intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tập nhóm đề tài chế biến thủy sản

Chia sẻ: Do Lam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:50

210
lượt xem
70
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chế biến thủy sản là khâu cuối cùng, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm thủy sản trước khi đưa sản phẩm ra thị trường tiêu thụ. Nhưng để cho thủy sản có giá trị sử dụng lâu hơn nữa thì phải cần có một hệ thống bảo quản tốt đó là hệ thống đông lạnh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tập nhóm đề tài chế biến thủy sản

  1. Bài tập nhóm đề tài chế biến thủy sản Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân
  2. 2 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành Mục lục Phân bố dân số theo vùng kinh tế -sinh thái giai đoạn 2001-2008 .................................12 Lao động phân theo vùng kinh tế - sinh thái giai đoạn 2001-2008 .................................13 Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động năm 2008.............................15 Hiện trạng lao động CBTS XK phân theo vùng kinh tế, 2001-2009 ..................................17 Dự báo xu thế phát triển thị trường nội địa .................................................................24 Chính sách Thuế ..............................................................................................................32 Hỗ trợ tín dụng ưu đãi đóng tàu khai thác xa bờ ......................................................32 Đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng nghề cá ....................................................................33 Hỗ trợ chi phí xăng dầu cho ngư dân .........................................................................34 Hỗ trợ đóng mới, mua mới tàu và thay máy mới ......................................................35 Hỗ trợ bảo hiểm thân tàu và thuyền viên ....................................................................35 .- Xu hướng về phong cách sống .......................................................................................36 Chế độ thuế nhập khẩu vào EU...................................................................................37 - trường Ucraina tăng 251,3% về lượng và 206,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2008. .........................................................................................................................................38 2 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  3. 3 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành Chế biến thủy sản là khâu cuối cùng, góp phần nâng cao giá trị sản phẩm thủy sản trước khi đưa sản phẩm ra thị trường tiêu thụ. Nhưng để cho thủy sản có giá trị sử dụng lâu hơn nữa thì phải cần có một hệ thống bảo quản tốt đó là hệ thống đông lạnh. Và đó cũng là cơ sở để hình thành ngành chế biến và bảo quản thủy sản đông lạnh. Những sản phẩm thủy sản được chế biến và bỏa quản không những phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa mà còn được xuất khẩu, đem về ngoại tệ cho đất nước. Ngành chế biến và bảo quản thủy sản đông lạnh ở Việt Nam qua 36 năm hình thành và phát triển nên những bước thăng trầm của ngành này luôn gắn liền với nhịp sống chung của nền kinh tế đất nước, nhất là công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Nên nhóm chọn ngành “chế biến và bảo quản thủy đông lạnh làm chủ đề nghiên cứu”. Có 6 nội dung chính trong bài và những đóng góp của những thành viên trong nhóm như sau: 1 Sự hình thành và phát triển của ngành (Lê Thị Thanh Hồng Ny) 2 Môi trường vĩ mô tác động đến ngành (Đoàn Văn Thiện) 3 Các lượng cạnh tranh trong ngành và tình hình cạnh tranh (Đỗ Thành Lâm) 4 Các lực lượng dẫn dắt ngành (Lê Thanh Quốc) 5 Các nhân tố then chốt quyết định sự thành công của ngành (Trần Thị Ngọc Hằng) 6 Tính hấp dẫn của ngành (Đinh Đặng Triệu) Phạm vi nghiên cứu trong ngành, phương pháp nghiên chủ yếu là phân tích định tính dựa trên thông tin trên internet và kiến thức kinh tế. 3 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  4. 4 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành 1. Sự hình thành và phát triển của ngành. Quá trình phát triển của ngành chế biến và bảo quản thủy sản đông lạnh có thể được hình dung qua các giai đoạn sau: 1.1. Giai đoạn 1975 - 1980 Nằm trong tình trạng trì trệ chung của kinh tế đất nước, ngành chế biến và bảo quản thủy sản đông lạnh cũng lâm vào tình trạng sa sút kéo dài. Trang bị bảo quản nguyên vật liệu rất thô sơ, lạc hậu. Cá đánh bắt được chỉ bảo quản bằng ướp muối trong hầm tàu. Các cơ sở chế biến có được chủ yếu bằng nguồn viện trợ không hoàn lại của quốc tế. Năm 1980 cả nước mới chỉ có 40 cơ sở chế biến đông lạnh với tổng công suất cấp đông là 172 tấn/ngày. Trong khi đó nhiều nhà máy xây dựng xong nhưng không phát huy được công suất, nguyên liệu khai thác chỉ được huy động cho chế biến từ 20 - 30%. Công nghệ chế biến lạc hậu nên có sự thất thoát lớn trong quá trình chế biến và bảo quản. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu Hải sản năm 1992, nguyên liệu qua chế biến so với tổng nguyên liệu năm 1976 chỉ đạt 22%, trong số đó tổng lượng hao phí là 21%; nguyên liệu không qua chế biến là 72%, hao phí là 20%. Đây là giai đoạn phát sinh nên không có nhiều rào cản cho đối thủ cạnh tranh. 1.2. Giai đoạn 1981 - 1994 Cuối năm 1979, Nhà nước cho phép Bộ Thủy sản quản lý thống nhất và khép kín toàn bộ quá trình từ đánh bắt đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm cuối cùng, thay cho trước đây ngành chỉ đảm nhận khâu khai thác và chế biến, còn việc thu mua và tiêu thụ do ngành nội thương và ngoại thương đảm nhận. Chủ trương này không những khắc phục được tình trạng manh mún, rời rạc, mà còn giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, hoạt động sản xuất gắn bó chặt chẽ với tiêu dùng. Trong 15 năm liên tục, ngành thủy sản luôn hoàn thành vượt mức toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao với tốc độ tăng trưởng bình quân 5 - 7%/năm về sản lượng khai thác; 12 - 13% về giá trị kim ngạch xuất khẩu. Năm 1990 giá trị sản lượng đạt 1.020.000 tấn và thu về 205 triệu USD hàng hóa xuất khẩu. Năm 1994 đạt sản lượng 1.211.000 tấn và 458 triệu USD kim ngạch xuất khẩu. Nổi bật nhất trong giai đoạn này là lĩnh vực chế biến phát triển rộng khắp với tốc độ tăng bình quân 9 nhà máy mỗi năm. Đến cuối năm 1994, số nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh lên đến 178 nhà máy, với tổng công suất cấp đông 780 tấn/ngày, thêm vào đó còn có hệ thống các nhà máy sản xuất nước đá với tổng công suất 2.000 tấn/ngày... đã tạo ra bước phát triển nhảy vọt về chất trong quá trình giữ gìn độ tươi của nguyên liệu, giảm tiêu hao, thất thoát sau thu hoạch, góp phần nâng cao giá trị kinh tế của sản phẩm. Kết quả là tỷ lệ sản phẩm chế biến đông lạnh so với tổng 4 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  5. 