LUẬN VĂN:
Biện pháp thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu
mặt hàng cao su ở Công ty Thực phẩm
miền Bắc (fonexim) - Bộ Thương Mại
Lời mở đầu
Ngày nay, hoạt động xuất khẩu giữ vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động
thương mại của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.Thông qua hoạt đông xuất
khẩu,các quốc gia khai thác được lợi thế của mình trong phân công lao động quốc
tế, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và tạo
công ăn việc làm cho dân cư.
Đối với Việt Nam,hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, tạo tiền đề vững chắc để thực hiện thắng lợi
mục tiêu CNH - HĐH đất nước và từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và
thế giới. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2005, Đảng và Nhà
nước ta đã nêu rõ : Chúng ta phải tiếp tục xây dựng một nền kinh tế mở cửa theo
hường đẩy mạnh xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những mặt hàng
trong nước sản xuất có hiệu quả.
Dựa trên những điều kiện thuận lợi về đất đai,khí hậu và một nền kinh tế nông
nghiệp lâu đời với trên 70% dân số tham gia sản xuất nông nghiệp Việt Nam đã xác
định cao su là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng tạo nguồn thu ban
đầu cần thiết cho phát triển kinh tế đất nước.Trên thực tế,hàng cao su Việt nam xuất
khẩu không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng trong những năm
qua.Nguyên nhan là do Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đề ra những biện
pháp,chính sách cụ thể nhằm khuyến khích,tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty
kinh doanh xuất khẩu cao su có thể nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của mình
cũng như uy tín của Việt Nam trên thị trường cao su thế giới.
Công ty Thực phẩm miền Bắc (fonexim) - Bộ Thương Mại là một trong những
công ty thực hiện khá tốt hoạt động xuất khẩu cao su.Tuy nhiên bên cạnh những
thành tựu đạt được,Công ty vẫn còn không ít khó khăn cần phải khắc phục để đẩy
mạnh xuất khẩu mặt hàng này.Xuất phát từ thực tiễn trên tôi quyết định chọn đề tài
:"Biện pháp thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu mặt hàng cao su ở Công ty Thực
phẩm miền Bắc (fonexim) - Bộ Thương Mại " làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp.
Đề tài gồm 3 chương lớn với các nội dung sau :
Chương I : Những vấn đề cơ bản về kinh doanh xuất khẩu mặt
hàng cao su.
Chương II :Thực trạng kinh doanh xuất khẩu cao su của Công ty Thực
phẩm miền Bắc (fonexim) - Bộ Thương Mại.
Chương III : Phương hướng và biện pháp thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu
cao su ở Công ty Thực phẩm miền Bắc (fonexim) - Bộ Thương Mại.
Dựa trên lý luận và phân tích thực tế đã được học,tôi đưa ra một số biện pháp
nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nói chung,xuất khẩu cao su nói riêng nhằm
mở rộng thị trường của Công ty trên toàn thế giới.
Được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn Nguyễn Quang Huy và tập
thể cán bộ của Công ty Thực phẩm miền Bắc - Bộ Thương Mại tôi đã hoàn thành
được đề tài này.Do nhận thức còn hạn hẹp cũng như chưa trải qua thực tế nên trong
đề tài còn nhiều thiếu sót.Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô,các cán
bộ Công ty để đề tài được hoàn thiên tốt hơn.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy giáo Nguyễn Quang Huy và
tập thể cán bộ Công ty Thực phẩm miền Bắc - Bộ Thương Mại đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
Chương I
Những vấn đề cơ bản về kinh doanh
xuất khẩu mặt hàng cao su
I. Khái quát về kinh doanh xuất khẩu hàng hoá
1. Khái niệm về kinh doanh xuất khẩu.
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi Quốc tế. Nó không phải
là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có
tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục tiêu lợi nhuận, thúc đẩy sản xuất hàng
hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế,ổn định và từng bước nâng cao mức sống
nhân dân. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh dễ đem lại hiệu quả đột biến nhưng có
thể gây thiệt hại lớn vì nó phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài
mà chủ thể trong nước tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được.
Mục đích của hoạt động kinh doanh là khai thác được lợi thế của các quốc gia
trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hoạt động
xuất khẩu diễn ra trong mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện với nhiều loại mặt hàng
khác nhau. Phạm vi hoạt động xuất khẩu rất rộng cả về không gian và thời gian.
Xuất khẩu hàng hoá là một trong những lĩnh vực kinh doanh Quốc tế. Bởi vậy,
xuất khẩu mang đặc trưng rõ rệt của kinh doanh Quốc tế nói chung, ngoài ra còn
mang một số đặc trưng về xuất khẩu .
- Các chủ thể kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu thường có quốc tịch khác
nhau, ngôn ngữ khác nhau, mang những bản sắc văn hoá khác nhau.
- Xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ sẽ đem lại cho quốc gia một lượng ngoại tệ
phục vụ cho nhập khẩu phát triển trong nước, đồng thời mang lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp.
- Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên thị trường rộng lớn khó kiểm soát.
- Mua bán qua trung gian chiếm tỷ trọng lớn.
- Đồng tiền thanh toán sẽ là đồng ngoại tệ đối với ít nhất một trong các đối
tác . Đồng tiền thanh toán thường là ngoại tệ mạnh.
- Hàng hoá xuất khẩu vận chuyển qua biên giới.
- Xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ sẽ chịu sự điều chỉnh của các nguồn luật khác
nhau và phải tuân theo các tập quán Thương mại Quốc tế cũng như địa phương.
2- Vai trò của xuất khẩu hàng hoá
Kinh doanh xuất khẩu tạo điều kiện cho nhiều quốc gia có thể phát huy tối đa
những lợi thế của mình về vốn, công nghệ, tài nguyên, nguồn lao động. Đồng thời
kinh doanh xuất khẩu cũng tạo điều kiện cho nhiều quốc gia đang phát triển và
những quốc gia kém phát triển có điều kiện tiếp thu được những công nghệ, kinh
nghiệm quản lý kinh doanh tiên tiến của các quốc gia đi trước.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong khâu phân phối lưu thông của quá trình tái sản xuất
mở rộng, nhằm mục đích liên kết giữa sản xuất và tiêu dùng giữa nước này với
nước khác. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện qua các điểm sau:
a. Xuất khẩu là phương tiện chính góp phần tạo nguồn vốn cho nhập khẩu
phục vụ CNH- HĐH đất nước.
Nhiệm vụ trọng tâm, cơ bản của Việt Nam trong chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2002 là đưa Việt Nam trở thành một nước công nghịêp
phát triển. Vì vậy nhiệm vụ cơ bản của những năm tới đây là đẩy mạnh quá trình
CNH- HĐH đất nước.
Để tiến hành CNH- HĐH thì cần phải có đủ 4 yếu tố, đó là nhân lực, tài nguyên,
vốn và kỹ thuật. Nhưng không phải hiện nay bất cứ quốc gia nào cũng có đủ các
yếu tố đó, đặc biệt là các nước đang phát triển và kém phát triển trong đó có Việt
Nam.
Công nghiệp hoá đất nước đi theo những bước đi hợp lý là con đường tất yếu để
khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để CNH trong một
thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến cùng với phương pháp quản lý tiên tiến của các nước phát triển.
Nguồn vốn để nhập khảu có thể được hình thành từ các nguồn như:
- Đầu tư nước ngoài
- Vay nợ, viện trợ
- Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ
- Xuất khẩu hàng hoá
Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ ... tuy quan trọng nhưng
rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau. Chẳng hạn như,
nguyên tắc nhận vốn từ nước ngoài phải là trả bằng sản phẩm hoạc chia sẻ tài
nguyên thiên nhiên cho bên kia. Đặc biệt trong thời gian gần đây, sau cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ Châu á (năm 1997) và vụ khủng bố toà nhà trung tâm
Thương mại thế giới ở New York (11-9-2001)làm cho các hoạt động đầu tư của các
nước phát triển vào các nước đang và kém phát triển giảm sút rất mạnh. Trong đó
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam giảm sút rất nhanh cả về số lượng dự án đầu tư và số
vốn đầu tư. Do vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu phục vụ CNH đất
nước chính là xuất khẩu . Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng của
nhập khẩu.
ở nước ta, thời kỳ 1986- 1990 nguồn thu của nước ta về nhập xuất khẩu chiếm 3/4
tổng nguồn thu ngoại tệ, năm 1994 thu xuất khẩu đã đảm bảo được 80%nhập khẩu
so với 24,6% năm 1986. Với xu hướng này các năm sau kim ngạch xuất khẩu đều
tăng lên so với các năm trước đó.
Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên. Nhưng mọi cơ hội đầu tư và vay
nợ nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuận lợi khi các chủ đầu tư và người cho
vay thấy được khả năng xuất khẩu ,nguồn vốn duy nhất để trả nợ trở thành hiện
thực.
b. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế , thúc đẩy sản
xuất phát triển .
Hiện nay, do thành quả của cuộc cách mạng Khoa học & Công nghệ hiện đại, cơ
cấu sản xuất , và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Các
nước phát triển ngày càng tập trung vào sản xuất những mặt hàng có hàm lượng kỹ
thuật cao và ít ô nhiễm môi trường. Các nước công nghiệp mới (NICs) đang phấn
đấu đuổi kịp các nước phát triển và đã có nhiều nghành vuợt qua các nước phát triển
. Các nước Đông Nam á ( trong đó có Việt Nam ) có cơ cấu kinh tế ngày càng thay
đổi một cách mạnh mẽ theo chiều hướng gắn kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế
giới, đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn và công nghệ từ nước ngoài.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH phù hợp với xu hướng phát
triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với Việt Nam.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
Một là, xuất khẩu chỉ là tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu
cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước
ta, sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng và nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của
sản xuất thì xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé và tăng trưởng thấp và sự thay đổi kinh tế sẽ
chậm chạp.
Hai là, trên cơ sở lợi thế so sánh của đất nước mình, coi thị trường và đặc biệt
thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất . Quan điểm này xuất
phát từ thị trường thế giới kết hợp với tiềm năng, thực lực của đất nước để tổ chức
sản xuất, hình thành các ngành kinh tế hướng về xuất khẩu. Những ngành kinh tế đó
phải có kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để hàng hoá khi tham gia vào thị trường thế
giới có đủ sức cạnh tranh và mang lại lợi ích cho quốc gia. Điều đó tác động tích
cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển. Đó là:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận
lợi. Ví dụ, khi phát triển dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội cho việc phát triển ngành sản
xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm. Sự phát triển của công nghiệp chế
biến thực phẩm xuất khẩu, kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo
thiết bị.
- Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho
sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm đổi mới thường
xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn
và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại
hoá nền kinh tế nước ta.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc cạnh
tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải
tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường.
- Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện
công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành.
Như vậy theo cách hiểu thứ hai này, xuất khẩu được coi là giải pháp làm chuyển
dịch cơ cấu kinh tế một cách mạnh mẽ theo chiều hướng có lợi hơn, hiệu quả kinh
tế cao hơn.
c- xuất khẩu tác động tích cực đến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện
đời sống nhân dân.
Xuất khẩu tác động đến nhiều mặt của đời sống của người dân. Trước hết, sản xuất
hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu người lao động và tạo ra thu nhập không
thấp. Việt Nam là một nước có dân số đông (gần 80 triệu người) đứng vào hàng thứ
hai Đông Nam á (sau Indonesia) và vào loại nước có dân số đông trên thế giới với
mức sống của người dân còn rất thấp. Theo số liệu thống kê năm 1997 Việt Nam là
một trong những nước có GDP bình quân đầu người thấp nhất thế giới, bằng 1/2
Trung Quốc, 1/3 Philipine và Indonesia, 1/6 Malayxia, 1/100 Nhật Bản. GDP bình
quân đầu người một năm năm 2001 của Việt Nam , vào khoảng 300- 400 USD.
Thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển cũng như một số nước khác trong khu
vực.
Do dân số đông lại là một nước chậm phát triển nên dư thừa lao động đặc biệt
trong khu vực nông thôn hiện nay đang là vấn đề căng thẳng và khó giải quyết. Mặc
dù những năm gần đây, lực lượng này có xu hướng giảm so với các nước trong khu
vực nhưng tỷ lệ thất nghiệp vẫn khá cao.Nạn thất nghiệp diễn ra khá trầm trọng ở
khu vực nông thôn: Trên 11 triệu lao động ở nông thôn cần có việc làm trong những
năm tới, 30% dân số ở nông thôn là các hộ nghèo đói.Trong khi đó tốc độ tăng dân
số vẫn cao( 1,8% năm) , đặc biệt là khu vực nông thôn.
Vấn đề đặt ra là phải làm sao nâng cao được đời sống của người dân và giảm tỷ lệ
thất nghiệp. Hoạt động thượng mại nói chung và xuất khẩu nói riêng phát triển kéo
theo hàng triệu người tham gia vào vào lĩnh vực này và dần dần nâng cao mức sống
của người dân. Bởi vì xuất khẩu phát triển đã kéo theo hàng loạt các ngành nghề
khác phát triển ( như đã nói ở trên), khôi phục lại những ngành nghề truyền thống,
khắc phục số nông nhàn trong lĩnh vực nông nghiệp ngày càng triệt để hơn. Xuất
khẩu phát triển thúc đẩy quá trình liên doanh liên kết, hàng loạt các ngành nghề mới
ra đời đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng hiện đại.
Bên cạnh đó, xuất khẩu còn tạo nguồn vốn để nhập kihẩu những vật phẩm tiêu
dùng thiết yếu mà trong nước không tự sản xuất được ( hoặc sản xuất nhưng với giá
thành cao) phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu của
nguươì dân.
d- xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối
ngoại của nước ta.
Quan hệ kinh tế đối ngoại là tổng thể các mối quan hệ về thương mại kinh tế và
KH-KT giữa các quốc gia với nhau. Các hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế là
xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình và vô hình, đầu tư quốc tế, du lịch dịch vụ, xuất
khẩu sức lao động, hợp tác KH-KT, hợp tác sản xuất, hợp tác tài chính...
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt
với phân công lao động Quốc tế. Thông thường các hoạt động xuất khẩu ra đời sớm
hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát
triển. Chẳng hạn xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng,
đầu tư, vận tải Quốc tế... Đến lượt nó chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền
đề cho mở rộng xuất khẩu.
Nói tóm lại, xuất khẩu là hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối ngoại, là phương
tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược để thực hiện CNH- HĐH đất nước. Hiện nay nhà nước ta đã và
đang thực hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng vào xuất khẩu,
khuyến khích khu vực tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết việc làm và tăng thu
ngoại tệ cho đất nước.
Đối với mỗi doanh nghiệp, vai trò của xuất khẩu được thể hiện ở các khía cạnh
sau:
- Thông qua xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào
cạnh tranh trên thị trường thế giới. Điều đó buộc các doanh nghiệp phải năng động,
sáng tạo để tìm ra cho mình một hướng đi đúng, phù hợp để tồn tại và đứng vững
trên thị trường Quốc tế.
- Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện
công tác quản trị kinh doanh cho phù hợp với thời đại. Đồng thời xuất khẩu còn tạo
nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp để tái đầu tư vào quá trình sản xuất cả về
chiều rộng lẫn chiều sâu.
