NGUYÊN XUÂN ĐỨC
VỀ NGHĨA
CỦA TỤC NGỮ
NGUYÊN XUÂN ĐỨCf)
cghĩa của tục ngữ những tưởng là
l Tnyen đơn giản. Hầu như ai cũng
hiểu: Tục ngữ nhằm đúc rút kinh nghiệm
để truyền lại cho đời sau, nó được vận
dụng trong lời nói hàng ngày và để kinh
nghiệm được truyền lại chính xác, dễ
đàng, nghĩa của tục ngữ hăn không mấy
phức tạp. khó xác định. Đúng như Hoàng
Tiến Tựu đã viết: "... Tục ngữ ngắn gọn,
cô đọng mà không khó hiểu"®),
nhưng đem so nội dung các tài liệu giáo
trình của ta viết cho các hệ học sinh từ
phổ thông đến cao đăng, đại học về nghĩa
của tục ngữ hẳn ta sẽ có không ít băn
Vậy
khoăn.
- Trong Giáo trình của Đại học Tổng
hợp Hà Nội do Định Gia Khánh chủ biên,
tục ngữ được xếp vào mục "Lời ăn tiếng
nói của nhân dân". Tác giả giáo trình này
đã rất đúng đắn khi nhấn mạnh chức
năng ứng dụng của tục ngữ và kết luận
rằng: "Đó không phải là những sinh hoạt
uăn nghệ đúng uới nghĩa của nó, đù là
thứ sinh mang tính
nguyên hợp như văn nghệ dân gian". Khi
nói về nghĩa của tục ngữ tác giả cho
rằng: "Một câu tục ngữ thường có hai
nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng"””.
hoạt văn nghệ
- Tiếp tục công việc các bậc thầy cũng
như đồng nghiệp của mình, Lê Chí Quế,
°' TS, Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Vĩnh.
Võ Quang Nhơn và Nguyễn Hùng Vĩ
cũng viết lại giáo trình Văn học dân gian
Việt Nam cho sinh viên Đại học Tổng hợp
Hà Nội. Lê Chí Quế là chủ biên của giáo
trình này và là tác giả của chương viết về
tục ngữ. Tuy nhiên nếu những người ởi
trước nói một cách đè đặt răng "Một câu
tục ngữ £hường có hai nghĩa" thì tác giả
giáo trình này lại khẳng định một cách
dứt khoát rằng “Tục ngữ bao giờ cũng có
hai nghĩa: Nghĩa đen (hay là nghĩa gốc)
uà nghĩa bóng (trường nghĩa)"°”. Như vậy
ở đây tác giả đã tuyệt đối hoá tính hai
nghĩa của tục ngữ và loại bó đi một bộ
phận tục ngữ - loại chỉ có một nghĩa.
- Trong khi đó Hoàng Tiến Tựu thận
trọng hơn khi viết giáo trình Văn học
dân gian Việt Nam cho hệ Cao đẳng sư
phạm. Ông viết: “Có những câu tục ngư
chỉ có một nghĩa (Ví dụ: "Khoai ưa lạ, mạ
ưa quen", "Một búi có, một giỏ phân”,...).
Nhưng bộ phận tục ngữ da nghĩa
chiếm ty lệ bhá lớn, chất lượng bhá cao
0ò là bộ phận tiêu biểu nhất của thể loại
` F h|
này”9'.
Trong giáo trình này Hoàng Tiến Tựu
đã chia tách khá tỷ mỉ các loại tục ngữ để
xác định nghĩa của từng loại, trong đó
đặc biệt nhấn mạnh bộ phận tục ngữ có
nhiều nghĩa. Điều đáng chú ý ở đây là
đến lượt mình Hoàng Tiến Tựu lại không
dừng bộ phận tục ngữ này ở hai nghĩa
như các tác giả giáo trình Đại học Tổng
hợp mà ông đẩy nó lên cấp nhiều nghĩa,
đa nghĩa.