5 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành nguyên liệu tăng nhanh và đạt 51%/năm vào năm 1994, một tỷ lệ khá cao nếu so với 11,4%/năm của thời điểm năm 1980. Về chế biến thủy sản nội địa, điều đáng lưu ý thời kì là tỷ lệ sản phẩm được bảo quản đông lạnh phục vụ tiêu dùng nội địa ngày càng tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Đây được xem là giai đoạn phát sinh của ngành vì thế kiểm soát bí quyết công nghệ là một rào cản nhập cuộc quan trọng trong thời kì này. 1.3. Giai đoạn 1994 đến năm 2000 Nghị quyết 03/NQ/TW ngày 6 - 5 - 1993 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 05- NQ/HNTW ngày 10 - 6 - 1993, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung Ương Đảng khóa VII đều khẳng định xây dựng thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Bởi vậy, ngành chế biến và bảo quản thủy sản đông lạnh cũng nhận được sự chú trọng đặc biệt của các cấp, các ngành và các địa phương. Nhiều chương trình, dự án táo bạo như đánh bắt xa bờ đã được hình thành cũng như việc xây dựng một số hệ thống đông lạnh để bảo quản thủy sản được chế biến. Xuất khẩu tăng mạnh, từ 550 triệu USD (năm 1995) lên 1,478 tỷ USD (năm 2000). Tuy nhiên, với giai đoạn 1996- 2000, theo đánh giá của các chuyên gia, mức tăng trưởng thực sự theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa chỉ mới là bước đầu. Chính vì vậy đây là giai đoạn tăng trưởng. Trong khoa thời kỳ đổi mới, ngành chế biến thủy sản đã có nhiều biến đổi đáng kể về qui mô và trình độ học công nghệ và mở rộng thị trường. 1.4. Giai đoạn từ năm 2001 đến nay Chương trình chế biến và bảo quản xuất khẩu thủy sản đến năm 2005 đã được Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt và bắt đầu thực hiện từ năm 1998 là một chương trình tạo bước ngoặt trong thế kỷ XXI cho ngành chế biến thủy sản nước ta. Có thể nói, chế biến xuất khẩu thủy sản là động lực cho tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu trong khai thác và nuôi trồng thủy sản. Đến nay, theo Cục Quản lý chất lượng nông- lâm sản và thủy sản (Nafiqad), cả nước có 300 cơ sở chế biến thủy sản và khoảng 220 nhà máy chuyên sản xuất các sản phẩm đông lạnh phục vụ xuất khẩu, có tổng công suất 200 tấn/ngày. Cũng theo thống kê của Nafiqad, tính đến thời điểm này, cả nước có 300 doanh nghiệp được phép xuất khẩu thủy sản sang EU, hơn 440 doanh nghiệp sang Hàn Quốc, hơn 440 doanh nghiệp sang Trung Quốc, 30 doanh nghiệp sang Liên bang Nga, 60 doanh nghiệp sang Brazil và gần 450 doanh nghiệp sang Nhật Bản. Tính đến cuối năm 2009, giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng thủy sản đạt 4,2 tỷ USD. Chiến lược biển đến năm 2020 đã đặt ra mục tiêu Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn. Ngành chế biến thủy sản cũng sẽ phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của mình, tạo động lực thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển. Đây chính là giai đoạn tăng trưởng của ngành nhu cầu sản phẩm ngày càng được tăng lên. Điều đặc biệt là sang thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hóanày, các nhà máy đông lạnh liên tục mở rộng qui mô và thay đổi công nghệ tiên tiến, đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu, bên cạnh đó một số nhà máy đông lạnh khác cũng có những cải tiến công nghệ để phù hợp với yêu cầu thị trường. .Ngày càng có nhiều cơ sở chế biến thủy sản được đưa vào hoạt dộng,cho tới năm 2003 có khoảng 300 doanh nghiệp với khả năng sản xuất khoảng 200 tấn/năm.Và hiện nay ngành thủy sản đã đóng một vai trò không nhỏ trong nền kinh tế quốc dân,khoảng 5%GDP,mang 5 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  6. 6 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành lại giá trị kinh tế rất to lớn về xuất khẩu(năm 2004,xuất khẩu thủy sản đạt 2.4 tỷ USD,chiếm 9,2% tổng giá trị xuất khẩu,năm 2009 dự đoán xuất khẩu thủy sản đạt 4-5 tỷ USD). Điều đó cho thấy đây chính là giai đoạn tăng trưởng vượt bậc của ngành nên nhu cầu sản phẩm ngày càng được tăng lên. 2. Môi trường vĩ mô tác động đến ngành. 2.1. Môi trường toàn cầu. Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ngành thuỷ sản có nhiều thuận lợi, nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều thách thức. Yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục khai thác tốt các tiềm năng, đầu tư phát triển có hiệu quả, bền vững và tiếp tục hội nhập nhanh với thủy sản khu vực và quốc tế Về thuận lợi: + Việc gia nhập WTO đã mang lại cơ hội cho sản phẩm thủy sản Việt Nam trong việc thâm nhập thị trường thế giới, do các nước biết đến Việt Nam nhiều hơn, doanh nhân các nước sẽ quan tâm hơn đến xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, trong đó có sản phẩm thủy sản đông lạnh. + Sự ưu đãi hơn về thuế quan, xuất xứ hàng hoá, hàng rào phi thuế quan và những lợi ích về đối xử công bằng, bình đẳng sẽ tạo điều kiện để hàng thủy sản đông lạnh Việt Nam có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. + Để đáp ứng được các quy định của WTO cũng như yêu cầu của các nước thành viên, Bộ Thủy sản đã không ngừng điều chỉnh cơ chế chính sách và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, các tiêu chuẩn cho phù hợp. + Gia nhập WTO là cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm hơn đến đầu tư vào phát triển thủy sản tại Việt Nam noi chung và ngành thủy sản đông lạnh nói riêng. Ngành Thuỷ sản Việt Nam đã đứng vị trí thứ 7 trong topten có kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất, với 2,65 tỷ USD đạt được trong năm 2005, và đã có mặt ở 105 thị trường nước ngoài… Tuy nhiên, sự bùng nổ mạnh mẽ này là một phần khiến cho xuất khẩu thủy sản Việt Nam phải đối mặt với những rào cản kỹ thuật ngày càng khắt khe về an toàn vệ sinh cũng như các vụ kiện chống bán phá giá (điển hình như vụ kiện cá tra, basa và vụ kiện tôm). Về khó khăn: + Việt Nam là nước đang phát triển, nên khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản còn yếu, trình độ quản lý còn nhiều bất cập, trong khi các yêu cầu về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước thường xuyên thay đổi và ngày càng đòi hỏi khắt khe. + Sự hiểu biết của các doanh nghiệp về luật pháp quốc tế, nhất là hiểu rõ về pháp luật trong tranh chấp thương mại còn rất hạn chế, điều này ảnh hưởng khá lớn tới năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. + Sự mất cân đối giữa khu vực sản xuất nguyên liệu và khu vực chế biến xuất khẩu, cụ thể hơn là khu vực sản xuất nguyên liệu chưa đáp ứng được nhu cầu của khu vực chế biến xuất khẩu cả về số lượng cũng như chất lượng sản phẩm. + Công tác quản lý nguồn lợi, quản lý tàu thuyền trên biển, công tác thống kê nghề cá còn lạc hậu và chưa đáp ứng được các yêu cầu về hội nhập. 6 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  7. 