- Thông qua hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp có cơ hội mở rộng quan hệ
buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài. Từ đó có điều kiện học hỏi, tiếp thu kinh
nghiệm quản lý tiên tiến từ phía đối tác nước ngoài, góp phần nâng cao năng lực
chuyên môn cho các thành viên trong doanh nghiệp.
- Chính kinh doanh xuất khẩu góp phần giải quyết các sản phẩm đầu ra cho
các đơn vị sản xuất kinh doanh,tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn
ra bình thường.
- Kinh doanh xuất khẩu phát huy được những khả năng vượt trội của doanh
nghiệp khắc phục được những hạn chế của doanh nghiệp.Từ đó đem lại lợi nhuận
cao cho doanh nghiệp.
Có thể nói một cách khái quát rằng kinh doanh xuất khẩu góp phần mở rộng các
quan hệ kinh tế đối ngoại và nâng cao vị thế, uy tín của quốc gia, doanh nghiệp trên
thị trường Quốc tế. Về mặt kinh tế mà xét, kinh doanh xuất khẩu đem lại nhiều cái
lợi hơn là thiệt hại. Điều đó tuỳ thuộc vào khả năng ứng xử và khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp, của từng quốc gia trên thị trường thế giới.
3. Nhiệm vụ của xuất khẩu hàng hoá .
Từ sau năm 1986, Chính phủ Việt Nam bắt đầu mở cửa nền kinh tế, xoá bỏ chế độ
quản lý kế hoạch hoá tập trung , nền kinh tế của Việt Nam nói chung và xuất khẩu
nói riêng đã đạt được những thành tựu nhất định. Trước đây trong cơ chế quản lý kế
hoạch hoá tập trung, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều thực hiện theo kế
hoạch từ trên giao xuống. Các doanh nghiệp không được tự chủ trong kinh doanh
cũng như không phải lo đầu ra cho sản phẩm, tất cả đã có Nhà nước lo. Hơn nữa các
doanh nghiệp chỉ cần thực hiện sao cho hoàn thành số lượng được giao, không cần
biết chất lượng ra sao cả. Chính vì vậy hàng hoá sản xuất ra với chất lượng kém,
trong khi đó hàng hoá lại được sản xuất theo kế hoạch nên không đáp ứng đúng nhu
cầu của thị trường. Vì vậy, hàng hoá của Việt Nam rất khó xuất khẩu được. Hoạt
động xuất nhập khẩu là do Nhà nước quản lý, các doanh nghiệp không được tự
mình tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu hoặc nếu có thì thủ tục cũng rất phức
tạp. Vì lẽ đó mà Ngoại thương Việt Nam đã kém phát triển lại càng kém hơn.
Trong những năm qua, kể từ khi mở cửa nền kinh tế , xuất khẩu Việt Nam đã đạt
được những thành tựu quan trọng cả về kim nghạch và cơ cấu cũng như thị trường
so với thời kỳ trước song còn nhiều vấn đề phải khắc phục. Phân tích hoạt động
kinh doanh hàng hoá xuất khẩu thời gian gần đây có thể rút ra một số kết luận sau:
- Tuy tốc độ xuất khẩu tăng nhanh nhưng quy mô còn rất nhỏ bé, chưa đáp
ứng được nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế.
Trong những năm qua Chính phủ Việt Nam đã liên tục cải cách chế độ xuất nhập
khẩu . Tất cả các doanh nghiệp không kể các doanh nghiệp nhà nước hay doanh
nghiệp tư nhân nếu như có giấy phép kinh doanh mặt hàng mình cần xuất nhập khẩu
, và mặt hàng đó nếu như không thuộc mặt hàng cấm xuất nhập khẩu đều được tự
mình trực tiếp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Chính điều này đã làm cho
tốc độ xuất khẩu tăng rất nhanh. Tuy vậy, quy mô xuất khẩu của các doanh nghiệp
còn rất nhỏ bé.
Cơ cấu xuất khẩu thay đổi rất chậm chạp, phần lớn xuất khẩu hàng hoá nguyên
liệu ở dạng sơ chế. Chất lượng hàng hoá xuất khẩu của ta thấp nên khả năng cạnh
tranh rất yếu. Nguyên nhân là do, một phần các doanh nghiệp đã quen với cơ chế cũ
nên chất lượng hàng hoá thấp. Hơn nữa, hầu hết máy móc của các doanh nghiệp đều
đã cũ kỹ lạc hậu cộng với trình độ quản lý yếu kém làm cho hàng hoá đã kém chất
lượng lại càng kém hơn.Hơn nữa, nước ta là một nước kém phát triển , vì vậy rất
thiếu những công nghệ hiện đại. Do đó danh mục hàng xuất khẩu chủ yếu là tài
nguyên thiên nhiên hoặc ở dạng sơ chế. Do vậy rất khó có thể thay đổi dược cơ cấu
hàng xuất khẩu trong một thời gian ngắn.
- Hàng xuất khẩu còn manh mún, chưa có mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Việt
Nam là một nước nhỏ và là một trong những nước khi tham gia vào thị trường thế
giới trong vị trí là một nước chấp nhận giá, không điều tiết được thị trường thế giới
về nhu cầu sản phẩm mà mình sản xuất. Do đó, rất khó có thể để làm cho Việt Nam
có được những mặt hàng mang lại nhiều lợi nhuận hay còn gọi là những mặt hàng
chủ lực.
- Kim ngạch xuất khẩu thấp, nhưng lại có quá nhiều doanh nghiệp tham gia
vào hoạt động xuất nhập khẩu thế giới dẫn đến tăng hàng hoá nhập khẩu và hàng
hoá xuất khẩu, tạo điều kiện cho thương nhân nước ngoài chèn ép giá.
Do các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là tài nguyên thiên nhiên và các
mặt hàng ở dạng sơ chế cộng vơí Việt Nam là nước chấp nhận giá trên thị trường
thế giới nên kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam rất thấp và bếp bênh. Phụ thuộc
rất nhiều vào bên ngoài. Nếu như giá cả trên thị trưòng thế giới tăng thì kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam sẽ tăng. Nhưng nếu như giá cả thị trường thế giới giảm
mạnh thì kể cả có tăng khối lượng xuất khẩu rất nhiều so với năm trước nhưng khi
có kim ngạch xuất khẩu vẫn còn kém hơn năm trước. Đây là vấn đề cấp bách mà
Nhà nước cần phải quan tâm giải quyết. Hơn nữa, mặc dù Nhà nước mở rộng quyền
hạn cho các doanh nghiệp được quyền tự mình tham gia vào các hoạt động xuất
nhập khẩu trực tiếp nhưng Nhà nước lại không quản lý được các hoạt động xuất
nhập khẩu của họ. Vì vậy, thường xảy ra các trường hợp tranh mua, tranh bán giữa
các doanh nghiệp. Điều đó càng làm cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thấp
đi.
Để khắc phục tình trạng trên, trước hết hoạt động xuất khẩu cần hướng vào thực
hiện các nhiệm vụ sau:
- Phải mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh xuất khẩu nhằm
tạo thành cao trào xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá cho sự giàu có.
- Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước như đất đai,
nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật- công nghệ chất xám, theo
hướng khai thác lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh.
- Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và
kim ngạch xuất khẩu.
- Tạo ra những mặt hàng ( nhóm hàng) xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi
hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về cả chất lượng và số lượng có khả
năng hấp dẫn và cạnh tranh cao.
4. Các hình thức xuất khẩu.
Trên thực tế có rất nhiều loại hình kinh doanh xuất nhập khẩu nhưng những hình
thức chủ yếu thường được các doanh nghiệp ngoại thương lựa chọn bao gồm:
4.1.Xuất khẩu và nhập khẩu trực tiếp
đây là hình thức mà hàng hoá được mua hay bán trực tiếpcủa nước ngoài không
qua trung gian.Phần lớn hàng ở thị trường thế giới được thực hiện qua phương thức
xuất nhập khẩu trực tiếp (trên 2/8 kim ngạch buôn bán).
Hình thức này co ưu điểm làlợi nhuận của đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu
thường cao hơn các hình thức khác do giảm bớt được các khâu trung gian.Với vai
trò là người bán trực tiếp,đơn vi có thể nâng cao uy tín của mình thông qua quy
cách phẩm chất của hàng hoá.Mặt khác,các đơn vị này cũng có điều kiện tiềp cận
thị trường,nắm bắt được các thông tin một cách nhạy bénhơn,để đưa ra những ứng
xử linh hoạt,thích ứng với thị trường.Tuy vạy laọi hình này đòi hỏi phải ứng trước
một số vốnkhá lớn để sản xuất hoặc thu mua hàng và có thể gặp nhiều rủi ro như
hàng không xuất được,thanh toán chậm,lạm phát hay sự thay đổi của tỷ giá hối đoái.
4.2. Xuất nhập khẩu gián tiếp
Đây là loại hình xuất nhập khẩu qua trung gian thương mại.Ưu điểm của hình thức
này là người trung gian giúp cho người xuất khẩu tiết kiệm được thời gian,chi
phí,giảm bớt nhiều việc liên quan đến tiêu thụ hàng.Ngoài ra người trung gian còn
có thể giúp cho người xuất khẩu tín dụng trong ngắn hạn và trung hạn bởi vì trung
gian có quan hệ với công ty vận tải,ngân hàng...Tuy nhiên,sử dụng hình thức này
cũng có nhược điểm là lợi nhuận bị chia xẻ do tổn phí,doanh nghiệp xuất khẩu mất
mối quan hệ trực tiếp với thị trường,thông tin nhiều khi không chính xác.
4.3. Chuyển khẩu,tạm nhập tái xuất
Đây là hình thức mua của nước này bán cho nước khác,không làm thủ tục xuất
nhập khẩu và thường hàng đi thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu.Người
kinh doanh chuyển khẩu trả tiền cho người xuất khẩu và thu tiền của người nhập
khẩu hàng hoá đó.Thường khoản thu lớn hơn tiền trả cho người xuất khẩu,do đó
người kinh doanh thu được số chênh lệch(lãi).Các mặt hàng này(tạm nhập tái
xuất,tạm xuất tái nhập,chuyển khẩu)được miễn thuế xuất nhập khẩu.
Xét về đường đi của hàng hóa tái xuất và chuyển khẩu giống nhau.Chỗ khác nhau
là kinh doanh chuyển khẩu chủ yếu là kinh doanh dịch vụ vận tảiCòn tái xuất là loại
hìnhhợp đồng kinh doanh hàng hoá:nhập khẩu để xuất khẩu hàng đó,không qua chế
biến,thu lã tức thời.Người kinh doanh bỏ vốn ra mua hàng,bán lại hàng đó đẻ thu lời
nhiều hơn.Việc giao dịch thực hiện ở ba nước:nước xuất khẩu,nước tái xuất,nước
nhập khẩu.Giao dịch tái xuất là giao dịch ba bên,ở ba nước.
Mặc dù xuất nhạp khẩu trực tiếp có những ưu điểm không thể phủ nhận được
nhưng hiện naydo chính sách thương mại của từng nước nên hình thức chuyển khẩu
vàtạm nhập tái xuất vẫn tồn tại khá phổ biến.
4.4. Mua bán đối lưu
Đây là hoạt động giao dịch trong đó hoạt động xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với hoạt
động nhập khẩu,có sự cân xứng giữa mua và bán,người bán đồng thời là người
mua,lượng hàng trao đổi có giá trị tương đương.Hình thức này được sử dụng rộng
rãi ở các nước đang phát triển.Vì thiếu ngoại tệ tự do chuyển đổi,các nước này dùng
hàng để cân đối nhu cầu trong nước.
Trong hình thức này yêu cầu:
* Cân bằng về tổng giá trị xuất nhập khẩu
* Cân bằng về chủng loại hàng quý hiếm
* Cân đối về giá cả
Hai loại nghiệp vụ phổ biến nhất trong mua bán đối lưu là đổi hàng và trao đổi bù
trừ.
- Đổi hàng hoặc hàng đổi hàng: là trao đổi một hoặc nhiều hàng này lấy một hoặc
nhiều hàng khác,tổng trị giá tương đương,khi thiếu hụt không qua thanh toán bằng
ngoại tệ mà trả bằng hàng khác.
- Trao đổi bù trừ : là một mặt hàng này (hoặc nhiều mặt hàng)trao đổi với mặt
hàng khác(hoặc nhiều mặt hàng khác),không thanh toán bằng tiền mà trả bằng hàng
theo yêu cầu của các bên.Chỗ chênh lệch có thể thoả thuận trả bằng tiề hoặc bổ
sung bằng hàng theo yêu cầu của bên kia.
Trước đây,nước ta rất hay sử dụng hình thức trao đổi này do không có thị trường
tiêu thụ sản phẩm,sản phẩm lại không đa dạng,chất lượng kém.Sự trao đổi diễn ra
phổ biến với các nước Đông Âu mà hình thức này cũng ít được sử dụng.
4.5. Gia công quốc tế
Đây là hình thức kịnh doanh trong đó một bên,gọi là bên nhận gia công nhập khẩu
nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác(gọi la bên đặt gia công)để chế
biến ra thành phẩm,giao lại cho bên đặt gia công và nhận phí gia công.
Gia công Quốc tế cũng là hình thức xuất khẩu khá phổ biến,được nhiều nước,đặc
biệt là các nước đang phát triển có nguồn nhân lực dồi dào áp dụng.Thông qua hình
thức này,họ vừa tạo điều kiện cho người lao động có công ăn việc làm,lại vừa tiếp
nhận được công nghệ mới.Mặt khác các nước này lại không phải bỏ ra nhiều vốn và
cũng không lo về thị trường tiêu thụ.
Các nước đặt gia công cũng có lợi vì họ có thể tận dụng được nguồn nguyên liệu
phụ và nhân công dồi dào với giá rẻ của các nước nhận gia công.Song hình thức này
cũng có hạn chế là các nước nhận gia công bị phụ thuộc vào nước đặt gia công về
số lượng,chủng loại hàng hoá gia công đồng thời cũng bị o ép về phí gia công.
ở nước ta gia công xuất khẩu phổ biến là hàng may mặc,lắp ráp điện tử.Đó là một
hình thức mậu dịch lao động,xuất khẩu lao động qua hàng hoá.
4.6. Xuất khẩu uỷ thác
Trong hình thức này,đơn vị ngoại thương đóng vai trò quan trọng,làm trung gian
xuất khẩu,làm thay cho đơn vị sản xuất(bên có hàng)những thủ tục cần thiết đẻ xuất
hàng và hưởng phần trăm theo giá trị hàng xuất đã được thoả thuận.Hình thức này
bao gồm các bước:
* Ký hợp đồng xuất khẩu uỷ thác với đơn vị trong nước
* Ký hợp đồng xuất khẩu,giao hàng và thanh toán tiền hàng với bên nước ngoài.
* Nhận uỷ thác xuất khẩu từ đơn vị trong nước.
Đây là hình thức phổ biến ở Việt Nam hiện nay.Các doanh nghiệp đứng ra nhân sự
uỷ thác thường là các doanh nghiệp nhà nước.
II Nội dung kinh doanh xuất khẩu mặt hàng cao su
1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu.
