intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xây dựng văn hoá hành vi ứng xử trong doanh nghiệp

Chia sẻ: Dao Hung | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:45

152
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiện tại, nhiều doanh nghiệp lớn ở Việt Nam không xem sản phẩm, thương hiệu, nhãn hiệu, sự lớn nhỏ… là tiêu chí cạnh tranh với nhau nữa. Một trong những điều họ quan tâm hàng đầu là văn hoá doanh nghiệp trong tổ chức. Văn hoá là đẳng cấp không chỉ trong xã hội mà cả trong sự phát triển của doanh nghiệp. Một trong những điều cần nói đến trong văn hoá doanh nghiệp chính là văn hoá hành vi ứng xử của người lao động. Theo Federico Mager Zaragoza,TGĐ NESCO phát biểu trong lễ phát động Thập kỷ thế giới Phát triển văn...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xây dựng văn hoá hành vi ứng xử trong doanh nghiệp

  1. Xây dựng văn hoá hành vi ứng xử trong doanh nghiệp Hiện tại, nhiều doanh nghiệp lớn ở Việt Nam không xem sản phẩm, thương hiệu, nhãn hiệu, sự lớn nhỏ… là tiêu chí cạnh tranh với nhau nữa. Một trong những điều họ quan tâm hàng đầu là văn hoá doanh nghiệp trong tổ chức. Văn hoá là đẳng cấp không chỉ trong xã hội mà cả trong sự phát triển của doanh nghiệp. Một trong những điều cần nói đến trong văn hoá doanh nghiệp chính là văn hoá hành vi ứng xử của người lao động. Theo Federico Mager Zaragoza,TGĐ NESCO phát biểu trong lễ phát động Thập kỷ thế giới Phát triển văn hoá của Unesco – 1992.Paris định nghĩa về văn hoá cho hay: “Văn hoá phản ảnh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi mặt của đời sống con người và đang diễn ra hàng bao nhiêu thế kỷ, nó đã cấu thành lên một hệ thống các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống dựa trên đó mỗi dân tộc khẳng định bản sắc của mình để tồn tại và phát triển”. Theo đó, văn hoá doanh nghiệp sẽ liên kết những con người nội bộ với nhau, liên kết doanh nghiệp với xã hội bằng các giá trị nhân văn, đặt con người và vị trí trung tâm và quyết định sự cạnh tranh thắng lợi và phát triển bền vững. Văn hoá doanh nghiệp suy cho cùng nó là cốt lõi của kinh tế tri thức, thị trường xã hội và nhân văn. Văn hoá hành vi ứng xử trong doanh nghiệp được dựa trên hai nền tảng cơ bản là giao tiếp ứng xử trong nội bộ doanh nghiệp và ngoài doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam đang ngày càng chú trọng đến hành vi ứng xử của nhân viên mà xây dựng cho mình bộ quy chuẩn văn hoá doanh nghiệp thống nhất. 1. Văn hoá hành vi ứng xử trong nội bộ doanh nghiệp Xây dựng văn hoá hành vi ứng xử trong doanh nghiệp tốt sẽ giúp cho bộ máy doanh nghiệp vận hàng trơn tru với những người có trình độ cao, tuân thủ nguyên tắc chung. Thường thì những doanh nghiệp lớn đều tạo ra được bản sắc văn hoá riêng của mình bởi đó chính là cái mà họ đưa hình ảnh của mình ra với xã hội. Xây dựng văn hoá ửng xử nội bộ sẽ dựa trên những tiêu chí sau: 1.1 Thái độ tôn trọng đồng nghiệp : Các doanh nghiệp phải cam kết tạo ra được môi trường làm việc tôn trọng lẫn nhau, loại trừ những hành vi quấy rối xúc phạm giữa người này đến người khác. Môi trường làm việc đó phải là một môi trường cởi mở, duy trì sự phát triển của công việc, tạo điều kiện tốt nhất cho nhân viên phát triển những ký năng cá nhân của mình. Môi trường đó là môi trường mọi người biết tôn trọng nhau, nhìn nhau mà phấn đấu. Chỉ có thế thì mới tạo ra được một bộ mấy nhân sự trơn tru, phát triển bền vững. Là người quản lý, bạn phải giải thích rõ ràng đối với những quyết định trong công
  2. tác thưởng phạt công mình với nhân viên. Hãy tôn trọng chính mình, tôn trọng đồng nghiệp của mình có nghĩa là bạn đang tôn trọng công việc của mình đang làm. 1.2 Trao quyền hợp lý: Bạn nên để cho nhân viên của mình có những mức độ quyết định trong công việc. Sự phân quyền này đều phải dựa trên sự tôn trọng ý kiến của tập thể, khách hàng, chính quyền, đối tác và mối quan hệ với những nhà cung cấp. Bên cạnh việc phân quyền, doanh nghiệp nên mạnh tay với việc không để xảy ra việc lạm dụng quyền hạn quá mức gây ra những hậu quả không cần thiết. Hay việc sử dụng quyền hạn một cách vô ý và thiếu tôn trọng có thể dẫn đến những hậu quả xấu đối với khách hàng, đối tác, nhà cung cấp và những đồng nghiệp, và bởi vì thái độ của mọi nhân viên thường được biết đến như là tiếng nói của tổ chức, do đó sẽ ảnh hưởng xấu tới uy tín của doanh nghiệp. 1.3 Thưởng phạt công minh: Ai có thành tích, ắt sẽ được thưởng và ngược lại, đó là nguyên tắc bất di bất dịch đối với doanh nghiệp. Nên tạo ra một môi trường làm việc mở nhưng có thưởng phạt công mình để mọi người cạnh tranh lành mạnh với nhau, tránh sự trả đũa hay thù hằn giữa nhân viên với nhau mà gây hậu quả xấu đến công việc và hình ảnh doanh nghiệp. Bạn là nhà quản lý, bạn nên cam kết với chính nhân viên của mình trước khi cam kết với khách hàng về vấn đề này. Có như thế thì mọi người mới tìm thấy sự hứng thú trong cộng việc. Trên một khía cạnh nào đó, hiệu quả công việc sẽ được đẩy mạnh hơn, thậm chí có thể bạn chỉ nhìn thấy nó biến chuyển một cách vô hình. 1.4 Tuyền dụng và đề bạt: Các doanh nghiệp phải đề ra một quy trình tuyển dụng và đề bạt phù hợp với doanh nghiệp của mình. Từ đó, nhất nhất phải quy định nhân viên của mình tuân thủ theo các quy định đó với quản điểm khách quan và trung thực trong quá trình thực hiện. Không bao giờ được để xảy ra trường hợp tiêu cực, mưu lợi cá nhân, quan liêu, cửa quyền trong tuyển dụng làm ảnh hưởng đến hình ảnh của doanh nghiệp. 1.5 Sử dụng tài sản của doanh nghiệp: Yêu cầu rõ ràng nhân viên tham gia làm việc tại doanh nghiệp phải ý thức rõ ràng điều này. Vì rằng, mỗi nhân viên đều được giao sử dụng một lượng tài sản nhất định và có trách nhiệm trong việc bảo vệ và sử dụng chúng sao cho phù hợp. Tài sản không chỉ bao gồm tiền mặt và những tài sản tài chính khác mà còn là những tài sản như là tiện nghi, công cụ, phần cứng và phần mềm, và các nguồn cung cấp. Ngay cả hệ thống thư điện tử và Internet là công cụ hỗ trợ nhân viên làm việc, không nên để xảy ra tình trạng chơi