7 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành + Công tác đào tạo cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật tuy đã được quan tâm nhưng do hạn chế về kinh phí và kinh nghiệm nên chưa đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng và chất lượng trong điều kiện của WTO. + Năng lực, kinh nghiệm quản lý và trang thiết bị phục vụ cho kiểm tra, kiểm soát chất lượng, kiểm dịch hàng thủy sản nhập khẩu còn hạn chế - là thách thức lớn đối với việc bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng cũng như sức khoẻ và môi trường sống của các loài thủy sản, đồng thời đó cũng là thách thức đối với những cạnh tranh không lành mạnh sẽ diễn ra đối với thủy sản Việt Nam nói chung và thủy sản đông lạnh nói riêng. + Do Việt Nam là nước đang phát triển nên nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn, công nghệ và kinh nghiệm, bên cạnh đó kỹ năng và trình độ quản trị của nhiều doanh nghiệp thủy sản chưa đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế và còn rất thấp so với các đối thủ. + Hệ thống cơ sở hạ tầng cho sản xuất kinh doanh thủy sản (hệ thống thủy lợi, các chợ thủy sản đầu mối, các trung tâm thương mại thủy sản) chưa có hoặc còn yếu, cộng với khả năng cạnh tranh thấp của các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ là thách thức lớn trong việc giữ được thị trường trong nước. + Vấn đề thương hiệu của thủy sản Việt Nam cũng được coi là một thách thức lớn, vì hiện nay các mặt hàng thủy sản Việt Nam được xuất khẩu thông qua các nhà nhập khẩu và được phân phối dưới nhiều thương hiệu khác nhau, vừa không quảng bá được sản phẩm, vừa có thể gây ra những rắc rối như vụ “cá basa” thành “cá mú” ở thị trường Mỹ vừa qua. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm thủy sản Việt Nam đang là mối lo ngại nhất là khi sắp bước qua ngưỡng cửa WTO. Nếu không nâng cao được sức cạnh tranh, thì ngành thủy sản Việt Nam không những sẽ đuối sức trong cuộc đua xuất khẩu với những đối thủ mạnh của châu á và châu Mỹ, mà còn bị “hạ nốc ao” ngay chính trên “sân nhà Vì vậy, chủ động các điều kiện và biện pháp để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm đã và đang được các cơ quan chức năng của Bộ Thủy sản dành nhiều công sức chuẩn bị nhất. Theo Vụ hợp tác quốc tế Bộ thuỷ sản, có bảy biện pháp cần được tập trung đẩy mạnh: Một là, tăng cường công tác nghiên cứu và áp dụng công nghệ mới trong sản xuất nguyên liệu thủy sản, đặc biệt là công nghệ sinh học, nhằm đa dạng hóa đối tượng xuất khẩu với giá thành hạ. Hai là, tổ chức lại sản xuất trong toàn ngành theo hướng liên kết ngang và dọc giữa các khâu của quá trình sản xuất và tiêu thụ thủy sản, nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm và phù hợp với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Ba là, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nghề cá, tăng cường năng lực chế biến cả về chiều rộng và chiều sâu nhằm đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu, tăng năng lực chế biến mặt hàng giá trị gia tăng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Bốn là, tiếp tục công tác quy hoạch phát triển thủy sản, thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thủy sản làm nguồn cung cấp chính nguyên liệu sạch cho chế biến, đặc biệt là chế biến thủy sản đông lạnh xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. 7 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  8. 8 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành Năm là, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, chú trọng vào xây dựng thương hiệu và phát triển thị trường cho các sản phẩm chủ lực. Sáu là, tăng cường công tác điều tra, đánh giá nguồn lợi để có biện pháp bảo vệ, tái tạo nguồn lợi, thực hiện quản lý an toàn vệ sinh, môi trường, đảm bảo phát triển nghề cá bền vững. Bảy là, tăng cường công tác quản lý, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa người sản xuất nguyên liệu với chế biến, tiêu thụ nhằm ổn định và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 2.2. Yếu tố công nghệ. Những năm gần đây, các công trình nghiên cứu về công nghệ CBTS tại các viện nghiên cứu chưa nhiều, chưa theo kịp yêu cầu của sản xuất, kinh doanh. Trong khi tại các doanh nghiệp việc đầu tư đổi mới trang thiết bị, ứng dụng công nghệ chế biến thuỷ sản ở trình độ cao đã có bước phát triển vượt bậc. Đặc biệt là ở các doanh nghiệp chế biến sản phẩm thuỷ sản đông lạnh và đồ hộp. Vai trò của các doanh nghiệp CBTS xuất khẩu trong giai đoạn này rất lớn trong việc nhập và tiếp thu, ứng dụng công nghệ mới. Trong CBXK, sản phẩm giá trị gia tăng (làm sẵn, ăn liền) đã chiếm tỷ lệ đáng kể, với hàng trăm mặt hàng, mẫu mã sản phẩm hấp dẫn. Nhiều sản phẩm bao gói nhỏ, tiêu thụ tại các siêu thị đang được các thị trường ưa chuộng. Xu thế sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu đang chuyển biến tích cực từ xuất khẩu nguyên liệu, sản phẩm thô, sơ chế là chính nay chuyển sang sản phẩm có hàm lượng công nghệ chế biến cao hơn mang lại giá trị kinh tế nhiều hơn. Đang thiếu hẳn các công trình nghiên cứu cải thiện chất lượng sản phẩm thủy sản truyền thống để phát triển thị trường cho sản phẩm này, tiến tới xuất khẩu các sản phẩm có tiếng từ lâu trên thị trường trong nước và thế giới Các công trình nghiên cứu khoa học về công nghệ CBTS tuy có số lượng không nhiều, nhưng đã tập trung giải quyết một số đòi hỏi cấp bách của sản xuất, nhất là công nghệ bảo quản thuỷ sản sau thu hoạch. Một số công trình đã nghiên cưú, ứng dụng công nghệ về xử lý, sơ chế, bảo quản một số đối tượng thuỷ sản như công nghệ bảo quản mực và một số đối tượng hải sản có giá trị kinh tế cao trên tàu cá, các công nghệ làm lạnh nước biển để bảo quản cá ngừ đại dương. Có 2 vấn đề cần nhìn nhận riêng biệt, đó là: 2.2.1. Chế biến thủy sản. Hiện nay cả nước có khoang 396 DN chế biến thủy sản quy mô công nghiệp, trong đó, có 284 doanh nghiệp với 356 cơ sở chế biến thủy sản đông lạnh với công suất thiết bị cấp đông đạt 7.870 tấn/ ngày đêm, số doanh nghiệp tăng bình quân 4,3%/năm trong khi công suất thiết bị cấp đông tăng bình quân 12%/năm. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng trên, ngành công nghiệp chế biến còn những tồn tại như: còn thiếu quy hoạch; công nghệ, trang thiết bị máy móc chế biến nông lâm thủy sản phần lớn là cũ và lạc hậu, các dây chuyền công nghệ sản xuất mới còn ít; chưa tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp chế biến với sản xuất nguyên liệu và thị trường; công tác xử lý chất thải, bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập. 2.2.2. Bảo quản thủy sản đông lạnh. Thực trạng và những tác động từ yếu tố công nghệ. Hiện nay, cả nước có 878 kho lạnh sản xuất của các doanh nghiệp chế biến thủy sản đông lạnh. Hệ thống kho lạnh của cả nước mới chỉ đáp ứng được nhu cầu tạm trữ sản phẩm sau chế biến và đưa vào lưu thông trong điều kiện bình thường. Hệ thống kho lạnh của nước ta cũng còn nhiều hạn chế như sự phân bố không đồng đều và trình độ 8 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  9. 