Lý thuyết Marketing hiện đại đặt cơ sở cho việc nghiên cứu thị trường : "xuất khẩu
cái mà thị trường cần chứ không xuất khẩu cái mà mình có". Công tác nghiên cứu
thị trường là vấn đề đầu tiên được đắt ra với bất cứ doanh nghiệp nào muốn tham
gia vào hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng và nó là
khâu then chốt quyết định đến thành bại của hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp về sau. Thông tin về thị trường sẽ là kim chỉ nam dẫn dắt doanh nghiệp đi
đến những quyết định tếp theo.
1.1- Lựa chọn thị trường xuất khẩu.
Lựa chọn thị trường xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với việc lưa chọn thị trường
trong nước bởi vì các nước khác nhau có những nhu cầu, yêu cầu rất khác nhau về
mỗi loại hàng hoá. Do vậy việc lựa chọn thị trường xuất khẩu đòi hỏi phải tốn nhiều
thời gian và công sứa mới đưa ra được quyết định đúng đắn. Khi nghiên cứa thị
trường doanh nghiệp luôn chú ý đến các vấn đề:
- Thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường và các nhân tố
làm thay đổi dung lượng của thị trường.
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một thị trường
nhất định, trong một thời kỳ nhất định. Nghiên cứu về dung lượng thị trường cần
xác định nhu cầu thực hiện của khách hàng kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến động
của nhu cầu trong thời từng điểm. Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng cần nắm được
cung và xu hướng cung trên thị trường đó. Doanh nghiệp cần dự báo được các nhân
tố làm thay đổi dung lượng trên thị trường như:
+ Các nhân tố làm thay đổi dung lượng thị trường có tính chất chu kỳ: Sự
vận động tình hình kinh tế của nước nhập khẩu. Đây là yếu tố rất quan trọng cần
nghiên cứu để lựa chọn thời gian và đối tác giao dịch.
+ Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến dung lượng thị trường: các biện pháp
chính sách của Chính phủ, những tiến bộ khoa hoc- kỹ thuật, thị hiếu, tập quán tiêu
dùng của thị trường.
+ Các nhân tố có tính chất ảnh hưởng tạm thời tới dung lượng thị trường
như: đầu cơ gây đột biến về cung- cầu, chính sách chính trị xã hội ảnh hưởng tới
cung cầu mặt hàng mà công ty kinh doanh.
- Nắm vững thông tin về biến động giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới
cũng như giá nguồn hàng cung cấp trong nước.
Việc nghiên cứu giá cả trên hàng hoá trên thị trường thế giới là một vấn đề rất
quan trọng, đối với bất kỳ một đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu nào. Giá cả hàng
hoá trên thị trường phản ánh quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới.
Việc nghiên cứu giá cả được coi là vấn đề mang tính chiến lược bởi nó ảnh hưởng
trực tiếp tới sức tiêu thụ và lợi nhận của công ty. Nắm vững giá cả hàng hoá sẽ cho
phép công ty có khả năng đưa ra những chính sách giá cả hợp lý, giành được thắng
lợi trong xuất khẩu.
- Công việc nghiên cứu thị trường phải diễn ra thường xuyên liên tục vì thị
trường luôn biến động.
1.2- Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu.
Mục đích của việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu là để xác định những mặt hàng
kinh doanh phù hợp với năng lực và khả năng của công ty, đồng thời đáp ứng nhu
cầu của thị trường, từ đó mang lại hiệu quả kinh doanh cao.
Để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu, trước tiên cần dựa vào nhu cầu và thị hiếu của
người tiêu dùng về chủng loại, số lượng, chất lượng, giá cả hàng hoá trên thị trường
xuất khẩu. Mặt khác cần xem xét khả năng đáp ứng của thị trường trong nước về
mặt hàng đó. Công ty nghiên cứu thị trường để lựa chọn mặt hàng xuất khẩu cũng
cần chú ý đến đối thủ cạnh tranh, khả năng cung ứng, sức mạnh tài chính, kế hoạch
sản xuất kinh doanh của họ và các biện pháp cạnh tranh mà họ sử dụng.
Công ty cũng đề cao việc đánh giá đúng thực lực của mình về khả năng cung ứng,
giá cả và việc dự báo chính xác những thuận lợi, khó khăn khi tung hàng hoá ra thị
trường nước ngoài.Một trong những nhân tố công ty thường đánh giá, phân tích kỹ
lưỡng khi lựa chọ mặt hàng là tỷ giá ngoại tệ hàng xuất khẩu (Tỷ giá ngoại tệ hàng
xuất khẩu là số bản tệ phải bỏ ra để thu được một đồng ngoại tệ). Tỷ giá ngoại tệ
hàng xuất khẩu nhỏ hơn tỷ giá hối đoái là tín hiệu quan trọng đưa đến quyết định
lựa chọn xuất khẩu mặt hàng đó.
1.3- Lựa chọ đối tác kinh doanh:
Trong lĩnh vực xuất khẩu, đối tác kinh doanh là những người hoặc những tổ chức
có quan hệgiao dich với ta nhằm thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hoá hoặc
các loại dịch vụ. Việc lựa chọn đúng đối tác là điều rất quan trọng để thực hiện
thắng lợi hợp đồng xuất khẩu. Căn cứ để lựa chọn thường là các nhân tố sau:
Một là, tình hình sản xuất, kinh doanh của nhà sản xuất để thấy được khả
năng cung cấp có lâu dài, thường xuyên hay không, từ đó đưa ra quyết định liên kết,
liên doanh hay đặt hàng sản xuất.
Hai là, khả năng tài chính, khả năng thanh toán của khách hàng trong ngắn
hạn, dài hạn đảm bảo hợp đồng được thanh toán đúng thời hạn. Nghiên cứu sức
mạnh về vốn, về công nghệ của đối tác cho thấy được những ưu thế trong thoả
thuận về giá cả, điều kiện thanh toán.
Ba là, thái độ và quan điểm kinh doanh của đối tác trên thị trường trong nước
cũng như trên thị trường Quốc tế.
2. Xây dựng chiến lược và kế hoạch xuất khẩu.
2.1- Chiến lược xuất khẩu.
Chiến lược xuất khẩu là việc công ty xác định hệ thống các mục tiêu xuất khẩu
trong một giai đoạn nhất định và xây dựng các giải pháp để thực hiện các mục tiêu
đã đề ra. Chiến lược xuất khẩu có thể là: chiến lược chuyên môn hoá, hay đa dạng
hoá mặt hàng xuất khẩu , chiến lược về doanh thu, về kim ngạch hay tối đa hoá lợi
nhuận từ hoạt động xuất khẩu.
Công tác xây dựng chiến lược có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự thành bại
của hoạt động kinh doanh.Khi hoạch định chiến lược cần phải nhìn xa trông rộng,
nắm bắt được những xu thế biến động của thị trường, của triển vọng tương lai. Tiếp
đến là xây dựng kế hoạch xuất khẩu để hiện thực hoá chiến lược đó.
2.2- Kế hoạch xuất khẩu.
Công ty cần phải đặt ra những mục tiêu kế hoạch trong từng thời kỳ nhất định (
thời kỳ ngắn hơn so với mục tiêu chiến lưọc) và thống nhất với mục tiêu chiến lược.
Mục tiêu cần phải rõ ràng, cụ thể đối với toàn công ty và đối với từng bộ phận.
Chẳng hạn khi mục tiêu chiến lược của công ty trong giai đoạn này là lợi nhuận thì
mục tiêu kế hoạch chung của công ty là phải đạt được bao nhiêu lợi nhuận trong
năm...
Có thể vạch ra các mục tiêu định tính hay định lượng. Các mục tiêu định lượng
được gọi là chỉ tiêu kế hoạch xuất khẩu, bao gồm: Chỉ tiêu doanh số, chỉ tiêu chi phí
, chỉ tiêu lợi nhuận , dự trữ... Công ty cần xây dựng kế hoạch các công việc cụ thể
cần làm để hoàn thành các chỉ tiêu này.
Việc xây dựng chiến lược xuất khẩu và các kế hoạch để thực hiện chiến lược xuất
khẩu là công việc rất cần thiết. Nó giúp công ty nắm bắt những cơ hội và giảm thiểu
rủi ro. Việc dự báo chính xác nhu cầu thị trường từ đó xây dựng lên các kế hoạch
thu mua, dự trữ... sẽ đảm bảo cho xuất khẩu thắng lợi.
3. Tổ chức giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu
Đàm phán là hành vi và quá trình, mà trong đó hai hay nhiều bên tiến hành thương
lượng, thảo luận về các mối quan tâm chung và những quan điểm còn bất đồng, để
đi đến thoả thuận thống nhất.
Đàm phán không đơn thuần là quá trình theo đuổi nhu cầu lợi ích riêng lẻ của một
bên, mà là quá trình đôi bên thông qua việc không ngừng điều chỉnh nhu cầu của
mình mà tiếp cận với nhau, cuối cùng đạt đến ý kiến thống nhất. Vì vậy đàm phán là
quá trìh các bên đưa ra yêu cầu, chấp nhận nhượng bộ để nếu thành công thì sẽ ký
hợp đồng, đạt được lợi ích cho cả đôi bên chứ không phải quá trình mỗi bên khăng
khăng bảo vệ lợi ích của riêng mình.
Đàm phán không phải là sự lựa chọn đơn nhất giữa "hợp tác" hay " xung đôt".
Đàm phán thành công-ký hợp đồng, tức vừa giữ được mối quan hệ, vừa đảm bảo lợi
ích của các bên, nên đàm phán là quá trình thông nhất giữa hai mặt mâu thuẫn " hợp
tác" và " xung đột". Trong đàm phán phải tránh khuynh hướng: đàm phán theo kiểu
" mềm",chỉ chú trọng gìn giữ mối quan hệ hai bên, mà không quan tâm bảo vệ lập
trường của mình, kết cục bị đối phương chèn ép, phải đi từ nhượng bộ này đến
nhượng bộ khác, cuối cùng tuy ký được hợp đồng nhưng phải gánh chịu mọi thiệt
thòi. Ngược lại cũng phải tránh khuynh hướng đàm phán theo kiểu " cứng", khăng
khăng bảo vệ lập trường làm cho đàm phán tan vỡ, không ký được hợp đồng hoặc
ký được nhưng đối phương bị ép quá không thực hiện nổi.
Đàm phán không phải là thoả mãn lợi ích của một bên một cách không hạn chế,
mà có giới hạn nhất định. " Đàm phán không phải là cuộc cờ, không nên yêu cầu
quyết đấu một trận thắng thua, đàm phán cũng không phải là một trận đánh, phải
tiêu diệt hoặc đặt đối phương vào đất chết, mà đàm phán là một sự nghiệp hợp tác
đôi bên cùng có lợi" ( Gerald I. Nierenberg).
Vì vậy, người đàm phán cần bảo vệ lợi ích của phía mình, trong phạm vi đã được
xác định có thể tìm được lợi ích càng nhiều càng tốt, mặt khác, bất cứ người đàm
phán nào cũng phải thoả mãn nhu cầu thấp nhất của đối phương. Nếu không làm
được điều đó, thì cuộc đàm phán sẽ bị tan vỡ.
Đánh giá một cuộc đàm phán thành công hay thất bại không phải lấy việc thực
hiện mục tiêu dự định của một bên nào đó làm tiêu chuẩn duy nhất, mà phải sử
dụng một loạt các tiêu chuẩn đánh giá tổng hợp.
- Tiêu chuẩn thực hiện mục tiêu: Đây là tiêu chuẩn đầu tiên dể đánh giá một
cuộc đàm phán thành công hay thất bại. Muốn đánh giá kết quả của một cuộc đàm
phán, trước hết cần xem xét: Kết quả cuối cùng có đạt được mục tiêu xác định ban
đầu không? Mức độ thực hiện cao hay thấp?...
- Tiêu chuẩn tối ưu hoá giá thành- chi phí thấp nhất: Tiến hành một cuộc
đàm phán phải có những chi phí nhất định, thông thường, trong đàm phán hợp đồng
xuất khẩu có 3 loại chi phí như sau:
+ Chi phí cơ bản: Sự nhượng bộ để ký được hợp đồng= khoảng cách giữa
lợi ích dự kiến thu được với lợi ích thực tế thu được trong đàm phán .
+Chi phí trực tiếp của đàm phán: Chi phí nhân lực, vật lực, tài lực và thời
gian cho đàm phán.
+ Chi phí cơ hội: Mất cơ hội đầu tư kiếm lợi ( ký được hợp đồng) khác.
- Tiêu chuẩn quan hệ giữa các bên.
Vì vậy, đàm phán không những là một khoa học mà đồng thời còn là một
nghệ thuật.
3.1- Các nguyên tắc cơ bản và những sai lầm thường mắc trong đàm phán.
a. Các nguyên tắc cơ bản cần nắm vững:
Đàm phán có thể ví như một chuyến du lịch đến những miền đất mới, rất nhiều
điều bất ngờ có thể xảy ra.Các cuộc đàm phán có thể diễn ra rất khác nhau, đơn giản
hay phức tạp, căng thẳng hay nhẹ nhàng, dài hay ngắn... điều đó còn phụ thuộc vào
năng lực của người đàm phán, đối tượng đàm phán, "thế" của các bên, bối cảnh đàm
phán... Vì vậy, không thể áp dụng máy móc, rập khuôn những nguyên tắc kinh
nghiệm của người khác vào cuộc đàm phán của mình. Nói như vậy, không có nghĩa
là đàm phán không có nguyên tắc. Vẫn có những nguyên tắc cơ bản mà ta cần nắm
vững, nếu không sẽ phải trả giá cho sự thiếu hiểu biết của mình. Những nguyên tắc
đó là:
- Đàm phán là một việc tự nguyện, theo nghĩa bất cứ bên nào cũng có thể
thoái lui hay từ chối tham dự đàm phán vào bất cứ lúc nào.
- Đàm phán chỉ có thể bắt đầu khi ít nhất có một bên muốn thay đổi thoả
thuận hiện tại và tin rằng có thể đạt được một thoả thuận mới thoả mãn cả đôi bên.
- Chỉ xảy ra đàm phán khi các bên hiểu rằng: sự việc chỉ được quyết định khi
có thoả thuận chung, còn nếu sự việc có thể quyết định đơn phương bởi một bên thì
không cần xảy ra đàm phán.
- Thời gian là một trong những yếu tố quyết định trong đàm phán. Thời gian
có ảnh hưởng to lớn đến tình hình đàm phán và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả
cuối cùng của đàm phán.
- Một kết cục thành công của đàm phán không phải là giành thắng lợi bằng
mọi giá mà là đạt được điều mà cả hai bên đều mong muốn.
- Phẩm chất, năng lực, kỹ năng, thái độ và tình cảm của những người ngồi
trên bàn đàm phán có ảnh hưởng quyết định đến tiến trình đàm phán.
b. Những sai lầm thường mắc phải trong đàm phán.
Các nhà đàm phán , ngay cả những người lão luyện nhất, cũng khó tránh khỏi mọi
sai lầm.Và một khi đã mắc sai lầm thì ít có khả năng đạt được kết quả một cách mỹ
mãn. Chính vì vậy, chúng ta cần nghiên cứu kinh nghiệm của những người đi trước
để giảm thiểu những sai lầm đó. Từ những kinh nghiệm cá nhân của mình, nhà đàm
phán John Illich cho rằng; Những sai lầm thường gặp trong đàm phán đó là:
- Ngồi vào bàn đàm phán với cái đầu đầy định kiến.