  3. game, tranh ảnh có nội dung xấu, nghe nhạc, xem phim v.v…Thư điện tử của nhân viên và thông tin, dữ liệu máy tính là tài sản của doanh nghiệp và doanh nghiệp hoàn toàn có quyền kiểm soát các thông tin, dữ liệu này. 2. Văn hoá hành vi ứng xử ngoài doanh nghiệp Ứng xử bên ngoài doanh nghiệp đòi hỏi nhân viên phải dựa trên lợi ích chung và thể hiện những sứ mệnh căn bản của doanh nghiệp. Cần hết sức tránh các mâu thuẫn - hoặc thậm chí là biểu hiện bề ngoài của mâu thuẫn - giữa lợi ích cá nhân và trách nhiệm trong công việc. Để giải quyết điều này, doanh nghiệp chỉ cần vận dụng hai điều là ý chí lãnh đạo và cam kết nhân viên. Những biểu hiện văn hoá hành vi ứng xử bên ngoài doanh nghiệp dựa trên các yếu tố sau: 2.1 Quà biếu. Có nhiều cách hiểu khác nhau liên quan tới vấn đề đưa và nhận quà biếu. Tuy nhiên, việc đưa hoặc nhận quả biếu có thể làm xuất hiện và tạo ra một nghĩa vụ. Nó phát sinh do những trách nhiệm của nhân viên liên quan tới công việc. Khi nhận quà biếu, giá trị của nó có thể làm thay đổi cả suy nghĩ và hành động của nhân viên. Việc này cũng có thể dẫn đến những tình huống xấu ảnh hưởng đến hình ảnh của doanh nghiệp. Lãnh đạo doanh nghiệp phải là người đi tiên phong trong lĩnh vực này mới mong nhân viên của mình cam kết tốt. Những loại quà biếu thân thiện theo nguyên tắc truyền thống của xã hội có thể được chấp nhận, tuy nhiên, không được nhận quà tặng vượt quá những ước lệ xã hội được định trước. 2.2 Những hoạt động bên ngoài và phát triển kỹ năng. Trong một môi trường làm việc vì lợi ích tập thể, nhân viên và người quản lý sẽ phải cùng chia sẻ những trách nhiệm cho tổ chức tránh gặp phải những rắc rối này sinh. Mọi nhân viên khi tham gia các hoạt động văn hoá, xã hội, thể thao… nhất thiết phải tuân thủ theo những điều khoản thi hành của doanh nghiệp. Thời gian giành cho việc hoạt động và phát triển kỹ năng bên ngoài không bao giờ được làm ảnh hưởng đến thời gian hoạt động tại doanh nghiệp. Trong quá trình học tập, lãnh đạo doanh nghiệp nên tổ chức các khoá học đào tạo và khuyến khích nhân viên của mình tham gia nhiệt tình để trau dồi kỹ năng. 2.3 Thái độ với khách hàng. Vấn đề này mang ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp và những mối quan hệ của nó với những khách hàng, doanh nghiệp, nhà cung cấp, đối tác và những tổ
  4. chức, cá nhân khác. Thái độ của nhân viên với khách hàng có thể mang lại lợi ích hoặc sự bất lợi bất cứ lúc nào. Chính vì vậy, các nhân viên và cả lãnh đạo phải có ý thức tuân thủ các quy định khi giao dịch với khách hàng mà doanh nghiệp đã đề ra. Trong giao tiếp với khách hàng phải nhiệt tình, trung thực, đảm bảo sự an toàn cho ngân hàng và cho khách hàng. 2.4 Bảo mật và công khai thông tin. Doanh nghiệp nào cũng có quan hệ rộng rãi với cơ quan chính quyền, đối tác và khách hàng, do đó mỗi nhân viên đều có thể nắm được các thông tin khá nhạy cảm về khách hàng. Không được để xảy ra bất cứ tình trạng rò rỉ thông tin gây nguy hại đến mục tiêu phát triển của doanh nghiệp. Tất cả các nhân viên không được tự ý cung cấp các thông tin ra ngoài doanh nghiệp trừ khi thông tin đó hợp lệ. Tuy nhiên sự cởi mở và minh bạch là giá trị cơ bản trong những giá trị của tổ chức và thúc đẩy những cuộc tranh luận thành thực và làm việc nhóm. Bên cạnh việc phải bảo mật những thông tin nhạy cảm để bảo vệ quyền của khác hàng, doanh nghiệp phải cam kết trở thành một tổ chức mở với các phương tiện thông tin đại chúng. 6.5 Quan hệ đầu tư, mua sắm. Doanh nghiệp phải luôn bảo đảm rằng những phương thức nội bộ về hoạt động đầu tư, mua sắm được áp dụng phải công bằng và minh bạch. Chúng ta có trách nhiệm đảm bảo thi hành những thủ tục nội bộ hay những thủ tục liên quan mà không thiên vị. Trong các hoạt động mua sắm, đầu tư, tuyệt đối không nhận hoa hồng, quà biếu, các đặc ân, hay các vận động bên ngoài khác từ phía đối tác. Những nội dung cơ bản trên về văn hoá hành vi ứng xử của doanh nghiệp sẽ rất thiết thực trong thời đại ngày này. Nếu bạn là người lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp, ngay từ bây giờ bạn hãy lên một bộ quy chuẩn thống nhất để áp dụng cho doanh nghiệp mình. Xin lưu ý, bộ quy chuẩn này có thể in thành sách để phát đến từng nhân viên và yêu cầu phải thực hiện. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nên ban hành văn bản xử lý các vi phạm để đảo bảo việc thực hiện một các triệt để. Tất nhiên, một bộ máy giám sát điều tra mà doanh nghiệp lập ra sẽ có ích lợi hơn bao giờ hết. Vietnamtoday Nguồn: Công ty C.Doc Bàn về chiều sâu của thương hiệu Qua rồi cái thời văn hoá bị coi là những rào cản vô hình, một thứ xa xỉ phẩm của kiểu kinh
  5. doanh eo sèo chụp giật. Mà ngược lại, trong thời đại công nghệ thông tin và nền kinh tế hội nhập, văn hoá trở thành một đòi hỏi mang tính xúc tác chính cho sự phát triển. Điều đó không nên hiểu là những biểu hiện mang tính bề mặt của sản phẩm hay những ứng xử hơn thua trong cạnh tranh kinh doanh, mà là quá trình phát triển từ nội tại thương hiệu! Bởi chỉ qua hành trình ấy thì thương hiệu mới thực sự đến được và có sức sống trong lòng người tiêu dùng. Có khi, với khách hàng, chuyện nhớ đến một thương hiệu không nằm ở chỗ họ nắm quy mô tổ chức và phương tiện kỹ thuật cũng như sản lượng, doanh thu xuất khẩu của công ty. Nhưng điều chinh phục họ có khi lại là sức thu hút mang tính rung cảm của một kiểu logo qua một cách tiếp thị gần gũi phù hợp với tập quán đời sống và tác động đến cảm tình bằng những mẫu quảng cáo hay câu slogan đầy tính nghệ thuật. Hành trình xây dựng thương hiệu là hành trình của sáng tạo. Bởi chỉ có trong tinh thần sáng tạo, với khả năng phóng chiếu của ý tưởng và sức rung động của cảm xúc thì nhà kinh doanh mới thực sự chinh phục được người tiêu dùng một cách có nghệ thuật và đẳng cấp. Sức sống của thương hiệu được trang bị bằng chiều sâu văn hoá bên trong nó. Có thể sự bắt đầu của một thương hiệu là câu chuyện đầy tính thực dụng. Khái niệm văn hoá nhiều khi đến sau, và dần dần lớn lên trong ý thức nhà kinh doanh. Nhưng trong quá trình không ngừng phát triển chất lượng sản phẩm cộng với sự thích ứng với những vùng thị trường khác nhau, những yếu tố văn hoá được tích góp, hình thành ngẫu nhiên qua những tác động mang tính thời đại để củng cố sức sống cho thương hiệu. Câu chuyện về cái chết của Dệt Long An có lẽ còn gây trong chúng ta sự rúng động cùng với một sự tiếc nuối bâng khuâng khó hiểu. Nếu xét trên quy luật thị trường, thì đó là sự phủ định dành cho một cơ chế, hình thái kinh tế không còn thích nghi. Nhưng khi các nhà kinh tế loay hoay tìm lời giải cho vấn đề quy luật, cơ chế to tát thì có những người đi tìm câu giải đáp cho sự "tiếc nuối bâng khuâng" thì mới hay rằng, sức sống của cái thương hiệu Dệt Long An là ở chỗ: nó đã sống với dân mình từ thời khó khăn bao cấp, xếp hàng nhận xấp vải tám cho đến cái thời người ta tiện tặn để mua được xấp lụa, katê cao cấp của Dệt Long An thì mới thấy hết sự gắn bó mang tính tập quán lịch sử của nó đối với dân mình. Và đến đây, câu kết luận "thương hiệu Dệt Long An không chết" của những nhà kinh tế đã có chìa khoá chính... Một trong những biểu hiện khẳng định tầm quan trọng của văn hoá đối với sức sống thương hiệu là gần đây, những nhà kinh doanh chăm chút đến văn hoá quảng bá từ câu slogan, khúc nhạc quảng cáo cho đến những hình ảnh tác động vào người xem những cảm xúc gần gũi, có khi đầy tính truyền thống. Câu "Biti's nâng niu bàn chân Việt" phải đi trên