9 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành công nghệ chưa cao. Có một số doanh nghiệp do điều kiện kho lạnh không đáp ứng được yêu cầu sản xuất nên phải thuê kho lạnh, nhất là vào thời điểm mùa vụ, từ đó hình thành nên các kho lạnh thương mại. Tuy nhiên, các kho lạnh thương mại phát triển cũng chưa nhiều, thiếu kho đông lạnh sâu để dự trữ nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho chế biến xuất khẩu nhằm chủ động điều tiết giá thị trường. Bên cạnh đó, khi vào mùa vụ, nhu cầu gửi hàng cao đã tạo nên cơn sốt giá gửi kho lạnh. Đồng thời, các kho lạnh thương mại còn được bố trí chưa hợp lý. Tại các khu vực trọng điểm như An Giang, Đồng Tháp, Cà Mau, Kiên Giang và Bến Tre chưa có hoặc chưa đủ số lượng kho. Các khu vực như cảng Sài Gòn, Hải Phòng hay các cửa khẩu biên giới phía Bắc chưa có kho lạnh ngoại quan phục vụ xuất nhập khẩu thủy sản. Cũng vì thiếu kho lạnh trữ hàng nên hiện nay, đa phần các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể bán hàng trực tiếp mà hầu hết thông qua hệ thống trung gian. Do đó, các hệ thống đại lý ở EU bán khá nhiều mặt hàng sản xuất của Việt Nam, nhưng người tiêu dùng chỉ biết đến thông qua nhãn hiệu các nước khác. Đây cũng là lý do mà các chương trình xúc tiến thương mại Việt Nam trong thời gian qua chưa thực sự hiệu quả. Theo ước tính của các nhà chuyên môn, để có một kho lạnh đạt chuẩn (-18 độ C), sản lượng khoảng 10.000 tấn, cần đầu tư khoảng 1,5-2 triệu USD. Tuy nhiên, kho lạnh thủy sản trữ lượng lớn vẫn còn khá hiếm. Để đáp ứng nhu cầu phát triển, ngành Thủy sản đề xuất Nhà nước có chính sách ưu đãi đầu tư, miễn giảm tiền thuê đất từ 3-5 năm cho doanh nghiệp trong đầu tư xây dựng kho lạnh. Bên cạnh đó, tạo điều kiện và có cơ chế chính sách để các doanh nghiệp chế biến thủy sản, những tập đoàn kinh tế mạnh đứng ra đầu tư khai thác kho lạnh./. Chi tiết về công nghệ làm lạnh thủy sản. THỊ TRƯỜNG MÁY LẠNH CÔNG NGHIỆP Theo thống kê thị trường lạnh công nghiệp Việt Nam vào khoảng 30-35 triệu USD/năm. Trải dài từ Bắc vào Nam, trong đó tập trung chủ yếu ở thị trường Miền Tây Nam Bộ. Thị trường Miền Tây chiếm khoảng 20 triệu USD, phần còn lại 10 đến 15 triệu USD ở Miền Đông Nam Bộ, Miền Trung và Miền Bắc. Hiện nay khi Việt Nam phát triển mạnh mẽ công nghiệp lọc hóa dầu và các nhà máy vệ tinh đi kèm, ước tính lạnh công nghiệp cung cấp thêm cho thị trường khoảng 5-7 triệu USD/năm. Các nhà cung cấp uy tín trong lĩnh vực lạnh công nghiệp ở Việt Nam: Tập đoàn Johnson Controls-USA, Mycom-Japan, Grasso-Germany. Và các nhà cung cấp thiết bị phụ trong hệ thống lạnh: Valves Danfoss-Denmark, Aircooler-Guntner…. Việc xây dựng hệ thống lạnh công nghiệp đòi hỏi trình độ chuyên môn cao vì vậy không chỉ là nhà cung cấp thiết bị lạnh đơn thuần mà còn phải đem đến cho khách hàng giải pháp tối ưu nhất: Tự động hóa tiên tiến, Tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường. ĐẦU TƯ VÀO NHÀ MÁY CHẾ BIẾN THỦY SẢN Khi đầu tư vào nhà máy chế biên thủy sản cần có một quyết định đúng, ngoài giá thành của thiết bị cần xem xét các vấn đề dưới đây khi đầu tư vào hệ thống lạnh: - Công suất, chất lượng và độ tin cậy của thiết bị ? - Điện năng tiêu thụ trong quá trình vận hành ? - Điều kiện và chi phí bảo trì ? - Tính hiệu quả và độ an toàn trong thiết kế kỹ thuật của thiết bị ? - Kinh nghiệm và danh tiếng của nhà cung cấp ? 9 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  10. 10 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành - Các công trình do nhà cung cấp đã lắp đặt trước đây ? - Thị trường nội địa, khu vực, toàn cầu & Dịch vụ hậu mãi? - Chất lượng của thực phẩm chế biến và khả năng cạnh tranh của chúng trên thị trường ? - Phí tổn và rủi ro phát sinh (so với chi phí của toàn bộ dự án) ? - Thời gian hoàn vốn (khoảng bao nhiêu năm) ? Thị trường ĐHKK và lạnh công nghiệp ở Việt Nam mới bắt đầu phát triển và còn nhỏ bé so với thế giới. Chúng ta mới lắp ráp được loại máy ĐHKK cục bộ công suất nhỏ và khả năng chế tạo loại máy lạnh công suất lớn gặp nhiều khó khăn do thị trường trong nước nhỏ bé và khó cạnh tranh về công nghệ với các nước tiên tiến. Trước mắt các cơ quan quản lý Nhà nước nên tập trung một số nội dung sau: + Nghiên cứu xây dựng quy chuẩn sử dụng năng lượng tiết kiệm và có hiệu quả trong lĩnh vực lạnh và ĐHKK. + Xây dựng phòng kiểm định đủ điều kiện để đánh giá và dán nhãn sản phẩm ĐHKK đạt tiêu chuẩn chất lượng. + Xây dựng chương trình đào tạo và cấp chứng chỉ cho các đơn vị và cá nhân đủ khả năng tư vấn thiết kế trong ngành lạnh và ĐHKK để từng bước khắc phục tình trạng lạc hậu và thiếu chuyên nghiệp như hiện nay. 2.3. Môi trường văn hóa và xã hội. Các thói quen và phong tục tập quán tại việt nam ảnh hưởng rất nhiều đến việc cung cấp nguồn nhân lực cho các nhà máy chế biến và tiêu thụ các sản phẩm đông lạnh trong thi trường nội địa. -yêu tố văn hoá xã hội tác động đến : 2.3.1. Nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản. Chuyện tuyển công nhân (CN) ở các nhà máy chế biến thủy sản là hầu như thường xuyên, vì nhiều CN làm một thời gian rồi nghỉ. Tình hình biến động CN thủy sản diễn ra ngày càng mạnh khi số lượng các nhà máy ngày càng nhiều và nâng công suất hoạt động. Do đó, các chủ doanh nghiệp này không chỉ lo việc sản xuất, kinh doanh mà còn mệt với sự đến rồi đi của CN. Một lãnh đạo Công ty chế biến cá tra xuất khẩu cho biết, lượng CN luôn biến động, nên phải dùng nhiều “chính sách” thu hút CN. Vị này nói với tôi: “Nếu anh giới thiệu được người vào làm CN cho Công ty chúng tôi, anh sẽ được hưởng 1,5 triệu đồng/CN. Giới thiệu bao nhiêu người Công ty cũng nhận”. Một lãnh đạo công ty khác than: “Tôi rất “đau đầu” với việc làm sao để giữ CN. Nhiều khi phải trực tiếp năn nỉ CN ở lại làm cho Công ty. Tết, đúng ra phải thoải mái đi thăm ông bà, người thân, nhưng phải lo lắng không biết sau Tết CN còn được bao nhiêu, có đảm bảo cho nhà máy hoạt động không?”... CN biến động mạnh nhất vào mùa thu hoạch lúa, nhiều CN bỏ nhà máy về nhà làm nông dân, thu hoạch lúa mướn có thu nhập cao hơn. Các chế độ chính sách của các Công ty thường không giống nhau, nên xảy ra tình trạng CN từ Công ty này sang Công ty khác để có thu nhập cao hơn (có nhiều trường hợp CN xin đi Công ty khác làm một thời gian thấy thu nhập không bằng Công ty cũ hay Công ty cũ nâng đơn giá,... thì xin quay về Công ty cũ). Nhiều CN không quen được với tác phong công nghiệp, không thích làm việc theo nội qui hay không chịu được với môi trường, cường độ làm việc tại nhà máy nên trở về làm việc ruộng, vườn... 10 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  11. 