có

nhiều cách tiếp cận và luận giải vấn đề này. Song, tên tuổi, sự nghiệp và những cống

hiến của Arixtốt đối với sự hình thành và phát triển của lịch sử triết học đã được khẳng

định.