  6. nền phông của những đoạn phim mô tả bước chân bối rơm từ thời Lạc Hồng, chồng mờ qua những biến cố chiến tranh giữ nước, mở cõi, chinh phục thiên nhiên cho đến bước chân mang sức bật thời đại mới. Đó là văn hoá và một nghệ thuật chinh phục vào tâm thức công chúng con dân Việt. Trang bị cho thương hiệu một sức sống văn hoá tức là trang bị một bản sắc và sức bật nội tại để có khả năng thích nghi được với sự thay đổi trong những hoàn cảnh kinh doanh khác nhau. Sự đối lập giữa lợi ích cảm tính và lợi ích lí tính của thương hiệu Cập nhật 25-4-2005 05:05 Tại sao thương hiệu Mont Blanc có thể đưa ra một mức giá cao hơn hẳn khi so sánh với Parker? 2 công ty đều đưa ra những cây viết khá tương tự nhau, nhưng một bên là 5$ trong khi bên còn lại đưa ra mức giá 100$ cho 1 cây viết. Người mua hàng thường gặp khó khăn trong việc lựa chọn giữa hàng dãy th ương hi ệu của cùng 1 loại sản phẩm. Thật sự có rất ít sự khác biệt giữa nh ững th ương hiệu trong phần lớn chủng loại hàng hóa ngày nay. Sự khác biệt ở những nét đặc trưng của một sản phẩm thường được suy ra là “l ợi ích lý tính”. Một vài sản phẩm lựa chọn yếu tố nhanh làm th ế mạnh, trong khi số khác ch ọn công nghệ hiện đại, trọng lượng nhẹ hay độ an toàn cao, nhưng đó là nh ững s ản ph ẩm có thể phân biệt bằng chức năng và công dụng của nó. Hầu hết các nhà marketing đ ều c ố gắng tạo cho thương hiệu của mình một giá trị vượt trội nào đó d ựa trên y ếu t ố l ợi ích lý tính. Nhưng trong một vài chủng loại sản phẩm mà ở đó lợi ích lý tính khó có th ể nh ận bi ết hay tạo sự khác biệt, các nhà marketing th ường phải sử dụng ảnh h ưởng c ủa m ột y ếu t ố khác không kém phần quan trọng gọi là “ lợi ích cảm tính” hay còn gọi là lợi ích mang tính biểu cảm. Vai trò của ảnh hưởng này đã tạo nên sức hút mạnh mẽ đối với th ương hiệu mà họ muốn xây dựng. Hãy xem xét một ví dụ. Là một doanh nhân, bạn sẽ cần 1 cây viết th ật tốt. Để lựa ch ọn viết, bạn sẽ xem xét những yếu tố lý tính sau: đầu viết, ngòi vi ết, n ắp vi ết, thân vi ết. Bạn có thể mua rất nhiều loại viết giá rẻ từ rất nhiều công ty khác nhau chuyên bán đồ dùng văn phòng. Thông thường muốn loại viết nhiều công dụng hơn và tốt h ơn bạn s ẽ
  7. chọn loại có giá cao hơn. Nhưng nếu bạn thật sự muốn chọn 1 cây viết “hàng hiệu” thì bạn đã trả thêm 1 khỏan chi phí khá lớn cho cái gọi là “lợi ích cảm tính” Tại sao thương hiệu Mont Blanc có thể đưa ra một mức giá cao h ơn hẳn khi so sánh v ới Parker? 2 công ty đều đưa ra những cây viết khá tương tự nhau, nhưng một bên là 5$ trong khi bên còn lại đưa ra mức giá 100$ cho 1 cây viết. Sự khác biệt không nằm ở ch ỗ công dụng chức năng của cây viết mà nằm ở cảm nhận hay lợi ích cảm tính khi bạn đang sở hữu một thương hiệu đắt tiền và nổi tiếng. Mont Blanc đã định vị nó là một thương hiệu rất cao cấp nhờ mức giá cao ngất ngưởng, nhờ các tiêu chuẩn chất lượng, nhờ chế độ bảo hành suốt đời, và quan trọng nhất chính là yếu tố văn hóa – xã hội mà thương hiệu tạo nên để liên kết cây viết và người sử dụng nó. Việc tạo dựng tên tuổi nổi tiếng và được nhận diện toàn cầu như Mont Blanc, đã giúp nó trở thành một thương hiệu cảm tính mạnh. Khi khách hàng sử d ụng cây vi ết Mont Blanc, họ cảm nhận được tầm quan trọng của bản thân họ, rằng họ đang sở hữu một cây viết cao cấp và họ còn thích nghĩ rằng mình đang thuộc hàng ngũ ít ỏi nh ững ng ười th ật s ự am hiểu về viết. Giá trị cảm xúc luôn dược gắn kết với lợi ích cảm tính nhưng nhiều thương hiệu không tạo cho mình được giá trị cảm xúc cần thiết. Một ví d ụ v ề mua b ảo hi ểm. R ất nhi ều thương hiệu bảo hiểm tồn tại, nhưng chỉ một số tạo được sự cảm nhận về “sự hỗ trợ tài chính” hay “sự an toàn”. Hay thử xem xét hành vi mua hàng tại một tiệm t ạp ph ẩm – có phải bạn cảm thấy yên tâm hơn khi lựa chọn thực phẩm hiệu Campbell h ơn nh ững th ực phẩm thông thường? Bạn có cảm thấy tin cậy với Green Giant? Và bạn sẽ ph ục vụ bữa ăn cho bọn trẻ bằng Quaker Oats chứ? Lợi ích cảm tính trong B2B ( quan hệ giữa các nhà sản xu ất ) s ẽ ph ức t ạp h ơn nh ưng cũng tạo được hiệu quả mạnh không kém. Hãy nhìn vào thương hiệu FedEX, bạn sẽ th ấy ngay lợi ích lý tính của nó là dịch vụ vận chuy ển v ề đêm. Nh ưng b ạn có th ấy đ ược r ằng định vị của nó cũng hướng rất nhiều lợi ích cảm tính của vi ệc an toàn? Có r ất nhi ều d ịch vụ vận chuyển trong đêm, nhưng chỉ ít trong số chúng cho bạn lợi ích cảm tính là s ự an toàn trong tâm trí của bạn. Khi xây dựng thương hiệu, hãy nghĩ nhiều đến lợi ích lý tính của sản ph ẩm. Nh ưng n ếu có sự kết hợp đúng đắn giữa lợi ích lý tính và những giá trị cộng thêm c ủa y ếu tố c ảm tính, bạn sẽ dễ tạo được sự ưa chuộng nhờ đó tăng doanh thu cũng nh ư lòng trung thành của khách hàng đối với thương hiệu của bạn. Văn hóa công ty làm nên sự khác biệt của một thương hiệu