- Không xác định được người có quyền quyết định cuối cùng của phía đối
tác.
- Không xác định được chính xác thế mạnh của mình là gì và không thể sử
dụng thế mạnh đó một cách có hiệu quả.
- Ngồi vào bàn đàm phán chỉ với một phương án duy nhất mà không có
phương án thay thế, nên thường rơi vào thế bị động.
- Không biết cách nâng cao vị thế của mình.
- Không kiểm soát được những yếu tố quan trọng như: Thời gian, những vấn
đề cần giải quyết... mà để cho đối tác kéo đi theo ý muốn của họ.
- Để tuột khỏi tay quyền ra yêu cầu trước.
- Không tận dụng được ưu thế về thời gian và địa điểm trong đàm phán.
- Vội bỏ cuộc khi cuộc đàm phán có vẻ như đi vào chỗ bế tắc.
- Không chọn được thời điểm hợp lý để kết thúc cuộc đàm phán.
3.2- Quá trình đàm phán hợp đồng xuất khẩu.
Quá trình đàm phán diễn ra rất đa dạng, phong phú, tuỳ từng trường hợp cụ thể,
các nhà đàm phán có thể tiến hành theo nhiều thủ tục, nhiều bước khác nhau. Tuy
nhiên quá trình đàm phán hợp đồng có thể xem như một chuỗi gồm 6 giai đoạn như
sau:
- Chuẩn bị đàm phán (Preparing for negotiation)
- Xây dựng chiến lược( Developing your strategy)
- Khởi động ( Getting started)
- Hiểu biết lẫn nhau ( Building understanding)
- Thương lượng( Bargaining)
- Kết thúc ( Closing)
Căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, quá trình đàm phán hợp đồng
xuất khẩu có thể chia ra làm 5 giai đoạn:
- Giai đoạn chuẩn bị
- Giai đoạn tiếp xúc
- Giai đoạn đàm phán
- Giai đoạn kết thúc- ký kết hợp đồng
- Rút kinh nghiệm
3.2.1 Giai đoạn chuẩn bị
Muốn đàm phán thành công trước hết cần chuẩn bị các yếu tố sau:
+ Ngôn ngữ: Trong giao dịch ngoại thương, sự bất đồng ngôn ngữ là trở ngại
lớn nhất. Để khắc phục khó khăn này cần nắm vững và sử dụng thành thạo các
ngoại ngữ. Yêu cầu này không có giới hạn, biết càng nhiều ngoại ngữ càng tốt.
+ Thông tin: Trong thời đại ngày nay- Thời đại của thông tin và bùng nổ
thông tin, thì dù hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực nào, người nắm bắt thông tin nhanh
chóng nhất và chính xác nhất sẽ luôn là người chiến thắng.
Các thông tin cơ bản cần nắm bắt:
* Thông tin về hàng hoá
Trước hết phải nghiên cứu, tìm hiểu kỹ những mặt hàng dự định kinh doanh về
tên gọi, về khía cạnh thương phẩm học để hiểu rõ giá trị, công dụng, các tính chất
cơ lý hoá... của nó, cùng những yêu cầu của thị trường đối với mặt hàng đó như:
quy cách, phẩm chất, bao bì...
Bên canh đó, để chủ động trong giao địch mua bán , còn phải nắm vững tình hình
sản xuất các mặt hàng đó như: thời vụ, khả năng về nguyên vật liiêụ, công nghệ sản
xuất...
Nghiên cứu giá cả của các công ty cạnh tranh
* Thông tin về thị trường
Các thông tin đại cương về đất nước, con người, tình hình chính trị, xã hội.
Những thông tin kinh tế cơ bản: đồng tiền trong nước, tỷ giá hối đoái và tính ổn
định của chúng, cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tệ...
Cơ sở hạ tầng: Đường sá, cầu cống, bến phà, bến cảng, sân bay...
Chính sách ngoại thương
Tìm hiểu hệ thống ngân hàng, tín dụng
Điều kiện vận tải và tình hình giá cước...
* Tìm hiểu đối tác
Tìm hiểu thực lực của đối tác: Lịch sử của công ty , ảnh hưởng của công ty trong
xã hội, uy tín, tình hình tài chính...
Tìm hiểu nhu cầu và ý định của đối tác: Vì sao họ muốn hợp tác với ta? địa vị, sở
thích, tính nết từng người? Ai là người có quyền quyết định trong số đó?...
Thông tin về bản thân công ty mình
Thông tin về canh tranh trong và ngoài nước: quy mô, chiến lược kinh
doanh, tiềm lực thế mạnh, điểm yếu...
Dự đoán xu hướng biến động giá cả trên cơ sở phân tích tình hình cung cầu,
lạm phát, khủng hoảng...
+ Chuẩn bị năng lực
* Chuẩn bị năng lực cho từng chuyên gia đàm phán.
Chuẩn bị về kiến thức: Chuyên gia đàm phán cần có kiến thức và khả năng
toàn diện, chuyên gia đàm phán giỏi đồng thời phải là:
.. Nhà thương mại ( trong nước và quốc tế)
.. Luật gia
.. Nhà ngoại giao
..Nhà tâm lý
..Giỏi ngoại ngữ
.. Có kiến thức về kỹ thuật, văn hoá...
Chuẩn bị về phẩm chất tâm lý: Chuyên gia đàm phán cần có tư duy nhạy bén, biết
suy nghĩ và hành động đúng, có nghị lực, nhẫn nại, không vội , hấp tấp, biết kiềm
chế cảm xúc, không tự ti, không tự kiêu.
Có kỹ năng đàm phán tốt: Có khả năng sử dụng ngôn ngữ tốt, diễn đạt được ý kiến
của mình, trình bày vấn đề rõ ràng, khúc triết, dùng từ chuẩn xác. Có kỹ năng giao
tiếp tốt, bao gồm những kỹ năng sau:
.. Kỹ năng lắng nghe
.. Kỹ năng đặt câu hỏi
.. . Kỹ năng diễn thuyết
.. Kỹ năng giao dịch bằng thư
.. Kỹ năng xã giao thông thường
+ Tổ chức đàm phán
Vấn đề nhân sự trong đàm phán có vị trí đặc biệt quan trọng, đòi hỏi phải có
sự chuẩn bị chu đáo. Thành phần của đoàn đàm phán hợp đồng ngoại thương cần
hội đủ chuyên gia ở 3 lĩnh vực: pháp luật, kỹ thuật, thương mại, trong đó chuyên gia
thương mại giữ vị trí quan trọng nhất. Sự phối hợp ăn ý, nhịp nhàng của 3 loại
chuyên gia nói trên là cơ sở rất quan trọng cho quá trình đàm phán, đi đến ký kết
một hợp đồng chặt chẽ, khả thi và có hiệu quả cao.
+ Chuẩn bị thời gian và địa điểm
* Chuẩn bị thời gian:
Phần lớn phụ thuộc vào sự thoả thuận trước giữa hai bên, trên cơ sở tính toán sự
khác biệt múi giờ giữa hai nước cũng như sự thuận tiện cho các bên. trong thương
mại, thời gian hết sức quý báu, nên trước khi đàm phán , hai bên cần lập và thống
nhất với nhau lịch làm việc cụ thể.
* Chuẩn bị địa điểm: Quan điểm chung là địa điểm đàm phán phải đảm bảo
tâm lý thoải mái và tiện nghi phù hợp cho cả hai bên.
3.2.2 Giai đoạn tiếp xúc
Cuộc đàm phán sẽ diễn ra thuận lợi khi tạo được những không khí thân mật, hữu
nghị, muốn vậy:
- Phải làm cho đối tác tin cậy ở mình.
- Phải tìm mọi cách để thể hiện thành ý của mình
- Cần chú ý làm cho đối tác tin cậy ở mình , bằng những hành động chứ
không chỉ lời nói.
Lời mở đầu rất quan trọng bởi nó:
- Chuyển tải thông tin, thể hiện ý đồ, mong muốn của người phát biểu đối
với vấn đề đàm phán.
- Tạo không khí tiếp xúc tốt.
- Thăm dò vị thế của đối tác...
3.2.3 Giai đoạn đàm phán .
Đây là gia đoạn quan trọng nhất trong toàn bộ quá trình đàm phán, trong giai đoạn
này các bên tiến hành bàn bạc, thoả thuận những vấn đề đôi bên cùng quan tâm như:
hàng hoá , chất lượng, số lượng, giá cả... nhằm đi đến ý kiến thống nhất: ký được
hợp đồng mua- bán hàng hoá ,giai đoạn này bao gồm:
- Đưa ra yêu cầu và lắng nghe đối tác trình bày yêu cầu của họ.
- Nhận và đưa ra nhượng bộ
- Phá vỡ những bế tắc
- Tiến tới những thoả thuận
3.2.4 Giai đoạn kết thúc- ký kết hợp đồng
Đàm phán thành công, các bên sẽ tiến hành ký kết hợp đồng, khi ký kết hợp đồng
cần lưu ý những điểm sau:
- Cần thoả thuận thống nhất với nhau tất cả những điều khoản cần thiết trước
khi ký hợp đồng
- Cần đề cập đến cơ sở pháp lý và mọi vấn đề có liên quan, tránh phải dùng
tập quán thương mại địa phương để giải quyết những tranh chấp phát sinh sau này.
- Hợp đồng không được có những điều khoản trái với luật hiện hành
- Khi soạn thảo hợp đồng cần trình bày rõ ràng, chính xác, tránh những từ
mập mờ có thể suy luận ra nhiều cách.
Hợp đồng thường do một bên soạn thảo, trước khi ký kết, bên kia cần kiểm
ta kỹ lưỡng, đối chiếu với những thoả thuận đã đạt được trong đàm phán
- Người đứng ra ký hợp đồng phải là người có thẩm quyền.
- Ngôn ngữ xây dựng hợp đồng phải là ngông ngữ các bên cùng thông thạo.
3.2.5 Giai đoạn rút kinh nghiệm
Đây là giai đoạn kiểm tra lại kết quả của những giai đoạn trước, nhằm rút kinh
nghiệm cho những lần đàm phán sau. Sau những cuộc đàm phán quan trọng cần tổ
chức họp để đánh giá ưu, nhược điểm, tìm nguyên nhân và biện pháp khắc phục.
Nhưng nếu chỉ dừng tại đó là chưa đủ, mà còn phải theo dõi suốt quá trình tổ chức
thực hiện hợp đồng, ghi nhận lại những vướng mắc, đặc biệt những vướng mắc do
hợp đồng gây ra, để lần sau kịp thời sửa chữa.
4. Tổ chức thực hiện hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi hợp đồng được ký kết, công việc hết sức quan trọng là tổ chức thực hiện
hợp đồng đó.
Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu, bên bán phải tiến hành các công việc sau:
Làm những bước đầu của khâu thanh toán(tuỳ theo phương thức đã chọn), xin giấy
phép xuất khẩu , chuẩn bị hàng hoá để xuất khẩu, thuê tàu, kiểm nghiệm và kiểm
dịch hàng hoá, làm thủ tục hải quan, giao hàng, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh
toán và khiếu nại( nếu có), thanh lý hợp đồng.
4.1 Làm thủ tục xuất khẩu theo quy định của Nhà nước
Giấy phép là tiền đề quan trọng về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác trong
mỗi chuyến hàng xuất khẩu. Thủ tục xin phép xuất khẩu ở mỗi nước có đặc điểm
khác nhau.
ở Việt Nam thủ tục xin phép được thay đổi theo từng thời kỳ, theo hướng ngày
càng đơn giản và thuận lợi. Hiện nay quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các
doanh nghiệp Việt Nam đã được mở rộng, phù hợp với xu thế chung. Nhưng khi
kinh doanh những mặt hàng cụ thể thì doanh nghiệp còn phải tuân theo chính sách
quản lý mặt hàng của Nhà nước, chính sách này thay đổi theo hàng năm. Tuy nhiên
mặt hàng cao su không nằm trong danh mục hàng cấm xuất khẩu hay hàng xuất
khẩu theo hạn ngạch. Vì vậy, công ty không cần xin phép xuất khẩu mà có thể tự
mình xuất khẩu trực tiếp cho đối tác theo như giấy đăng ký kinh doanh của công ty.
4.2 Thực hiện những công việc ở gai đoạn đầu của khâu thanh toán
Thanh toán là mắt xích trọng yếu trong toàn bộ quá trình tổ chức thực hiện hợp
đồng xuất khẩu . Nhà xuất khẩu chỉ yên tâm giao hàng khi biết chắc sẽ được thanh
toán . Vì vậy, cần thực hiện tốt những công việc bước đầu của khâu này. Với mỗi
phương thức thanh toán cụ thể, những công việc này sẽ khác nhau.
a. Thanh toán bằng L/C, công ty cần:
- Nhắc nhở người mua mở L/C đúng yêu cầu
- Kiểm tra L/C
Sau khi kiểm tra L/C xong nếu thấy phù hợp thì tiến hành giao hàng, còn không
phù hợp thì thông báo ngay cho người mua và ngân hàng mở L/C, để tu chỉnh cho
đến khi phù hợp thì mới tiến hành giao hàng.
b. Thanh toán bằng CAD
Công ty cần nhắc người mua mở tài khoản ký thác theo đúng yêu cầu, khi tài
khoản đã được mở cần liên hệ với ngân hàng để kiểm tra điều kiên thanh toán, cần
đặc biệt chú ý : Tên các chứng từ cần xuất trình, người cấp, số bán... kiểm tra xong,
nếu thấy phù hợp thì mới tiến hành giao hàng.
c. Thanh toán bằng T.T trả trước
Nhắc nhở người mua chuyển tiền đủ và đúng hạn, chờ ngân hàng báo " Có" rồi
mới tiến hành giao hàng.
4.3 Chuẩn bị hàng hoá để xuất khẩu
Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá và dịch vụ của một công ty , của một
địa phương hoặc của toàn bộ đất nước có khả năng xuất khẩu được.
Tạo nguồn hàng xuất khẩu bao gồm mọi hoạt động từ đầu tư sản xuất trực tiếp đến
các nghiệp vụ thu mua, ký kết các hợp đồng vận chuyển, bảo quản, sơ chế, phân
loại nhằm tạo ra hàng cao su có đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu.
a. Nghiên cứu nguồn hàng cao su để xuất khẩu.
Nghiên cứu nguồn hàng cao su là nghiên cứu khả năng cung cấp mặt hàng cao su
cho xuất khẩu trên thị trường như thế nào. Khả năng cung cấp nguồn hàng được xác
định bởi nguồn hàng thực tế và nguồn hàng tiềm năng. Nguồn hàng thực tế là nguồn
đã có sẵn sàng đưa vào lưu thông, nguồn hàng này chỉ cần thu mua, phân loại là có
thể xuất khẩu được. Còn nguồn hàngtiềm năng là nguồn hàng chưa xuất hiện, nó có
thể có hoặc không có trên thị trường. Để khai thác nguồn hàng tiềm năng đòi hỏi
công ty cần có sự đầu tư, có đơn đặt hàng, có hợp đồng cam kết cho việc thu mua...