Bùi Mạnh Nhị trong "Bài giảng cho
sinh viên khoa Văn các trường đại học"
cũng cho rằng: "Tục ngữ là những câu
nói dân gian ngắn gọn, ổn định, có nhịp
điệu, hình ảnh uà thường mang nhiều
NON Đố”,
NGHIEN CƯU - TRAO ĐỒI
Như vậy đích thực tục ngữ có mấy
nghĩa?
Theo quan niệm của hầu hết các nhà
nghiên cứu thì hai bộ phận tục ngữ: bộ
phận chỉ có một nghĩa và bộ phận có
nhiều nghĩa. Trong bài viết này chúng ta
tập trung chủ yếu khảo sát bộ phận tục
ngữ có nhiều nghĩa.
I. Trước hết chúng ta xem xét các nhà
nghiên cứu đã chỉ ra được bao nhiêu
nghĩa ở bộ phận tục ngữ được họ xem là
có nhiều nghĩa hoặc đa nghĩa này?
Tuy nói "Tục ngữ thường manø nhiều
nghĩa" nhưng trong toàn bộ bài viết của
mình Bùi Mạnh Nhị cũng chỉ nói tới
nghĩa đen và nghĩa bóng của thể loại này
mà thôi. Ông viết: "Trong tục ngữ, cái cụ
thể và cái khái quát liên quan với nghĩa
đen và nghĩa bóng. Nghĩa đen là nghĩa
trực tiếp gắn liền với sự việc và hiện
tượng ban đầu. Nghĩa bóng là nghĩa gián
tiếp, nghĩa biểu tượng, ẩn dụ""””, Như vậy
cái mà Bùi Mạnh Nhị gọi là nhiều ở đây
cũng chỉ là hai mặc dù ông đã sử dụng
khá nhiều từ như: nghĩa cụ thể, nghĩa
khái quát, nghĩa trực tiếp, nghĩa gián
tiếp, nghĩa biểu tượng, ẩn dụ... để cuối
cùng cũng chỉ nhằm nói tới nghĩa đen và
nghĩa bóng.
Cũng tương tự như vậy, mặc dù có
hắn một đề mục là "Tính nhiều nghĩa của
tục ngữ" hoặc dùng hẳn từ đa nghĩa khi
nói về nội dung của tục ngữ nhưng đọc Kỹ
toàn bộ chương viết về tục ngữ trong giáo
trình đành cho học sinh hệ Cao đẳng sư
phạm thì thấy Hoàng Tiến Tựu cũng chỉ
nói ra được hai nghĩa mà thôi.
Đầu trang 133 của giáo trình trên
ông viết: "Rất nhiều tục ngữ ngắn gọn, lời
ít, nhưng lượng thông tin rất cao (bao
49
gồm nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa rộng,
nghĩa hẹp, nghĩa trực tiếp, nghĩa gián
tiếp...).
Ví dụ:
- Cha lươn bhông đào lỗ cho lươn nằm
- hàm thần nơi nọ, đứng xó nơi hỉa
- Rút dây động rừng
- Tức nước uở bờ
- Quá mù ra mưa..."
Như vậy ở đây Hoàng Tiến Tựu đã
nói tới hơn 3 cặp nghĩa của tục ngữ, tức
là tục ngữ có hơn 6 nghĩa (Chúng tôi tính
cả phần tác giả đặt ở dấu chấm lửng).