  8. Con người của công ty chính là thương hiệu của công ty, th ương hi ệu của công ty chính là văn hóa của công ty, và khách hàng c ủa công ty đang bỏ tiền ''mua những giá trị văn hóa đó''. Nói cách khác, nếu th ương hiệu của bạn hứa hẹn mang lại cho khách hàng sự tin cậy thì bạn ph ải là người đáng tin cậy. Một bộ phận marketing có th ể ''vẽ ra'' những gì mà một thương hiệu hứa hẹn với khách hàng của mình nhưng những nhà lãnh đạo và toàn bộ con người của tổ chức đó ph ải ''ủng h ộ, phát huy và gìn gi ữ'' l ời h ứa đó. Ngày nay, văn hóa của một tổ chức được xem như yếu tố căn bản tạo nên sự khác biệt của một thương hiệu. Nếu bạn có khách hàng (hy vọng là thế), có nghĩa là b ạn đang tham gia ngành ''kinh doanh biểu diễn''. Mỗi ngày, các nhân viên của công ty đang ''biểu diễn'' và góp phần xây dựng thương hiệu một cách tích cực hay tiêu cực. Họ không chỉ hành động ''nhân danh'' m ột t ổ chức mà còn “trở thành” tổ chức đó, là ''hiện thân'' c ủa n ền văn hóa mà h ọ mang đ ến cho những người mà họ tiếp xúc. Liệu công ty của bạn có phải là nơi mà tất cả các “bộ phận chức năng'' cùng chung m ột sứ mệnh xây dựng thương hiệu, hay chỉ là một môi trường mà mọi ng ười ch ỉ mu ốn ''làm cho xong việc''? Thương hiệu có đóng vai trò trung tâm trong mọi hành đ ộng c ủa các nhân viên hay đó chỉ là một công việc ''marketing''? Câu trả lời là hầu hết các công ty không làm được điều này. Trong m ột cu ộc đi ều tra ti ến hành ở thị trường Anh, cứ sáu người tiêu dùng thì có một người cho biết h ọ quy ết đ ịnh không mua một món hàng nào đó vì cách cư xử “không ra gì” của nhân viên công ty đó. Một cuộc điều ra của Chartered Institute of Marketing thì cho thấy nh ững công ty thành công trong trong việc xây dựng tài sản thương hiệu đều xem thương hiệu nh ư m ột nguyên tắc tổ chức quan trọng cho tất cả các hoạt động c ủa công ty ch ứ không đ ơn gi ản chỉ là một món hàng mà họ đang bán cho khách hàng. Nhưng vẫn có một số công ty thành công. Với những công ty này, vi ệc xây d ựng th ương hiệu không đơn giản chỉ là một kế hoạch của phòng marketing. Tất cả các nhân viên quản lý phải theo dõi xem những quyết định, cách cư xử và đối tho ại c ủa h ọ v ới nhân viên c ấp dưới đã tạo ảnh hưởng thế nào với niềm tin của khách hàng và với việc xây dựng thương hiệu. Các quản trị viên cấp cao phải thường xuyên ''tự soi gương'', để nhìn lại năng lực lãnh đạo của họ, khả năng tạo nên một môi trường làm việc có th ể “truy ền đi” hình ảnh tốt nhất của một thương hiệu. Nếu các nhân viên nhận được những quy ết đ ịnh, các hành
  9. xử và đối thoại mâu thuẫn với “thông diệp'' mà thương hiệu muốn chuy ển t ải thì cam k ết của họ với việc xây dựng thương hiệu sẽ giảm đi, ''cân xứng'' với s ự chỉ trích và tâm trạng thất vọng mà họ cho là thỏa đáng. Cách hành xử của các quản trị viên cấp cao là nền tảng để xây dựng m ột n ền văn hóa công ty hỗ trợ cho sự phát triển của một thương hiệu. Chẳng hạn, tại Tập đoàn Tesco, “thông điệp nội bộ'' của bộ phận quản lý cấp cao là nếu b ạn mu ốn được ng ười khác c ư xử với mình thế nào thì hãy cư xử với họ như th ế ấy, Nếu khách hàng h ỏi m ột món hàng nào đó thì hãy đưa họ đến tận nơi đặt món hàng thay vì ch ỉ đứng tại chỗ và ch ỉ cho h ọ. Những kiểu khuyến khích nhân viên như thế này góp phần làm cho lời hứa mà th ương hiệu Tesco cam kết mang đến cho khách hàng: ''Chúng tôi luôn quan tâm đ ến b ạn dù là những điều nhỏ nhặt nhất” trở thành hiện thực. Thường các quản trị viên cấp cao lớn không ý thức được rằng cách hành xử và phong cách lãnh dạo của họ có ảnh hưởng lớn như thế nào đến tinh thần hợp tác trong công ty. Họ có thể vô tình tạo nên một rào chắn đối với sự cộng tác của các nhân viên và làm ảnh h ưởng đến việc chuyển tải thông điệp mà thương hiệu muốn mang đ ến cho khách hàng. H ọ thường nhìn doanh nghiệp của mình như một “bức tranh lớn'' chứ không ph ải là một “b ức tranh tổng thể”. Các nhà lãnh đạo cũng thường bỏ qua cái nhìn tổng quan về nh ững con người ở ''tuyến đầu'' - những người phải thường xuyên đối diện trực tiếp với khách hàng - mà cho thúc đẩy “những sự thay đổi mang tính chiến lược”. Một thương hiệu có thành công hay không, điều đó phụ thuộc vào những hành động hằng ngày của người lãnh đạo và tất cả nhân viên của họ, chúng có song hành cùng lời hứa mà th ương hi ệu đó cam k ết mang đến cho khách hàng hay không và công ty đó xây dựng được mối liên h ệ tình cảm với đội ngũ nhân viên của mình hay không. (Theo NLD) Tác động của yếu tố văn hoá trong hoạt động marketing của doanh nghiệp Ngày nay không chỉ các nhà kinh tế mà các nhà văn hóa cũng đều thống nhất cho rằng, văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Tác động của văn hoá đến kinh tế là hết sức rộng lớn và phức tạp. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ tập trung phân tích sự tác động của văn hoá đến hoạt động marketing của DN trong điều kiện kinh tế thị trường. Trong hệ thống các giá trị văn hoá, các giá trị văn hoá tinh thần, văn hoá phi vật thể có tác động mạnh mẽ và phổ biến đến hoạt động marketing thông qua rất nhiều các biến số khác nhau, song có thể được chia thành hai nhóm:
  10. Nhóm thứ nhất, bao gốm tập hợp các biến số như: trình độ sử dụng những cải tiến kỹ thuật, những phát hiện khoa học trong các lĩnh vực của đời sống sản xuất xã hội, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật của những người lao động; trình độ phổ cập giáo dục, văn học nghệ thuật... trong nhân dân. Đặc điểm của những biến số này là nó không tồn tại chính trong cái gọi là “yếu tố môi trường văn hoá” thuộc hệ thống các yếu tố của môi trường kinh doanh của DN, mà nó được luật pháp hoá hay thể chế hoá dưới dạng những biến số của môi trường luật pháp; môi trường khoa học, kỹ thuật và công nghệ; hoặc môi trường dân số; môi trường nhân khẩu học. Nhóm thứ hai, bao gốm rất nhiều biến số như: ngôn ngữ; những biểu tượng; tôn giáo; cách sử dụng thời gian, không gian; cách quan niệm về tình bạn, tình hữu nghị; tâm lý; lối sống, nếp sống; truyền thống, tập quán, tập tục, những điều cấm kỵ v.v... Thông thường trong nghiên cứu lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn các biến số văn hoá thuộc nhóm thứ hai này mới chính thức được sắp xếp và được xem xét như là những bộ phận cấu thành và tạo nên nội dung đích thực của yếu tố “môi trường văn hoá” cho hoạt động marketing. Ảnh hưởng trực tiếp của văn hoá lên hoạt động marketing của DN là tác động lên chính hành vi của các chủ thể kinh doanh hay hành vi của các nhà hoạt động thị trường. Những hành vi đó sẽ in dấu lên các biện pháp marketing mà họ thực hiện. Ví dụ: những quy tắc xã giao, cách nói năng cư xử của một nền văn hoá nào đó mà các nhà hoạt động thị trường chịu ảnh hưởng sẽ đựơc họ mang theo và sử dụng trong quá trình giao tiếp, đàm phán, thương lượng với khách hàng. Trong trường hợp này văn hoá đã tác động hay chi phối trực tiếp đến loại công cụ thứ tư của marketing- công cụ xúc tiến hỗn hợp với ý nghĩa giao tiếp, truyền thông. So với ảnh hưởng trực tiếp, ảnh hưởng gián tiếp của văn hoá mang tính thường xuyên hơn với diện tác động rộng hơn. Các giá trị văn hoá được truyền tải thông qua các tổ chức như: gia đình, các tổ chức tôn giáo, tổ chức xã hội, trường học, v.v... từ đó mà ảnh hưởng đến người mua để rồi quyệt định các biện pháp marketing của người bán. Tác động của văn hoá đến người mua không chỉ tập trung ở nhu cầu mong muốn của họ mà còn được thể hiện qua thái độ của con người đối với bản thân mình, đối với người khác, đối với các chủ thể tồn tại trong xã hội, đối với tự nhiên và vũ trụ... Tất cả những điều đó đều có ảnh hưởng đến các biện pháp marketing. Văn hoá với tư cách là yếu tố của môi trường marketing ảnh hưởng toàn diện đến hoạt động marketing của các DN, cụ thể: • Văn hoá ảnh hưởng đến hàng loạt các vấn đề có tính chất chiến lược trong marketing như: lựa chọn lĩnh vực kinh doanh, lựa chọn thị trường mục tiêu, lựa chọn các
