Xích Qu- Việt - Sở, những nghi vấn nguồn gốc
4
Việc chia tay giữa Lạc Long Quân với Âu Cơ xảy ra cùng lúc với việc nhà Hán
thừa hưởng di sản 'tinh thần nhất thống đế quốc' của nhà Tần, đưa quân xuống
tiến chiếm hết miền Hoa Nam, đặc biệt khối chủng Việt (Lạc) vùng đồng bằng
ven biển hướng Đông. Trong đó phần đất Dương của nước Sở xa xưa, nước
Mân Việt (Phúc Kiến ngày nay), Nam Việt của Triệu Đà. Thế lực đô hộ sau đó
tách rời phần đất chủng Âu (tức Thái-cổ) ra khỏi vùng đất chủng Lạc (tức Việt-
cổ). Rồi ở tại nước Âu Lạc (cũ), đổi tên thành Giao Châu, nhiều người địa phương
không thích chung sống với các quan trên người Tàu, đã di tản một lần nữa về
miền rừng núi (cùng với Âu Cơ). Nhiều thế kỷ sau, qua quá trình hợp chủng với
các sắc dân địa phương như Negrito, Melanesian, Môn-Khmer, v.v. htrở thành
người Mường.
Truyền thuyết còn mang rất nhiều điểm gút mắt và ẩn chúng tôi hy vọng sẽ lần
lượt giải mã trong những bài ti. Nhưng đây chúng tôi xin mạo muội đưa ra vài
đề nghị về đổi chác lịch sử, hiện thức được từ việc giải mã truyền thuyết.
Trước hết xin tóm tắt lại một vài điểm cao về nước Sở, cái nôi của dân tộc Việt.
(i) Smặc dù mang tiếng rợ thuở ban đầu, đã nhanh chóng thu nhập rượt theo
văn minh Hoa Hạ rất nhanh. Sở suýt một chút ththay thế vai trò nước Tần,
nhất thống nước Tàu thay đổi toàn blịch sử. Chủng Việt (Yueh) thay chủng
Hoa làm xếp nước Tàu và Hoa chủng có thể di cư xuống Đông Nam Á.
(ii) Xin đý đến 3 câu ngạn ngữ sau, cho thấy người Sở rất 'nổi' (dân xịn) thời
Xuân Thu Chiến quốc bên Tàu:
- Tần phì Việt sấu: người Tần ưa ăn thịt mỡ nên mập béo. Người Việt (Thái+Việt)
ở Sở thích ăn rau cá nên người thon thả hơn.
- Gỏi Sở nem Tần: giống như trên, dân Tần ưa ăn thịt n dân Sở. Theo [1] Tản
Đà rất thích câu ngạn ngữ này.
- Đầu Ngô mình Sở: câu này cho biết trí thiên vchủng Việt (nước Ngô), và
tình cảm (trái tim, thân mình) nm chủng Thái (dân chủ lực của nước Sở). Cũng
có thmang nghĩa một người lai giống (Việt + Thái), không giống ai.
(iii) Snhững sinh hoạt văn hoá rất đậm t. Văn minh của Sở đã đóng góp rất
nhiều vào văn minh Trung quốc, và cũng là một tiền thân của văn minh Việt Nam
Thái Lan. Tông giáo 'đồng bóng' (shamanism) đã với chủng Yueh (chi Thái
và Việt) ngay từ lúc họ còn sinh sống tại đất Kinh và Dương thuộc nước Sở..
(iv) Nổi bật nhất trong lĩnh vực văn minh và văn hoá chính là trống đồng (đã có tại
Sở), và ththi ca Sở Từ, một lối thơ gieo vần của dân Sở. Theo [4], so với Kinh
Thi của Hoa chủng ở phía Bắc:
- Sở Từ dài trường thiên, trong khi Kinh Thi chỉ gồm những bài ca ngắn;
- Sở Từ dùng nhiều thần thoại, Kinh Thi nghiêng về nhân sự;
- Sở Từ lãng mạn, Kinh Thi tả chân;
- Sở Từ tác phẩm văn nhân, Kinh Thi thuộc giới bình dân.
Tác ginổi tiếng nhất về Sở Từ chính là Khuất Nguyên (343-277 TCN) - đã sáng
tác bản Cửu Ca trên bước đường lưu vong về phía Nam (xem bài s2). Khuất
Nguyên cũng rất nổi tiếng với thiên Ly Tao, bày ttâm sự nỗi lòng của ông.
(v) Hai tỉnh Hồ Bắc và HNam, ngày xưa từng là địa bàn nước Sở, ngày nay được
xem như trung tâm văn hoá số một của Trung quốc [1].
Đề nghị thô thiển đổi chác lịch sử xin trình bày như sau:
(a) Tạm quên 4000 năm văn hiến.
b) Chú ý nhiều hơn với 3000 năm văn hiến: Từ m 1000 TCN đến ngày nay
(2005).
