intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tập nhóm môn Luật Hiến Pháp

Chia sẻ: Tan Thanh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:55

198
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tập nhóm với nội dung: bốn đặc trưng của Hiến pháp; những giá trị cần kế thừa của Hiến pháp 1946; nguyên tắc Hiến pháp về quyền con người. Để nắm chi tiết nội dung nghiên cứu mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tập nhóm môn Luật Hiến Pháp

  1. BÀI TẬP 1 BỐN ĐẶC TRƯNG CỦA HIẾN PHÁP 1. HIẾN PHÁP LÀ LUẬT CƠ BẢN Luật Hiến pháp về bản chất là một đạo luật, song đây là đạo luật đặc biệt có vị  trí cơ bản đứng trên các đạo luật khác, ngay tại Khoản 1 Điều 119 của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam năm 2013 cũng đã khẳng định điều   này: “Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,   có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến   pháp...”.  Ở  Việt Nam cũng như  các nước trên thế giới,  tính luật cơ  bản của  Hiến pháp  thể hiện ở chỗ các quy phạm của nó mang tính cơ sở, xác định những vấn đề cơ  bản nhất, quan trọng nhất của nhà nước. Đó là quy định về chế độ chính trị, kinh   tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, mối quan hệ cơ  bản giữa  nhà nước và công dân, tổ  chức và hoạt động của bộ  máy nhà nước.   Ngoài ra, Hiến pháp được coi là đạo luật gốc của quốc gia, là nền tảng và mang  tính định hướng để  xây dựng các đạo luật thông thường khác. Chúng được xây   dựng để  cụ  thể  hóa các chế  định, quy phạm của   Hiến pháp, và vì vậy, không  được trái với  Hiến pháp. Khi  Hiến pháp được thay thế  hoặc sửa đổi, các đạo  luật có những quy định trái hoặc còn thiếu so với nội dung của  Hiến pháp đều  phải được thay thế  hoặc sửa đổi theo. Điều này tạo ra tính thống nhất của hệ  thống pháp luật và thể  hiện mức độ  tác động trực tiếp của hiến pháp đến các   văn bản quy phạm pháp luật khác. Theo như Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787, Điều VI, Mục QUYỀN TỐI CAO CỦA  CHÍNH PHỦ  QUỐC GIA, “Hiến pháp này, các đạo luật của Hoa Kỳ  được ban  hành theo Hiến pháp này, mọi hiệp  ước đã hoặc sẽ  được ký kết dưới thẩm  quyền của Hoa Kỳ sẽ là luật tối cao của quốc gia. Quan tòa ở các bang đều phải   tuân theo những luật này; bất cứ một điều gì trong Hiến pháp hoặc luật của các   bang mà trái ngược với Hiến pháp Liên bang đều không có giá trị”. Như  vậy ta  thấy, các nhà soạn thảo Hiến pháp Hoa Kỳ  quy định Hiến pháp là “Bộ  luật tối   cao của đất nước”. Các tòa án đã cho rằng câu này có nghĩa là khi có các bộ luật   được các bang (kể cả hiến pháp từng bang) hay Quốc hội đưa ra mà mâu thuẫn   với hiến pháp liên bang, những luật đó không có hiệu lực.1 1 https://voer.edu.vn/m/hien­phap­hoa­ky/cf3994a0
  2. Ví dụ như vụ việc Tiểu bang California xin tính tiền Medi­Cal, Liên Bang bác bỏ  vì sai luật.2 California đòi tiền co­pay với dân hưởng Medi­Cal để tiết kiệm nửa tỷ đô/năm Chính quyền của Thống Đốc Jerry Brown sẽ khiếu nại về chuyện này, theo lời   H.D. Palmer, phát ngôn nhân Bộ Tài Chánh California. Nếu quyết định này không đảo ngược, California sẽ phải tốn kém thêm 575 triệu   đô trong tài khóa năm tới, theo lời Palmer. California đang đòi những người nghèo đang hưởng Medi­Cal phải trả 5 đôla mỗi   lần tới phòng mạch bác sĩ, trả 3 đôla mỗi toa thuốc, và trả  tới 200 đôla mỗi lần  tới bệnh viện. Nhưng Bộ Y Tế  và Nhân Dụng Liên Bang, nơi phải chấp thuận các thay đổi vì   Medi­Cal là một phần chương trình MediCaid của liên bang, nói kế  hoạch của   California vi phạm Luật An Sinh Xã Hội. Brian Cook ­ phát ngôn nhân Trung Tâm Dịch vụ Medicare và Medicaid, thuộc Bộ  Y Tế, nói, “Chúng tôi công nhận nhu cầu tiểu bang cần giảm chi phí và chúng tôi   hỗ trợ mục tiêu sử dụng hiệu quả dịch vụ y tế. Nhưng chúng tôi bác bỏ việc bắt  dân nghèo trả tiền co­pay vì không phù hợp với bộ luật.” Quyết định liên bang ngăn cản tiểu bang tính tiền co­pay khi người lãnh MediCal   khám bệnh được các hội bênh vực dân nghèo ca ngợi. 2. HIẾN PHÁP LÀ LUẬT TỔ CHỨC Sự hiện diện của một bản Hiến pháp luôn là hiện thân của những tư tưởng lập   hiến nhất định, và trong đó có tư  tưởng về  cách thức tổ  chức mô hình chính   quyền và sự phân quyền giữa các cơ quan nhằm kiểm soát, cân bằng quyền lực  một cách hiệu quả  hơn, điển hình  nhất  là tổ  chức mô hình chính quyền  tam  quyền phân lập. Không chỉ  Hiến pháp Việt Nam mà Hiến pháp của hầu hết các  quốc gia trên thế  giới hiện nay đều tổ  chức mô hình chính quyền dựa theo lý   thuyết tam quyền phân lập, mặc dù mức độ  và cách thức áp dụng ít nhiều khác  nhau.  Chẳng hạn như  cơ  chế  thực hiện quyền lực nhà nước  ở  Việt Nam được quy  định trong  khoản 3, Điều 2,  Hiến pháp 2013,  theo đó: "Quyền lực nhà nước là  thống nhất, có sự  phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ  quan nhà nước   trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư  pháp." Các nhánh quyền   lực này được giao cho Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân và được quy định   cụ  thể  trong các Luật  Tổ  chức Quốc hội, Luật  Tổ  chức Chính phủ,  Luật  Tổ  chức Tòa án nhân dân. Các cơ  quan này đều có nhiệm vụ,  quyền hạn riêng và  tương đối độc lập với nhau, tuy nhiên giữa chúng vẫn có những mối quan hệ  nhất   định.   Ví dụ  như  theo Điều 9, Luật Tổ  chức Quốc hội năm 2014, Quốc hội phê chuẩn   các chức danh trong bộ  máy nhà nước như: phê chuẩn đề  nghị  của Thủ  tướng  2 https://vietbao.com/p122a183541/5461/cali­xin­tinh­tien­medi­cal­lien­bang­bac­ bo­vi­sai luat?
