
Bài 6: Đường lối xây dựng hệ thống chính trị
106 PHP101_Bai6_v1.0013104217
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, học viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gi
a
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu:
1. Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia,
H.2011.
2. Một số chuyên đề lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia,
H.2007, tập 2, trang 195 – 294.
3. Đoàn Duy Thành, Vai trò then chốt của doanh nghiệp nhà nước trong kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, NXB Chính trị Quốc gia, H.2001.
4. Mã Hồng (chủ biên), Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, NXB Chính trình Quốc
gia, H.1995.
Học viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.
Trang Web môn học.
Nội dung
Đường lối xây dựng hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng trong đường lối cách
mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm đem lại cho nhân dân lao động quyền làm chủ
đất nước, đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Bài 6 sẽ cung cấp cho học viên
những kiến thức cơ bản về đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trên những lĩnh vực
hết sức quan trọng này.
Mục tiêu
Nắm được khái niệm về hệ thống chính trị và tên gọi hệ thống chính trị ở nước ta qua
các giai đoạn cách mạng.
Nắm được đặc điểm và nội dung hoạt động của hệ thống chính trị dân chủ nhân dân
(1945 – 1954).
Nắm được hoàn cảnh ra đời và đặc trưng chủ yếu của hệ thống chính trị chuyên chính
vô sản (1955 – 1989).
Nắm vững và hiểu rõ các nhận thức mới của Đảng ta trong việc xây dựng hệ thống
chính trị ở nước ta thời kỳ đổi mới.
Nắm được nội dung chủ yếu của việc xây dựng hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
BÀI 6
ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

Bài 6: Đường lối xây dựng hệ thống chính trị
PHP101_Bai6_v1.0013104217 107
Tình huống dẫn nhập
• Người Việt Nam chúng ta trước đây thường hay nghe tới cụm từ “chuyên chính vô sản” hay
“hệ thống chuyên chính vô sản”. Nay, chúng ta lại nghe nói tới cụm từ “hệ thống chính trị”.
Vậy các khái niệm đó có phải là một hay không?
• Muốn hiểu đường lối xây dựng hệ thống chính trị ta phải hiểu cấu trúc của hệ thống này gồm
các bộ phận nào, mối quan hệ giữa chúng và mối quan hệ giữa toàn bộ hệ thống này với
xã hội? Trên cơ sở đó, chúng ta sẽ thấy rõ xây dựng hệ thống chính trị thực chất là xây dựng
cái gì.
• Những nhận thức mới của đảng về hệ thống chính trị, mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế
và nhiều nhận thức mới khác sẽ đặt cơ sở cho việc hoạch định đường lối xây dựng hệ thống
chính trị.
Những vấn đề đặt ra ở trên sẽ được luận giải trong bài này.

Bài 6: Đường lối xây dựng hệ thống chính trị
108 PHP101_Bai6_v1.0013104217
Hệ thống chính trị là một bộ phận kiến trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ chức,
các thiết chế có quan hệ với nhau về mục đích, chức năng trong việc thực hiện, tham
gia thực hiện quyền lực chính trị hoặc đưa ra các quyết định chính trị.
Hệ thống chính trị bao gồm các bộ phận cấu thành có quan hệ mật thiết với nhau và có
vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận hành của các quá trình chính trị, thể hiện ở các
cấp độ khác nhau. Giữa các bộ phận cấu thành hệ thống, bao giờ cũng có một bộ phận
giữ vai trò nòng cốt, hạt nhân, làm động lực thúc đẩy và dẫn dắt cả hệ thống vận hành
theo một mục tiêu và phương hướng xác định.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh
Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam...), và các mối quan hệ giữa các thành tố trong
hệ thống.
6.1. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị thời kỳ trước đổi mới
6.1.1. Hệ thống chính trị dân chủ nhân dân (1945 - 1954)
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
ra đời đánh dấu sự hình thành ở nước ta một hệ thống chính trị cách mạng với các đặc
trưng sau đây:
Có nhiệm vụ thực hiện đường lối cách mạng “Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược,
giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xoá bỏ những di tích phong kiến
và nửa phong kiến làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân,
gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”. Khẩu hiệu “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” là
phương châm hành động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn này.
Dựa trên nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi: không phân biệt dân tộc,
giống nòi, giai cấp, tôn giáo. Đặt lợi ích của dân tộc lên vị trí cao nhất.
Có một chính quyền tự xác định là công bộc
của dân, coi dân là chủ và dân làm chủ, cán bộ
sống và làm việc giản dị, cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư. Các hiện tượng tiêu cực ít xảy
ra trong các cơ quan công quyền.
Vai trò lãnh đạo của Đảng (từ tháng 11/1945
đến tháng 2/1951) được ẩn trong vai trò của
Quốc hội và Chính phủ, trong vai trò của cá
nhân Hồ Chí Minh và các đảng viên trong
Chính phủ.
Có một Mặt trận (Liên Việt) và nhiều tổ chức quần chúng rộng rãi, làm việc tự
nguyện, không hưởng lương và không nhận kinh phí hoạt động từ nguồn nhân
sách nhà nước, do đó tránh được hiện tượng công chức hóa, quan liêu hóa.
Cơ sở kinh tế chủ yếu của hệ thống chính trị dân chủ nhân dân là nền sản xuất tư
nhân hàng hóa nhỏ, phân tán, tự cấp, tự túc; bị kinh tế thực dân và chiến tranh kìm
hãm, chưa có viện trợ và đầu tư nước ngoài.
Đã xuất hiện (ở một mức độ nhất định) sự giám sát của xã hội dân sự đối với Nhà
nước và Đảng; sự phản biện giữa hai đảng khác (Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội)
đối với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam lâm thời sau kỳ họp
đầu tiên ngày 03/09/1945