(c) Để đổi: Nguồn gốc dân Việt Nam khởi từ nước Sở, thành lập khoảng 1000TCN
(d) Tđó, tự nhiên dân Việt Nam sẽ là thừa kế và hậu duệ của chủ nhân tất cả
trống đồng và quan trọng nhất: Sở Từ, một ththi ca bất hủ ngang ngửa với Kinh
Thi của Hoa chủng. Khuất Nguyên cũng thể là một kiếp trước o đó của
Nguyễn Du.
(e) Nhìn xa xa, rất thể Hán Cao Tổ Lưu Bang mang ít nhiều giòng máu Việt,
bởi ông này dùng đất Hán sông Hán, nằm trong địa bàn nước S để đặt tên triều
đại đầu tiên huy hoàng của Hoa chủng. Ấn ợng của triều nhà Hán mạnh mẽ đến
độ người Hoa từ dạo đó về sau ưa gọi mình Hán tộc.
-------------------------------------
Ghi Chú
[1] Bình Nguyên Lộc (1971) Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam. Nxb Xuân
Thu (USA) tái bản.
[2] Bửu Cầm (1971) Tương quan giữa những hình chạm trên trống đồng Việt tộc
và bài 'Đồng Quân' trong Sở Từ. Tập san SỬ ĐỊA, năm thứ VIII, số 25, tháng 1-3,
1971.
[3] Đường Nhạn Sinh, Bạo Thúc Diễm & Chu Chính Thư (2002) Mưu Tthời
Xuân Thu. (Ông Văn Tùng & Vũ Ngọc Quỳnh dịch). Nxb Văn Nghệ, TP HCM
[4] Nguyễn Hiến Lê (1997) Sử Trung quốc. Nxb Văn Hoá.
[5] Trần Trọng Kim ( 1971) Việt Nam Sử Lược. Trung m Học Liệu của Bộ
Giáo Dục xuất bản. Đại Nam tái xuất bản tại Hoa Kỳ.
[6] Ngô Sĩ Liên cộng s(1497). Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Thanh Việt và
Phạm Ngọc Luật hiệu đính theo bản dịch của Đào Duy Anh. Nxb Văn Hoá Thông
Tin (2004). Bản của Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam được trình bày đầy đủ trên
mạng internet: perso.wanadoo.fr/charite
[7] Khuyết Danh (1377-1388) Đại Việt S Lược. Bản dịch của Nguyễn Gia
Tường. Nhà Xuất Bản Thành Phố HCM. Bộ Môn Châu Á Học Đại Học Tổng Hợp
TP.HCM.
[8] Cung Đình Thanh (2003) Tìm vnguồn gốc văn minh Việt Nam dưới ánh
sáng mới của khoa học. Nhà xuất bản Tư Tưởng. Sydney - Australia
[9] http://www.chinaknowledge.de/History.../south.html#ba
[10] 'Việt Thường' có thể là một tên sm nhất người Hoa đặt cho một nhóm thuộc
Bách Bộc, hay Bách Việt sau này. Xin xem bài 'Văn Lang'.
[11] http://www.chinaknowledge.de/History.../south.html#ba
[12] http://www.geocities.com/Tokyo/Bay/7051/DRAVIDIANS.html
[13] Bình Nguyên Lộc cũng như tất cả các tiền bối đều tiện nghi hợp hai chủng Âu
Lạc lại thành một nhóm trong những phân tích khó khăn. Những đặc tính ch
lực của chủng Yueh thời sơ khai bao gồm: nhuộm răng, ăn trầu, văn thân (xâm
mình), điêu đề (xâm trán), lên đồng (shamanism), ... đều thể tạm thời quy hết
về chủng Âu, tức Thái-cổ. Chủng Lạc (Việt), như đám Bộc Việtmiệt Sơn Đông,
cũng những đặc tính giống như vậy. Tuy nhiên, l việc lên đồng
(shamanism) chđặc trưng thuộc chủng Thái-cổ mà thôi.
[14] Việc tìm thy xương sọ của chủng Polynesian (dân đa đảo) và
Melanesian (dân da đen hải đảo) không những tại các ngôi mộ Bắc Bộ mà còn
lan rộng tận miền Hoa Bắc. Tài liệu internet ghi trong [11] cho biết những người
c Ngưỡng Thiều đã biết trồng kê, lúa, nuôi ngựa, dê cừu. Họ sản xuất đồ
gốm (đen đỏ) truy về khoảng niên đại 3000-1800 TCN. Tuy nhiên xương họ để
lại, giống xương người Polynesian hoặc Melanesian nhiều hơn giống chủng
Mongoloid (gần chủng Hoa). Rất thể người Hoa thời cổ đại cũng dùng 'U Man'
để chỉ người Melanesian này.
[15] Người nước Tần thuở ban đầu cũng giống như Sở, làm nước phên dậu cho
nhà Châu. Cũng một giống rợ nhưng lai bọn Tây Nhung rất nhiều. Tây Nhung
thể bao gồm đám Thổ gia, tức Turkistan.