
Xây dựng và bảo vệ chế độ dân chủ cộng hoà (1945-
1946)
1. Tình hình và nhiệm vụ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945Cánh mạng tháng
Tám năm 1945 đã mở ra thời kỳ phát triển lịch sử mới cho dân tộc Việt Nam. Trong
dòng thác chung của tiến trình phát triển cách mạng thế giới lúc ấy, cuộc đấu tranh
của nhân dân Việt Nam đứng trước bối cảnh đặc biệt.
1. Tình hình và nhiệm vụ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
Cánh mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra thời kỳ phát triển lịch sử mới cho dân tộc Việt
Nam. Trong dòng thác chung của tiến trình phát triển cách mạng thế giới lúc ấy, cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam đứng trước bối cảnh đặc biệt.
* Tình hình quốc tế
Sau Cách mạng tháng Mười Nga, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời.
Từ thành trì cách mạng của thế giới đó, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, một loạt nước
được Hồng quân Liên Xô giải phóng khỏi ách phái xít đã đứng vào hàng ngũ các nước xã
hội chủ nghĩa. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu trở thành trụ cột
cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và bảo vệ hòa bình của nhân
dân thế giới.
Cách mạng giải phóng dân tộc của các nước trên thế giới làm lung lay hệ thống chủ nghĩa
thực dân cũ.
Phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ của công nhân, nhân dân lao động, của các
Đảng Cộng sản ở nhiều nước tư bản, có tác động mạnh đến chính sách đối nội, đối ngoại
của các thế lực đang cầm quyền trong hệ thống tư bản chủ nghĩa.
Hệ thống các nước đế quốc chủ nghĩa có thay đổi vị trí: Các nước phát xít bị bại trận, các
đế quốc đại diện cho chủ nghĩa thực dân kiểu cũ như Anh, Pháp suy yếu ; Mỹ trở thành
đế quốc lớn nhất, có sức chi phối hệ thống đế quốc và đang trở thành sen đầm quốc tế.
Cuộc đấu tranh giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa phong trào giải phóng dân tộc
chống ách thực dân, giữa thế lực đế quốc cũ và mới là nội dung chính của tiến trình lịch
sử thế giới kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Tình hình đó tác động sâu sắc đến lịch

sử Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.
* Tình hình trong nước
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ vừa ra đời, vừa phải đối phó với nhiều kẻ thù.
Ở miền Bắc, với danh nghĩa Đồng minh giải giáp quân Nhật, 20 vạn quân Tưởng vào
đóng quân từ bắc vĩ tuyến 16 đến biên giới Việt–Trung. Quân Tưởng tìm mọi cách lật đổ
chính quyền cách mạng, tạo điều kiện cho lực lượng tay sai lên nắm chính quyền.
Với danh nghĩa giải giáp quân Nhật, quân đội Anh vào đóng ở miền Nam, đã giúp quân
Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Họ trang bị lại vũ khí cho cả quân Nhật để sử dụng
chúng tiếp sức cho Pháp. Được sử ủng hộ của quân đội Anh, ngay trong ngày 2-9-1945,
quân Pháp đã nổ súng giết hàng chục người khi đồng bào ta đang mít tinh mừng ngày đ
ộc
lập ở Sài Gòn. Ngày 23-9-1945, Pháp tiến công Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta
lần hai.
Sự hiện diện và hoạt động của hàng chục vạn quân Tưởng, Anh, Pháp, Nhật trên nước ta
đã tạo điều kiện cho tay sai của chúng, gồm Việt Quốc, Việt Cách… chống phá cách
mạng ráo riết.
Tình hình phức tạp, cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù đã đặt ra muôn vàn khó
khăn cho chính thể cộng hoà non trẻ Việt Nam.