Tuy nhiên khi đọc kỹ phần tiếp theo thì
thấy ông cũng chỉ đề cập tới được 9
nghĩa: "nghĩa đen-nghĩa trực tiếp và
nghĩa bóng-nghĩa gián tiếp" (như lời tác
giả viết) chứ ông không hề nói ra được
một nghĩa thứ ba nào cả. Nói một cách
khác cái gọi là: nghĩa đen, nghĩa bóng,
nghĩa rộng, nghĩa hẹp, nghĩa trực tiếp,
nghĩa gián tiểp... như ông viết ở phần
trên cũng chỉ là những tên gọi khác nhau
của nghĩa đen, nghĩa bóng mà thôi. Điều
quan trọng đáng ghi nhận ở đây là Hoàng
Tiến Tựu đã chỉ ra rằng có những câu tục
ngữ được sử dụng cả hai nghĩa song song
(nghĩa đen và nghĩa bóng) như: "Rút dây
động rừng”, "Tức nước uở bờ", “Rau nào
sâu ấy”, “Quá rmmù ra mưa”... nhưng cũng
có nhiều câu tục ngữ cái phần "ý ngoài
lời" lại là phần được sử dụng chính thức.
Ông viết "Ví dụ khi nói những câu như
"Nồi da nấu thịt", "Cốt nhục tưởng tàn"
thì người nói cũng như người nghe đều
chỉ dùng nghĩa bóng, chứ không ai hiểu
theo nghĩa đen của chúng cả". Vậy nghĩa
là ngay trong bộ phận tục ngữ nói về
kinh nghiệm của xã hội, Hoàng Tiến Tựu
còn tách ra được một số những câu chỉ
50
dùng nghĩa bóng, tức là ông cho rằng loại
này cũng thuộc bộ phận chỉ có một nghĩa.
Như vậy dù nói tục ngữ nhiều nghĩa
hay đa nghĩa thì xét đến cùng các tác giả
trên cũng chỉ nhằm đề cập tới từ 1 đến 2
nghĩa của tục ngữ mà thôi chứ không
thấy nói đến nghĩa thứ ba nào cả.
Có người lại lập luận rằng: hai số là
nhiều, nhiều là đa, vì thế có quyền nói
tục ngữ là nhiều nghĩa, là đa nghĩa. Vậy
thì vấn để tiếp theo phải giải quyết ở đây
là nếu tục ngữ thật sự có hai nghĩa thì có
phải như vậy là đa nghĩa hay không?
- Đúng hai là số nhiều, mà nhiều là
đa nhưng đư (hay nhiều) bao hàm cả hai
chứ không chỉ có hai. Chính vì lẽ đó mà
hai và đa không phải lúc nào cũng thay
thế được cho nhau. Người ta nói hai vợ
chồng mà không nói đa vợ chồng, lại nói
chế độ đa thê mà không nói chế độ hai
thê. Vậy đa ở đây phải là hai trở lên.
- Trong toán học đa giác là hình có
nhiều góc, nhưng khi nhằm chỉ một hình
cụ thể người ta nói là tam giác, tứ giác,
ngũ giác, lục giác v.v... Vậy đa giác ở đây
là khái niệm chỉ chung cho tất cả các
hình tam giác. tứ giác, ngũ giác, lục
giác... và ta suy ra đơư ở đây là ba trở lên.
Rõ ràng khi dùng chữ đư người ta
nhằm chỉ một đối tượng không xác định
tuyệt đối. Vậy nếu tục ngữ chỉ có hai
nghĩa thì nói như Định Gia Khánh, Chu
Xuân Diên, Võ Quang Nhơn: fục ngữ
thường có 2 nghĩa, là thoả đáng. Không
nên nói tục ngữ là đa nghĩa hay nói quá
đi rằng tục ngữ có nhiều nghĩa như các
tác giả khác. Đó là chưa kể ngay cả cái
gọi là hai nghĩa của tục ngữ cũng cần
được xem xét lại.
NGUYÊN XUÂN ĐỨC
II. VỀ CÁI GỌI LÀ TÍNH 2 NGHĨA
CỦA TỤC NGỮ
1. Hầu hết các tác giả trên đây khi
nói tới hai nghĩa của tục ngữ đều cho tục
ngữ có nghĩa đen và nghĩa bóng. Tuy
nhiên chính Hoàng Tiến Tựu đã chỉ ra
một cách chính xác hơn rằng có những
câu tục ngữ trong số đó thực chất chỉ
được dùng nghĩa bóng. Vậy cái nghĩa đối
lập của nghĩa bóng được dùng ở những
câu đó là gì? Có phải là nghĩa đen không?
