
Vùng gốm Đông Nam Bộ
Tác giả: Nguyễn Thị Hậu
Quá trình khai phá vùng đất mới Nam Bộ từ thế kỷ
XVII cho đến ngày nay cũng là quá trình hình thành
một loại gốm mới ở miềm Đông Nam bộ, khác với
vùng gốm Bắc bộ (gốm Chu Đậu, Bát Tràng…) và
Trung bộ (Gò Sành…). Vùng phân bố của loại gốm
này hiện nay nằm trong địa bàn của Thành phố Hồ
Chí Minh và hai tỉnh lân cận là Đồng Nai và Bình
Dương. Căn cứ vào mối liên hệ cội nguồn và quá
trình phát triển của gốm ở khu vực miền Đông Nam
bộ, một số nhà nghiên cứư gọi chung loại gốm sản
xuất ở đây từ đầu thế kỷ XX trở về trước là gốm Sài
Gòn, gồm có sản phẩm của “xóm lò gốm Sài Gòn
xưa”, gốm Biên Hòa và gốm Lái Thiêu.
Xóm lò gốm Sài Gòn xưa.
Trên bản đồ Phủ Gia Định do Trần Văn Học vẽ năm

1815 có ghi địa danh “Xóm Lò gốm” – một trong
những làng nghề nổi tiếng của Sài Gòn xưa. Dựa vào
chỉ dẫn trên bản đồ này và từ kết quả khảo sát thực
địa, thì những lò gốm bấy giờ gồm các làng Phú Giáo
- Gò cây Mai, làng Phú Định – Phú Lâm, làng Hòa
Lục sau đó, mà ngày nay thuộc địa phận các quận 11,
quận 6, quận 8. Trên địa bàn này còn có kênh – rạch
mang tên Lò Gốm và những tên liên quan đến nghề
làm gốm như (đường) Lò Siêu, (đường) Xóm Đất…
Tên Lò Gốm này thấy trên sách Gia Định thành
thông chí (1820) “Từ năm 1772 con kênh Ruột Ngựa
được đào để nối liền từ Sa Giang ra phía Bắc đến Lò
Gốm”. Như vậy, khu lò gốm chắc chắn đã khởi lập
trước năm này, có lẽ từ đầu thế kỷ XVIII đã có những
lò gốm đầu tiên sản xuất tại vùng Sài Gòn Xưa, nay
là khu vực quận 6, 8, 11 (Chợ Lớn). Dấu tích còn lại
là khu vực lò gốm Cây Mai và di tích lò gốm cổ
Hưng Lợi (phường 16 quận 8).

Khu lò Hưng Lợi: Sản xuất từ khoảng giữa thế kỷ
XVIII đến đầu thế kỷ XX. Sản phẩm chủ yếu là đồ
gia dụng. Giai đoạn đầu sản xuất lu chứa nước (nên
còn có tên là Lò Lu), loại lớn khoảng 200 lít và loại
nhỏ khoảng 120 lít (người dân còn gọi là lu 5 đôi
nước và lu 3 đôi nước). Ngoài lu chứa nước, khu lò
còn sản xuất loại hũ miệng nhỏ và chậu, vịm, chậu
bông có nhiều kích thước. Giai đoạn 2, sản phẩm có
in tên lò “Hưng Lợi diêu” gồm các loại đồ “bỏ bạch”
(bên ngoài không tráng men) như: nồi có nắp và tay
cầm (nồi lẩu), siêu nấu nước, gốm trắng mỏng, nắp
dày. Bên trong nồi và siêu có tráng men nâu chống
thấm. Các loại đồ gốm có men màu như: hộp có men
nâu nhiều kích cỡ, nhiều chậu, hũ men nâu, men
vàng. Chậu bông bằng sành hình tròn hoặc hình lục
giác, lớn nhỏ nhiều kiểu có men nhiều màu, trang trí
ô hoa văn “bát tiên” “tùng lộc” “mai điểu”… Giai

đoạn 3 sản xuất các loại bát, đĩa, ấm, ly uống trà,
chai, thìa, bình rượu, lư hương, thố có nắp… men
trắng vẽ men lam; Có những chữ “Kim ngọc”, “Việt
Lợi” trên muỗng, bình trà, ly nhỏ… có thể đó là tên
tiệm bán đồ gốm đặt hàng.
Các loại lu, hũ, chậu thường nặn bằng tay theo
phương pháp dải cuộn tròn kết hợp với bàn dập,
không trang trí hoa văn, phủ men nâu hoặc vàng toàn
thân. Các loại đồ gốm khác được làm bằng khuôn in
và bàn xoay, hoa văn cũng được in từ khuôn và được
chạm khắc lại cho sắc sảo, sau đó phủ hoặc tô men
nhiều màu, thường là màu xanh đồng hay xanh lam,
màu nâu hay đỏ. Loại sản phẩm men trắng vẽ hoa
lam hoặc men màu đen (viết chữ trên men). Những
sản phẩm này rất phổ biến trong đời sống hàng ngày
của cư dân Sài Gòn và cư dân Nam Bộ xưa.

Dấu tích khu lò gốm Cây Mai nằm ở sau chùa Cây
Mai. Ngày xưa từ Gò Cây Mai có con rạch nhỏ, nằm
trên đường Nguyễn Thị Nhỏ chảy thông ra đường Lê
Quang Sung, đổ ra cầu Cây Gõ và chảy vào rạch Lò
Gốm, hiện rạch này đã bị lấp. Đây là đường vận
chuyển nguyên liệu và sản phẩm gốm Cây Mai.
Sản phẩm khu lò gốm Cây Mai bao gồm loại đồ gốm
thông dụng có kích cỡ lớn, loại sản phẩm có trang trí
mỹ thuật, các loại ống dẫn nước và tượng bằng đất
nung và đồ sành men màu. Lọai sản phẩm gốm độc
đáo và đặc trưng của gốm Cây Mai sản xuất vào cuối
thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là gốm men màu. Đây
là loại gốm cao cấp có men màu khá phong phú như