  3. Chính phủ  về  việc bổ  nhiệm các Phó Thủ  tướng Chính phủ, Bộ  trưởng và các  thành viên khác của Chính phủ theo danh sách đề cử chức vụ từng người (khoản   1, Điều 9),...hoặc như Điều 14, Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ  cơ  quan;  thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính, ...  Hay như theo khoản 7, Điều 27, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Chánh  án Tòa án nhân dân tối cao trình Quốc hội phê chuẩn về việc đề nghị bổ nhiệm,  miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán TANDTC,... Ngoài ra, Quốc hội còn có nhiều mối quan hệ liên quan đến Viện kiểm sát nhân  dân tối cao, Hội đồng nhân dân địa phương, Ủy ban nhân dân địa phương, Tòa án  nhân dân địa phương, Viện kiểm sát nhân dân địa phương. Cũng tương tự như Hiến pháp Việt Nam, dựa trên học thuyết này, Hiến pháp của  hầu hết các nước đều thể hiện tính đặc trưng là luật tổ chức khi tổ chức hoạch   định mô hình chính quyền bằng việc giao  quyền lập pháp cho Nghị  viện (là cơ   quan đại diện được bầu ra bằng tuyển cử, được coi là biểu hiện ý chí chung của   quốc gia), quyền hành pháp cho Chính phủ  (là cơ  quan có trách nhiệm thực thi   luật pháp đã được  Nhà nước ban hành), quyền tư  pháp cho  Toà án (để  thực   thi công  lý, một cơ  chế  để  giải quyết các tranh chấp,  phán xử  những vi phạm   pháp luật).3  Lấy ví dụ   ở  Hiến pháp Hoa Kỳ  năm 1787, theo Điều 1   quy định:  “Toàn bộ quyền lực lập pháp được thừa nhận tại đây sẽ được trao cho Quốc hội  Hoa Kỳ. Quốc hội gồm có Thượng viện và Hạ  viện”, Điều 2 trao quyền hành  pháp cho Tổng thống: “Quyền hành pháp sẽ được trao cho Tổng thống Hoa Kỳ”   và Điều 3 tuyên bố “Quyền lực pháp lý của Hoa Kỳ sẽ được trao cho Toà án tối   cao và những tòa án cấp dưới mà Quốc hội có thể thiết lập trong một số trường   hợp”.  Bên cạnh đó, tuỳ  từng quốc gia, Hiến pháp còn có nhiều quy định về  mối quan   hệ  ràng buộc giữa ba cơ quan lập pháp, hành pháp và tư  pháp. Ví dụ, theo Hiến  pháp Hoa Kỳ, Nghị  viện có quyền thông qua luật nhưng để  có hiệu lực phải  được Tổng thống ký phê chuẩn. Ngược lại, Tổng thống có quyền ký kết các   điều  ước quốc tế  nhưng phải được Thượng viện phê chuẩn. Có thể  nói, bất kì  một bản Hiến pháp nào cũng đều đưa ra những quy định về mô hình chính quyền   và tổ chức phân quyền cho các cơ quan nhằm kiểm soát quyền lực hiệu quả, và  đó chính là đặc trưng của Hiến pháp ­ Luật tổ chức. 3. HIẾN PHÁP LÀ LUẬT BẢO VỆ NHÂN QUYỀN 3.1.Khái niệm nhân quyền:  Khái niệm “nhân quyền” đã được đề  cập đến từ  rất sớm. Bộ  luật Hammurabi   của Ấn Độ  ra đời từ  khoảng năm 1780 trước Công Nguyên đã đề  cập tới cả nữ  quyền, quyền trẻ em, và quyền của nô lệ. Sau đó, các thế kỷ XVII, XVIII có các   nhà triết học cho rằng nhân quyền là các quyền không thể tước bỏ được là các   3 https://hocluat.vn/tam­quyen­phan­lap­la­gi­the­hien­qua­hien­phap­nhu­the­nao/? 
  4. quyền tự  nhiên do Tạo hóa ban cho họ. Các quyền này không bị  phá hủy khi xã   hội dân sự được thiết lập và không một xã hội hay một chính phủ nào có thể xóa   bỏ hoặc "chuyển nhượng" các quyền này.4 Có rất nhiều định nghĩa về  nhân quyền, trong đó nổi bật là định nghĩa của Văn   phòng Cao ủy Liên hợp quốc, nói rõ: “Quyền con người là những bảo đảm pháp  lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ  các cá nhân và các nhóm chống lại những hành   động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, tự do cơ bản của con người.”  Tại Việt Nam, nhân quyền, hay còn gọi là quyền con người, được hiểu là  những   nhu cầu lợi ích tự  nhiên, vốn có khách quan của con người được bảo vệ  và ghi   nhận trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.5  Ngay trong  bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa năm 1946 đã có   những quy định về quyền con người trong mục B, chương II ­ nghĩa vụ và quyền  lợi công dân. Từ đó, nhân quyền đã luôn là đối tượng điều chỉnh quan trọng hàng   đầu của các bản Hiến pháp, thể  hiện sự  cam kết bảo vệ  và tôn trọng của nhà  nước đối với sự an toàn và phát triển lành mạnh của con người.  3.2.Ví dụ thực tiễn: Đối với các nước trên thế giới nói chung, phần lớn đều lấy nhân quyền làm đối   tượng điều chỉnh. Quyền con người bao gồm nhiều quyền trong nhiều lĩnh vực  khác nhau như kinh tế, chính trị, kinh tế, xã hội… Tuy nhiên, về cơ bản nhất vẫn   là các quyền gắn liền với sự tồn tại của con người, tức là quyền được hưởng  một cách chính đáng các giá trị vật chất cần thiết cho sự sống.  Tuy nhiên, hiện nay, người dân Venezuela đã và đang chịu đựng cảnh nhân quyền   bị  vi phạm nghiêm trọng. Venezuela từng là quốc gia giàu có nhất khu vực nhờ  vào trữ lượng dầu thô lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 2014, giá dầu   mỏ   sụt   giảm,   cộng   với   chính   sách   kinh   tế   sai   lầm   và   sự   bất   ổn   chính   trị,  Venezuela lâm vào tình trạng khủng hoảng. Kéo dài đến nay, trong khi diễn ra sự  tranh quyền tổng thống, thì người dân đang phải chịu cảnh cuộc sống thiếu thốn   trầm trọng do lạm phát phi mã. Theo các nguồn tin từ báo điện tử  24h, thì thiếu  thực phẩm kéo dài dẫn đến tình trạng cân nặng trung bình năm 2017 của người  dân giảm đến 11kg so với các năm trước đó. Đói kém kéo dài dẫn đến nạn trộm  cướp, các cuộc biểu tình nổ ra, đất nước chìm trong khủng hoảng. Đỉnh điểm là  nhiều người dân phải bới rác để ăn, vượt biên sang các quốc gia khác để  ăn xin,   ăn cả thịt thú nuôi, thịt thối…Bắt đầu từ ngày 25/03/2019, Venezuela bị cúp điện  trên diện rộng, các doanh nghiệp ngừng hoạt động, bệnh viện phải vật lộn để  4 https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n_quy%E1%BB%81n 5 Nguyễn Đăng Dung ­ Vũ Công Giao ­ Lã Khánh Tùng, Giáo trình Lý luận và  Pháp luật về quyền con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, trang 38.