Chỗ Hoàng Tiến Tựu còn bỏ trống đó quả
đang là vấn để, bởi vì một khi nghĩ đến
khái niệm + ghïa bóng người ta nghĩ đến
khái niệm ngb7œ đen trước đã. Ở đây dù
không viết hăn nhưng Hoàng Tiến Tựu
đã nhận thấy rằng không thể dùng khái
niệm nghĩa đen cho những câu “Nổi đa
nấu thịt, "Cốt nhục tương tàn" đồng
nghĩa với khái niệm nghĩa đen ở những
câu “Tức nước uỡ bờ”; "Ăn cây nào, rào
cây ấy”; “Khoai ưa lạ, mạ ta quen”...
Đến đây cách xác định vấn đề cũng
như cách sử dụng khái niệm thông
thường dễ bị bế tắc hoặc lẫn lộn, vậy
thiết nghĩ chúng ta phải giải quyết vấn
đề trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của
ngôn ngữ học.
2. Mỗi câu tục ngữ là một phát ngôn
hoàn chỉnh. Mà một phát ngôn phải bao
gồm những từ ngữ được tổ chức theo một
nguyên tắc nhất định gọi là cú pháp. Hay
nói cách khác mỗi phát ngôn trước tiên
phải đảm bảo hai yếu tố: £ờ và ngữ. Từ
tạo ra logic ngữ nghĩa, ngữ chính là logic
cú pháp. Câu "Cái nhà nhảy qua bờ rào”
tuy đảm bảo đúng logie cú pháp nhưng
lại không đúng logic ngữ nghĩa cho nên
không có giá trị thông báo. Logic ngữ
nghĩa có được, một mặt cũng nhờ vào
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ö]
logic cú pháp nhưng trước hết phải nhờ
vào nghĩa vốn có của các từ. Mỗi từ trước
khi tham gia vào tổ chức phát ngôn đều
mang những nghĩa độc lập, nghĩa gốc,
người ta gọi nghĩa đó là nghĩa từ vựng?”.
Nghĩa từ vựng luôn luôn tồn tại trong các
phát ngôn nhưng không phải trong bất
kỳ trường hợp nào nghĩa của nó cũng là
nghĩa của phát ngôn, cho dù nghĩa cú
pháp đã được đâm bảo. ĐÐĐem so sánh hai
đơn vị cú pháp sau đây chúng ta sẽ thấy
rõ điều đó:
- Huynh đệ tương tàn. (q)
- Nồi da nấu thịt. (b)
Cả hai câu này đều có chung một
nghĩa là "Anh em ruột là máu mủ tàn hại
lẫn nhau", nhưng ở trường hợp (z) nghĩa
của phát ngôn là tập hợp nghĩa của các từ
tham gia phát ngôn, trái lại ở trường hợp
(b) nghĩa của phát ngôn lại được suy ra
trên cơ sở của các từ có mặt trong phát
ngôn cộng với kinh nghiệm thực tiễn cuộc
sống lịch sử xã hội của người nghe. Cần
phải nói thêm rằng trong trường hợp ()
mặc dù nghĩa từ vựng của các từ không
được sử dụng trực tiếp thành nghĩa phát
ngôn nhưng chúng vẫn tồn tại. Như vậy
trong bất kỳ tổ chức phát ngôn nào trước
hết cũng phải có nghĩa của các từ vựng,
dẫu rằng như đã nói ở trên nghĩa các từ
vựng chưa hăn là nghĩa phát ngôn. Điều
lý thú ở đây là một khi không đem lại
nghĩa thông báo trực tiếp (nghĩa đen), thì
những câu tục ngữ sử dụng vốn từ vựng
khác nhau lại có thể cho người nghe
những thông báo (nghĩa bóng) tương tự
nhau. Hai câu trên đây rõ ràng có cùng
một nội dung thông báo.