  11. chiến lược marketing chung, các quyết định về nhiệm vụ mục tiêu tổng quát của DN và hoạt động marketing. • Văn hoá cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện các chiến thuật, các sach lược, các biện pháp cụ thể, các thao tác, hành vi cụ thể của nhà hoạt động thị trường trong quá trình làm marketing. • Văn hoá hầu như ảnh hưởng một cách toàn diện đến các công cụ khác nhau của hệ thống marketing- mix của DN trong đó đặc biệt đáng lưu ý là ảnh hưởng đến công cụ sản phẩm, phân phối và xúc tiến hỗn hợp. Mỗi một biến số của văn hoá có ảnh hưởng khác nhau đến quá trình hoạt động marketing của DN. Thực tế đã cho thấy, có thể biến số này của văn hoá có ảnh hưởng mạnh mẽ đến một hoạt động nào đó của marketing, còn biến số khác lại ít có liên quan hoặc ảnh hưởng không đáng kể. Nếu nhìn ngược lại từ phía các công cụ của marketing- mix người ta đã đưa ra một số tổng kết về sự tác động của một số biến số văn hoá như sau: • Thứ nhất, chính sách xúc tiến hỗn hợp bị ảnh hưởng sâu sắc bởi vấn đề ngôn ngữ. Chẳng hạn, các quảng cáo có thể cần phải thay đổi vì một chiến dịch hoặc biểu ngữ dùng trong nền văn hoá nào có thể có ý nghĩa xấu hổ ở một nền văn hoá khác. • Thứ hai, sự chấp nhận sản phẩm bị ảnh hưởng bởi các tiêu chuẩn thái độ và giá trị. Ví dụ, ở Việt Nam người ta thường kiêng ăn mực, ăn vịt... vào đầu tháng. • Thứ ba, chính sách giá thường bị ảnh hưởng bởi các thái độ văn hoá đối với sự thay đổi thông qua cái gọi là “giá tâm lý”. Ở một số nơi, sự thay đổi thường xem là tích cực nên hàng thời trang mốt được đặt giá rất cao vì nó tượng trưng cho sự thay đổi. Nhưng ở nơi khác sự thay đổi có thể đựơc xem là không tốt, một mức giá cao hơn cho sản phẩm mới thường chỉ làm sản phẩm trở nên quá đắt cho người tiêu dùng bình thường. • Thứ tư, hệ thống phân phối thường bị ảnh hưởng bởi các chế định xã hội. Ví dụ, ở một số quốc gia, mối liên hệ giữa người cung cấp và người mua thường dựa trên quan hệ họ hàng bất kể là xa hay gần. Những người không phải là thành viên họ hàng sẽ bị loại khỏi các giao dịch kinh doanh trong một số kênh phân phối nào đó. Trong một nền văn hoá các giá trị văn hoá có tính bền vững và tính phổ cập khác nhau và do đó ảnh hưởng không giống nhau đến hoạt động marketing của các DN. Bên cạnh những giá trị văn hoá mang tính phổ cập và thống nhất thì luôn tồn tại các giá trị văn hoá mang tính địa phương đặc thù, còn gọi là các nhánh văn hoá. Những giá trị văn hoá phổ cập thống nhất có ảnh hưởng rộng lớn trong phạm vi toàn xã hội và tạo nên những đặc tính chung trong nhu cầu, ước muốn, hành vi tiêu dùng của đông đảo người mua trong một quốc gia, một dân tộc. Ví dụ, nói đến truyền thống văn hoá ẩm thực của người Việt Nam phải nói đến tập quán tiêu dùng cơm gạo với những phương tiện để ăn như bát đũa v.v... Còn ở nhiều nước phương Tây thì đó là bánh mì, bơ, sữa, thịt với các phương tiện thìa, dĩa v.v... Các giá trị văn hoá đặc thù tạo nên phong cách riêng trong nhu cầu hành vi, đặc tính
  12. mua bán của từng nhóm người tiêu dùng trong xã hội. Các giá trị văn hoá ấy có thể được phân biệt theo vùng, loại tín ngưỡng, khu vực địa lý, nhóm dân tộc hay từng tầng lớp người. Cùng với sự tồn tại của các giá trị văn hoá cơ bản, cốt lõi, truyền thống gọi là các giá trị văn hoá sơ phát còn có các giá trị văn hoá không cơ bản, tạm thời hay là giá trị văn hoá thứ phát. Các giá trị văn hoá cốt lõi được hình thành từ lâu đời và được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, được củng cố bằng những quy chế cơ bản của xã hội và có tính bền vững rất cao. Điều này cũng đã quyết định tính chất bền vững của những tập tính tiêu dùng của người mua chịu ảnh hưởng sâu sắc của những giá trị văn hoá đó. Ngược lại, các giá trị văn hoá thứ phát lại dễ có thể thay đổi hơn, dễ điều chỉnh hơn và tương tự như vậy người ta có thể làm thay đổi, điều khiển được hành vi tiêu dùng bị quy định bởi các giá trị văn hoá này. Theo Tạp chí Thương mại Marketing “nhập gia tuỳ tục” Các doanh nghiệp khi xâm nhập vŕo bất kỳ thị trường nŕo cũng phải nghięn cứu, xem xét phong tục, tập quán, văn hoá. Họ cần có những quyết định nhạy cảm phů hợp với sở thích vŕ bản sắc của từng nước, từng dân tộc, từng nền văn hoá. Nhập gia tuỳ tục chính lŕ một nguyęn tắc không thể thiếu. Để thâm nhập được vŕo các thị trường, các nhŕ sản xuất vŕ tư vấn marketing phải biết được những thói quen vŕ sở thích của người tięu důng, những khác biệt về văn hoá, niềm tin vŕ tín ngưỡng, mức độ về khả năng chi trả của họ. Mỗi sản phẩm lŕ thước đo văn hoá người tięu důng. Ví dụ, trường hợp của một công ty sản xuất thuốc tẩy giặt muốn ca ngợi tính hiệu quả đến kinh ngạc loại bột giặt của mnh. ́ Công ty trưng những biển quảng cáo thể hiện nội dung: ở bęn trái, một đống quần áo bẩn; ở giữa, bột giặt mới vŕ bęn phải, quần áo sạch vŕ đă được lŕ phẳng. Chiến dịch nŕy đă nhanh chóng bị thất bại ở Trung Đông v́ người dân ở đây có tập quán đọc từ phải sang trái. Như vậy, điều quan trọng đối với các doanh nghiệp khi tung sản phẩm của mnh́ ra thị trường phải biết bám sát tập quán tôn giáo của người tięu důng. Cần tránh đưa ra thị trường những sản phẩm mŕ người dân nơi đây kięng kỵ, ảnh hưởng đến sự tięu thụ. Trường hợp quảng cáo nước hoa của Givenchy lŕ một ví dụ. Nước hoa của Givenchy được giới thiệu bęn cạnh người mẫu Almudena Fernandez mặc một chiếc váy trắng vừa khít, cổ khoét sâu hnh ́ chữ V. Nhưng khi quảng cáo tại các nước Trung Đông, hoạ sĩ đă "mặc" cho người mẫu thęm phần tay áo vŕ tạo lại chiếc cổ hnh ́ chữ V đúng mực hơn. Ở những nước khu vực nŕy, phụ nữ không để lộ cánh tay vŕ chân trần.