  5. chữa trị cho bệnh nhân, trường học và các cơ quan công quyền phải đóng cửa… Thêm vào đó là tình trạng thiếu nước sạch, người dân đổ  ra các dòng sông lấy  nước, nước không đảm bảo chất lượng khiến nhiều người bị bệnh, nhưng bệnh   viện lại không thể đảm bảo điều kiện chữa trị. Theo ước tính, khoảng 1/4 người   Venezuela đang cần hỗ trợ nhân đạo, trong đó có 1,9 triệu người suy dinh dưỡng   và khoảng 300.000 người đang bị đe dọa mạng sống do thiếu thuốc men.6 Chính phủ  bất lực trong kiềm chế  lạm phát và cung cấp nhu yếu phẩm cho   người dân, đó là sự sai lầm trong chính sách. Tuy nhiên, việc Quân đội của chính   phủ  Venezuela do Tổng thống Nicolas Maduro  đứng đầu phong tỏa biên giới,   chặn đường viện trợ của các tổ chức nhân đạo và các nước khác là vi phạm nhân   quyền nghiêm trọng và đáng lên án. Chỉ vì lo sợ bị lật đổ  mà Tổng thống đương   nhiệm­ một cá nhân­ mặc nhiên để hơn 30 triệu người dân chịu thiếu thốn cùng   cực. Mãi đến ngày 17/04/2019, dưới áp lực của các cuộc biểu tình trong nước, tổ  chức Liên Hiệp Quốc và các nước khác, lô hàng viện trợ  đầu tiên của tổ  chức  Chữ thập đỏ Quốc tế mới đến được Venezuela. Qua   thực   trạng   nêu   trên,   có   thể   thấy   được   điều   kiện   sống   của   người   dân  Venezuela   đang   ở   tình   trạng   vô   cùng  tồi  tệ,   quyền   con   người   bị   xâm   phạm   nghiêm trọng. Theo như khoản 1 Điều 25 bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền:   Ai cũng có quyền được hưởng một mức sống khả  quan về  phương diện sức   khỏe và an lạc cho bản thân và gia đình kể  cả  thức ăn, quần áo, nhà  ở, y tế  và  những dịch vụ cần thiết;…Đây là quyền cơ bản và bị vi phạm một cách nặng nề  và rõ ràng nhất­ nước chuyển màu đen không thể uống, thức ăn khan hiếm, cơ sở  y tế không thể đáp ứng nhu cầu chữa trị, bạo loạn nổi lên khắp đất nước… Đại  hội đồng Liên Hợp Quốc đã ghi: “bản Tuyên Ngôn Quốc Tế  Nhân Quyền này  như một tiêu chuẩn thực hiện chung cho tất cả các dân tộc và quốc gia, sao cho   mỗi cá nhân và đoàn thể xã hội luôn nhớ tới bản tuyên ngôn này, nỗ lực phát huy   sự tôn trọng các quyền tự do này bằng học vấn và giáo dục, và bằng những biện   pháp lũy tiến trên bình diện quốc gia và quốc tế, bảo đảm sự thừa nhận và thực   thi trên toàn cầu các quyền tự do này cho các dân tộc thuộc các quốc gia hội viên  hay thuộc các lãnh thổ bị giám hộ.” Tuy hiến pháp mỗi nước là khác nhau, nhưng  nhân quyền là đối tượng điều chỉnh chủ yếu, và có sự thống nhất giữa các nước   trong việc xác định các quyền cơ  bản của con người và sự  cần thiết trong việc   bảo vệ  các quyền  ấy. Chính trị  là quan trọng, nhưng con người trước hết phải   được đảm bảo các nhu cầu về mặt sinh học, một đất nước mà người dân phải  vật vã với từng bữa ăn thì không thể có được chính trị ổn định.  Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có thông tin về việc khởi kiện ông Maduro trong việc  vi hiến về bảo vệ nhân quyền. Các lệnh trừng phạt của Mỹ nhắm vào Venezuela   6 Bài báo Tổng thống Maduro chấp nhận để hàng viện trợ vào Venezuela, báo  điện tử VnEconomy, http://vneconomy.vn/tong­thong­maduro­chap­nhan­de­hang­ vien­tro­vao­venezuela­20190417114024917.htm
  6. và các quốc gia  ủng hộ  ông Maduro chỉ  làm tồi tệ  thêm tình hình của quốc gia   này, người dân càng thêm khốn khổ. Đến nay, động thái đáng chú ý nhất của  Liên Hợp Quốc là   lên án việc quân đội Venezuela sử  dụng vũ lực với thường   dân sau cái chết của hai người tại biên giới Brazil vào ngày 22/02/2019. Có thể  nhận định rằng, trong trường hợp này, việc bảo vệ nhân quyền theo quy định của   Hiến pháp như 1 nguyên tắc chung đã không được đảm bảo. 4. HIẾN PHÁP LÀ LUẬT TỐI CAO 4.1. Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất Về mặt pháp lý, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất, phản ánh sâu sắc nhất   quyền của Nhân dân và mối quan hệ giữa Nhà nước với Nhân dân; Hiến pháp là  nguồn, là căn cứ để  ban hành luật, pháp lệnh, nghị  quyết và các văn bản khác  thuộc hệ  thống pháp luật: Tất cả  các văn bản khác không được trái với Hiến  pháp mà phải phù hợp với tinh thần và nội dung của Hiến pháp, được ban hành  trên cơ sở quy định của Hiến pháp và để thi hành Hiến pháp. Các điều ước quốc   tế mà Nhà nước tham gia không được mâu thuẫn, đối lập với quy định của Hiến   pháp; khi có mâu thuẫn, đối lập với Hiến pháp thì cơ  quan nhà nước có thẩm  quyền không được tham gia ký kết, không phê chuẩn hoặc bản lưu đối với từng  điều. Ngoài ra, tất cả các cơ quan nhà nước phải thực hiện chức năng, nhiệm vụ  và quyền hạn của mình theo Hiến pháp, sử dụng đầy đủ các quyền hạn, làm tròn  các nghĩa vụ mà Hiến pháp quy định. “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ  tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác  của Nhà nước và toàn thể  Nhân dân có trách nhiệm bảo vệ  Hiến pháp”. Tất cả  các công dân có nghĩa vụ  tuân theo Hiến pháp, nghiêm chỉnh chấp hành các quy  định của Hiến pháp; “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ  Hiến  pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh ”. Đặc  biêt, việc xây dựng, thông qua, ban hành, sửa đổi Hiến pháp phải tuân theo trình  tự đặc biệt được quy định trong Hiến pháp. 4.2. Cơ chế bảo hiến  4.2.1. Tại sao phải bảo vệ Hiến Pháp? Xét về bản chất, Hiến pháp là một văn bản để hạn chế quyền lực của nhà nước   và bảo vệ  quyền lợi của người dân theo nguyên tắc cơ  quan nhà nước chỉ  làm  những gì luật định và người dân có quyền làm những gì pháp luật không cấm. Về  lý thuyết, quyền lực của nhà nước bị giới hạn, tuy nhiên, với vai trò là người làm   luật và giám sát việc thực hiện, các cơ  quan nhà nước có đầy đủ  quyền lực để  có xu hướng lạm quyền, tìm cách để vượt khỏi sự kiểm soát của Hiến pháp cũng   tức là vi phạm Hiến pháp. Như vậy, tất yếu cần phải có một cơ chế đặc biệt để  bảo vệ Hiến pháp khỏi sự vi phạm đó của các cơ quan nhà nước. 4.2.2. Sự cần thiết phải có cơ chế giám sát Hiến Pháp