Khảo sát tục ngữ theo hướng này
chúng ta sẽ thấy: dù đều thuộc bộ phận
tục ngữ chỉ có một nghĩa nhưng việc sử
dụng nghĩa ở những câu “Khoai ưaư lạ,
mạ ứa quen", "Một búi có, một giỏ phân”
(z) khác với ở những câu "Nổi dư nấu
thịt, “Cốt nhục tương tàn” (b)... Cói
nghĩa đen mà Hoàng Tiến Tựu nói tới ở
trường hợp (z) được người nghe tiếp nhận
trực tiếp từ nghĩa từ vựng, trái lại cái
nghĩa bóng mà Hoàng Tiến Tựu nói tới ở
trường hợp (ö) lại chỉ được người nghe
suy ra từ nghĩa từ vựng. Các câu tục ngữ
ở trường hợp (6) không có cái gọi là nghĩa
đen mà chỉ có nghĩa từ vựng.
Như hầu hết các nhà nghiên cứu đều
khẳng định: có những câu tục ngữ, người
nghe hoặc tiếp nhận nghĩa trực tiếp từ
nghĩa từ vựng (nghĩa đen), hoặc tiếp
nhận nghĩa một cách gián tiếp từ sự suy
ra (nghĩa bóng), tuy thuộc vào mục đích
của người phát ngôn, thí dụ: "Rút dây
động rừng", “Tức nước uỡ bờ", "Gần tre,
che một phía", "Gió nhà di, quai nhà
nấy”... Vậy nghĩa là có những câu tục ngữ
có cä nghĩa đen và nghĩa bóng, có những
câu tục ngữ chỉ có nghĩa đen, lại có
những câu tục ngữ chỉ có nghĩa bóng mà
không có cái gọi là nghĩa đen nhưng
nghĩa từ vựng thì trường hợp nào cũng
có. Nghĩa đen và nghĩa bóng đều có giá
trị phát ngôn, còn nghĩa từ vựng thì
không có giá trị phát ngôn bởi nó chỉ là
những thành tố có nghĩa mà không trực
tiếp đem lại thông báo chỉnh thể. Việc sử
dụng nghĩa đen hay nghĩa bóng hoàn
toàn tuỳ thuộc vào mục đích phát ngôn
hay nói cách khac tuỷ thuộc vào hoàn
cảnh ứng dụng. Chúng ta gọi chung miột
từ là nghĩa ứng dụng. Mỗi một lần được
lồng vào phát ngôn mỗi câu tục ngữ cũng
chỉ được sử dụng một nghĩa mà thôi (dù
câu tục ngữ đó có cả nghĩa đen và nghĩa
bóng).
Ct
L.5
NGUYỄN XUÂN ĐỨC
Từ những phân tích trên đây chúng
ta thấy rằng trong một câu tục ngữ bao
giờ cũng tôn tại nghĩa từ uựng và nghĩa
ứng dụng (cho đù câu đó chỉ có nghĩa
bóng như Hoàng Tiến Tựu đã nêu ra).
Nghĩa từ vựng không phải là nghĩa của
câu tục ngữ nhưng dĩ nhiên nhờ có nó
mới có nội dung phát ngôn. Nghĩa ứng
dụng có thể là nghĩa đen (như những câu
"Tháng tám năng rám trái bưởi"; "Trăng
quảng đại hạn, trăng tán trời mưa”) hoặc
có thể là nghĩa bóng (như những câu “Nổi
da nấu thịt”; “Cốt nhục tương tùn”...). Lại
có những câu tuy vừa có nghĩa đen vừa có
nghĩa bóng nhưng trong thực tế người ta
chỉ sử dụng nghĩa bóng là chính (như
"Tức nước uỡ bờ"; "Con giun xéo lắm cũng
quản”... ).