  13. Cũng vậy, hăng Alfa Romeo khi thâm nhập vŕo thị trường Trung Quốc đă thay con số "164" bằng "168". V́ người Trung Quốc coi số 4 lŕ tượng trưng cho sự chết, số 8 mang đến may mắn. Các công ty không ngừng phát triển thŕnh các công ty đa quốc gia nhằm giảm giá thŕnh, hợp lư hoá sản xuất. Ví như trường hợp Hăng Unilever đă quyết định cắt bớt khả năng thương mại của mnh́ đối với 1.600 nhăn hiệu để tập trung vŕo 400 sản phẩm chủ đạo chiếm gần như toŕn bộ doanh số của tập đoŕn. Cṇ tập đoŕn mỹ phẩm L'Oréal lại dŕnh 80% đầu tư quảng cáo của mnh ́ để tập trung vŕo 10 thương hiệu, như Lancôme, Helena Rubinstein, Vichy hay Laboratoires Garnier. Một số lĩnh vực đị hỏi các doanh nghiệp phải thích nghi với sự tiếp cận của mnh ́ nếu muốn tồn tại. Trước tięn trong khuôn khổ luật pháp hay những quy định bắt buộc của đất nước. Đó lŕ trường hợp của những tập đoŕn dược phẩm vŕ các công ty tŕi chính. Ở Pháp, người ta cấm những quảng cáo xe hơi gây ra những kích động về tốc độ hay gắn với những giới thiệu về rượu. Ngay cả với thuốc lá, nếu chŕng cao bồi Marlboro cưỡi ngựa tręn khắp hŕnh tinh th́ những điếu thuốc được đóng trong mỗi bao thuốc cũng không có cůng một gu vŕ một lượng nicotin giống nhau. Vị của nó nặng hơn ở các nước Nam Âu vŕ nhẹ hơn ở các nước Bắc Âu. Những cố gắng thích ứng nŕy của các nhŕ doanh nghiệp không chỉ từ những bắt buộc của các nhŕ chức trách. Họ cũng phải lưu ư đến những đị hỏi của người tięu důng. Đặc biệt trong cách ăn uống. Người Mỹ ăn ṣ được lŕm vỏ sạch sẽ vŕ nấu bằng nước důng rượu vang với sữa. Trong khi đó, người Pháp lại thích ăn sống. Một người Pháp có thể rong ruổi cả ngŕy tręn một chiếc Toyota hay môt chiếc Honda nhưng lại không chịu ăn món ăn Nhật Bản vŕo bữa trưa vŕ tối. (Theo Thời Báo Kinh Tế Việt Nam) Kinh doanh và nguyên tắc "Nhập gia tùy tục" Tại văn phòng làm việc của công ty hay trong các buổi gặp mặt, thăm hỏi kinh doanh xã giao ở Trung Đông, ba tách trà hoặc ba tách cà phê có thể bị xem như một biểu hiện …bất lịch sự. Chỉ một sự vô ý nhỏ thôi cũng có thể khiến bạn “mất điểm” trước các đối tác kinh doanh Hồi giáo này. Vì thế, bạn đừng bao giờ mạo hiểm mong đợi sự thành công quá sớm ở một thị trường mà bạn chưa hiểu gì về tập quán sinh hoạt và phong tục kinh doanh. Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc đều có một bản sắc cũng như những quy định riêng mà bạn, những người nước ngoài, phải hiểu biết khi muốn hợp tác hay xâm nhập vào thị trường
  14. của họ. Đây là yêu cầu quan trọng quyết định phần lớn sự thành công của bạn và là một phần trong chiến lược xúc tiến kinh doanh mở rộng thị trường ra nước ngoài. Mặc dù hoạt động này không tạo ra sản phẩm hay dịch vụ cụ thể, nhưng sự cần thiết của nó thể hiện ở việc cung cấp những tin tức để giúp bạn đề ra được những chiến lược kinh doanh đúng đắn. Thông tin kinh doanh hiện đại là một loại thông tin xuyên văn hóa, giữa những khách hàng, đối tác kinh doanh ở một nền văn hóa này và những nhà cung cấp ở một nền văn hóa khác. Thông thường, tại những thị trường khác nhau, nền văn hóa cũng sẽ khác nhau, và đôi khi trong một nước cũng có sự khác biệt với nhau về văn hóa, ví dụ như Ấn Ðộ hay Trung Quốc. Xúc tiến kinh doanh quốc tế là việc làm thế nào để chuyển được các thông tin từ thị trường nước ngoài đến với bộ phận hoạch định chiến lược của công ty, để từ đó bộ phận này sẽ đề ra những kế hoạch thích hợp nhằm vượt qua các rào cản kinh doanh do sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, quy định của chính phủ, phương tiện truyền thông đại chúng, phong tục tập quán.... Điển hình trong hoạt động bán hàng, phát triển sản phẩm, định giá cả và phân phối, mỗi thị trường đều được điều chỉnh bằng những quy định riêng biệt. Tiền hoa hồng (premium) luôn được các công ty áp dụng như một phần khuyến mãi, nhưng chính nó lại có thể gây ra các vấn đề rắc rối. Ví dụ như tiền thưởng của các công ty ở Thuỵ Sỹ có tác dụng chào mời khách mua hàng sẽ chịu sự chi phối của luật chiết khấu ở nước này. Thuỵ Sỹ cấm bất kỳ việc giảm giá thành sản phẩm nào có tính ưu đãi đối với các nhóm khách hàng khác nhau. Người ta cho rằng làm như thế sẽ dẫn đến việc phân biệt đối xử đối với người mua. Tiền hoa hồng ở Thuỵ Điển và Pháp thông dụng hơn và nó được phép áp dụng trong một giới hạn nhất định. Nếu một công ty dùng tiền hoa hồng mời chào khách thì không được phép, hay nếu khi bán sản phẩm nào đó thấp hơn giá vốn, hoặc chào một khách hàng với một quà tặng hay tiền thưởng kèm theo điều kiện là họ phải mua một sản phẩm khác… đều là bất hợp pháp. Hơn nữa, một công ty hoặc nhà bán lẻ không thể chào khách những sản phẩm khác biệt so với những mặt hàng họ vẫn thường kinh doanh. Ví dụ, theo quy định thì các công ty sản xuất và kinh doanh bột giặt tại Pháp không được chào khách bằng quần áo hay các dụng cụ nhà bếp và các quà tặng là ngũ cốc. Hoạt động quảng cáo khuyến mãi ở Đức còn bị thắt chặt hơn. Nếu bạn quảng cáo qua các biên giới quốc gia thì quảng cáo đó sẽ bị quy định về so sánh sản phẩm điều chỉnh. Ở Đức, những so sánh sản phẩm của mình với sản phẩm của các công ty khác trong quảng cáo luôn luôn chịu sức ép của đối thủ cạnh tranh, như gọi đến toà án và được yêu cầu
  15. chứng minh tính hơn hẳn về sản phẩm của họ so với sản phẩm tương tự. Ngoài ra còn có các quy tắc khắt khe hơn, ví dụ như tất cả những điều khẳng định về tính chất ưu điểm của sản phẩm (mà chưa chứng minh được sự thật) và tuyên bố trong quảng cáo đều phải được kiểm tra để đảm bảo rằng việc trình bày ra trước công chúng là không giả dối và lừa đảo. Quy định này được áp dụng dưới mọi hình thức, từ dán nhãn sản phẩm đến nội dung những bức thư chào hàng. Toà án luôn xử các vụ này đúng theo luật, tập trung chú ý vào việc xác định liệu một quảng cáo có sai sự thật hay lừa đảo không. Tây Ban Nha lại đặc biệt quan tâm việc nhận diện sản phẩm. Vì thế, nước này đề ra một số các điều luật riêng, theo đó bắt buộc các sản phẩm nước ngoài phải sử dụng tiếng Tây Ban Nha trên tất cả các nhãn sản phẩm, trong quảng cáo, hướng dẫn hay các thông tin khác về sản phẩm. Tài liệu gốc không bị cấm, nhưng phải kèm theo bản dịch ra tiếng Tây Ban Nha. Bên cạnh những quy định pháp luật, mỗi thị trường còn duy trì vô vàn những tập tục kinh doanh khác nhau. Chất cafein bị hạn chế ở các nước Trung Đông. Ba tách trà hoặc cà phê thường được xem như một “hạn chế lịch sự” ở các văn phòng cũng như trong các buổi gặp mặt, thăm hỏi kinh doanh xã giao. Nếu vẫn muốn tiếp tục duy trì buổi gặp mặt, bạn có thể dùng thêm một tách nhưng phải nhấp từng chút để không phải uống thêm một tách nữa khi buổi gặp mặt chưa kết thúc. Hoặc trong trường hợp bạn không muốn dùng thêm nữa thì hãy xoay chiếc tách không của bạn lại khi đang cầm nó từ phía sau. Cử chỉ đó có nghĩa là: “Cám ơn, tôi nghĩ là tôi đã uống quá nhiều”. Khi bạn đến Ả rập Xê út, đừng ngạc nhiên nếu bỗng nhiên có một người xông thẳng vào văn phòng làm gián đoạn cuộc nói chuyện của bạn với một ai đó trong phòng. Đây là một tục lệ của người Ả rập truyền thống nhằm thể hiện đấy là “cuộc gặp gỡ công khai”. Tuy nhiên, ở Mỹ hay nhiều quốc gia châu Âu, hành động đó lại bị xem là một hành động khiếm nhã khi làm gián đoạn câu chuyện của người khác, thậm chí cả sau khi việc hợp tác đã được ký kết. Trong thế giới của các nước Hồi giáo, trước khi nhận một lời mời nào đó, từ “không” phải được nói ba lần trước khi bạn chấp nhận lời mời đó. Các doanh nhân gốc Ả rập quan niệm rằng việc bạn cố gắng hết sức để nhận một cuộc hẹn là hoàn toàn vô tư, không có toan tính trước và nó thể hiện sự công khai của cuộc hẹn. Doanh nhân Tây Ban Nha lại có sự quan tâm đặc biệt đến thời gian. Các văn phòng và đại lý ở Tây Ban Nha thường đóng cửa từ 1 giờ và trễ nhất là 4 giờ 30 phút chiều. Về ăn mặc, theo quan niệm của người Tây Ban Nha, giày đen biểu thị cho các cơ hội kinh doanh. Người Tây Ban Nha rất thích màu đen và các màu tối. Nghi thức xã giao kinh doanh ở lại đòi hỏi các doanh nhân phải trao đổi danh thiếp ngay khi gặp mặt. Nếu bạn không đưa ngay danh thiếp, công việc của bạn sẽ phải trì hoãn lâu