Trong công tác xuất khẩu thì khai thác nguồn hàng tiềm năng là rất quan trọng vì nó
đáp ứng được yêu câù về số lượng chất lượng của người xuất khẩu.
b. Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu
Hệ thống thu mua hàng bao gồm các đại lý, hệ thống kho hàng ở các địa phương,
các khu vực có mặt hàng cao su cần thu mua. Chi phí thu mua thường khá lớn đòi
hỏi công ty luôn phải cân nhắc khi xây dựng và lựa chọn các đại lý. Mạng lưới thu
mua cần phải gắn liền với điều kiện cơ sở hạ tầng, giao thông của các địa phương.
Sự phối hợp nhịp nhàng giữa thu mua và vận chuyển là cơ sở để đảm bảo tiến độ
thu mua và chất lượng hàng hoá, tuỳ theo từng đặc điểm của hàng hoá mà có
phương án vận chuyển hợp lý.
Mạng lưới thu mua và đại lý của công ty hiện nay phát triển rất rộng, có mặt hầu
hết các tỉnh, thành phố trong cả nước. Trong đó mạng lưới thu mua cao su để xuất
khẩu chủ yếu tập trung ở cao nguyên và một số tỉnh miền Đông Nam Bộ, vì đây là
khu vực trồng cao su lớn nhất ở nước ta và chất lượng cao su ở đây được coi là tốt
nhất trong cả nước.
c. Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa công ty hiện nay và nơi cung
cấp đều thông qua các hợp đồng thu mua, đổi hàng, gia công... dựa trên những thoả
thuận và tự nguyện của các bên.
d. Tiếp nhận, bảo quản hàng xuất khẩu
Trong thời gian gom hàng xuất khẩu phải trải qua một hoặc một số kho để bảo
quản, phân loại, chờ thời gian xuất khẩu hoặc làm thủ tục xuất khẩu. Công ty cần
chuẩn bị tốt hệ thống kho bãi để tiếp nhận hàng hoá.
Bảo quản hàng hoá cũng là một vấn đề hết sức khó khăn. Công ty cần phải luôn
luôn nâng cấp trang thiết bị, các phương tiện kỹ thuật để kho có đủ điều kiện bảo
quản trong mọi điều kiện.
4.4 Kiểm tra hàng xuất khẩu
Trước khi xuất khẩu, công ty có nghĩa vụ phải kiểm tra hàng về phẩm chất, số
lượng, trọng lượng... nếu như hàng không đạt yêu cầu thì phải thay đổi, còn nếu
hàng đạt yêu cầu theo đúng hợp đồng thì chuẩn bị làm thủ tục thông quan xuất
khẩu.
4.5 Làm thủ tục hải quan
Pháp lệnh Hải quan quy định thủ tục hải quan bao gồm:
- Khai báo và nộp tờ hải quan
- Đưa đối tượng kiểm tra đến nơi quy định để kiểm tra
- Làm nghĩa vụ nộp thuế xuất khẩu .
4.6 Thuê phương tiện vẩn tải
Nếu như trong hợp đồng quy định người xuất khẩu phải thuê phương tiện vân tải,
thì công ty phải thực hiện nghĩa vụ đó. Việc thuê tàu, lưu cước là nghiệp vụ phức
tạp đòi hỏi phải có kinh nghiệm, có thông tin về tình hình vật giá và giá cước, hiểu
biết tinh thông về các điều khoản của hợp đồng thuê tàu. Tuỳ trường hợp cụ thể mà
có các phương thức thuê tàu sau:
- Phương thức thuê tàu chợ
- Phương thức thuê tàu chuyến
- Phương thức thuê định hạn
4.7 Giao cho người vận tải
Công ty ký hợp đồng với người vận chuyển, sau đó giao hàng cho người vânh
chuyển cuối cùng là lấy vận đơn từ người vận chuyển để thanh lý hợp đồng xuất
khẩu.
4.8 Mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất khẩu.
Nếu xuất khẩu theo các điều kiện CIF, CIP hoặc nhóm hàng D thì công ty phải
mua bảo hiểm cho hàng hoá. Để mua bảo hiểm công ty phải làm những công việc
sau:
- Chọn điều kiện để mua bảo hiểm
- Làm giáy yêu cầu bảo hiểm và phải báo cho người bảo hiểm những tình
huống quan trọng khác để giúp người bảo hiểm phán đoán rủi ro.
- Đóng phí bảo hiểm và lấy chứng từ bảo hiểm. Khi thanh toán bằng L/C thì
chứng từ bảo hiểm phải hoàn tàon phù hợp với mọi yêu cầu của L/C, nếu làm khác
đi thì ngân hàng sẽ không chấp nhận thanh toán.
4.9 Lập bộ chứng từ thanh toán
Sau khi giao hàng, công ty phải nhanh chóng lập bộ chứng từ thanh toán trình
ngân hàng để đòi tiền hàng. Yêu cầu của bộ chứng từ này là chính xác và phù hợp
với những yêu cầu của L/C cả về nội dung và hình thức. ( còn nếu thanh toán bằng
các phương thức khác thì theo yêu cầu của hợp đồng hoặc của ngân hàng). Bộ
chứng từ thanh toán gồm:
- Hối phiếu thương mại.
- Vân đơn sạch
- Giấy chứng nhận bảo hiểm ( nếu có)
- Hoá đơn thương mại
- Giấy chứng nhận phẩm chất
- Giáy chứng nhận: trọng/khối lượng
- Giáy chứng nhận xuất xứ hàng hoá.
4.10 Thanh lý hợp đồng.
5. Đánh giá hiệu quả xuất khẩu
Hiệu quả xuất khẩu được đánh giá thông qua hệ thống các chỉ tiêu.
5.1 chỉ tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu hiệu quả có tính tổng hợp, phản ánh kết quả cuối cùng của
hoạt động sản xuất kinh doanh . Nó là tiền đề để duy trì và tái sản xuất mở rộng của
doanh nghiệp , để cải thiện và nâng cao đời sống của người lao động. Doanh nghiệp
có lợi nhuận thì đất nước mới giàu có, phát triển. Ngược lại làm ăn kém sẽ dẫn đến
thua lỗ và phá sản.
Doanh thu của doanh nghiệp được tính bằng công thức :
TR=P Q
Trong đó: TR: Tổng doanh thu
P : Giá cả
Q: Số lượng hàng
Lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí, được tính bằng công
thức:
Lợi nhuận = TR-TC
LNKT = TR-TCKT
L.Ntt = TR-TCtt
Trong đó:
LNKT: Lợi nhuận kinh tế
TCKT: Chi phí
LNtt: Lợi nhuận tính toán
TCtt: Chi phí tính toán
5.2 Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của xuất khẩu.
Hiệu quả của việc xuất khẩu được xác định bằng so sánh số ngoại tệ thu đuợc do
xuất khẩu ( giá trị quốc tế của hàng hoá) với những chi phí bỏ ra cho việc sản xuất =
hàng hoá xuất khẩu đó.
Tx
Hx =
Cx
Trong đó:
Hx: Hiệu quả tương đối của việc xuất khẩu
Tx: Doanh thu ( bằng ngoại tệ từ việc xuất khẩu đơn vị hàng hoá,
dịch vụ( giá quốc tế))
Cx: Tổng chi phí của việc sản xuất sản phẩm xuất khẩu , bao gồm
cả vận tải đến cảng xuất ( Giá trong nước)
Chỉ tiêu này cho ta biết số thu bằng ngoại tệ đối với đơn vị chi phí trong nước.
Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu là các chỉ tiêu tương đối nhằm so sánh kết quả
kinh doanh với các khoản chi phí phải bỏ ra. Để tính các chỉ tiêu tương đối đó, cần
phải tính một số chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh kết quả của quá trình kinh doanh
thương mại quốc tế
Tổng giá thành xuất khẩu là tổng chi phí sản xuất hàng xuất khẩu,các chi phí mua
và bán xuất khẩu.
Thu ngoại tệ xuất khẩu là tổng thu nhập ngoại tệ của hàng hoá xuất khẩu tính theo
giá FOB
Thu nhập nội tệ của hàng xuất khẩu là số ngoại tệ thu được do xuất khẩu tính đổi
ra nội tệ theo tỷ giá hiện hành.
Từ các con số này, tính được hiệu quả kinh doanh xuất khẩu theo các công thức
sau:
Thu nhập ngoại Giá thành nguyên
Tỷ lệ thu nhập tệ xuất khẩu - liệu ngoại tệ
ngoại tệ XH =
Giá thành xuất khẩu nội tệ
Giá thành chuyển Tổng giá thành nội tệ xuất khẩu (VND)
đổi xuất khẩu =
Thu nhập ngoại tệ xuất khẩu (USD)
Tỷ lệ lỗ lãi Thu nhập nội tệ X.K - Giá thành X.K nội tệ
xuất khẩu =
Giá thành xuất khẩu nội tệ
5.3 Chỉ tiêu doanh lợi xuất khẩu
Tx
Dx= 100
Cx
Trong đó;
Dx: Doanh lợi xuất khẩu
Tx: Thu nhập bán hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ được chuyển đổi ra
tiền Việt Nam theo tỷ giá công bố của ngân hàng Ngoại thương ( sau khi trừ mọi chi
phí = ngoại tệ)
Cx: Tổng chi phí cho việc xuất khẩu.
5.4. Tỷ xuất ngoại tệ xuất khẩu
Là số lượng bản tệ bỏ ra để thu được một đơn vị ngoại tệ
Thu nhập ngoại tệ (USD)
+Tỷ suất ngoại tệ = -----------------------------------
Z nội tệ xuất khẩu (VND)
Nếu tỷ xuất ngoại tệ hàng xuất khẩu < Tỷ giá do ngân hàng nhà nước công bố thì
nên xuất khẩu và ngược lại.
III. Thị trường cao su thế giới và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu cao su.
1. Thị trường xuất khẩu cao su thế giới
Quê hương của cao su là Brazil. Theo tiếng thổ dân da đỏ thì "cao su" có nghĩa là
nước mắt của cây. Đó chính là mủ cao su. Năm 1839 bằng một sự tình cờ nhà phát
minh Mỹ C.Goodyear tìm ra cách lưu hoá cao su. Phát minh vô cùng quan trọng này
đã mở ra một ngành công nghiệp mới: Công nghiệp chế biến cao su thành các sản
phẩm.
Đến những năm cuối của thế kỷ XX diện tích cao su thế giới đã là khoảng 9 triệu
Ha, trong đó các nước Đông Nam á chiếm 90%. Sản lượng cao su thiên nhiên thế
giới 6,5-6,6 triệu tấn trong đó khu vực Châu á 6-6,1 triệu tấn chiếm gần 93% sản
lượng cao su thế giới. Riêng Thái Lan, Indonesia và Việt Nam sản xuất 4,9 -5 triệu
tấn, chiếm khoảng 76% sản lượng cao su thiên nhiên thế giới.
Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Châu á sảy ra từ giữa năm 1997
đến nay, trên thị trường thế giới vẫn diễn ra tình trạng nguồn cung cấp dư thừa nhu
cầu tiêu thụ thấp nên giá cả không được cải thiện. Đến cuối năm 1999, giá cao su
RSS3 bình quân trên thị trường thế giới ở mức 53-57 US cent/kg, giảm hơn 40% so
với mức giá bình quân hồi tháng 6/1997, trước khi sảy ra khủng hoảng.
Thái Lan vẫn là nước xuất khẩu cao su thiên nhiên dẫn đầu thế giới. Do giá hạ liên
tục kéo dài nên ảnh hưởng không nhỏ đến ngành công nghiệp cao su nước này. Năm
1999 giá trung bình loại cao su RSS3 của Thái Lan là 50-55 US Cent/ kg, đến tháng
3/2000 đã nhích lên chút ít tới 63- 64 US Cent/kg.
Trong điều kiện giá hạ và nhu cầu tiêu thụ trên thế giới ở mức thấp, cả năm 1999,
Thái Lan chỉ xuất khẩu được 1,327 triệu tấn cao su chủ yếu sang các thị trường
truyền thống và có sức tiêu thụ lớn là Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ...
Sản lượng cao su của Indonesia ( nước sản xuất cao su thiên nhiên đứng thứ 2 trên
thế giới) năm 1999 giảm đáng kể do nhiều người từ bỏ trồng cao su, mặt khác do
Rupiah tăng giá. Tháng 10/1999, giá cao su SIR20 của Indonesia chỉ chào bán ở mức
50,7-51,8 SU Cent/kg FOB, giá cao su cùng loại giao tháng 4/2000 được giao dịch ở
mức 73,85 US Cent/kgFOB. Với xu thế giá đang phục hồi, dự đoán năm 2002 sản
lượng cao su của Indonesia sẽ tăng khoảng 10% so với năm 1999.
Là một trong những nước ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc khủng hoảng khu vực,
mức tiêu thụ cao su tại Indonesia năm 1999 đã bước đầu phục hội. Đây cũng là một
nguyên nhân khiến giá cao su Indonesia nói riêng và giá trên thị trường thế giới nói
chung đang trên xu thế phục hồi nhẹ.
Tại Malaysia, sở giao dịch hàng hoá tiền tệ đang nghiên cứu để đưa ra thực hiện hợp
đồng cao su kỳ hạn mới và điều chỉnh các hợp đồng cao su kỳ hạn hiện có. Mặt khác,
vớikhối lượng bán ra đang ở mức cao trên thị trường thế giới, ngành cao su Malaysia
sẽ có cơ chế dự trữ hiệu quả để làm tăng độ tin cậy đối với thị trường kỳ hạn, giúp
hạn chế rủi ro.
Năm 1999, Việt Nam đã xuất khẩu được 280.773 tấn cao su tăng 16,9% so với năm
1998, nhưng do giá Quốc tế thấp nên kim ngạch xuất khẩu lại giảm tới 5,7%. Các
nước nhập khẩu cao su lớn nhất của Việt Nam là Singapore, Trung Quốc, Đài
Loan... Những tháng cuối năm 1999, xuất khẩu cao su của Việt Nam sang Trung
Quốc ở mức thấp chỉ chiếm khoảng 35% tổng khối lượng cao su xuất khẩu của cả
nước nói chung. Những tháng đầu năm 2000 chỉ còn khoảng dưới 30%. Thay vào sự
giảm sút đó, Việt Nam đang tìm thêm thị trường tiêu thụ mới ở Đông và Tây Âu.
Thực hiện chủ trương đó, năm 2000 Việt Nam đã xuất khẩu 40 tấn cao su bán sang
áo và 200 tấn sang Iraq, khối lượng xuất khẩu sang Nga cũng tăng lên. Cho đến nay,
thị trường tiêu thụ cao su của Việt Nam đã lên tới 30 nước và khu vực.
Dưới đây là sản lượng cao su thiên nhiên của một số nước sản xuất chủ yếu .
Biểu 1 : Sản lượng cao su của những nước xuất khẩu cao su hàng đầu thé giới
Đơn vị: nghìn tấn
Sản lượng Sản lượng Tên nước ( năm1998) (năm 1998)
Thái Lan 2033 2198
Indonesia 1795 1505
Malaysia 971 886
ấn Độ 584 562
Trung Quốc 444 450
Việt Nam 201 217
XriLan-ca 106 96
Nguồn thời báo kinh tế
Trong tình hình chung của cao su thế giới, giá cao su SVR 20 của Việt Nam cũng bị
giảm sút mạnh và liên tục từ mức 1600-1700 USD/ tấn năm 1996 xuống 1200USD/
tấn năm 1997, 600- 700 USD /tấn năm 1998 và 520 USD/ tấn năm 1999.