Trong khi đó, nền kinh tế Việt Nam kiệt quệ, tiêu điều bởi hậu quả của chính sách cai trị
của thực dân Pháp và phát xít Nhật. Mọi ngành kinh tế ngừng trệ, bế tắc. Tài chính quốc
gia trống rỗng. Các loại tiền mất giá của quân đội Tưởng được tung vào thị trường càng
làm cho tài chính Việt Nam khó khăn hơn. Nạn đói năm 1945 làm cho gần hai triệu
người chết chưa khắc phục xong, thì nguy cơ nạn đói mới lại đe doạ nhân dân. Chế độ
thực dân để lại nhiều hậu quả xã hội nặng nề. Nổi bật nhất là trên 90% nhân dân mù chữ.
Cách mạng vừa thành công, thể chế dân chủ cộng hoà chưa được củng cố, đã phải đương
đầu với khó khăn từ mọi phía. Đây là thời kỳ vận mệnh dân tộc ở thế “ngàn cân treo sợi
tóc”.
Trước tình hình đó, Đảng và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Chủ tịch Hồ
Chí Minh đứng đầu đã củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và bằng tài trí, kiên cường,
đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc vượt qua chặng đường lịch sử khó khăn nhất.
2. Mở rộng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc
Ngay sau ngày giành chính quyền về tay nhân dân, Đảng và Nhà nước đã xác định kháng
chiến, kiến quốc là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Khẩu hiệu hành động là : “Dân tộc là trên hết” “Tổ quốc trên hết”, phải tập trung lực
lượng đối phó với kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của nhân dân là thực dân Pháp.

Sức mạnh và ưu thế của chế độ dân chủ mới là khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng Cộng
Sản Đông Dương chủ trương mở rộng Mặt trận Việt Minh, thành lập mặt trận dân tộc
thống nhất chống thực dân Pháp. Mặt trận đó bao gồm mọi tầng lớp nhân dân, địa chủ
phong kiến, không phân biệt tôn giáo, chính kiến…vào các tổ chức yêu cầu trong phạm
vi toàn quốc.
Chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên nhiều nhân sĩ, trí thức vào các cơ quan
tư vấn, hành chính, quốc hội… Hàng loạt tổ chức cứu quốc được củng cố, mở rộng hoặc
được lập thêm như Hội Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Công giáo cứu quốc,
Viên chức cứu quốc, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đảng Xã hội Việt Nam, Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam v.v. Nha Dân tộc thiểu số cũng được thành lập nhằm tăng
cường hơn nữa khối đại đoàn kết cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Ngày 29-5-1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam được thành lập tại Hà Nội. Đây là
một hình thức tổ chức mặt dân tộc rộng rãi trong tình hình mới. Đây là một hình thức tổ
chức mặt trận dân tộc rộng rãi trong tình hình mới. Với tôn chỉ mục đích làm cho dân tộc
Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường, Hội Liên hiệp
quốc dân Việt Nam đã mở rộng khối đoàn kết toàn dân, tranh thủ tập hợp mọi lực lượng
và cá nhân yêu nước vào mục tiêu bảo vệ độc lập dân tộc.
3. Xây dựng hệ thống chính quyền nhân dân và pháp luật
* Xây dựng hệ thống chính quyền hợp hiến
Trong phiên họp của Chính phủ Cách mạng lâm thời tại Hà Nội ngày 3-9-1945, Chủ tịch
Hồ Chí Minh nêu rõ: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến
chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân
ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi
đề nghị chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông
đầu phiếu”
Công việc chuẩn bị cho Tổng tuyển cử, dự thảo hiến pháp...được chuẩn bị khẩn trương
trong những tháng cuối năm 1945. Tuy nhiên, trong điều kiện các thế lực thù địch trong
và ngoài nước đang lăm le lật đổ chính quyền nhân dân nên quá trình chuẩn bị và tiến
hành Tổng tuyển cử thực sự là cuộc đấu tranh quyết liệt, phức tạp.
Lực lượng Việt quốc, Việt Cách ngay từ đầu đã đòi xóa bỏ hệ thống chính quyền nhân
dân, đòi hỏi phải chia các ghế trong quốc hội thành ba phần bằng nhau. Lực lượng thực
dân đế quốc chĩa mũi nhọn vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trước tình hình đó. Một
mặt chính phủ nhân dân kiên quyết bác bỏ những đòi hỏi vô lí của địch, đồng thời nhân
nhượng một số yêu sách cho chúng, để tạo điều kiện cho bầu cử được thuận lợi. Đảng
Cộng sản Đông Dương phải rút vào hoạt động bí mật để thực hiện quyền lãnh đạo một
cách kín đáo, có hiệu quả và chỉ để lại một bộ phận hoạt động công khai với danh nghĩa
Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương.