11 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành Việt Nam là quốc gia có nguồn nhân lực dồi dào và điều này lại nghịch lí với hoàn cảnh hiện nay của các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản vì công nhân viên chưa có tinh thần làm việc chuyên nghiệp hoặc doanh nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu của người lao động. 2.3.2. Thị trường tiêu thụ nội địa của các doanh nghiệp kinh doanh thuỷ sản đông lạnh: Thị trường thủy sản nội địa tăng trưởng khả quan, song các doanh nghiệp chế biến thủy sản lớn chưa thật sự mặn mà với thị trường này. Theo dự báo của Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản, nhu cầu tiêu thụ thủy sản nội địa 10 năm tới sẽ tăng 30 - 40% so với hiện nay, đạt khoảng 22 kg/người. Tuy nhiên, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản vẫn chưa mặn mà với việc quay lại thị trường nội địa, đặc biệt là thủy sản đông lạnh, dù thị trường xuất khẩu thủy sản ngày càng khó khăn hơn. , TS. Trần Thị Dung, Giám đốc Trung tâm Tư vấn và Quy hoạch phát triển thủy sản (Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản) cũng dự báo, giai đoạn 2011 - 2020, giá trị thủy sản chế biến tiêu thụ nội địa sẽ tăng bình quân 5,37%/năm. Mức tiêu thụ trong nước năm 2015 được dự báo là 790.000 tấn, năm 2020 là 940.000 tấn. Trong đó, sản phẩm thủy sản đông lạnh chiếm trên 30%. Dù mức tăng trưởng của thị trường thủy sản nội địa rất khả quan, song các doanh nghiệp chế biến thủy sản lớn chưa mặn mà với thị trường này. Điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy, khối doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ thủy sản nội địa hầu như là các doanh nghiệp nhỏ và các hộ gia đình. Trong khi đó, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, dù đánh giá cao tiềm năng thị trường nội địa, song thực tế lại chưa chú trọng việc mở rộng hoạt động tại thị trường này. Đại diện Công ty cổ phần Thực phẩm Cholimex cho biết, dù doanh thu từ thị trường nội địa của công ty này tăng khoảng 20%/năm trong những năm qua, nhưng sản phẩm tiêu thụ nội địa của Cholimex chỉ chiếm 10%. Tương tự Cholimex, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cũng ít đầu tư mở rộng thị trường nội địa, với lý do giá bán thường thấp hơn giá xuất khẩu, trong khi chi phí vận chuyển, bảo quản, quảng bá cao. Mặt khác, các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu cũng cho biết, thế mạnh của họ là hàng đông lạnh, mà người tiêu dùng Việt Nam vẫn có thói quen mua các sản phẩm thủy sản tươi sống tại các chợ lẻ. Với loại sản phẩm tươi sống, các đầu nậu, tư thương có lợi thế hơn các doanh nghiệp xuất khẩu do tổ chức được hệ thống bán lẻ chặt chẽ. Dù vậy, CIEM cho rằng, trong tương lai, thói quen tiêu dùng thủy sản của người Việt Nam sẽ thay đổi. Tập quán tiêu dùng thủy hải sản thô của người dân sẽ giảm, thay vào đó, tiêu dùng thủy sản đông lạnh, thủy sản đã qua chế biến, làm sẵn, ăn liền sẽ tăng lên. Vì vậy, CIEM khuyến nghị, các doanh nghiệp chế biến thủy sản sớm đa dạng sản phẩm thủy sản ở thị truờng nội địa, có chiến lược để đón đầu tăng trưởng tại thị trường nội địa, để biến thị trường nội địa thành chỗ dựa vững chắc khi xuất khẩu gặp khó khăn. 2.4. Môi trường nhân khẩu học. Dân số, cơ cấu dân số và tác động của dân số đến nền kinh tế. 2.4.1. Dân số và cơ cấu dân số 11 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  12. 12 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành Theo niên giám thống kê, năm 2008 toàn quốc có 86,2 triệu người, tăng 9,56% so với năm 2001, tập trung sinh sống không đồng đều ở 63 tỉnh thành phố và trên 6 vùng kinh tế sinh thái ở Việt Nam. Bình quân giai đoạn 2001-2008 dân số toàn quốc tăng trưởng bình quân 1,15%/năm, trong đó dân số nam và nữ đều có tốc độ tăng bình quân 1,15%/năm, dân số thành thị tăng 2,77%, dân số nông thôn tăng 0,57%/năm, trong đó: - Cơ cấu dân số phân theo giới, suốt giai đoạn 2001-2008 dân số nam luôn duy trì ổn định ở mức chiếm từ 49,1 - 49,2%, nữ duy trì trong khoảng từ chiếm 50,9 - 50,8%, như vậy có thể kết luận rằng hiện tại dân số ở Việt Nam chưa có sự mất cân bằng về giới. - Cơ cấu dân số phân theo thành thị, nông thôn cho thấy, suốt giai đoạn 2001-2008 dân số khu vực thành thị tăng đều qua các năm từ chiếm 24,7% dân số toàn quốc năm 2001 tăng lên chiếm 28,1% năm 2008, do di dân từ nông thôn ra thành thị sinh sống ngày một tăng lên, đây là biểu hiện tốt của nền kinh tế đang phát triển. Còn lại dân số khu vực nông thôn thì có xu hướng giảm xuống từ chiếm 75,3% năm 2001 xuống còn 71,9% năm 2008. - Cơ cấu dân số phân theo vùng kinh tế cho thấy, vùng ĐBSH chiếm 22,8% dân số toàn quốc, vùng TDMNBB chiếm 13%, vùng BTB&DHMT chiếm 23%, vùng Tây Nguyên chiếm 5,8%, vùng ĐNB chiếm 14,9%, và vùng ĐBSCL chiếm 20,5% dân số toàn quốc. Bình quân giai đoạn 2001-2008 dân số vùng ĐBSH tăng 0,92%/năm, vùng TDMNBB tăng 1,04%/năm, vùng BTB&DHMT tăng 0,87%/năm, vùng Tây Nguyên tăng 1,83%/năm, vùng ĐNB tăng 2,23%/năm, và vùng ĐBSCL tăng 0,86%/năm. - Mật độ dân số bình quân toàn quốc năm 2008 là 260 người/km2. Trong đó vùng ĐBSH là 933 người/km2; vùng TDMNBB có 118 người/km2, vùng BTB&DHMT có mật độ 207 người/km2, vùng Tây Nguyên có mật độ 92 người/km2, vùng ĐNB có mật độ 543 người/km2, và vùng ĐBSCL có 436 người/km2. Như vậy, vùng TDMNBB và vùng Tây Nguyên có mật độ dân số thấp nhất, còn lại các vùng khác có mật độ dân số tương đối cao. 2.4.2. Đánh giá tác động của dân số đến nền kinh tế. Như trên đã nêu, dân số Việt Nam tập trung chủ yếu ở vùng ĐBSH và ĐBSCL và các vùng ven biển khác như BTB&DHMT và Đông Nam Bộ. Trừ vùng ĐBSH, đây cũng chính là các vùng có nghề cá và CBTS phát triển. Bên cạnh những tác động khác, mật độ dân số cao sẽ góp phần tích cực vào việc cung cấp lao động cho nghề cá và cho công nghiệp CBTS của vùng. Phân bố dân số theo vùng kinh tế -sinh thái giai đoạn 2001-2008 Đơn vị tính: 1.000 người TĐTB T Q Hạng mục 2001 2005 2006 2007 2008 T (%/nă m) 77.6 83.1 84.1 85.1 86.2 Toàn quốc 1,15 35 06 37 72 11 Tỷ trọng, 100, 100, 100, 100, 100, % 0 0 0 0 0 18.0 19.1 19.3 19.4 19.6 1 ĐBSH 0,92 55 07 19 88 55 12 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  13. 13 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành TĐTB T Q Hạng mục 2001 2005 2006 2007 2008 T (%/nă m) Tỷ trọng, 23,3 23,0 23,0 22,9 22,8 % 10.2 10.8 10.9 11.0 11.2 2 TDMNBB 1,04 05 39 71 99 08 Tỷ trọng, 13,1 13,0 13,0 13,0 13,0 % BTB&DH 18.3 19.3 19.4 19.6 19.8 3 0,87 MT 08 67 95 60 20 Tỷ trọng, 23,6 23,3 23,2 23,1 23,0 % Tây 4.23 4.75 4.85 4.93 5.00 4 1,83 Nguyên 7 8 5 4 4 Tỷ trọng, 5,5 5,7 5,8 5,8 5,8 % Đông Nam 10.4 11.7 12.0 12.4 12.8 5 2,23 Bộ 86 79 97 56 29 Tỷ trọng, 13,5 14,2 14,4 14,6 14,9 % 16.3 17.2 17.4 17.5 17.6 6 ĐBSCL 0,86 45 56 00 34 95 Tỷ trọng, 21,1 20,8 20,7 20,6 20,5 % Nguồn: Niên giám thống kê -Tổng cục thống kê, năm 2008 Đánh giá mức độ ảnh hưởng của dân số đến sự phát triển nền kinh tế chung ở Việt Nam cũng như ngành thuỷ sản toàn quốc cũng cho thấy, để đảm bảo duy trì, ổn định và phát triển nền kinh tế thì cứ 1% tăng trưởng về dân số thì nền kinh tế phải tăng trưởng tương đương 4%. Thực tế cho thấy, trong giai đoạn 2001-2008 dân số toàn quốc tăng trưởng bình quân 1,15%/năm trong khi đó kinh tế toàn quốc tăng trưởng bình quân 7,4%/năm. Như vậy có thể kết luận rằng với mức tăng trưởng dân số như hiện nay không có tác động xấu đến nền kinh tế của Việt Nam nói chung cũng như ngành thuỷ sản ở Việt Nam nói riêng. 