Nhiều nước khác trong khu vực cũng gặp khó khăn trong xuất khẩu cao su. Trung
Quốc( nước tiêu thụ cao su lớn thứ 2 sau Mỹ hàng năm vẫn nhập khẩu 300-400 ngàn
tấn) đã ngừng nhập khẩu cao su trong năm 1998, sau đó đến 5/1999 đã hạ giá nhập
khẩu cao su xuống còn 5180NDT/ tấn trong khi giá cao su ở thị trường nội địa Trung
Quốc vẫn là 1000 NDT/tấn.
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu cao su
Sự biến động của tất cả các sự vật hiện tượng đều có những nguyên nhân trực tiếp
hay gián tiếp trong mối quan hệ hữu cơ gắn bó với nhau.Dưới đây là một số nguyên
nhân chính ảnh hưởng đến hoạt đông xuất khẩu :
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng ở tầm vĩ mô
a. Chính sách thương mại của nước xuất khẩu
Trong nền kinh tế thị trường nhà nước có vai trò chủ yếu là:hiệu quả ổn định và
công bằng cho sự phát triển kinh tế xã hội.Như vậy nhà nước đã có những tác động
làm ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thông
qua chính sách thương mại.
Đây là những yếu tố mà doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu buộc phải nắm rõ
và tuân thủ một cách vô điều kiện bởi nó thể hiện ý chí của nhà nước xuất khẩu nhằm
bảo vệ lợi ích chung của quốc gia.Cụ thể trong hoạt động xuất khẩu doanh nghiệp
cần phải nắm rõ chính sách khuyến khích,hỗ trợ của nhà nước để thúc đẩy xuất khẩu
như chế độ cấp giấy phép,chế độ hạn ngạch,chính sách thuế nói chung và thuế xuất
thuế xuất khẩu nói riêng để đề ra chiến lược xuất khẩu thích hợp và hiệu quả nhất.
b. Quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường thế giới
Trong nền kinh tế thị trường quan hệ cung cầu điều khiển và kiểm soát thị trường,nó
quyết định đến quá trình xuất khẩu hàng hoá.Vì vậy quyết định của doanh nghiệp
phải thật linh hoạt cho phù hợp với mối quan hệ cung cầu trong từng thời điểm,từng
vùng khác nhau trên thị trường cạnh tranh.
c. Tỷ giá hối đoái của đồng tiền và tỷ xuất ngoại tệ hàng xuất khẩu
Đây là nhân tố quyết định bạn hàng,mặt hàng,phương án kinh doanh,quan hệ kinh
doanh của không chỉ một doanh nghiệp xuất nhập khẩu mà với tất cả các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu nói chung.Sự biến đổi của nhân tố này sẽ gây những biến đổi
lớn trong tỷ trọng giữa xuất khẩu và nhập khẩu.Chẳng hạn khi tỷ giá hối đoái của
đồng tiền thuận lợi cho xuất khẩu thì bất lợi cho nhập khẩu và ngược lại.Tương tự tỷ
xuất ngoại tệ thay đổi giữa các mặt hàngcũng sẽ làm doanh nghiệp chuyển hướng mặt
hàng cũng như phương án kinh doanh.
d. Sự biến động thị trường trong và ngoài nước
Hoạt động xuất khẩu như một chiếc cầu nối thông thương giữa hai thị trường,tạo ra
sự gắn bó cũng như phản ánh tác động qua lại giữa chúng.Nếu có sự biến động ví dụ
sự tồn đọng giá cả thay đổi,yêu cầu về một mặt hàng ở thị trường ngoài nước thay đổi
sẽ làm thay đổi ngay lập tức lượng hàng hoá qua chiếc cầu xuất khẩu và ngược lại thị
trường ngoài nước quyết định tới sự thoả mãn các nhu cầu thị trường trong nước,sự
biến động của nó về khả năng cung cấp về sản phẩm mới,về sự đa dạng của hàng
hoá,dịch vụ cũng như phản ánh qua chiếc cầu xuất khẩu để tác động ra thị trường
ngoài nước.
e. Sự phát triển của nền sản xuất cũng như các doanh nghiệp kinh doanh
thương mại trong và ngoài nước
Sự phát triển của nền sản xuất của doanh nghiệp sản xuất trong nước tạo ra sự cạnh
tranh mạnh mẽ với sản phẩm của các đối thủ nước ngoài do vậy sẽ thúc đẩy xuất
khẩu.
Ngược lại sự phát triển của nền sản xuất nước ngoài làm tăng khả năng cạnh tranh
của sản phẩm xuất khẩu do vậy làm giảm hoạt động xuất khẩu.Tuy nhiên không phải
lúc nào sản xuất trong nước phát triển thì hoạt động xuất khẩu được mở rộng và khi
sản xuất nước ngoài phát triển thì hoạt động xuất khẩu bị thu hẹp,nó còn phụ thuộc
vào chính sách nhà nước lúc đó cần bảo vệ và khuyến khích sản xuất trong nước hay
cần giảm ảnh hưởng của độc quyền tạo ra sự cạnh tranh...
f. ảnh hưởng của hệ thống cơ sở hạ tầng
Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu không thể tách rời với công việc vận chuyển và
thông tin liên lạc.Thực tế đã cho thấy rằng sự phát triển của hệ thống cơ sở hạ tầng đã
đơn giản hoá công việc của hoạt động xuất khẩu rất nhiều,giảm đi hàng loạt các chi
phí,nâng cao tính kịp thời nhanh gọn,an toàn.
g. ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng
Hoạt động xuất khẩu sẽ không được thực hiện nếu như không có sự phát triển của
hệ thống ngân hàng.Dựa trên các quan hệ,uy tín nghiệp vụ thanh toán liên ngân hàng
rất thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu sẽ được đảm bảo về
mặt lợi ích.Và cũng nhiều trường hợp do có lòng tin với ngân hàng mà kinh doanh
xuất nhập khẩu có thể được ngân hàng đứng ra bảo lãnh hay cho vay với lượng vốn
lớn,kịp thời ,tạo điều kiện cho doanh nghiệp nắm bắt được những cơ hội xuất khẩu có
lợi.
h. Các nhân tố thuộc về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp
Sự biến động của môi trường chính trị - văn hoá - xã hội và công nghệ đã làm ảnh
hưởng rất nhiều đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp như trạng thái chính trị
của quốc gia các đối tác,phong tục tập quán,sự phát triển công nghệ trên thế giới.
Cụ thể là:
- ảnh hưởng của việc xoá bỏ lệnh cấm vận của Mỹ - Việt Nam cùng với hiệp định
thương mại Việt - Mỹ được ký kết đã thúc đẩt hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
không chỉ với Mỹ mà cả các nước đồng minh với Mỹ.
- ảnh hưởng của phong tục tập quán trong tiêu dùng của mỗi quốc gia sẽ quyết
đinh đến loại hàng,số lượng hàng cũng như hình thức kinh doanh xuất nhập khẩu.
- ảnh hưởng của sự phát triển công nghệ trên thế giới làm đa dạng hoá,tạo ra nhiều
sản phẩm mới cũng như hiện đại hoá hệ thống thông tin liên lạc,giao thông,tài chính
ngân hàng...Do đó cũng đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu.
2.2. Các nhân tố ảnh hưởng ở tầm doanh nghiệp
a. Cơ cấu và khối lượng mặt hàng xuất khẩu
Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh
nghiệp.Nếu doanh nghiệp có một cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu thích hợp theo
hướng đa dạng hoá và đáp ứng nhu cầu thực của thị trường thì hoạt động xuất khẩu
của doanh nghiệp ngày càng được củng cố và phát triển.Còn nếu cơ cấu mặt hàng
xuất khẩu của doanh nghiệp không thích hợp với sự biến đổi của nhu cầu thị trường
thì hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ ngày càng bị thu hẹp lại.Do vậy đòi hỏi
các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu cần phải thay đổi cơ cấu mặt hàng theo hướng
đa dạng hoá mặt hàng phải trên cơ sở đa dạng hoá thị trường.
Bên canh nhân tố cơ cấu mặt hàng thì khối lượng các mặt hàng xuất khẩu cũng là
một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu bởi lẽ nếu khối lượng
xuất khẩu nhỏ thì sẽ không đủ bù đắp chi phí xuất khẩu còn nếu ngược lại khối lượng
xuất khẩu quá lớn thì công ty kại không đủ vốn,không đủ khả năng cung cấp và như
vậy cũng sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả xuất khẩu.
b. Chất lượng hàng hoá và uy tín của doanh nghiệp
Chất lượng hàng hoá và uy tín của doanh nghiệp là một nhân tố ảnh hưởng không
nhỏ,do đó doanh nghiệp cần phải tính toán để tạo ra những sản phẩm có chất lượng
cao,có sức cạnh tranh.Trong kinh chỉ nhứng sản phẩm có chất lượng cao phù hợp với
thị hiếu của người tiêu dùng thì mới có thể xuất khẩu với số lượng lớn,xác lập giá cao
hơn mà không gây ra phản ứng của người tiêu dùng.Tuy nhiên đây là một vấn đề gây
không ít khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam bởi lẽ trình độ phát triển khoa học
- kỹ thuật công nghệ của ta còn thấp,công nghệ lạc hậu.Do vậy mà chất lượng sản
phẩm chưa cao,chưa đáp ứng được yêu cầu chất lượng của thế giới.Cho nên xuất
khẩu còn hạn chế chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của Việt Nam.Do vậy
đòi hỏi trong thời gian tới các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý tới việc nâng cao
chất lượng hàng hoá để đẩy mạnh xuất khẩu.
c. Phương thức xuất khẩu
Như chúng ta đã biết trước đâycác công ty xuất nhập khẩu là những công ty được
độc quyền trong kinh doanh xuất nhập khẩu một hoặc một số mặt hàng nào đó.Cho
nên mọi công ty khác muốn xuất khẩu hàng hoá đó đều phải uỷ thác cho các công ty
đó xuất khẩu hộ mình.Vì vậy xuất khẩu theo hình thức uỷ thác phát triển.Nhưng hiện
nay trong nền kinh tế thị trường mọi doanh nghiệp đều được phép xuất khẩu trực
tiếp do vậy xuất khẩu theo hình thức uỷ thác ngày một giảm nhường chỗ cho XNK
trực tiếp.Vì xuất khẩu theo phương thức này có ưu điểm hơn phương thức XK uỷ
thác là lợi nhuận cao hơn,hai bên được tự do thoả thuận về giá cả,phương tiện vận
chuyển,thời gian giao hàng,phương thức thanh toán.
d. Khả năng nắm bắt thông tin về thị trưòng
Trong xã hội hiện đại ngày nay thông tin đã trở thành một nguồn lực quan trọng bên
cạnh các ngồn lực quyết định đến sự thành công hay thất bại của một doanh
nghiệp.Chúng ta muốn hiểu biết về khách hàng phải thông qua thông tin.Nhu cầu về
thông tin ngày càng trở nên cấp bách do thị trường thay đổi về quy mô và phạm vi,sự
thay đổi về chất của nhu cầu,sự lựa chon của khách hàng thay đổi,sự cạnh tranh ngày
càng gay gắt với những hình thức cạnh tranh ngày càng đa dạng.Chính vì vậy,thu
thập và xử lý thông tin đóng vai trò ngày càng quan trọng.Có thể nói doanh nghiệp
nào có khả năng nắm bắt thông tin về thị trường thì hoạt động XK của doanh nghiệp
đó chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả cao.
e. Hoạt động Marketing của công ty
f. Giá bán sản phẩm xuất khẩu
Giá bán sản phẩm và chi phí lưu thông có mối quan hệ qua lại phức tạp.Về cơ bản
giá bán sản phẩm của doanh nghiệp được hình thành trên cơ sở chi phí lưu thông.Mặt
khác chi phí lưu thông một đơn vị sản phẩm lại chịu ảnh hưởng tác động của giá
bán,thông qua khối lượng hàng hoá tiêu thụ.Mà do cơ sở hạ tầng,hệ thống giao thông
Việt Nam kém phát triển nên chi phí lưu thông cao làm tăng giá,ảnh hưởng đến hoạt
động XK.Công cụ tốt nhất của việc giảm giá thành sản phẩm là doanh nghiệp nên cố
gắng tối thiểu hoá các chi phí lưu thông và cố gắng kiểm soát chúng.
g. Trình độ nghiệp vụ của cán bộ
h. Khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán của người tiêu dùng và sức mua của đồng tiền có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến việc định giá và các chính sách xuất khẩu của doanh nghiệp.Khi lạm
phát,sức mua của đồng tiền giảm,giá cả hàng hoá sẽ leo thang,nhu cầu về sản phẩm
sẽ biến động lớn.
i.Yếu tố tâm lý và thị hiếu của khách hàng
Tâm lý mua hàng và thị hiếu của người tiêu dùng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động
xuất khẩu của các doanh nghiệp.Để khai thác triệt để thế mạnh của mình,doanh
nghiệp không những quan tâm đén việc bảo đảm hàng hoá do mình xuất khẩu phù
hợp với thị hiếu của người tiêu dùng ở từng khu vực thị trường mà còn atọ ra bầu
không khí thuận lợi nhất cho qua trình mua hàng.
Trên đây là một số nhân tố chính ảnh hưởng có tính chất quyết định đến hoạt động
xuất khẩu của bất kỳ một công ty nào.Ngoài ra tiếp tục di sâu phân tích co thể thấy
các nhân tố khác.Tuy nhiên chúng đều nằm trong hoặc tác động qua các nhân tố vừa
nêu.Vì vậy nói đến hoạt động xuất khẩu là hết sức phức tạp và có mối quan hệ tương
hỗ tới nhiều hoạt động.Do vậy cần phải xem xét nội dung,hình thức của nó.
chương II
thực trạng kinh doanh xuất khẩu cao su của công ty thực phẩm miền bắc - bộ
thương mại
I.Khái quát chung về công ty thực phẩm miền bắc
1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty thực phẩm Miền Bắc là một doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc Bộ
thương mại, hoàn toàn tự chủ về tài chính, hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân,
có con dấu riêng và được mở tài khoản tại ngân hàng Công thương Việt Nam.
Công ty Thực phẩm miền Bắc có tên giao dịch quốc tế : Nothern Food Stuff
Company ( Fonexim ).
Trụ sở công ty đóng tại : 203 Minh Khai – Hai Bà Trưng – Hà Nội và 210 Trần
Quang Khải – Hoàn Kiếm – Hà Nội.
Trước năm 1991, Công ty Thực phẩm miền Bắc là một thành viên trực thuộc Tổng
công ty thực phẩm. Năm 1991 Công ty Thực phẩm miền Bắc sáp nhập với công ty
rau quả thành công ty thực phẩm Rau quả trực thuộc Tổng công ty thực phẩm. Năm
1992 công ty thực phẩm sát nhập với công ty thực phẩm công nghệ Miền Bắc thành
Công ty Thực phẩm miền Bắc.
Đến tháng 8 năm 1996, theo quyết định số 699/ TM – TCCB ngày 13/8/ 1996 của
Bộ Thương Mại ( gồm 3 DNNN và 6 đơn vị thực phẩm ) ở miền Bắc được sát nhập
với nhau thành Công ty Thực phẩm miền Bắc.