  7. Theo Điều 8 của Hiến pháp 2013:  “1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã  hội   bằng   Hiến   pháp   và   pháp   luật,   thực   hiện   nguyên   tắc   tập   trung   dân   chủ. 2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân,   tận tụy phục vụ  Nhân dân, liên hệ  chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và   chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí  và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.”  Ngoài ra, trong một nhà nước pháp quyền, tính tối cao và bất khả xâm phạm của   Hiến pháp đòi hỏi phải được tuân thủ tuyệt đối. Bên cạnh đó, vì Hiến pháp còn   được nhìn nhận như  một khế   ước của nhân dân, xác lập chế  độ  chính trị, kinh  tế, văn hóa, xã hội, khẳng định quyền lực nhà nước và chủ quyền thuộc về nhân   dân, ghi nhận và bảo vệ các quyền với tính chất quan trọng đó, cơ chế bảo hiến  cần được xây dựng một cách hoàn chỉnh. 4.2.3. Cơ chế giám sát Hiến pháp theo quy định của pháp luật hiện hành Giám sát việc tuân thủ Hiến pháp của quy định hiện hành theo cơ chế phân công  phân nhiệm mà trong đó Quốc hội giữ vai trò giám sát chính đã được quy định tại  Điều 69, 70 của Hiến pháp 2013 như: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến,   quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối  cao đối với hoạt động của Nhà nước.”; “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc  tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;” Việc giám sát Hiến Pháp đã có luật quy định tương đối toàn diện như: Hiến pháp   2013; Luật Tổ  chức Quốc hội (Luật số  57/2014/QH13 ngày 20­11­2014); Luật  Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (Luật số 87/2015/QH13   ngày 20­11­2015); Luật Tổ  chức Chính phủ  (Luật số  76/2015/QH13 ngày 19­6­ 2015);... Quốc hội giám sát: Ủy  ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ  tướng chính  phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao,  Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm liên tịch giữa cơ  quan nhà nước có thẩm quyền  ở  Trung  ương với cơ  quan trung  ương   của tổ  chức chính trị  ­ xã hội, văn bản quy phạm của Hội đồng nhân  dân và Ủy ban nhân dân. Ủy ban thường vụ  Quốc hội giám sát: Chính phủ, Thủ  tướng Chính  phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản  quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và  Ủy ban nhân dân cấp   tỉnh. Chủ tịch nước cũng giám sát  Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,  Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
  8. Chính phủ  kiếm tra các văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, cơ  quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ kiểm tra văn bản quy phạm  pháp luật các Bộ, cơ  quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân và  Ủy ban   nhân dân cấp tỉnh về những mảng có liên quan đến ngành, lĩnh vực mà  mình phụ trách. Tòa án nhân dân nhân dân khi xét xử các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế,   hành chính mà phát hiện các văn bản pháp luật sai trái là nguyên nhân  gây ra vụ án thì có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền sữa chữa, bãi  bỏ. Viện kiểm sát nhân dân kiếm sát hoạt động tư pháp. Hội đồng nhân dân,  thường trực Hội  đồng nhân dân, đại biểu Hội  đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch ủy ban nhân dân trong phạm   vi nhiệm vụ  quyền hạn của mình giám sát , kiểm tra văn bản quy  phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp dưới  trực tiếp. Hội đồng giám sát văn bản của  Ủy ban nhân dân cùng cấp.  Như là Hội đồng nhân dân bãi bỏ những quyết định sai trái của Ủy ban  nhân dân cùng cấp, những nghị  quyết sai trái của Hội đồng nhân dân  cấp dưới trực tiếp. 4.3. Thực tiễn Bộ  Giao Thông Vận Tải ban hành văn bản trái với Hiến pháp và Bộ  luật Lao   Động “Ngày 30/6/2017, Bộ  GTVT ban hành Thông tư  số  21/2017/TT­BGTVT, để  thay   thế cho Thông tư số 41/2015/TT­BGTVT. Tuy nhiên, cả hai văn bản nêu trên đều  có   vi   phạm   nghiêm   trọng   Hiến   pháp   và   Bộ   luật   Lao   động   năm   2012.  Ngày 12/6/2015, Bộ trưởng Bộ GTVT ban hành Thông tư số 41/2015/TT­BGTVT  (Thông tư 41/2015), sửa đổi bổ sung một số điều trong phần 12 và 14 của Bộ quy  chế an toàn hàng không dân dụng trong lĩnh vực tàu bay và khai thác tàu bay”. Tại phần 14.169 của văn bản này, có quy định “nhân viên hàng không trình độ  cao” muốn nghỉ việc phải báo trước 120 ngày. Ngoài ra khi chuyển đổi nhà khai   thác, nhân viên phải: “Đã chấm dứt hợp đồng lao động và thực hiện đầy đủ  các   nghĩa vụ  (nếu có) đối với người khai thác tàu bay, tổ  chức bảo dưỡng tàu bay  hiện tại theo quy định…”. Sau đó, ngày 30/6/2017, Bộ trưởng Bộ GTVT, ban hành Thông tư số 21/2017/TT­ BGTVT (Thông tư 21/2017), văn bản này cũng đưa những nội dung trên vào “Bộ  quy chế an toàn hàng không dân dụng lĩnh vực tàu bay và khai thác tàu bay”.