Trước thái độ mềm dẻo, nhưng kiên quyết của ta, các tổ chức Việt quốc, Việt Cách đã

phải cam kết cùng Việt Minh phấn đấu vì độc lập, đoàn kết dân tộc, tổ chức Tổng tuyển
cử, đình chỉ công kích lẫn nhau, mở rộng Chính phủ tạm thời, ủng hộ kháng chiến.
Ngày 1-1-1946, Chính phủ lâm thời đã mở rộng thêm cho một số thành viên Việt quốc và
Việt Cách được tham gia và đổi tên thành Chính phủ liên hiệp lâm thời do Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch. Nhiệm vụ quan trọng nhất của Chính phủ liên hiệp lâm thời là tổ chức
Tổng tuyển cử bầu cử Quốc hội trong cả nước.
Ngày 6-1-1946, bất chấp khủng bố của kẻ thù, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của chế độ
mới được tiến hành, với khoảng 90% tổng cử tri đi bỏ phiếu. Tổng tuyển cử dân chủ, tự
do đã bầu ra Quốc hội khoá I, gồm 333 đại biểu thuộc các giai cấp, dân tộc, tôn giáo và
các đảng phái khác nhau.
Tổng tuyển cử là mốc quan trọng đầu tiên đánh dâu tiến trình xây dựng thể chế nước Việt
Nam mới, theo chế độ Dân chủ cộng hoà. Đánh dấu sự kiện trọng đại này, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nói: Đó là “kết quả của sự hy sinh, đấu tranh của tổ tiên ta, nó là kết quả của sự
đoàn kết anh dũng phấn đấu của toàn thể đồng bào Việt Nam ta…đoàn kết chặt chẽ thành
một khối hi sinh không sợ nguy hiểm tranh lấy nền độc lập cho Tổ quốc”. Ngày 2-3-
1946, Quốc hội họp kỳ họp đầu tiên tại Nhà hát lớn, với gần 300 đại biểu tham dự. Thực
hiện yêu cầu nhân nhượng, hoà giải, Quốc hội đã quyết định mở rộng thêm 70 đại biểu
đại diện cho Việt Quốc, Việt Cách, không qua bầu cử, thành lập chính phủ liên hiệp
kháng chiến, bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Thành phần Chính phủ kháng chiến gồm
chủ tịch, phó chủ tịch và 10 vị bộ trưởng. Quốc hội cũng bầu ra Ban thường trực gồm 15
uỷ viên chính thức.
Quốc hội thông qua bản Tuyên ngôn khẳng định chủ quyền của nước Việt Nam độc lập,
tuyên bố chính thể dân chủ cộng hoà, khẳng định quyền lợi và nghĩa vụ của tất cả các dân
tộc trên đất nước Việt Nam, tuyên bố kiên quyết bảo vệ nền độc lập, quyền tự do dân chủ
của nhân dân Việt Nam.
Quốc hội kỳ họp thứ hai từ 28-10-1946 đến 9-11-1946. Vào thời điểm này, sau một năm
phấn đấu, cách mạng Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn. Tại kỳ họp lần thứ hai,Quốc
hội thảo luận các báo cáo của chính phủ, ra các Nghị quyết về nội trú, ngoại giao thông
qua hiến pháp, lập chính phủ mới do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và bầu Ban thường trực
Quốc hội.
Thắng lợi của Tổng tuyển cử của kỳ họp Quốc hội thứ nhất và thứ hai có ý nghĩa vô cùng
to lớn trong việc xây dựng thể chế nhà nước dân chủ nhân dân, hợp hiến, hợp pháp; nó
thể hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu
tượng, là linh hồn và đã chiến thắng mọi mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch.