2.4.3. Lao động, cơ cấu lao động và chất lượng lao động 2.4.3.1. Lao động và cơ cấu lao động. Theo thống kê, năm 2008 toàn quốc có 44,9 triệu lao động chiếm 52,1% dân số toàn quốc và tăng 14,9% so với năm 2001. Về tốc độ tăng trưởng lao động giai đoạn 2001- 2008 cho thấy, bình quân toàn quốc tăng 2,2%/năm, trong đó vùng Tây Nguyên và ĐNB có mức tăng trưởng cao nhất 3,7%/năm, đứng thứ 2 là vùng TDMNBB bình quân tăng 2,5%/năm, tiếp theo vùng ĐBSH có mức tăng trưởng bình quân 2,3%/năm, cuối vùng là vùng ĐBSCL có mức tăng bình quân 1,9%/năm. Lao động phân theo vùng kinh tế - sinh thái giai đoạn 2001-2008 Đơn vị tính: 1.000 người 13 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  14. 14 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành TĐTBQ STT Lao động 2001 2005 2006 2007 2008 (%/năm) Toàn quốc 37.610 42.527 43.339 44.174 44.916 2,2 Tổng tỷ trọng 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 % 1 ĐBSH 9.301 10.544 10.758 10.954 11.120 2,3 24,7 24,8 24,8 24,8 24,8 Tỷ trọng, % 2 TDMNBB 5.499 6.312 6.458 6.603 6.719 2,5 14,6 14,8 14,9 14,9 15,0 Tỷ trọng, % 3 BTB&DHMT 6.650 6.846 6.813 6.812 6.806 0,3 17,7 16,1 15,7 15,4 15,2 Tỷ trọng , % 4 Tây Nguyên 2.607 3.201 3.308 3.405 3.487 3,7 6,9 7,5 7,6 7,7 7,8 Tỷ trọng, % 5 Đông Nam Bộ 5.635 6.794 7.038 7.306 7.564 3,7 15,0 16,0 16,2 16,5 16,8 Tỷ trọng, % 6 ĐBSCL 7.918 8.830 8.963 9.094 9.219 1,9 21,1 20,8 20,7 20,6 20,5 Tỷ trọng, % Nguồn: Niên giám thống kê-Tổng cục Thống kê, năm 2008 - Cơ cấu lao động phân theo vùng kinh tế: từ hình 1 cho thấy, năm 2008 lao động khu vực ĐBSH chiếm 24,8% lao động toàn quốc, vùng TDMNBB chiếm 15%, vùng BTB&DHMT chiếm 15,2%, vùng Tây Nguyên chiếm 7,8%, vùng Đông Nam Bộ chiếm 16,8%, và vùng ĐBSCL chiếm 20,5% lao động toàn quốc. - Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế: từ hình 2 cho thấy năm 2008, lao động nông, lâm nghiệp có khoảng 21,9 triệu người chiếm 48,8% lao động toàn quốc; lao động thuỷ sản có khoảng 1,68 triệu người tăng 71,4% so với năm 2001 và chiếm 3,7% tổng số lao động toàn quốc, trong đó vùng ĐBSCL chiếm khoảng trên 60% còn lại là các vùng kinh tế khác chiếm 40% tổng số lao động thuỷ sản toàn quốc, lao động ngành công nghiệp-xây dựng có khoảng 9,3 triệu người chiếm 20,8%, và lao động ngành dịch vụ có khoảng 11,9 triệu lao động chiếm 26,6% lao động toàn quốc. Trung bình giai đoạn 2001-2008 bình quân lao động ngành nông, lâm nghiệp giảm 0,8%/năm, lao động thuỷ sản tăng 7%/năm, lao động công nghiệp-xây dựng tăng 8,2%/năm, và cuối cùng lao động dịch vụ tăng 4,8%/năm. 14 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  15. 15 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành 2.4.3.2. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm - Tỷ lệ thất nghiệp: Năm 2008 theo thống kê toàn quốc có tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động khoảng 2,38%, trong đó thành thị khoảng 4,65%, nông thôn khoảng 1,53%. Trong đó khu vực Đông Nam Bộ có tỷ lệ thất nghiệp chung cao nhất 3,74%, thấp nhất là vùng TDMNBB và vùng Tây Nguyên khoảng 1,13-1,42%, các vùng còn lại tỷ lệ này trên 2%. Khu vực thành thị vùng ĐBSH có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất 5,35%, thấp nhất là vùng Tây Nguyên khoảng 2,51%, còn lại các vùng kinh tế khác tỷ lệ này là trên 4%. Khu vực nông thôn có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất thuộc về vùng ĐBSCL và vùng Đông Nam Bộ trên 2%, thấp nhất là vùng TDMNBB khoảng 0,61%, các vùng còn lại có tỷ lệ này trên 1%. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm trong độ tuổi lao động năm 2008 Đơn vị tính: % Tỷ lệ thất nghiệp Tỷ lệ thiếu việc làm S Chu Thà Nô Chu Thà Nô Hạng mục TT ng nh thị ng ng nh thị ng thôn thôn 1,5 6,1 Toàn quốc 2,38 4,65 5,10 2,34 3 0 1,2 8,2 1 ĐBSH 2,29 5,35 6,85 2,13 9 3 0,6 2,5 2 TDMNBB 1,13 4,17 2,55 2,47 1 6 1,5 6,3 3 BTB&DHMT 2,24 4,77 5,71 3,38 3 4 1,0 5,6 4 Tây Nguyên 1,42 2,51 5,12 3,72 0 5 2,0 3,6 5 Đông Nam Bộ 3,74 4,89 2,13 1,03 5 9 2,3 7,1 6 ĐBSCL 2,71 4,12 6,39 3,59 5 1 Nguồn: Niên giám thống kê-Tổng cục Thống kê năm 2008 15 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  16. 16 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành - Tỷ lệ thiếu việc làm: Năm 2008 theo thống kê toàn quốc có tỷ lệ thiếu việc làm trong độ tuổi lao động khoảng 5,1%; ở thành thị khoảng 2,34%; nông thôn khoảng 6,1%. Trong đó khu vực ĐBSH và ĐBSCL có lệ thiếu việc làm chung cao nhất trên 6%, thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ khoảng 2,13%, các vùng còn lại tỷ lệ này trên 5%. Khu vực thành thị thì vùng ĐBSCL có tỷ lệ thiếu việc làm cao nhất 3,59%; thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ 1,03%; còn lại các vùng kinh tế khác tỷ lệ này là trên 3%; đối với khu vực nông thôn vùng có tỷ lệ thiếu việc làm cao nhất là vùng ĐBSH khoảng 8,23%; vùng ĐBSCL khoảng 7,11%; thấp nhất là vùng Trung du và miền núi phía Bắc khoảng 2,56%; còn lại các vùng khác tỷ lệ này là trên 5%. 2.4.3.3. Chất lượng lao động. Theo các chuyên gia về nhân lực, nguồn nhân lực ở Việt Nam được đánh giá là rất dồi dào nhưng lại yếu về chất lượng. Lao động ở Việt Nam được đánh giá là khéo léo, thông minh, sáng tạo, tiếp thu nhanh những kỹ thuật và công nghệ hiện đại được chuyển giao từ bên ngoài vào, nhưng lại thiếu tính chuyên nghiệp. Tính từ năm 2001 đến 2008 có khoảng trên 10 triệu người được đào tạo trong tổng số ngần 45 triệu người trong độ tuổi lao động - tức khoảng 25% “lao động qua đào tạo”. Riêng đối với khu vực nông thôn, có thể nói trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật của lao động hiện nay thấp hơn so với mặt bằng chung của cả nước. Trên 85% số lao động ở nông thôn chưa từng qua trường lớp đào tạo chuyên môn kỹ thuật nào, khoảng 18,9% số lao động nông thôn có trình độ văn hóa tiểu học. Về thể lực của lao động nông thôn ở độ tuổi 20 -24, thống kê năm 2008 cho thấy, chỉ có 75% số lao động có thể lực bình thường, 23,6% gầy, 1,4% thừa cân. Theo đánh giá của các nhà kinh tế năm 2008 yếu tố lao động của Việt Nam tham gia vào tăng trưởng nền kinh tế chiếm khoảng 20%, yếu tố vốn chiếm khoảng 57,7%, và các yếu tố khác chiếm 22,3%. Dưạ vào những số liệu trên chúng ta có thể nhận thấy nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang sở hữu nguồn lao động rất dồi dào, đây là một lợi thế rất lớn trong việc phát triển kinh tế cũng như nguồn cung ứng nguồn lao động cho các nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh. Thực trạng nguồn lao động trong các doanh nghiệp chế biến thủy sản nói chung và thủy sản đông lạnh nói riêng. Chế biến thủy sản (CBTS) là một nghề mà người lao động phải làm việc trong điều kiện công việc mang tính mùa vụ cao, nhiều thời điểm công nhân phải làm tăng ca, hầu như không có ngày nghỉ. Công việc lại đòi hỏi người công nhân phải đứng suốt ca, ít di chuyển, môi trường không thoáng khí, ẩm ướt, tanh hôi cả ngày. Thu nhập của người lao động lại thấp, không hấp dẫn ngưới lao động vào làm nghề này, đặc biệt trong điều kiện cả nước mở ra nhiều khu công nghiệp với việc phát triển của các nghề may mặc, da giày và các nghề khác, nên nghề CBTS không còn hấp dẫn được người lao động. Bên cạnh đó, người lao động CBTS có thâm niên trong nghề chiếm tỷ lệ thấp do bị các bệnh nghề nghiệp (như bệnh khớp, phù nề, viêm đường hô hấp..) phải nghỉ việc hoặc chuyển nghề khác. Tổng lao động làm việc trong ngành CBTS xuất khẩu tăng từ 115,9 ngàn người năm 2001 lên đến 301 ngàn người vào năm 2009. Sự tăng trưởng không đều giữa các vùng kinh tế do sự tăng trưởng về sản lượng CBTS của các vùng rất khác nhau. Vùng 16 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  17. 