  16. đấy; hay nghi thức gặp mặt ở Pháp đòi hỏi bạn phải đưa chứng minh thư kèm theo danh thiếp; còn ở Nhật Bản, bạn phải chuẩn bị ít nhất là 40 tấm danh thiếp để mang theo mỗi ngày. Theo một thống kê mới nhất, trung bình tại Nhật Bản một doanh nhân sử dụng khoảng 20 tấm danh thiếp/ngày, đồng thời người Nhật Bản trao tay nhau khoảng 45 triệu danh thiếp/ngày. Những con số trên chứng tỏ Nhật Bản là một trong những quốc gia sử dụng nhiều danh thiếp nhất thế giới. Người Nhật cũng quen xưng hô theo danh vị cao nhất của đối tác ghi trong danh thiếp. Nếu bạn có cơ hội hợp tác với doanh nhân Nhật Bản, hãy tôn trọng thói quen này mà xưng hô với họ. Chẳng hạn như giám đốc thì thường gọi là “giám đốc” chứ không xưng hô theo kiểu “ông” hay “anh”. Trong làm ăn, người Mỹ thích sự chính xác, cụ thể. Họ thích cách nói “5 hoặc 6”, chứ không thích nói “khoảng 5 hoặc 6”. Việc nói chuyện vòng vo bị coi là mất thời gian. Người Mỹ có thể bàn việc làm ăn thường xuyên trong các bữa tiệc, bữa ăn, họp mặt... Đối với những doanh nhân làm ăn tại Mỹ, ăn mặc phải được chú ý nhiều hơn một chút, bởi vì có nhiều ông chủ tư bản nhìn đôi giày của đối tác để quyết định làm ăn. Không ít các doanh nhân Mỹ thường thuê xe Limousine khi đến gặp đối tác đã để tạo “uy tín” làm ăn. Ở Scandinavia và Phần Lan, khách đến bàn bạc kinh doanh thường được mời đi tắm hơi cùng với chủ công ty. Đó là tín hiệu của một cuộc hợp tác tốt đẹp. Ở Đan Mạch, nếu bạn được mời tới dự tiệc tại tư gia của đối tác, bạn nên mang theo hoa và một vài món ăn đặc biệt. Còn ở Pháp, khi đến dự tiệc tại nhà, bạn nên tặng hoa trước bữa tối. Nên nhớ không được tặng hoa cúc vàng, vì loại hoa này thường chỉ dùng trong các dịp …tang lễ. Hơn cả hoa và quà tặng, doanh nhân Pháp thích khách hẹn lại vào một dịp đặc biệt nào đó sau đợt hợp tác lần này. Ở Đức, tặng hoa cho phu nhân của đối tác kinh doanh là một món quà mang ý nghĩa tôn trọng, lịch sự. Đây là khởi đầu cho một cuộc hợp tác tốt đẹp, nhưng đừng bao giờ tặng hoa hồng vì loài hoa này tượng trưng cho tình yêu. Còn ở Thuỵ Sỹ, tặng bao nhiêu hoa hồng cũng được nhưng chỉ được tặng 2 bông hoặc 20 bông, đừng tặng 3 bông vì số 3 chỉ dành riêng để tặng người yêu. Nếu tổ chức những buổi dạ tiệc tại Hàn Quốc, bạn nên mời cả phu nhân của các vị khách, vì các doanh nhân Hàn Quốc thường thích vợ mình tháp tùng trong những buổi dạ tiệc. Điều đặc biệt ở Hàn Quốc là khách mời danh dự (những người lớn tuổi, những người có vị trí cao trong xã hội…) phải được ưu tiên phục vụ trước trong các buổi gặp mặt. Ở Trung Quốc, tặng quà cho đối tác kinh doanh là điều không được chấp nhận. Hành động này không được xem là một sự xúc phạm và bạn có thể sẽ bị từ chối các cơ hội hợp tác. Nghi thức thể hiện tình hữu nghị và sự đón tiếp nồng nhiệt ở Trung Quốc là … vỗ tay. Bạn sẽ được đón tiếp nồng nhiệt tại các công ty, nhà máy bằng những tràng vỗ tay
  17. thật lớn. Vì vậy trong trường hợp này, bạn cũng phải vỗ tay với họ cho dù làm điều này giống như là bạn đang vỗ tay cho chính mình. Trên đây là những thực tế phong tung tập quán khác nhau tại từng thị trường mà bạn không thể bỏ qua trong những chiến lược phát triển kinh doanh, không chỉ trong quảng cáo, khuyến mãi, mà còn cả trong cung cách kinh doanh, ứng xử với khách hàng, đối tác kinh doanh và nhiều hoạt động liên quan khác. Sự khác biệt về tập quán kinh doanh giữa các thị trường một phần cũng vì các thị trường có những phong tục văn hoá xã hội hoặc các sở thích không giống nhau. Thị trường toàn cầu là một bức tranh đẹp về sự đa dạng văn hoá. Nhưng cũng chính sự đa dạng này đã khiến không ít công ty lâm vào tình trạng dở khóc dở cười chỉ vì không có sự tìm hiểu, chuẩn bị kỹ lưỡng về thông tin thị trường cũng như về những đặc điểm văn hóa. Dường như có những quy tắc bất thành văn mà bạn cần nắm vững trong mỗi chiến lược xúc tiến kinh doanh và thâm nhập thị trường mới, đó là “Nhập giang tùy khúc, nhập gia tuỳ tục”. Nguồn : bwportal Người Châu Á marketing như thế nào? Châu Á có nền kinh tế phát triển chậm, đồng thời thái độ, quan điểm của các doanh nhân châu Á cũng rất khác. Các doanh nhân châu Á thường sử dụng truyền thống văn hoá, sự hoà thuận hay những hiện tượng rất giản đơn để marketing. Những chiến lược marketing của doanh nhân châu Á đôi khi rất đơn giản nhưng lại rất hiệu quả. Sau đây là một số “chiến thuật marketing” hữu hiệu mà doanh nhân châu Á hay sử dụng: Marketing vào tâm lý của khách hàng: Hiệu thẩm mỹ Komax của Nhật Bản đã dùng tuyệt chiêu quảng cáo rằng cách thuê một số người mẫu làm thử một số kiểu tóc mới hoặc kiểu trang điểm mới, sau đó mỗi ngày tốp người mẫu này tản đi đến các điểm dân cư để cuốn hút sự tò mò làm theo các kiểu đó. Tất nhiên là họ đã chặn các người mẫu đó để hỏi bằng được địa chỉ nơi nào làm những kiểu tóc đó để họ bắt chước. Kết quả là chỉ trong vòng ba năm, tiệm uốn tóc Komax đã thu hút được đại đa số khách hàng ở Tokyo, mọi người rất hãnh diện khi có một mái tóc làm từ tiệm uốn tóc Komax. Ở hiệu thẩm mỹ Komax còn có cách quảng cáo ngược từ chồng đến vợ, tức là không để cái đẹp chỉ có phụ nữ mới nghĩ đến. Trong một giải bóng đá quốc tế tại Nhật Bản, Komax đã đưa quảng cáo vào chương trình giữa giờ, kết quả là các đức ông chồng buộc phải chú ý quan tâm và tìm hiệu sửa tóc cho vợ mình
  18. tại hiệu Komax, dĩ nhiên các bà vợ chiều chồng đã nghe theo ý kiến của chống nên số lượng khách hàng tăng một cách đột ngột. Komax còn biết nắm bắt nhanh các cơ hội để quảng cáo, chẳng hạn năm 2002, người mẫu Linda Lauren đến cửa hàng và chải tóc, đi thi hoa hậu, Komax đã chớp lấy cơ hội này để quảng cáo ngầm bằng cách đóng cửa hàng 3 ngày liền để trang điểm cho Linda. Kết quả Linda Lauren đạt giải người đẹp toàn cầu. Từ đó hiệu thẩm mỹ Komax đi vào lòng người, một nơi làm đẹp lý tưởng. Marketing thông qua việc làm từ thiện và lấy lòng khách hàng Nhà hàng Lwe Huang, nơi sản xuất bánh ngọt nổi tiếng của Hồng Kông và Trung Quốc đại lục. Tuy quảng cáo không rầm rộ nhưng chính bằng các công tác từ thiện khắp các tỉnh và thành phố của Hong Kong và Trung Quốc đã giúp cho nhà hàng được sự quan tâm, mến mộ của nhiều khách hàng. Gần đây, ông chủ nhà hàng Lwe Huang đã cho in một tập câu đối Trung Hoa với nhan đề “ý vàng lời ngọc” của quý khách hàng tặng Lwe Huang, gồm có 99 câu đối nói lên những tình cảm, cảm tưởng, những suy tư, khích lệ của đông đảo khách hàng. Tập câu đối này được in hơn 45 nghìn bản, phát hành kèm theo các hộp bánh cũng là một cách quảng cáo rất tốt gây ấn tượng sâu đậm tốt với khách hàng. Marketing dựa trên văn hoá truyền thống Công ty liên doanh Vewong của Trung Quốc sẵn sàng biếu một chiếc xe máy Harley cho ai sưu tập đầy đủ tem 12 con giáp được kèm trong những gói mỳ của hãng Vewong, nếu có 9 con giáp thì được thưởng một máy Radio Catstete Sony. Marketing “một mũi tên trúng hai đích” Có một doanh nhân là Yusiro Koroko, chủ tịch Hội đồng quản trị của một công ty bán lẻ của Nhật Bản. Một hôm, Yusiro ra lệnh cho thư ký đến ăn cơm cà ri của một cửa hàng trong thành phố. Sau bữa ăn viên thư ký liền báo cáo hết những mùi vị ngon nhất, hợp khẩu vị nhất cho Yusiro nghe. Yusiro liền cho mời nhân viên báo cơm cà ri của nhà hàng kia đến để ông ta kinh doanh tại công ty của Yusiro và yêu cầu ông này phải giảm bớt giá từ 4 đến 10 lần mức giá ban đầu, trong đó Yusiro sẽ bù cho 2 đến 10 lần. Sau khi nhà hàng nay khai trương để kinh doanh, do cơm ngon, giá rẻ nên khách hàng kéo đến ăn rất đông, nhưng điều quan trọng là khi vô số khác hàng đến ăn cơm ở đây họ còn là người mua hàng ở công ty bán lẻ của Yusiro.
