
Văn hoá kinh doanh trong cách ứng
xử của người Việt
Chúng ta đang sống trong một giai đoạn chuyển mình của
lịch sử, có ý nghĩa quyết định đối với sự sống còn của dân
tộc. Từ một nước kiên trì chủ nghĩa xã hội theo phương thức
cổ điển trong 30 năm, chuyển thành một nước theo kinh tế
thị trường, nhưng vẫn giữ định hướng xã hội chủ nghĩa mới
được hơn 20 năm nay, chúng ta còn nhiều vấn đề nhận thức
chưa được làm sáng tỏ, nhiều định nghĩa chưa được xác
định...
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, có những nhận thức cũ
không còn hợp thời, đồng thời cũng có những cái mới chưa được
khẳng định là đúng hay sai, nhưng vẫn cứ được sử dụng không
phân biệt. Một trong những nguyên nhân cản trở việc tiếp thu và
xây dựng cái mới và xoá bỏ những cái cũ lỗi thời, thuộc về yếu tố

tâm lý. Đó là những nhận thức tập thể đã được hình thành trong
quá trình phát triển của dân tộc, mà dù hữu thức hay vô thức, nó
vẫn đang chi phối hành động của chúng ta.
Hình ảnh doanh nhân trong văn học
- Phân tích qua cuốn "Vũ trung tuỳ bút" (đầu thế kỷ XIX) của
Phạm Đình Hổ, ta thấy: Cuốn sách đề cập đến nhiều mặt của đời
sống xã hội thời đó, từ việc học hành, thi cử, đến việc trồng hoa,
cách uống chè Tầu, và dành một phần quan trọng nói về những
nhân vật có tên tuổi, hoặc vì tài cao học rộng, hoặc vì đạo đức
thanh cao. Trong 91 mẩu chuyện có 22 chuyện viết về những
nhân vật được tác giả lưu ý là những nhà Nho, hoặc chí ít cũng là
những kẻ có chân trong quan trường, trong đó thiếu hẳn hình ảnh
nhà buôn. Có nhắc tới hình ảnh loáng thoáng của một vài công
việc buôn bán chốn kinh sư, nhưng chỉ để kể về các chuyện “trộm
cắp” và “mẹo lừa” mà thôi.

- Truyện dân gian (dựa theo Nguyễn Đổng Chi, "Kho tàng truyện
cổ tích Việt Nam") có thể thấy bóng dáng mờ nhạt của doanh
nhân với truyện “Đồng tiền Vạn Lịch” hay “Con mụ Luờng”.
- Cuốn "Tục ngữ phong dao" do ông Nguyễn Văn Ngọc sưu
tầm, tập hợp 5.305 câu tục ngữ và phong dao dài ngắn khác
nhau, nhưng chỉ có 22 câu nói đến công việc buôn bán hoặc
nghề buôn. Xin dẫn vài câu:
- Buôn có bạn bán có phường. Buôn quan tám, bán quan tư.
Buôn đầu chợ, bán cuối chợ. Buôn gặp chầu, câu gặp chỗ.
- Chửa buôn thì vốn còn dài. Buôn thì vốn đã theo ai mất rồi.
- Thật thà cũng thể lái trâu. Hẳn hoi cũng thể nàng dâu mẹ chồng.
Ngôn ngữ dân gian xưa nói nhiều về công việc nhà nông hơn
công việc buôn bán, không cần nêu tỷ lệ phần trăm vì con số tổng
quát ở đây cũng không cần thiết. Sự coi thường nghề buôn còn
thấy trong tên gọi đối với những người làm nghề này, đó là "con
buôn", "lái buôn"- tên gọi mang tính miệt thị. Nếu buôn gia súc thì

gọi là "lái": lái trâu, lái lợn; xem ra địa vị xã hội không mấy được
tôn trọng. Tất nhiên còn có cách xưng hô "nhà buôn", nhưng nó
vẫn không xoá được những hình ảnh trên. Hình ảnh người đi
buôn trong ca dao tục ngữ thường gắn với hành động “kiếm lời”
mang ý nghĩa không chính đáng, hoặc với “lừa đảo”, là thuộc tính
vốn có của nhà buôn.
Thân phận doanh nhân
Có thể đi đến kết luận đơn giản rằng, đó là hệ quả của chế độ
phong kiến và của ý thức hệ Nho giáo, đặt nghề buôn vào hạng
cuối cùng của xã hội: sĩ, nông, công, thương. Nhưng không hẳn
là như thế. Nếu nói đến phong kiến và Nho giáo, thì Trung Hoa là
nơi đẻ ra chế độ Nho sĩ quan liêu, tình hình cũng không đến nỗi
như vậy. Có lẽ đây là một hiện tượng đặc thù của xã hội Việt
Nam, nếu so sánh với các xã hội khác ở Đông Á và Đông Nam Á.
Cái tâm lý nông dân đó đã chi phối cả công việc kinh doanh, nhà
buôn cũng như người làm ruộng, không có cái nhìn xa, chỉ thấy

lợi ích trước mắt. Vì thiếu một động lực thúc đẩy xã hội, nên
nước ta cứ bị kìm hãm mãi trong xã hội nông nghiệp lạc hậu.
Trước nguy cơ xâm lược của tư bản phương Tây, bao nhiêu đề
nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch
đều bị bác bỏ, không phải chỉ vì triều đình nhà Nguyễn bảo thủ,
bất tài, mà còn vì chúng ta thiếu một cơ sở xã hội để thực hiện
những cải cách đó. Cơ sở đó là tầng lớp thương nhân, tiền thân
của giai cấp tư sản.
Tâm lý doanh nhân
Thái độ xã hội đối với nghề buôn tất nhiên có ảnh hưởng ngược
lại với những người làm nghề này, tạo nên một tâm lý của người
buôn bán. Như đã nói ở trên, tâm lý đó xuất phát từ quan niệm
coi nghề buôn chỉ là nghề tạm bợ nhất thời, người đi buôn không
có chí xây dựng cơ nghiệp lâu dài, nếu có điều kiện họ sẵn sàng
vứt bỏ để trở lại với nghề nông. Do đó họ không có ý xây dựng
một truyền thống cho nghề của mình, cũng như xây dựng một
truyền thống kinh doanh cho gia đình. Tâm lý nhà buôn vẫn là