  9. Những quy định trong 2 Thông tư 41/2015 và 21/2017 của Bộ GTVT đang trái với   Điều 35 của Hiến pháp; trái với Điều 37 Bộ  luật Lao động và trái với Điều 5   Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cho rằng việc ra các văn bản nêu trên không trái với pháp luật, tại buổi họp báo  Chính phủ ngày 2/6/2018 khi trả lời báo chí, Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Nhật   cho rằng:Hai thông tư  số  41/2015 và Thông tư  21/2017 thay thế  Thông tư  41 cả  hai thông tư này đều điều chỉnh việc sử dụng người lao động trong lĩnh vực hàng   không. Do lĩnh vực hàng không có nhiều điểm rất đặc biệt, tiêu chí an toàn an   ninh hàng không phải tuân thủ theo các tiêu chuẩn đặc biệt khắt khe. Đào tạo các   nhân viên ngành hàng không, đặc biệt là các phi công, rất mất thời gian, quy trình  quy định khác nhau. Cũng theo Thứ trưởng Nguyễn Nhật, tại Khoản 1, Điều 70 của Luật Hàng không   dân dụng 2006 đã giao thẩm quyền cho Bộ trưởng Bộ GTVT quy định về chế độ  lao  động  đặc   thù   đối   với   nhân  viên   hàng  không.   Căn  cứ   quy  định   này,   ngày  12/8/2015,   Bộ   trưởng   Bộ   Giao   thông   vận   tải   đã   ban   hành   Thông   tư   số  41/2015/TT­BGTVT   và   sau   đó   được   thay   thế   bằng   Thông   tư   số   21/2017/TT­ BGTVT để  tạo hành lang pháp lý cho việc quản lý, sử  dụng nhân viên hàng   không bậc cao, tạo điều kiện cho việc sử dụng nguồn nhân lực một cách hài hòa,   không tạo nên những đột biến trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, ảnh  hưởng đến toàn bộ hoạt động khai thác cảng hàng không, sân bay. Theo  quy  định   của   Thông   tư   thì   nhân   viên  hàng  không  trình   độ   cao   khi   đơn   phương chấm dứt hợp đồng lao động phải báo trước cho người sử  dụng lao  động 120 ngày. Theo quy định tại Điều 37 Bộ luật Lao động, người lao động làm  việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương  chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động   biết trước ít nhất 45 ngày. Như vậy, Điều 37 của Bộ luật Lao động chỉ quy định mức giới hạn tối thiểu mà  không quy định mức tối đa. Mặt khác, tại Khoản 2, Điều 3, Luật Hàng không dân   dụng Việt Nam quy định: “Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật  này với luật khác về cùng một nội dung liên quan đến hoạt động hàng không dân   dụng thì áp dụng quy định của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam”, do vậy   quy định trong Luật này được ưu tiên. Trao đổi với PV Báo GD&TĐ về  những nội dung trong 2 văn bản nêu trên hiện  đang không tuân thủ  một số vấn đề  trong việc chấm dứt hợp đồng lao động và  bồi hoàn chi phí đào tạo không đúng với quy định, Luật sư  Lê Minh Thắng –  Giám đốc Công ty Luật K và Cộng Sự, thuộc Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho biết: Bộ  quy chế  an toàn hàng không dân dụng lĩnh vực tàu bay và khai thác tàu bay  (ban hành kèm theo Thông tư  21/2017) gồm 23 phần. Trong đó, phần 14.169 quy  định về  các yêu cầu, trình độ  đối với nhân viên hàng không “trình độ  cao” bao   gồm: Thành viên tổ  lái (phi công); nhân viên bảo dưỡng, sửa chữa tàu bay và  
  10. thiết bị tàu bay có chứng chỉ CRS mức B trở lên đã có sự vi phạm nghiêm trọng  Luật Lao động, cụ thể: Tại mục 3.b. Chấm dứt hợp đồng lao động, quy định: “1. Nhân viên hàng không trình độ cao có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng  lao động trước thời hạn, nhưng phải thông báo bằng văn bản cho Người khai   thác tàu bay, tổ  chức bảo dưỡng tàu bay ít nhất 120 ngày trước ngày dự  kiến   chấm dứt hợp đồng lao động để  Người khai thác tàu bay lập kế  hoạch duy trì  hoạt động bảo đảm khai thác tàu bay theo kế hoạch bay đã được phê duyệt. 2. Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại khoản 1 điểm này   nếu kết thúc vào tháng 6, tháng 7 của năm thì hợp đồng lao động sẽ kéo dài đến  hết tháng 7 của năm đó. Trường hợp thời hạn kết thúc của hợp đồng vào tháng 1  hoặc tháng 2 của năm thì hợp đồng lao động sẽ kéo dài đến hết tháng 2 của năm  đó.” Trong   khi   đó,   Khoản   3   Điều   27,   Bộ   luật   Lao   động   quy   định   về   quyền   đơn  phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động, nêu rõ: “ Người lao  động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn  phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử  dụng lao  động biết trước ít nhất 45 ngày”. Như  vậy, rõ ràng quy định nêu trên trong Thông tư  21/2017 của Bộ  GTVT ban   hành ngày 30/06/2017, đang trái với Luật Lao động, không phù hợp với tinh thần  của Điều 35 Hiến pháp 2013. Theo đó, Điều 35 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nêu   rõ: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề  nghiệp, việc làm và nơi làm   việc. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công   bằng, an toàn; được hưởng lương, chê đô ngh ́ ̣ ỉ  ngơi. Nghiêm cấm phân biệt đối  xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu”. Mặt khác, Thông tư 21/2017 đã được Bộ GTVT ban hành dựa trên nền tảng Luật  Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2014 với quan điểm cho rằng: “ Trường hợp  có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với quy định của luật khác về cùng   một nội dung liên quan đến hoạt động hàng không dân dụng thì áp dụng quy định  của Luật này” ­ (khoản 2 Điều 3) là không phù hợp với Luật ban hành văn bản   quy phạm pháp luật vì bản thân nó vi phạm các nguyên tắc cơ bản (quy định tại   Điều   5),   cụ   thể: ­   Đảm   bảo   tính   hợp   Hiến; ­   Đả m   bảo   tính   hợp   pháp; ­ Đảm bảo tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp  luật. ­ Đảm bảo công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị 
  11. của cá nhân, cơ  quan, tổ  chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy   phạm pháp luật.       Qua phân tích nêu trên, có thể  thấy, việc không cho người lao động được thực   hiện các quyền và hưởng các lợi ích hợp pháp của họ  sẽ  khiến cho Người lao  động chán nản và khó kiểm soát hành vi (nhân viên hàng không trình độ cao ­ loại  lao động đặc thù). Điều này sẽ  gây nguy hiểm đối với an toàn bay, nhà quản lý  ban hành văn bản cần phải xem xét từ nhiều khía cạnh, không thể dùng ý chí của   người sử dụng lao động áp đặt cho nhân viên. Như  vậy, việc ban hành Thông tư  số: 21/2017/TT­BGTVT ngày 30/06/2017 quy   định chung một thời hạn đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động 120 ngày là   trái quy định của Luật Lao động nên cần phải hủy bỏ  để  tránh mọi khiếu kiện  hoặc tiền lệ  xấu cho các luật khác “cơ  hội gặm nhấm” Luật lao động. Qua đó  tránh việc các ngành lạm dụng tính đặc thù để  tước bỏ, gây cản trở  người lao   động thực hiện các quyền lợi của họ, cũng như  bảo vệ  tính toàn vẹn của hệ  thống văn bản quy phạm pháp luật.