- Công ty Thực phẩm miền Bắc
- Công ty Bánh kẹo Hữu Nghị
- Công ty xuất nhập khẩu Nam Hà
- Công ty thực phẩm Thăng Long
- Trại chăn nuôi cấp I Thái Bình
- Chi nhánh thực phẩm 210 Trần Quang Khải.
Đến tháng 10/2001, công ty lại sáp nhập tiếp với công ty thực phẩm Tây Nam Bộ.
Hiện nay công ty có 19 đơn vị trực thuộc ở các tỉnh thành trong cả nước.
- Xí nghiệp thực phẩm Thái Bình
- Xí nghiệp chế biến thực phẩm Tông Đản
- Chi nhánh thực phẩm tại Hải Phòng
- Chi nhánh thực phẩm tại TP. Hồ Chí Minh
- Chi nhánh thực phẩm tại Việt Trì.
- Nhà máy bánh quy cao cấp Hữu Nghị
- Chi nhánh thực phẩm Nghệ An
- Chi nhánh thực phẩm Lào Cai
- Chi nhánh thực phẩm Thanh Hoá
- Cửa hàng thực phẩm số 2
- Cửa hàng thực phẩm số 3
- Cửa hàng thực phẩm số 203 Minh Khai
- Khách sạn Nam Phương – Hà Nội
- Trung tâm Thuốc lá 210 Trần Quang Khải
- Trạm kinh doanh của công ty tại Nam Định
- Trạm kinh doanh của công ty tại Ninh Bình
- Trạm kinh doanh của công ty tại Quảng Ninh
- Trạm kinh doanh của công ty tại Bắc Giang
- Khách sạn Hà Nội – Việt Trì
- Trung tâm nông sản thực phẩm
- Trung tâm kinh doanh tổng hợp
- Trung tâm thương mại thực phẩm miền Bắc
Trước đây trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, cũng như tất cả các doanh
nghiệp nhà nước khác, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Thực phẩm
miền Bắc đều được thực hiện theo kế hoạch của cấp trên đưa xuống. Nhà nước bao
đầu vào và bao luôn cả đầu ra. Lúc đó, người ta không mấy quan tâm đến làm thế
nào để tăng năng suất lao động cũng như làm thế nào để lợi nhuận của công ty đạt
mức cao nhất. Hoạt động kinh doanh có lãi thì càng tốt, còn lỗ thì đã có Nhà nước
chịu. Kết quả của kiểu quản lý này dẫn tới tình trạng hàng năm công ty vẫn hoàn
thành các chỉ tiêu đặt ra và vượt mức kế hoạch nhưng chưa phát huy được hết khả
năng và tiềm lực của mình.
Đại hội Đảng VI đã mở rộng một thời kỳ mới, đánh dấu một bước chuyển biến
mới đối với nền kinh tế đất nước và tạo đà cho sự phát triển của các doanh nghiệp
trong nước, trong đó có Công ty Thực phẩm miền Bắc, đó là chuyển đổi từ cơ chế
quản lý tập trung sang cơ chế thị trường. Nhà nước kiểm soát hoạt động kinh tế của
các doanh nghiệp ở tầm vĩ mô thông qua pháp luật. Các doanh nghiệp Nhà nước tự
hạch toán độc lập, điều hành chi tiết sản xuất, chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình, thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước thông
qua nộp thuế. Cơ chế thị trường tạo ra tính cạnh tranh rất cao giữa các doanh nghiệp
trên mọi mặt như kỹ thuật, công nghệ, chất lượng sản phẩm, thị phần… Đòi hỏi
năng động và sự thích ứng cao độ nếu không sẽ thất bại trước thương trường. Nhận
thức được cơ hội và những thách thức, khó khăn ngay từ khi được thành lập công ty
đã từng bước khắc phục những khó khăn đồng thời phát huy những lợi thế của
mình. Kết quả này sẽ được minh chứng qua sự tóm tắt kết quả hoạt động kinh
doanh của công ty từ năm 1997 đến 2001.
2. Bộ máy tổ chức,chức năng nhiệm vụ của Công ty
2.1.Cơ cấu tổ chức bộ máy kinh doanh của công ty thực phẩm miền bắc
Để thực hiện tốt mục tiêu, chiến lược kinh doanh trước mắt cũng như lâu dài, thì tổ
chức bộ máy quyết định sự thành bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công
ty. Một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ khuyến khích người lao động trong công ty làm
việc có chất lượng và năng suất cao. Hiện nay bộ máy kinh doanh của công ty bao
gồm :
Đứng đầu công ty là giám đốc do Bộ trưởng Bộ Thương mại bổ nhiệm. Giám đốc
điều hành công ty theo chế độ một thủ trưởng và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động
của công ty trên pháp luật, trước Bộ thương mại và tập thể cán bộ công nhân viên
chức của công ty về việc tồn tại và phát triển của công ty cũng như các hoạt động :
ký kết hợp đồng, thế chấp vay vốn, tuyển dụng nhân viên, bố trí sắp xếp lao
động.Giám đốc có trách nhiệm tổ chức bộ máy quản lý mạng lưới kinh doanh cho
phù hợp với nhiệm vụ của công ty và phân cấp quản lý của Bộ.
Giúp việc cho giám đốc là hai phó giám đốc ( một phó giám đốc phụ trách sản
xuất, một phó giám đốc phụ trách kinh doanh ) và 7 phòng ban chức năng.
- Phòng tổ chức lao động tiền lương : có nhiệm vụ theo dõi tình hình nhân sự
toàn công ty, tham mưu cho giám đốc công việc sử dụng cán bộ theo trình độ và
năng lực của từng người, cân đối tiền lương, tuyển dụng lao động ngắn hạn và dài
hạn, làm thủ tục giải quyết chế độ cho người lao động, xây dựng kế hoạch lao động,
quỹ tiền lương hàng năm, quy chế hoá các nguyên tắc trả lương.
- Phòng hành chính : có nhiệm vụ giải quyết các công việc liên quan đến thủ
tục hành chính của công ty.
- Phòng kinh doanh : có nhiệm vụ tổ chức kinh doanh trên thị trường trong và
ngoài nước, xem xét các phương án kinh doanh có tính khả thi đối với việc mua bán
tiêu thụ hàng hoá.
- Phòng kế hoạch tổng hợp : có nhiệm vụ xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh
doanh hàng năm trên cơ sở kế hoạch của các đơn vị cơ sở, điều tiết kế hoạch sản
xuất kinh doanh hàng quý, hàng năm theo yêu cầu thị trường.
- Phòng kế toán tài chính : Quản lý toàn bộ nguồn vốn, các tài liệu, số liệu về
kế toán tài chính, quyết toán tổng kiểm kê tài sản hàng năm theo định kỳ, báo cáo
về tài chính lên cơ quan cấp trên, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của các
đơn vị trực thuộc thông qua hoạt động tài chính.
- Phòng kỹ thuật sản xuất : chịu trách nhiệm về máy móc kỹ thuật, bao bì, chất
lượng sản phẩm và kế hoạch cung ứng nguyên liệu sản xuất hàng hoá.
Ngoài ra, công ty còn lập ra ban thanh tra thi đua nhằm giúp cho công tác kiểm tra,
giám sát mọi hoạt động của công ty.
Cơ cấu tổ chức bộ máy của văn phòng công ty được khái quát bằng sơ đồ
sau :
Giám đốc
Phó Giám đốc sản xuất Phó Giám đốc kinh doanh
Phòng tổ chức LĐTL
Phòng Kế hoạch tổng hợp
Phòng kỹ thuật sản xuất
Phòng Hành chính tổng hợp
2.2 Chức năng của công ty
Chức năng hoạt động của công ty thể hiện ở mục đích và nội dung hoạt động kinh
doanh của công ty.
- Mục đích hoạt động kinh doanh :
Công ty thực phẩm Miền Bắc là một đơn vị kinh doanh trên nhiều lĩnh vực với
chức năng là thông qua các hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, sản xuất, kinh
doanh thương mại, kinh doanh khách sạn, khai thác vật tư, nguyên liệu, hàng hoá
nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo nguồn hàng xuất khẩu, góp phần
phát triển kinh tế đất nước.
- Nội dung hoạt động của công ty :
+ Kinh doanh các mặt hàng thực phẩm công nghệ ( như rượu, bia,
nước giải khát, đường các loại, sữa các loại, bột ngọt, bánh kẹo các loại). Thực
phẩm tươi sống, lương thực, nông sản, lâm sản, cao su, rau củ quả, các mặt hàng
tiêu dùng, vật tư nguyên liệu sản xuất phân bón, phương tiện vận chuyển thực
phẩm, kinh doanh kho bãi, khách sạn, dịch vụ du lịch và ăn uống giải khát.
+ Tổ chức gia công sản xuất chế biến các mặt hàng nông sản, lương
thực thực phẩm, rượu bia, bánh kẹo, đường sữa, lâm sản, thuỷ hải sản… tổ chức
liên doanh liên kết hợp tác đầu tư với các thành phần kinh tế trong và ngoài nước
đào tạo ra nguồn hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
+ Trực tiếp xuất khẩu và nhận uỷ thác các mặt hàng vật tư, nguyên
liệu, hàng tiêu dùng theo quy định của Nhà nước
+ Chủ động giao dịch, ký kết hợp đồng mua bán, liên doanh liên kết
+ Tổ chức mua sắm nguồn hàng, tổ chức quản lý thị trường mặt hàng
sản xuất kinh doanh.
2.3 Nhiệm vụ của Công ty
- Nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, xây dựng và tổ chức thực hiện
kế hoạch sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, dịch vụ du lịch khách sạn, liên
doanh liên kết đầu tư trong và ngoài nước… theo đúng pháp luật hiện hành của Nhà
nước và hướng dẫn của Bộ Thương mại.
- Tổ chức sản xuất nâng cao năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với thị hiếu của
khách hàng.
- Chấp hành luật pháp của Nhà nước , thực hiện các chế độ, chính sách về
quản lý và sử dụng vốn, vật tư, tài sản, nguồn lực, bảo toàn và phát triển vốn, thực
hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Quản lý và sử dụng tốt đội ngũ cán bộ công nhân viên theo phân cấp quản
lý của Bộ thương mại. Thực hiện đầy đủ các chế độ chính sách của Nhà nước đối
với cán bộ công nhân viên, phát huy quyền làm chủ tập thể, khả năng sáng tạo trong
kinh doanh, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật cho
người lao động, phân phối lợi nhuận theo kết quả lao động một cách hợp lý.
3.Đặc điểm kinh doanh của Công ty
3.1. Vốn kinh doanh
FONEXIM là một doanh nghiệp Nhà nước do đó nguồn vốn chủ yếu của công ty
là do ngân sách Nhà nước cấp, vốn vay cũng chủ yếu ở các ngân hàng Nhà nước
như Vietnambank
Biểu 2 : Tình hình bảo toàn và phát triển vốn của công ty giai đoạn 1997
- 2000
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm Tổng số vốn Vốn cố định Vốn lưu động
Trị giá Tỷ trọng Trị giá Tỷ trọng
(%) (%)
1997 11,45 3 8,45 26,2 73,8
1998 12,35 3,3 26,72 9,05
1999 13,77 3,92 9,95
2000 14,782 4,753 32 10,028 68
Nguồn phòng Kế toán- Tài chính tổng hợp
Qua bảng trên ta thấy tổng số vốn của công ty qua các năm đều tăng, năm sau cao
hơn năm trước tuy có sự thay đổi khá nhỏ của tỷ trọng giữa nguồn vốn cố định và
nguồn vốn lưu động so với tổng số vốn. Tuy nhiên xét về tuyệt đối thì cả vốn lưu
động và vốn cố định của công ty đều tăng qua các năm. Điều này chứng tỏ hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả và công ty chú ý đến việc bảo
toàn và phát triển nguồn vốn cụ thể năm 1997, tổng số vốn của công ty là 11,45 tỷ
đồng trong đó vốn cố định là 3 tỷ đồng chiếm 26,2%, vốn lưu động là 8,45 tỷ chiếm
73,8%. Năm 1998 tổng số vốn là 12,35 tỷ đồng, riêng vốn cố định là 3,3 tỷ đồng
chiếm 26,72%, vốn lưu động là 9,05 tỷ đồng chiếm 73,28%. Năm 1999 tổng số vốn
là 12,77 tỷ đồng, trong đó vốn cố định là 3,92 tỷ đồng chiếm 28,47%, vốn lưu động
là 9,85 tỷ đồng chiếm 71,53%. Đến năm 2000, tổng số vốn của công ty là 14,782 tỷ
đồng, trong đó vốn cố định là 4,753 tỷ đồng chiếm 32,15%, vốn lưu động là 10,02
tỷ đồng chiếm 67,85%. Trong giai đoạn 97- 2000 có sự tăng vốn cố định cả về tỷ
trọng và số tuyệt đối là do công ty đầu tư dây chuyền sản xuất bánh keọ của cộng
hoà liên bang Đức và dây chuyền sản xuất rượu vang Hữu Nghị… đồng thời do yêu
cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh nên công ty phải mở rộng thêm đại lý và chi
nhánh.
3.2. Nguồn lao động của công ty
Lao động là một yếu tố quan trọng hàng đầu phục vụ cho quá trình sản xuất kinh
doanh của công ty. Công ty không thẻ kinh doanh có hiệu quả nếu đội ngũ lao động
trong công ty không được bố trí hợp lý, không phù hợp với chức năng vị trí kinh
doanh. FONEXIM là một doanh nghiệp có quy mô lớn với gần 900 lao động (năm
2000) làm việc trong các lĩnh vực khác nhau và được sắp xếp bố trí tương đối hợp
lý. Đồng thời với việc tinh giảm bộ máy quản lý là việc đào tạo và phát triển cán bộ
quản lý, nâng cao trình độ nghiệp vụ. Hàng tháng, hàng quý công ty có tổ chức xét
loại A, B, C đánh giá hiệu quả lao động làm cơ sở để trả lương và thưởng.
Kết cấu lao động của công ty thể hiện qua bảng sau:
Biểu 3: Cơ cấu lao động của công ty giai đoạn 1997-1999
1997 1998 1999
Năm Số % % % Số Số
Chỉ tiêu tuyệt tuyệt tuyệt
đối đối đối
648 662 680 100 100 Tổng số lao động 100
400 490 509 73,98 74,87 - Lao động trực tiếp 61,68
121 117 18,35 17,2 - Lao động phục vụ phụ 199 30,68
trợ
- Lao động quản lý 49 7,64 51 7,67 54 7,93
Trình độ chuyên môn
- Trình độ đại học và 127 19,6 141 21,33 160 23,54
trên đại học
- Trình độ cao đẳng, 103 15,9 118 17,82 138 20,31
trung cấp, sơ cấp
- Còn lại 418 64,5 403 60,85 382 56,15
Nguồn phòng Lao động-Tiền lương
Qua bảng trên ta thấy việc bố trí lao động của công ty đã được hợp lý hoá dần qua
các năm, là một doanh nghiệp hoạt động trên cả 3 lĩnh vực là sản xuất, kinh doanh
và dịch vụ du lịch khách sạn vì vậy tỷ trọng lao động trực tiếp và lao động phụ trợ
của công ty chiếm một tỷ trọng khá lón. Tỷ trọng lao động trực tiếp của công ty
năm 1997 là 61,68% tăng lên 74,87% vào năm 1999. Nguyên nhân chính là do công
ty dần đi vào làm ăn có hiệu quả vì vậy có nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh và
thu hút thêm người lao động vào làm việc tại công ty. Tỷ trọng lao động phục vụ và
phụ trợ tại công ty có chiều hướng giảm xuống rõ rệt qua các năm. Năm 1997 là
30,68% giảm xuống còn 17,2% vào năm 1999. Nguyên nhân chủ yếu do vào năm
1997 ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và sự cạnh
tranh gay gắt của các hoạt động dịch vụ cuả công ty như khách sạn giảm hoạt động
một cách rõ rệt mặc dù công ty có nhiều cố gắng trong việc nâng cao chất lượng
phục vụ. Tuy nhiên, do yêu cầu của hoạt động kinh doanh công ty đã sơ lọc và cho
một số lao động chuyển hướng sang làm công tác mới.