  19. Như vậy, chính việc mở thêm nhà hàng trong công ty bán lẻ của Yusiro đã khiến cho lượng khác tiêu thụ của cửa hàng bách hoá đó tăng lên hàng chục lần. Bí quyết là ở chỗ giảm giá thấp của cửa hàng cơm cà ri để dụ dỗ khách hàng nhằm mở rộng tiêu thụ hàng hoá trong cửa hàng bách hoá. Khi đó thừa sức để bù đắp lại lợi nhuận cho quán cơm hạ giá. Marketing trên cơ sở “vương cơ” Công ty may Hồng Tường, Thượng Hải, Trung Quốc nhiều năm muốn đưa sản phẩm của mình ra làm ăn ở nước ngoài nhưng chưa tìm được cơ hội thuận lợi. Họ phải đợi đến khi nữ hoàng Anh, Eliizabet II lên ngôi, nhân dịp này hãng của ông ta mang một bộ trang phục dạ hội tinh xảo đem tặng nữ hoàng khiến cho nữ hoàng rất cảm động, tán thưởng, tự tay viết thiếp cảm ơn. Người chủ của công ty Hồng Tường đã đem thiếp này dán trong cửa hàng để quảng cáo cho khách, khiến cho hàng ngàn khách trong và ngoài nước ùn ùn kéo đến tranh nhau xem thiếp cám ơn của nữ hoàng và ca tụng Hồng Tường quá giỏi. Thế là khách hàng đặt quần áo nườm nượp suốt ngày. Trên đây chỉ là một trong số hàng ngàn “chiến lược marketing” của người dân châu Á. Những chiến lược này tưởng như rất đơn giản, ai cũng có thể nghĩ ra, nhưng lại rất hiệu quả về mặt thu hút khách hàng. Đạo đức trong quảng cáo. Cậu bé độ tuổi cấp 1, đang tung tăng nhảy chân sáo đến trường. Trên tay cậu là một mẩu bánh mì con con, phần ăn sáng mẹ đã chu đáo chuẩn bị. Một cậu bé khác to con hơn, “bặm trợn” hơn, tiến tới chìa tay ra đòi mẫu bánh, nét mặt đầy vẻ hăm doạ. Cậu bé nhỏ con đành “chia tay“ phần ăn sáng của mình trong uất ức. Đó là một phần nội dung đoạn phim quảng cáo sữa N được trình chiếu cách đây không lâu. Dù đoạn phim kết thúc có hậu, khi công ty quảng cáo – đơn vị chịu trách nhiệm xây dựng ý tưởng kịch bản quảng cáo, đã có cậu nhỏ con uống sữa N, khiến trong một thời gian ngắn, cậu đã lớn nhanh như thổi. Để rồi khi tên bắt nạt đường phố xuất hiện, cậu bé không còn sợ sệt mà đã tươi cười chia hai phần bánh cho bạn. Thế nhưng, đoạn phim trên vẫn gây một làn sóng phản đối từ các bậc phụ huynh. Họ không hài lòng với conpect (thông điệp quảng cáo) đề cao “sức mạnh quyền lực“ mà nhãn hiệu sữa N đã truyền tải, họ không muốn con cháu mình nhiễm độc tư tưởng “tôn thờ cơ bắp“. Quảng cáo là một lãnh vực có ảnh hưởng nhất định đến nhận thức xã hội
  20. Có phải các quý vị phụ huynh kia đã quá lo xa khi cho rằng suy nghĩ của con cháu họ sẽ bị nội dung quảng cáo trên làm ảnh hưởng? Tầm ảnh hưởng của quảng cáo đối với xã hội Quảng cáo là một lĩnh vực nhất định có ảnh hưởng đến nhận thức xã hội. Mỗi ngày, bước ra đường, bạn thấy nhan nhản poster, billboard giăng đầy đường phố. Vào đến công ty, mở internet ra là đụng ngay hàng loạt thư quảng cáo mời chào. Sau một ngày làm việc vất vả, về nhà bật tivi lên xem giải trí, bạn cũng không thoát khỏi một số phim quảng cáo “nhảy vào“ giữa chương trình yêu thích. Rồi quảng cáo trên báo chí, trên radio… Với tuần suất xuất hiện như vậy, quảng cáo không tác động đến nhận thức của bạn mới lạ! Quảng cáo đã và đang thay đổi từ thói quen mua sắm, động thái tiêu dùng, đến cả suy nghĩ, quan điểm xã hội. Nói thế để thấy rằng những quan điểm quy tắc chung về chuẩn mực đạo đức trong quảng cáo, để “kiểm duyệt“ một mẫu quảng cáo trước khi nó “dội bom“ vào nhận thức của công chúng là hết sức quan trọng. Theo Laczniak & Murphy, quảng cáo gây ra những điều hết sức nguy hiểm sau cho xã hội: - Lôi cuốn con người chạy theo những động cơ thuộc bản năng. - Gây nên nhiều tác động khác nhau nhưng lại hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm về mặt xã hội. - Có tác động mạnh đến quá trình xây dựng tính cách của trẻ con. - Tạo ra những ham muốn và thèm khát không thích hợp. - Làm thay đổi các chuẩn mực đạo đức của xã hội. Đó là lý do tại sao khi một mẫu quảng cáo chuẩn bị tung ra, cần phải được xem xét thật kỹ lưỡng dưới những tiêu chuẩn đạo đức nhất định. Qui tắc trong đạo đức quảng cáo Rất khó để xây dựng những căn cứ nhất định một mẫu quảng cáo đủ chất lượng để xuất hiện trước công chúng. Thêm vào đó, quy tắc đạo đức trong quảng cáo lại khá bao quát và khó định đúng – sai, do nó chủ yếu dựa vào những chuẩn mực riêng của từng cá nhân hay từng xã hội. Xã hội Phương Tây chắc chắn sẽ có chuẩn mực đạo đức khác với xã hội phương Đông. Tuy nhiên, vẫn có một số nền tảng cho quảng cáo, mà hai nền văn hoá đều
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2