  12. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (PGS. TS Vũ Văn Nhiêm) 3. News.zing.vn 4. https://vi.wikipedia.org/wiki/Quyền_dân_sự_và_chính_trị 5. https://vi.wikipedia.org/wiki/Luật hiến pháp 6. https://voer.edu.vn/m/hien­phap­hoa­ky/cf3994a0 7. https://photos.state.gov/libraries/vietnam/8621/translations/us­ constitution.pdf 8. https://vietbao.com/p122a183541/5461/cali­xin­tinh­tien­medi­cal­lien­ bang­bac­bo­vi­sai luat?  9. Luật_Hiến_pháp_Hoa_Kỳ.pdf 10. https://usis.us/luat­di­tru/gioi­thieu­he­thong­phap­luat­hoa­ky­phan­2 11. https://hocluat.vn/tam­quyen­phan­lap­la­gi­the­hien­qua­hien­phap­nhu­ the­nao/? 12. https://www.wattpad.com/­1501311­mối­quan­hệ­giữa­quốc­hội­với­các­ cơ­quan­nhà­nước/page/2 13. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nhân_quyền 14. Bài báo Tổng thống Maduro chấp nhận để hàng viện trợ vào Venezuela,  báo điện tử VnEconomy, http://vneconomy.vn/tong­thong­maduro­chap­ nhan­de­hang­vien­tro­vao­venezuela­20190417114024917.htm 15. https://hocluat.vn/vi­sao­noi­hien­phap­la­luat­co­ban­cua­nha­nuoc­co­ hieu­luc­phap­li­cao­nhat/ 16. https://giaoducthoidai.vn/phap­luat/bo­gtvt­ban­hanh­van­ban­trai­voi­ hien­phap­va­bo­luat­lao­dong­3949725­v.html 17. https://www.slideshare.net/nguoitinhmenyeu/tinh­toi­cao­cua­hien­phap 
  13. BÀI TẬP 2 NHỮNG GIÁ TRỊ CẦN KẾ THỪA CỦA HIẾN PHÁP 1946 1. Sơ lược về Hiến pháp 1946 1.1 Hoàn cảnh ra đời Sau thắng lợi vang dội của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ngày 2/ 9/ 1945,   Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt  Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngay sau đó, vào ngày 20/ 9/ 1945, thay mặt Chính phủ  lâm thời, Người đã ký sắc lệnh số  34/SL quyết định thành lập Uỷ  ban dự  thảo   Hiến pháp của Chính phủ  với mong muốn:  Bản Hiến pháp của nền dân chủ   cộng hoà đầu tiên  ở  Việt Nam phải thể  hiện rõ tư  tưởng quyền lực nhà nước   thuộc về  nhân dân.7    Không lâu sau đó, vào tháng 11/1945, Ban dự  thảo đã cho  công bố  trên báo Cứu quốc để  toàn dân tham gia góp ý kiến cho Hiến pháp của  nước  Việt  Nam DCCH. Trải  qua  nhiều  cuộc  nghiên  cứu  và  thảo luận,   ngày  9/11/1946, tại kỳ  họp thứ  2, Quốc hội khoá I đã thông qua toàn văn bản Hiến  pháp đầu tiên của nước Việt Nam DCCH­ Hiến pháp năm 1946. Mười ngày sau  khi bản Hiến pháp đầu tiên được ban hành, chiến tranh lại bùng nổ, do vậy mà   Hiến pháp 1946 không được chính thức công bố. Tuy nhiên Chính phủ  dưới sự  lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban thường vụ Quốc hội luôn luôn  dựa vào tinh thần và nội dung của Hiến pháp 1946 để điều hành mọi hoạt động   của Nhà nước. 2.1 Nội dung cơ bản Hiến pháp 1946 được xây dựng dựa trên ba nguyên tắc cơ bản:  Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái, trai, giai cấp, tôn giáo. Đảm bảo các quyền tự do dân chủ. Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Hiến pháp 1946 bao gốm: Lời nói đầu và 7 Chương với 70 Điều được xây dựng   theo ba nguyên tắc nếu trên. Trong đó: Lời nói đầu nêu rõ: “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo đảm  lãnh thổ, giành độc lặp hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân  chủ”. Chương I (từ Điều 1 đến Điều 3) quy định về chính thể, quốc kỳ, quốc ca và  thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chương II (từ Điều 4 đến Điều 21) quy định về quyền và nghĩa vụ của công  dân. Chương III (từ Điều 22 đến Điều 42) quy định về Nghị viện nhân dân (Quốc  hội) cũng như cơ cấu, hoạt động của Nghị viện nhân dân; quyền và nghĩa vụ  của các nghị viên. 7 https://dangthanhnghi.violet.vn/entry/show/entry_id/821581/cat_id/526047
  14. Chương IV (từ Điều 43 đến Điều 56) quy định Chính phủ cũng như quy định  chi tiết cơ cấu, thẩm quyền và phương thức hoạt động của Chính phủ. Chương V (từ  Điều 57 đến 62) quy định về  Hội đồng nhân dân và Uỷ  ban  hành chính cũng như quy định về cơ cấu đơn vị hành chính trên lãnh thổ Việt  Nam. Chương VI (từ Điều 63 đến Điều 69) quy định về cơ quan Tư pháp. Chương VII (Điều 70) quy định về việc sửa đổi Hiến pháp. 2. Những giá trị cần kế thừa của hiến pháp 1946 trong một số chế định cơ  bản Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ  không kém bất kỳ  bản  Hiến pháp nào trên thế giới, là bản Hiến pháp thể hiện rõ nhất tinh thần cơ bản  tư tưởng lập hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiếp thu, chọn lọc các Hiến pháp   dân chủ và tiến bộ của các nước khác, đồng thời đã Việt hóa một cách tối đa cho   phù hợp với điều kiện của nước ta thời bấy giờ. Tuy đã ra đời từ lâu nhưng Bản   Hiến pháp đầu tiên – Hiến pháp 1946 mang những giá trị  chình trị, pháp lý quan   trọng mà Quốc hội cần kế  thừa và phát huy khi sửa đổi và ban hành các bản   Hiến pháp mới (Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 và năm 2013).  2.1 Chủ tịch nước Trong giai đoạn năm 1945­1946 khi Quốc hội bầu ra Chính phủ, đứng đầu là Chủ  tịch Chính phủ chứ không phải là Chủ tịch nước. Thiết chế Chủ tịch nước chỉ có   từ  Hiến pháp 1946 và là kết quả  của tư  duy mới phù hợp với điều kiện Việt   Nam lúc bấy giờ. Sự ra đời của thiết chế Chủ tịch nước thời kỳ này, có thể  nói,   bắt đầu từ  chủ  trương thành lập một Chính phủ  nhân dân cách mạng theo tinh  thần đoàn kết rộng rãi tất cả các tầng lớp dân chúng.  Về  tính chất của Chủ  tịch nước, Hiến pháp 1946 không có quy định định nghĩa  về chế định này. Song từ các quy định về cách thức thành lập và thẩm quyền thì  Chủ tịch nước là người vừa đứng đầu Nhà nước vừa đứng đầu Chính phủ. Chủ  tịch nước nắm trong tay thực quyền rất lớn và không phải chịu bất cứ một trách  nhiệm nào, trừ khi phạm tội phản quốc.  Tính chất đứng đầu Nhà nước (Nguyên thủ quốc gia) của Chủ tịch nước thể  hiện ở chỗ: Chủ tịch nước thay mặt Nhà nước; giữ quyền tổng chỉ huy quân  đội toàn quốc; chỉ  định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải  quân, không quân; ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị; thưởng  huy chương và các bằng cấp danh dự; đặc xá; ký hiệp  ước với các nước;  phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao   của các nước; tuyên chiến hay đình chiến; chọn Thủ  tướng trong Nghị viện  để đưa ra Nghị viện biểu quyết; bổ nhiệm (dưới hình thức sắc lệnh của Chủ  tịch nước) Thủ  tướng, nhân viên Nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ  quan Chính phủ.