Tục ngữ nói riêng, văn học dân gian
nói chung bao giờ cũng gắn với môi
trưởng ứng dụng, cho nên chúng ta
không thể xét nghĩa của nó trên văn bản
chết như đối với tác phẩm truyền bằng
chữ viết. Mỗi lần ứng dụng, như đã nói ở
trên, mỗi câu tục ngữ chỉ được tiếp nhận
một nghĩa cụ thể mà thôi. Chính vì lẽ đó,
ngay cả ở những câu tục ngữ loại này nếu
nói chỉ có một nghĩa - nghĩa đang ứng
đụng - thì cũng không có gì là saI.
Tóm lại chúng ta không nên nói tục
ngữ có nhiều nghĩa, lại càng không nên
nói tục ngữ là đa nghĩa. Tục ngữ sinh ra
để ứng dụng trong cuộc sống, nếu có
nhiều nghĩa, hơn thế nữa lại là đa nghĩa
thì thật khó vận dụng. Chính chức năng
ứng dụng đã khiến cho "Tục ngữ ngắn
gọn, cô đọng mà không khó hiểu" như
Hoàng Tiến Tựu đã tổng kết. Mặt khác
tục ngữ dù đã hàm chứa những thành tố
nghệ thuật, dù có giá trị nghệ thuật, thì
nó vẫn là thể loại ứiển nghệ thuật, hay
nói như Định Gia Khánh, Chu Xuân
Diên, Võ Quang Nhơn: là thể loại đang
gần với lời ăn tiếng nói nhân dân. Thuật
ngữ đa nghĩa vì thế chỉ nên dành riêng
cho những thể loại văn học đích thực mà
thôi.
Vậy khi bàn về nghĩa của tục ngữ,
nhất là khi biên soạn các sách giáo khoa,
giáo trình, thiết nghĩ nên nói một cách
thận trọng rằng: tục ngữ xét trên văn
bản có từ 1 đến 2 nghĩa. nhưng xét trong
môi trưởng ứng dụng, tức là môi trường
lưu truyền và tồn tại đích thực thì uới
môi lần phát ngôn chỉ có một nghĩa (cô
thể là nghĩa đen hay nghĩa bóng) - tức là
nghĩa đang được ứng dụng theo mục đích
phát ngôn
N.X.ĐÐ
—-— ————--—-——— -——-———-----
(1) Hoàng Tiến Tựu: Văn học dân gian
Việt Nam (Giáo trình đào tạo giáo viên
Trung học cơ sở hệ Cao đẳng Sư phạm).
Nxb Giáo dục, 1999, tr. 136.
{2) Định Gia Khánh (Chủ biên), Chu
Xuân Diên Võ Quang Nhơn: Văn học dân
gian Việt Nam. Nxb Giáo dục (Tái bản lần
2), H. 1997, tr. 243, 244. Phần Tục ngữ do
Chu Xuân Diên viết.
(3) Lâ Chí Quế (Chủ biên), Võ Quang
Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ: Văn học dân gian
Việt Nam. Nxb ĐHQG Hà Nội, 1999, tr.
197. Phần Tục ngữ do Lê Chí Quế viết.
(41) Hoàng Tiến Tưựu: Sách đã dẫn, tr,
132.
(5) Bùi Mạnh Nhị: "Tục ngữ". Trong
cuồôn Văn học dân gian - những công trình
nghiên cứu, Bùi Mạnh Nhị chủ biên. Nxb
Giáo dục, 1999, tr, 242.
(6) Tài liệu đã dẫn, tr, 244.
(7) Trong vốn từ vựng tiếng Việt có
những từ thông có nghĩa độc lập, được gọi
là hư từ, nhưng loại từ này rất ít trong vốn
từ vựng nói chung và ít có mặt trong một
phát ngôn cụ thể nói riêng.