Ngày 22-11-1945. Chính phủ ra sắc lệnh quy định về tổ chức, quyền hạn của ủy ban hành
chính các cấp từ xã đến tỉnh, kỳ. Sau Tổng tuyển cử, hệ thống chính quyền các cấp được
kiện toàn. Đến cuối năm 1946, trừ vùng có chiến sự ác liệt (Nam Bộ, Nam Trung Bộ),
các địa phương khác đã bầu ủy ban hành chính chính thức cấp huyện, tỉnh.Đội ngũ cán
bộ viên chức của các ủy ban hành chính các cấp được tuyển lựa từ những người nhiệt

huyết, tận tâm phục vụ sự nghiệp cách mạng, với tinh thần người đầy tớ của nhân dân.
Quốc hội và Chính phủ đã ban hành nhiều sắc lệnh quan trọng để bảo vệ quyền lợi tự do
dân chủ của nhân dân. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được Quốc hội thông
qua ngày 9-11-1946 đã quy định chính thể, nghĩa vụ và quyền lợi của công dân. chức
năng, vị trí của các cơ quan lập pháp và hành pháp. Đó là : bản hiến pháp đầu tiên trong
lịch sử nước nhà,... Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới Việt Nam đã độc lập, ..dân tộc
Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do, ….Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt
chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”
Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, hệ thống Nhà nước bao gồm từ cơ quan lập pháp
đến hành pháp, tư pháp đã được xây dựng theo nguyên tắc:của dân,do dân và vì dân.
* Xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng
Lực lượng giải phóng quân Việt Nam được củng cố và đổi tên thành Vệ quốc đoàn, Ngày
22-5-1946, Vệ quốc đoàn được đổi thành Quân đội quốc gia Việt Nam, đặt dưới sự chỉ
đạo của Bộ tổng tham mưu. Từ đầu năm 1946, lực lượng vũ trang được biên chế thống
nhất theo các cấp từ trung đoàn trở xuống.
Nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng là: xây dựng quân đội toàn diện về
chính trị, quân sự; tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Đây là một đội quân cách
mạng "Trung với nước, hiếu với dân".
Cùng với lực lượng vũ trang cách mạng tập trung, lực lượng dân quân tự vệ được các cấp
chính quyền đặc biệt quan tâm xây dựng, củng cố. Cuối năm 1946, bên cạnh khoảng gần
10 vạn bộ đội tập trung, còn có gần 1 triệu đội viên thuộc lực lượng dân quân tự vệ trên
khắp cả nước. Bộ đội tập trung và lực lượng dân quân tự vệ là những bộ phận nòng cốt
bảo vệ hiệu quả nhà nước dân chủ nhân dân trong thời kỳ cách mạng Việt Nam gặp muôn
vàn khó khăn thử thách.
Ngày 21-2-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Việt Nam Công an vụ.
Trong năm 1946, lực lượng công an nhân dân được kiện toàn về tổ chức, biên chế và các
chiến sĩ trong lực lượng đặc biệt này được huấn luyện chính trị, nghiệp vụ để tăng cường
khả năng chiến đấu, bảo vệ an toàn quốc gia, đấu tranh chống tội phạm, chống các thế lực
phản động, bảo vệ tính mạng, tài sản quốc gia và của công dân.
* Bước đầu xây dựng nền văn hoá mới
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ở Hà Nội ngày 3-9-1945, vấn đề giải quyết
nạn đói cho nhân dân được coi là nhiệm vụ đột xuất. Công cuộc đấu tranh chống "giặc
đói" được phát động bằng phong trào tăng gia sản xuất và bằng sự đoàn kết của nhân dân
theo tinh thần tự nguyện cứu trợ, đồng bào nơi đói ít san sẻ lương thực cho vùng bị đói
trầm trọng. Chính phủ động viên toàn dân tích cực tăng gia sản xuất, tổ chức lạc quyên,
lập "hũ gạo tiết kiệm", đồng thời ban hành kịp thời các sắc lệnh tiết kiệm gạo, cấm tích
trữ lương thực, ưu tiên vận chuyển lúa gạo từ Nam Bộ, Trung Bộ ra Bắc Bộ... nhờ các