  15. Tính chất là người đứng đầu Chính phủ  thể  hiện  ở  chỗ  Chủ  tịch nước chủ  toạ Hội đồng Chính phủ, ký các sắc lệnh của Chính phủ  quy định các chính   sách thi hành các đạo luật và nghị quyết của Nghị viện. Bắt đầu từ  Hiến pháp 1959, Nhà nước ta đã chuyển sang mô hình  Xã  hội chủ  nghĩa kiểu Xô viết nên thiết chế  Chủ tịch nước được xây dựng lại để  phù hợp  với giai đoạn phát triển mới. Tuy nhiên sự  đổi mới đó vẫn dựa trên sự  kế  thừa  những nguyên tắc và ưu điểm của các thiết chế giai đoạn trước.  Sự kế thừa của  chế định này thể hiện ở chỗ: Theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, Quốc   hội là cơ  quan quyền lực nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp,  hành pháp, tư pháp. Các cơ quan khác được Quốc hội lập ra, phân giao nhiệm vụ,   quyền hạn và chịu sự  giám sát, chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Quốc hội lẽ  đương nhiên nắm cả  quyền nguyên thủ. Song, khác với các nước dân chủ  nhân  dân Đông Âu khi chuyển sang chế  độ  xã hội chủ  nghĩa thì cũng đồng thời xoá   thiết chế  nguyên thủ  quốc gia cá nhân,  ở  nước ta thiết chế  Chủ  tịch nước vẫn   tiếp tục tồn tại nhưng được quy định lại cho phù hợp hơn. Chủ  tịch nước vẫn  còn có vai trò khá lớn đối với Hội đồng Chính phủ,  là cầu nối  phối hợp giữa  Quốc hội và Chính phủ, tuy vẫn còn nghiêng nhiều về  phía Chính phủ. Đây là   những điểm kế thừa (lưu giữ) vị trí của Chủ tịch nước đối với Chính phủ ở Hiến  pháp trước. Tại Hiến pháp 1980, thiết chế  Chủ  tịch nước cá nhân bị  xoá bỏ, thay vào đó là   thiết lập chế độ  Chủ tịch nước tập thể dưới hình thức Hội đồng Nhà nước, mô  hình tổ  chức chế định Chủ  tịch nước theo Hiến pháp 1946 còn lưu giữ  ít nhiều,   trong khi Hiến pháp 1959 đã hầu như bị bãi bỏ. Tuy vậy, quá trình thực hiện thể  chế Hội đồng Nhà nước đã nhanh chóng bộc lộ nhiều hạn chế. Tình hình đó đặt  ra yêu cầu phải tổ chức lại chế định này và đã được sửa đổi tại Hiến pháp 1992. Trong Hiến pháp 1992, thiết chế  Chủ  tịch nước được xây dựng lại, c huyển từ  mô hình “nguyên thủ  tập thể” (Hội đồng Nhà nước) sang Chủ tịch nước là một  cá nhân.  Mô hình lần này vừa tiếp thu những  ưu điểm của mô hình Chủ  tịch  nước của Hiến pháp 1959 và 1946, vừa giữ  được sự  gắn bó giữa Quốc hội, Uỷ  ban Thường vụ Quốc hội và Chủ  tịch nước trong việc thực hiện các chức năng   Nguyên thủ quốc gia trong thể chế Hội đồng Nhà nước trong Hiến pháp 1980 (là   đặc trưng của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa), đồng thời có thêm những đặc  trưng mới để  bảo đảm sự  phân công và phối hợp giữa các cơ  cấu trong bộ máy  nhà   nước. Hiến pháp 1992 (Điều 101) xác định tính chất của Chủ  tịch nước là người đứng  đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội   và đối ngoại. Những tính chất này, cũng giống như  các bản Hiến pháp trước. Chế định Chủ tịch nước cá nhân được tái lập và kế thừa nhiều điểm ưu việt của  chế định này trong các Hiến pháp trước đã bảo đảm được sự độc lập, chủ động   giải quyết nhanh các nhiệm vụ, đồng thời góp phần tăng cường tính phân công  và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước  
  16. ­ là những yếu tố  góp phần tăng cường hiệu lực và hiệu quả, tính nhanh nhạy   của bộ máy nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Với Hiến pháp 2013, chế  định Chủ  tịch nước về  cơ  bản vẫn giống với Hiến   pháp năm 1992 nhưng đã được tăng thêm nhiều quyền hạn  đáng kể,  đơn cử  quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề cần thiết. Chế định hiện nay có sự  giao thoa; trước tiên xác định Chủ  tịch nước là nguyên thủ  quốc gia; đồng thời  thực hiện một phần quyền hành pháp, một phần quyền tư  pháp, lập pháp dù  chưa rõ nét. Từ  Hiến pháp 1992 trở  đi, thiết chế  Chủ  tịch nước Việt Nam gần   giống với mô hình tổng thống của Singapore, Đức, Áo...quy định rằng Chủ  tịch  nước là nguyên thủ quốc gia song không đứng đầu cơ quan hành pháp.