17 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành ĐBSCL có TĐTBQ cao nhất là 22,5%/năm và đã tạo được việc làm cho xấp xỉ 202 ngàn lao động vào năm 2009, trong khi vùng ĐBSH lại có xu thế giảm và đã giảm đến 9,8%/năm về lao động trong giai đoạn này. CBTSXK vùng ĐNB đã tạo được việc làm cho trên 65 ngàn lao động, nhưng có TĐTBQ chỉ là 2,5%/năm. Trong khi, mặc dù chỉ có được gần 29 ngàn việc làm cho người lao động, nhưng CBTSXK trong vùng BTB&DHMT đã tạo ra được TĐTBQ cao thứ hai và đạt 11%/năm. Hiện trạng lao động CBTS XK phân theo vùng kinh tế, 2001-2009 Số lao ộng (người) TĐTB ST Q Vùng T (%/nă 2001 2005 2009 m) 115.9 175.6 301.1 12,7 30 80 50 Tổng cộng -9,8 1 Vùng ĐBSH 9.590 4.130 4.400 Vùng 12.57 25.62 28.96 11,0 2 BTB&DHMT 0 0 0 54.02 62.66 65.80 2,5 3 Vùng ĐNB 0 0 0 39.75 83.26 201.9 22,5 4 Vùng ĐBSCL 0 0 90 Nguồn: Số liệu điều tra và theo tính toán của nhóm chuyên gia, 2009 Theo số liệu điều tra năm 2009, số lao động thường xuyên chiếm đến 85% lao động trong các DN CBTSXK, nhưng trình độ của người lao động rất thấp, chủ yếu là lao động phổ thông với trình độ văn hóa chủ yếu là cấp phổ thông cơ sở. Họ được tuyển dụng và được đào tạo ngay trong công việc. Do thực hành khoán trong sản xuất đến từng người lao động, nên người lao động chịu khó, nhanh và khéo tay sẽ làm ra nhiều sản phẩm để có thu nhập cao. Các công nhân có tay nghề cao sẽ có thu nhập thực tế cao, chứ cách trả lương hiện nay cho công nhân CBTS hầu như không phụ thuộc vào việc thi tay nghề như các ngành nghề công nghiệp khác. Ảnh hưởng của cơ cấu tuổi tới sự phát triển kinh tế nói chung và ngành thủy sản đông lạnh nói riêng. Hành vi kinh tế cá nhân biến đổi qua các giai đoạn khác nhau của cuộc sống, những thay đổi về cơ cấu tuổi có thể tác động lớn tới thành tựu kinh tế quốc dân. Các nước có tỷ lệ cao người phụ thuộc trẻ hoặc già thường phải dành một tỷ lệ nguồn lực tương đối cao cho các nhóm này, nên tăng trưởng kinh tế bị hạn chế. Trái lại, các nước có bộ phận lớn dân số ở độ tuổi sung sức nhất để lao động và tiết kiệm có thể đẩy nhanh tăng trưởng thu nhập nhờ phần dân số đang lao động cao hơn, nhờ tích luỹ nhanh vốn và nhờ giảm chi cho những người phụ thuộc. Những phân tích trên cộng với cơ cấu dân số hiện nay chúng ta có thể nhận thấy nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang sở hữu nguồn lao động rất dồi dào, đây là một lợi thế rất lớn trong việc phát triển kinh tế cũng như nguồn cung ứng nguồn lao động cho các nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh. Phân bố địa lý dân cư. 17 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  18. 18 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành Số người di cư trong 5 năm qua là 3,3 triệu người, tăng 163.000 người. Vùng Đông Nam bộ và Tây Nguyên luôn là địa điểm thu hút các luồng di cư. Đông Nam bộ là vùng nhập cư cao nhất. Các khu công nghiệp tập trung và các thành phố lớn luôn có sức hút mạnh mẽ nhiều người chuyển đến làm ăn sinh sống. 2.5. THỂ CHẾ, CHÍNH SÁCH CHO CHẾ BIẾN, THƯƠNG MẠI THỦY SẢN 2.5.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về CB&TM thủy sản 2.5.1.1. Hệ thống văn bản Hiện tại, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước điều chỉnh hoạt động trong lĩnh vực chế biến và xuất khẩu sản phẩm thủy sản là 133 văn bản, bao gồm: 10 văn bản luật, 01 pháp lệnh, 5 nghị quyết của Chính phủ, 50 Nghị định của Chính phủ, 39 quyết định của Thú tướng Chính phủ, 4 thông tư liên tịch giữa các Bộ và 12 quyết định, chỉ thị của bộ trưởng các bộ (trước khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 có hiệu lực) (xem phụ lục1). 2.5.1.2. Đánh giá khái quát về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chi phối lĩnh vực chế biến và thương mại thủy sản Thương mại thủy sản Thương mại là một lĩnh vực lớn liên quan đến rất nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau nên có số lượng văn bản pháp luật khá nhiều. Theo Luật Thương mại (2005) và một số văn bản dưới Luật khác chỉ tập trung quy định cho đối tượng là "thương nhân", trong khi các "tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại", gồm cả nông dân và các hợp tác xã, cũng như hoạt động mua bán sản phẩm do họ sản xuất, chế biến và tiêu thụ lại chỉ được đề cập một cách rất hạn chế, không làm rõ quyền lợi và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân này dưới dạng đặc biệt của "thương nhân". Do vậy, các hoạt động mua, bán hàng hoá nông sản của nông dân không được quy định trong phạm vi, đối tượng áp dụng của văn bản; hoặc có đề cập đến, nhưng chỉ đề cập chung chung như một loại "tổ chức,cá nhân khác". còn trong các điều khoản cụ thể của văn bản cũng lại chỉ đề cập đến "thương nhân". Đây cũng là một trong những nguyên nhân tạo ra kẽ hở về pháp luật, để nhiều thương nhân xuất khẩu thủy sản trong thời gian qua đã lợi dụng chính sách hoàn thuế GTGT đã giả mạo chứng từ xuất khẩu rút tiền của nhà nước, trong khi những người nuôi thủy sản, khai thác thủy sản chỉ vì không có hóa đơn tài chính đã không được hưởng lợi từ chính sách này. Khi đã trở thành thành viên chính thức của WTO, thể chế, chính sách của Việt Nam đã có nhiều thay đổi cho phù hợp với luật pháp quốc tế, điều này đã giúp cho CBXK thủy sản Việt Nam có thêm được sức mạnh pháp lý khi tham gia thị trường xuất nhập khẩu thủy sản thế giới, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn giữa các nước xuất khẩu thủy sản với các nước nhập khẩu thủy sản; và các nước nhập khẩu thủy sản ngày càng tạo ra nhiều rào cản thương mại và rào cản kỹ thuật. Tuy vậy, Việt Nam cũng cần nắm chắc các quy định của luật pháp quốc tế về chính sách hỗ trợ nông nghiệp (có cả thủy sản) trong thời kỳ quá độ, tận dụng triệt để chính sách này để hỗ trợ nông ngư dân và các doanh nghiệp phát triển sản xuất nguyên liệu và gia tăng sản lượng, giá trị KNXK. Quản lý chất lượng sản phẩm và VSATTP Mảng quản lý nhà nước về chất lượng, VSATTP trong chế biến thủy sản xuất khẩu có thể nói là đã khá thành công trong thời gian qua, từ việc xây dựng hệ thống các văn 18 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  19. 