Bài 6: Đường lối xây dựng hệ thống chính trị
PHP101_Bai6_v1.0013104217 109
6.1.2. Hệ thống dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản
(1954 - 1975)
Ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ
nghĩa, sự bắt đầu của thời kì thực hiện nhiệm vụ của chuyên chính vô sản. Bước ngoặt
lịch sử này đã diễn ra trên miền Bắc vào năm 1954.
Cơ sở hình thành hệ thống chuyên chính vô sản ở nước ta:
Một là, lí luận Mác - Lênin về thời kì quá độ và về chuyên chính vô sản.
C.Mác đã chỉ ra rằng: giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là
một thời kì cải biến cách mạng từ xã hội này đến xã hội kia. Thích ứng với thời kì
ấy là một thời kì quá độ chính trị, nhà nước của thời kì ấy không thể là cái gì khác
hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. V.I.Lênin nhấn mạnh: muốn
chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì phải có một thời kì chuyên
chính vô sản. Thực chất của chuyên chính vô sản là sự tiếp tục đấu tranh giai cấp
dưới hình thức mới.
Hai là, đường lối chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975.
Trong Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Đảng (năm 1960) về
đường lối chung của cách mạng xã hội chủ
nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta, có đoạn
viết: “sau khi nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đã hoàn thành, thì miền Bắc nước
ta cần phải tiến ngay vào cách mạng xã hội chủ
nghĩa”1. “Muốn đạt mục tiêu ấy phải sử dụng
chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ
lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải
tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và
công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tự doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc
doanh, thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lí, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công
nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kĩ
thuật; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông
nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến”1.
Từ Đại hội III của Đảng cho đến khi Đảng đề ra đường lối đổi mới đất nước, hệ
thống chính trị nước ta về thực chất, được tổ chức và hoạt động theo các yêu cầu,
mục tiêu, nhiệm vụ của chuyên chính vô sản và do vậy, tên gọi chính thức của hệ
thống này được xác định là hệ thống chuyên chính vô sản.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.21, tr.531.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20,
tr.559.
Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bài 6: Đường lối xây dựng hệ thống chính trị
110 PHP101_Bai6_v1.0013104217
Ba là, cơ sở chính trị của hệ thống chuyên chính
vô sản ở nước ta được hình thành từ năm 1930
và bắt rễ vững chắc trong xã hội. Điểm cốt lõi
của cơ sở chính trị đó là sự lãnh đạo toàn diện
và tuyệt đối của Đảng. Mặc dù ở miền Bắc,
Đảng Cộng sản không phải là đảng chính trị độc
nhất mà còn có Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội,
nhưng những đảng chính trị này thừa nhận vai
trò lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam và là thành viên
trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Bốn là, cơ sở kinh tế của hệ thống chuyên chính vô sản là nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu, bao cấp. Đó là một mô hình kinh tế hướng tới mục tiêu xoá bỏ
nhanh chóng và hoàn toàn chế độ tư hữu đối với tư liệu sản xuất với ý nghĩa là
nguồn gốc và cơ sở của chế độ người bóc lột người, thiết lập chế độ công hữu xã hội
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể;
loại bỏ triệt để cơ chế thị trường, thiết lập cơ chế quản lí kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp. Nhà nước trở thành một chủ thể kinh tế bao trùm. Từ đó mục tiêu, tổ
chức và phương thức hoạt động của hệ thống chuyên chính vô sản không thể không
phản chiếu cả ưu điểm lẫn hạn chế, sai lầm của mô hình kinh tế này.
Năm là, cơ sở xã hội của hệ thống chuyên chính vô sản là liên minh giai cấp giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Kết quả của cuộc
đấu tranh giai cấp “ai thắng ai” trong lĩnh vực chính trị, kinh tế và kết quả cải tạo
xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa đã tạo nên
một kết cấu xã hội bao gồm chủ yếu là hai giai cấp và một tầng lớp: giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Kết cấu này đã chi phối sự thực hiện
chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc và mục tiêu mở rộng dân chủ của hệ thống
chuyên chính vô sản.
6.1.3. Hệ thống chuyên chính vô sản theo tư tưởng làm chủ tập thể (1975 - 1985)
Từ tháng 4/1975, với thắng lợi hoàn toàn và triệt để
của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, cách mạng Việt
Nam chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Do
đó, hệ thống chính trị của nước ta cũng chuyển sang
giai đoạn mới: từ hệ thống chuyên chính dân chủ
nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô
sản trong phạm vi nửa nước (1954 - 1975) sang hệ
thống chuyên chính vô sản hoạt động trong phạm vi cả nước.
Bước sang giai đoạn mới, Đại hội IV của Đảng nhận định rằng, muốn đưa sự nghiệp
cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, “điều kiện quyết định trước tiên là phải
thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”1.2.
1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.37,
tr.988-989.