  17. 2.2  Quốc hội Ở bản Hiến pháp đầu tiên – Hiến pháp năm 1946, Chế độ Nghị viện lần đầu tiên  được xác lập tại Việt Nam. Theo Điều 22 Hiến pháp 1946 quy định: “Nghị viện  nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”. Trên phương diện thẩm quyền,  ở  Điều 23  Hiến pháp năm 1946 xác định một  cách tổng quát: “Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc,   đặt ra pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp  ước mà Chính phủ  ký  với nước ngoài”, chứ  không quy định một cách chi tiết như  các bản Hiến pháp  Việt   Nam   sau   này.   Cơ cấu tổ chức của Nghị viện nhân dân, theo quy định của Hiến pháp năm 1946  cũng không phức tạp như chế độ Nghị viện của các quốc gia dân chủ thời kỳ đó.  Nghị viện chỉ có một ban duy nhất là Ban Thường vụ bao gồm một Nghị trưởng,   12 Uỷ  viên chính thức, 3 Uỷ viên dự khuyết với nhiệm kỳ  tương đối ngắn là 3  năm. Điểm đặc biệt cần nhấn mạnh về  chế  định Nghị  viện  ở  Hiến pháp 1946 đó   chính là tính dân chủ  trong hình thức hoạt động. Điều 30 Hiến pháp 1946 quy  định   rằng:  “Nghị   viện   họp   công   khai,   công   chúng   được   nghe”  và   Điều   33:  “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa nhân dân phán quyết, nếu  hai phần ba tổng số Nghị viện đồng ý, Nghị viện có thể tự giải tán. Ban Thường   vụ thay mặt Nghị viện tuyên bố tự giải tán. Đến năm 1959, khi nước ta thực hiện một bước chuyển căn bản từ một chế độ  thuộc địa thực dân phong kiến sang chế độ  XHCN theo kiểu Xô viết thì chế độ  Nghị viện nhân dân đã thay đổi với việc quy định: “Quốc hội là cơ  quan quyền   lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ  cộng hoà” (Điều 43).  Đây  không chỉ  đơn thuần là sự  thay đổi về  tên gọi mà còn khẳng định Quốc hội là:  “Cơ  quan duy nhất có quyền lập pháp”,  thể  hiện một bước chuyển biến quan   trọng trong chế độ sắc lệnh sang chế độ đạo luật.  Trong bản Hiến pháp 1959, các thẩm quyền và cách tổ chức của Quốc hội được  cải tiến dựa trên tinh thần của Hiến pháp năm 1946. Chức năng của Quốc hội  được quy định cụ thể hơn với nhiều quyền hạn mới và nhiệm kì thay đổi từ  ba  sáng bốn năm. Hiến pháp năm 1959 xác định cơ quan Thường trực của Quốc hội   là Uỷ  ban thường vụ  Quốc hội  thay cho ban Thường vụ  Nghị  viện như  năm  1946.  Ngoài ra còn có Uỷ  ban dự  án pháp luật, Uỷ  ban kế  hoạch ngân sách, và  những Uỷ ban khác mà Quốc hội xét thấy cần thiết để giúp Quốc hội và Uỷ ban   thường vụ Quốc hội. Với bản Hiến pháp năm 1980, bản chất của Quốc hội vẫn giống như  được xác  định trong Hiến pháp năm 1959, với tính cách là một chế  định quyền lực quan   trọng của một nhà nước phát triển mô hình XHCN. Tuy nhiên, tại Hiến pháp năm   1980, bản chất của Quốc hội đã được xác định cụ thể hơn: “Quốc hội là cơ quan  đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước   Cộng hoà XHCN Việt Nam” (Điều 82, Hiến pháp năm 1980). Tại quy định này, 
  18. nhà lập hiến đã xác định rõ hai tính chất của Quốc hội: tính chất đại biểu của   nhân dân và tính chất quyền lực cao nhất.  Nếu Hiến pháp năm 1959 mới chỉ xác  định một tính chất cơ  bản nhất của Quốc hội là tính chất quyền lực nhà nước  cao nhất, thì đến Hiến pháp năm 1980 tính chất đại biểu cho nhân dân đã được  khẳng định. Trên phương diện chức năng và thẩm quyền, Quốc hội trong Hiến   pháp năm 1980 không có thay đổi lớn so với Quốc hội được quy định trong Hiến   pháp năm 1959 ngoài sự thiếu vắng của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Hiến pháp năm 1992 ra đời trong các điều kiện đổi mới là một bước phát triển  quan trọng của bộ  máy nhà nước Việt Nam.  Nghiên cứu các điều khoản của  Hiến pháp năm 1992 về Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam so   sánh với các điều khoản các Hiến pháp trước đây về  Quốc hội, chúng ta thấy  rằng, Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992 vẫn tiếp tục kế  thừa đặc điểm quan  trọng có tính bản chất của Quốc hội Việt Nam trong lịch sử lập hiến nh ư: tính   chất đại biểu tối cao của nhân dân, tính chất quyền lực nhà nước tối cao, là cơ  quan duy nhất lập hiến và lập pháp; Quốc hội với bốn chức năng: lập hiến và  lập pháp, thành lập các cơ  quan tối cao của nhà nước, quyết định các vấn đề  quan trọng của quốc gia, thực hiện quyền giám sát tối cao...”. Điều đáng chú ý  trong cơ cấu tổ chức của Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992 là việc thiết lập trở  lại chế  định Uỷ  ban thường vụ  Quốc hội, đây chính là sự  kế thừa chế định Uỷ  ban thường vụ Quốc hội theo Hiến pháp năm 1959. Đối với các Uỷ ban khác của  Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 tiếp tục kế  thừa tinh thần của Hiến pháp năm   1980 về các Uỷ  ban. Tuy nhiên, các Uỷ  ban theo Hiến pháp năm 1980 được xác   định là   Uỷ  ban Thường trực  của   Quốc  hội (Điều  92,  Hiến  pháp  năm 1980),  nhưng đến Hiến pháp năm 1992 tính chất thường trực của Uỷ  ban không được  nhắc đến. Hiến pháp năm 2013 được xem là bước phát triển dài và cơ bản so với Hiến pháp  1946 trong lịch sử lập hiến. Các quy định của Hiến pháp năm 2013 về Quốc hội  vừa kế  thừa đầy đủ  các giá trị  các quy định của Hiến pháp 1946 về  Nghị  viện   nhân dân vừa phát triển và bổ sung mới nhiều giá trị mới về cơ quan đại biểu cao  nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong cấu trúc tổ  chức   bộ  máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa của nhân dân, do nhân dân, của  nhân dân.  Theo đó, Hiến pháp 2013  tiếp tục khẳng định vị  trí, tính chất, chức  năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội như bốn bản  Hiến pháp trước, song  về  mức độ  đã được điều chỉnh cho phù hợp hơn với thực tiễn, nội dung được  thể hiện cô đọng và gọn hơn. Điều 69 Hiến pháp năm 2013 xác định “Quốc hội   là cơ  quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ  quan quyền lực cao nhất của   nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. 2.3 Chính phủ Theo Điều 43 Hiến pháp năm 1946: “Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc  là Chính phủ  nước Việt Nam dân chủ  cộng hòa”. Có thể  nói, Chính phủ  trong  Hiến pháp 1946 được trao quyền rất lớn bao gồm các quyền:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2