19 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành bản quy phạm pháp luật; các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia để kiểm soát điều kiện đảm bảo VSATTP; hình thành và phát triển cơ quan có thẩm quyền quản lý chất lượng, VSATTP thủy sản (Cục Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản, với đại diện của cục ở phía Nam và 6 trung tâm vùng) đến việc hình thành được hệ thống các doanh nghiệp CBTS quy mô công nghiệp đạt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện đảm bảo VSATTP và đáp ứng được các yêu cầu của thị trường. Kéo theo đó là hệ thống các cơ sở nuôi, vùng nuôi, các tàu cá, cảng cá, các cơ sở thu mua sơ chế đáp ứng yêu cầu đảm bảo VSATTP. Hệ thống các văn bản được xây dựng và ban hành áp dụng trong thời gian qua, dù về hình thức không phân biệt giữa CBXK và CBNĐ, song các yêu cầu đưa ra chưa thật phù hợp với điều kiện phát triển của hệ thống CBNĐ còn đang trong tình trạng khá lạc hậu và thiếu kiểm soát hiện nay. Đây chính là khâu còn đang bị "bỏ ngỏ"như đã nêu trên. Hậu quả là một số loại sản phẩm kém chất lượng vẫn được đưa ra thị trường tiêu thụ dẫn đến hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp với nhau, làm giảm khả năng phát triển chung của ngành. Đầu tư, tín dụng và thuế Nhìn chung, Nhà nước đang khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nói chung và trong lĩnh vực nuôi trồng, chế biến thuỷ sản nói riêng. Tuy nhiên, xét trên góc độ các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thì sự khuyến khích này chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư cũng như chưa định hướng được một cách đúng đắn quá trình đầu tư trong lĩnh vực này. - Về ưu đãi đầu tư Theo quy định của Luật Đầu tư (Điều 27, Điều 28) và Nghị định số 108/2006/NĐ- CP về hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư (Phụ lục I, II), xác định các đối tượng, lĩnh vực được hưởng ưu đãi còn dàn trải, chưa xác định đầu tư ở vùng nông thôn vào lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản có được ưu đãi đặc biệt hơn các ngành nên chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư. Do đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn có độ rủi ro cao và lợi nhuận thấp, nhà đầu tư sẽ chọn đầu tư vào các lĩnh vực khác thuộc danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư nhưng có lợi nhuận cao hơn. - Về chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư + Điều 33, Luật Đầu tư quy định nhà đầu tư có dự án thuộc lĩnh vực hoặc địa bàn ưu đãi đầu tư được hưởng ưu đãi về thuế, nhưng thuế VAT vẫn còn cao đối với một số ngành sản xuất chế biến nông sản và một số sản phẩm phụ khác. Thuế thu nhập doanh nghiệp bình quân trước đây là 28%, nay mặc dù đã giảm xuống 25% nhưng vẫn là quá cao đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông, lâm, thủy sản sử dụng nhiều lao động, nhiều rủi ro và tỷ suất lợi nhuận thấp. + Một số quy định của luật pháp còn thiếu nhất quán, phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp cũng là nguyên nhân làm giảm đầu tư vào lĩnh vực thủy sản nói chung và chế biến thủy sản nói riêng. - Về chính sách tín dụng và các chính sách khác: Tín dụng phục vụ cho công nghiệp ở nông thôn tăng lên, nhưng còn vướng mắc về các chính sách khác như việc thế chấp vay tiền còn phức tạp, quy hoạch (vùng, miền, ngành nghề, cây con…) còn thiếu và yếu. Các kênh tín dụng khác nhau (tín dụng Nhà nước, tín dụng ngân hàng, vốn đầu tư nước ngoài) còn phân tán. Chính sách cho vay ưu đãi được thực hiện qua nhiều đầu mối (Ngân hàng phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân 19 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
  20. 20 Khoa kinh tế Bài tập nhóm kinh tế ngành hàng CSXH) với các mức lãi suất cho vay khác nhau, người dân khó nhận biết đầy đủ để tiếp cận các khoản vay ưu đãi. - Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn: Nghị định 108/2006/NĐ-CP (Điều 33 - Điều 36) đã có chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. Tuy vậy, chưa có chính sách hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ các vùng nguyên liệu, vùng nuôi trồng thuỷ sản... 2.5.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về chế biến, thương mại thủy sản 2.5.2.1. Phân định chức năng giữa các bộ, ngành trong quản lý lĩnh vực chế biến và thương mại thủy sản Tính đến nay, Chính phủ đã ban hành đầy đủ các Nghị định về phân công chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Có thể thấy, Chính phủ đã thực hiện tổ chức các bộ theo xu thế quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, nhiều vấn đề chồng chéo, trùng lắp, mâu thuẫn về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, nhất là giữa Bộ NNPTNT với các Bộ khác trước đây đã được xử lý, thông qua điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, sát nhập, hợp nhất các Bộ có liên quan v.v... Tuy nhiên, thực tiễn triển khai cho thấy, vẫn còn tồn tại một số bất cập trong lĩnh vực chế biến và thương mại thủy sản liên quan tới chức năng, nhiệm vụ của Bộ NNPTNT với các Bộ khác. Những bất cập này xuất phát từ sự chồng chéo, trùng lắp hoặc phân công chưa hợp lý, chưa rõ ràng; hoặc phân định, giao việc không căn cứ vào năng lực tổ chức bộ máy, nhân lực, tài chính và các điều kiện công vụ cần thiết. Quản lý nhà nước về VSATTP Mặc dù các có nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định về lĩnh vực này, nhưng việc phân định chức năng, nhiệm vụ giữa các Bộ; cơ chế phối hợp thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về đảm bảo chất lượng,VSATTP giữa Bộ NN&PTNT với các Bộ chức năng trong thời gian qua vẫn tồn tại sự bất cập, hạn chế và đã kéo dài nhiều năm. Cụ thể là việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện đảm bảo ATVSTP cho cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm bị chồng chéo giữa Bộ Y tế và Bộ NN& PTNT, đã gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thực thi pháp luật; làm giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Các Bộ có liên quan và các cơ quan thuộc Bộ NN&PTNT đã từng bước rà soát, loại bỏ các vấn đề chồng chéo nói trên để tiến tới hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước về đảm bảo VSATTP cho lĩnh vực thủy sản nói riêng và thực phẩm nói chung. Luật An toàn Thực phẩm năm 2010 số 55/2010/QH12 ra đời và có hiệu lực từ ngày 1/7/2011, thay thế Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm số 12/2003/PL-UBTVQH11, đã làm rõ được trách nhiệm của các Bộ có liên quan, khắc phục các vấn đề chồng chéo trong thời gian qua. Quản lý thương mại thủy sản Hiện nay, việc quản lý thương mại hàng nông lâm thủy sản xuất khẩu được giao cho khá nhiều Bộ, cụ thể là: + Việc ban hành các chính sách thương mại, xúc tiến thương mại; quản lý cạnh tranh, hạn ngạch xuất/ nhập khẩu, quản lý thị trường do Bộ Công thương chủ trì, Bộ NNPTNT phối hợp thực hiện trong phạm vi quản lý của mình. 20 Nhóm thực hiện: Lục Đại Doanh Nhân Lớp 09QT
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2