Xét về trình độ chuyên môn của lao động, công ty thực phảm miền Bắc hoạt động
trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và dịch vụ du lịch khách sạn là những lĩnh vực cần
nhiều lao động có kiến thức, trình độ cao, khả năng ngoại giao, giao tiếp tốt. Tỷ
trọng lao động có trình độ đại học và trên đại học của công ty tăng dần qua các năm
(năm 1997 chiếm tỷ trọng 19,6% và đến năm 1999 đã tăng lên 23,54%) đã chứng tỏ
sự điều chỉnh cơ cấu lao động trong công ty cho hợp lý hơn, phù hợp với trình độ
phát triển của ngành nghề kinh doanh. Tuy nhiên tỷ trọng lao động phổ thông và lao
động không có tay nghề của công ty vẫn còn khá cao chiếm tỷ trọng 64,5% năm
1997, tuy đã có xu hướng giảm đi qua các năm (năm 1998 chiếm 60,85% năm 1999
chiếm 56,15%) nhưng đây vẫn là tỷ trọng khá cao. Tuy nhiên trong những năm gần
đây công ty đã tổ chức các lớp bồi dưỡng trình độ cho một số cán bộ công nhân
viên đi học tại chức và chuyên tu nhằm nâng cao tay nghề cũng như trình độ của
người lao động trong công ty, phù hợp với trình độ chuyên môn cũng như ngành
nghề, lĩnh vực kinh doanh của công ty.
3.3 Cơ sở vật chất kỹ thuật
Công ty thực phẩm Miền Bắc gồm 13 đơn vị trực thuộc nằm rải rác tại các tỉnh
miền Bắc. Công ty có 4 chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, Việt Trì, Lạng Sơn
và Hải Phòng. Còn các đơn vị trực thuộc khác đều nằm trên địa bàn Hà Nội.
Do được thành lập từ việc sát nhập các đơn vị khác nhau và nói chung là cơ sở vật
chất kỹ thuật cũ kỹ, lạc hậu. Vì vậy, trong thời gian đầu thành lập cơ sở vật chất kỹ
thuật của công ty rất lạc hậu, cũ kỹ và hầu hết tuổi thọ đã cao không có tính đồng
bộ. Do đó mà công ty đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc sản xuất kinh doanh và
đánh giá lại giá trị tài sản.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn về vốn, cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu, nhưng công
ty đã cố gắng đầu tư, củng cố nâng cấp để các cơ sở sản xuất dần đi vào làm việc ổn
định, tạo công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên bao gồm : dây chuyền mì
Đồng Văn, dây chuyền sản xuất nước giải khát có ga… Đặc biệt công ty đã mạnh
dạn đầu tư lắp đặt dây chuyền sản xuất bánh quy cao cấp của CHLB Đức trị giá gần
18 tỷ đồng. Đến nay công ty đã cho ra những sản phẩm với mẫu mã đẹp, chất lượng
cao. Năm 1999 sản phẩm của công ty đạt huy chương vàng tại hội chợ Hàng Việt
Nam chất lượng cao và Hội chợ EXPO 2000, được người tiêu dùng bình chọn chất
lượng tại Hội chợ hàng thực phẩm chất lượng cao.
Năm 1998 công ty cũng lắp đặt, xây dựng xong một dây chuyền sản xuất rượu
vang mang tên Hữu Nghị, sản lượng của dây chuyền sản xuất này năm 1998 là
20.000 chai, năm 1999 là 1.000.000 chai, và năm 2000 tăng lên 1.200.000 chai.
Hệ thống kho tàng bến bãi của công ty gồm 12 kho và được bố trí như sau :
Hà Nội 6 kho, Việt Trì 1 kho, Nam Hà 1 kho, Hải Phòng 1 kho, Lạng Sơn 1 kho,
Thái Bình 1 kho, và thành phố Hồ Chí Minh 1 kho.
Đội ngũ phương tiện vận tải của công ty gồm 7 xe tải, 4 xe ca và một xe khách vào
năm 1997. Năm 1998 do tình hình sản xuất kinh doanh có nhiều biến chuyển công
ty đã mở rộng thị trường ra khắp các tỉnh thành trong cả nước, đội ngũ của công ty
đã tăng lên rất nhiều bao gồm 10 xe tải, 7 xe tải nhỏ (chủ yếu phục vụ các tỉnh
miền Bắc ), 5 xe ca và 2 xe khách. Ngoài ra công ty còn ký kết hợp đồng với các
loại xe tải khác để chuyên chở hàng hoá khi có lô hàng lớn.
3.4 Mặt hàng kinh doanh của Công ty
Công ty tiến hành sản xuất kinh doanh trên cả ba lĩnh vực đó là xuất nhập khẩu,
sản xuất, kinh doanh du lịch khách sạn và kho bãi. Chính vì vậy mặt hàng kinh
doanh của công ty rất rộng rãi. Trong đó chủ yếu là kinh doanh các mặt hàng thực
phẩm.
Các mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty :
Biểu 4: Các mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty giai đoạn 1998-
2001
Các mặt hàng ĐVT 1998 1999 2000 2001
kinh doanh chủ
yếu
Đường các loại Tấn 53.775 47.000 123.600 80.000
Sữa các loại Tấn 164 120 162 170
Rau ăn các loại Tấn 2.588 140
Bột mì Tấn 5000
840 1.400 2000 Bánh kẹo các loại Tấn 607
460 220 7.600 Rượu các loại 1000Chai 864
1000bao 107.118 162.500 124.000 120.000 Thuốc lá
Tấn 7000 Cao su
7000 10.000 Bia các loại 1000 lít
Nguồn phòng Kế hoạch tổng hợp
4. Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
Sau hơn15 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc.
Trong sự phát triển trung ấy không thể không nhắc đến những kết quả mà ngành
nông, lâm nghiệp đã đạt được. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu hàng
nông sản. Từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, phải nhập khẩu lương thực,
cảnh đói ăn trong nhân dân xảy ra thường xuyên thì đến nay Việt nam không những
không còn thiếu đói mà còn là một trong những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu
thế giới. Có được những thành tựu to lớn ấy là nhờ vào sự nỗ lực không ngừng của
mọi cá nhân, mọi đơn vị trong toàn ngành. Trong sự phát triển chung đó cũng có sự
đóng góp không nhỏ của Công ty Thực phẩm miền Bắc- Bộ Thương
Mại(FONEXIM).
Được thành lập từ tháng10/1996, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong những ngày
đầu thành lập như: bị hạn chế trong chức năng kinh doanh, cơ sở vật chất kỹ thuật
còn nghèo nàn lạc hậu. Cán bộ công nhân viên dôi thừa nhiều, trình độ hạn chế lại
mới chỉ được tiếp xúc với khái niệm cơ chế thị trường trong một thời gian ngắn nên
có rất ít kinh nghiệm về thị trường.Trong khi đó,cơ chế chính sách của nhà nước lại
thường xuyên thay đổi.Nhưng vượt lên trên những khó khăn, cùng với ban lãnh đạo
đội ngũ công nhân viển trong công ty đã nỗ lực không ngừng để tìm ra cách thức
kinh doanh có hiệu quả nhất. Công ty đã cố gắng bố trí lại sản xuất kinh doanh, cải
tạo nâng cấp trang thiết bị, đầu tư mơi cho sản xuất, mở rộng thị trường.Trên thực tế
những kết quả mà công ty đã đạt được trong thời gian qua thật đáng khich lệ, phần
nào thực hiện tôt vai trò của thương nghiệp quốc doanh trên thị trường.
Nền kinh tế mở cũng đã tạo cho hoạt động kinh doanh của công ty có nhiều thuận
lợi.Tuy nhiên tình hình cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp làm công tác sản
xuất kinh doanh xuất nhập khẩu đã đặt ra một thử thách lớn, buộc các doanh nghiệp
phải xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh hướng vào thị trường với đầu ra và
đầu vào hợp lí, lại phải phù hợp với thế và lực của công ty. Trên cơ sở đó ban lãnh
đạo Công ty Thực phẩm miền Bắc nhận định chiến lược kinh doanh của mình là
"đa dạng hoá mặt hàng và phương thức kinh doanh, không ngừng tận dụng và
tìm kiếm thời cơ, xây dựng củng cố địa bàn kinh doanh cũ, tìm kiếm mặt hàng
mới,bạn hàng mới “.Từ năm 1997-2001, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng
công ty đã đạt được những thành công nhất định.
Biểu 5 : Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty giai đoạn
1997-2001
Chỉ tiêu ĐVT 1997 1998 1999 2000 2001
Tổng doanh thu Tỷ đ 536 670,8 634 1362 1600
- Bán hàng trên thị - 520,2 634,5 549 1083,7 1295
trường nội địa
- Doanh thu tử xuất - 3,4 15,28 39 245 255
khẩu
- Doanh thu từ dịch - 6,1 7,12 9 10,3 6
vụ
- Doanh thu từ sản - 6,3 13,9 37 23 44
xuất
Tổng kim ngạch xuất 1000 575 1092,5 2780 16500 17000
khẩu USD
Tổng kim ngạch nhập - 7611 4934,5 1430 1055 11000
khẩu
Các khoản nộp ngân triệu 29272 30215,8 11988,1 10776 7132
sách đồng
Lợi nhuận - 603 876 1940 2015 10000
Nguồn phòng kế hoạch tổng hợp
Biểu 6 : Tốc độ tăng trưởng của công ty trong giai đoạn 1997-2001
Chỉ tiêu Tốc độ tăng
98/97 2000/99 2001/2000 99/98
1,25 Tổng doanh thu 0,945 2,148 1,175
1,22 - Bán hàng trên thị trường nội 0,865 1,974 1,195
địa
4,494 - Doanh thu tử xuất khẩu 2,552 6,282 1,095
1,167 - Doanh thu từ dịch vụ 1,264 1,144 0,583
2,206 - Doanh thu từ sản xuất 2,662 0,622 1,913
1,9 Tổng kim ngạch xuất khẩu 2,545 5,935 1,03
0,648 Tổng kim ngạch nhập khẩu 0,29 0,738 10,427
1,032 Các khoản nộp ngân sách 0,397 0,899 0,662
1,453 Lợi nhuận 2,215 1,039 4,963
Nguồn phòng kế hoạch tổng hợp
Qua bảng kết quả kinh doanh của công ty qua các năm ta thấy hoạt động kinh
doanh của công ty đã đem lại hiệu quả với mức lợi nhuận hàng năm tương đối cao.
Năm 97, lợi nhuận mà công ty đạt được là 603 triệu đồng, năm 98 là 876 triệu đồng
tăng gấp 1,45 lần so với năm 97. Năm 99 là 1940 triệu đồng tăng gấp 2,215 lần so
với năm 98. Năm 2000 lợi nhuận là 2015 triệu đồng tăng gấp 1,03 lần so với năm
99. Và lợi nhuận của công ty tăng vọt trong năm 2001 (kể cả số tuyệt đối và số
tương đối) là 10.000 triệu đồng tăng gấp 4,963 lần so với năm 2000. Qua đó có thể
phản ánh một phần hiệu quả kinh doanh của công ty.
Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể nhận thấy năm 2001 là một năm rất thành
công của công ty. Tổng doanh thu đạt được tăng vượt hẳn so với những năm trước
với số lượng là 1600 tỷ đồng. Trên hầu hết các lĩnh vực kinh doanh, doanh thu năm
2001 đều đạt chỉ tiêu cao nhất trong cả thời kỳ. Điều đó cho thấy năm 2001 hoạt
động kinh doanh của công ty rất tốt.
Qua bảng kết quả kinh doanh trên ta cũng thấy hoạt động xuất nhập khẩu của
công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng dần
qua các năm, như vậy hoạt động xuất khẩu cho thấy một lĩnh vực hoạt động khá
mạnh và làm ăn có hiệu quả của công ty.
Một nhân tố quan trọng phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của công ty là
tiền lương người lao động. Ta có bảng về tình hình tiền lương của cán bộ công nhân
viên của công ty như sau:
Biểu 7: Tình hình tiền lương của công ty giai đoạn 1997-2000
Chỉ tiêu Đơn vị 1997 1998 1999 2000 Tốc độ tăng (lần)
98/97 99/98 2000/99
(1) (2) (3) (4) (5) (6) 7=4/3 8=5/4 9=6/5
Số người người 648 662 680 730 1,0216 1,027 1,074
lao động
Lương Nghìn 555 621 728 814 1,12 1,172 1,118
bình quân đồng
Nguồn phòng Lao động- Tiền lương
Từ bảng trên cho thấy số lượng lao động của công ty tăng qua các năm chứng tỏ
hoạt động kinh doanh ngày càng được mở rộng. Số lượng lao động tăng từ 648 năm
97 lên 662 năm 98, tăng 2,16%, năm 99 lên 680 người tăng 2,7% so với năm 98.
Đến năm 2002 số lao động là 730 người tăng 7,1% so với năm 99. Qua đó ta thấy,
hiệu quả kinh doanh của công ty tăng dần qua các năm. Mặc dù số lượng lao động
tăng lên nhưng mức lương của người lao động cũng được nâng lên theo, dần dần cải
thiện được đời sống của công nhân viên. Năm 2000 là năm kinh doanh có hiệu quả
nhất, tiền lương bình quân tăng từ 555 nghìn năm 97 lên 814 nghìn năm 2000, tăng
11,8% so với năm 1999.
Mặc dù tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty vẫn còn gặp nhiều
khó khăn nhưng công ty vẫn luôn thực hiện đầy đủ các chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà
nước, cụ thể:
Biểu 8: Tình hình nộp ngân sách Nhà nước của công ty
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
KH TH TH/K KH TH TH/K KH TH TH/K
H H H
Tổng nộp 11988,1 10776 7105 7132
ngân sách
Thuế 4800 1670 1500 1515
doanh thu
(VAT)
Thuế 101,6 95 105 110
TTĐB
Thuế xuất 6628,2 9000 5000 5005
nhập
khẩu
Thuế lợi 18,3
tức
Thu trên 39 3
vốn
Các 401 8 500 502
khoản
nộp khác
Nguồn phòng Kế toán-Tài chính tổng hợp
Để đánh giá được hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty ta có bảng tổng hợp
chủ yếu của công ty
Biểu 9:Kết quả hoạt động chủ yếu của công ty giai đoạn 1999- 2001
TT Chỉ tiêu 1999 2000 2001
Tổng doanh thu 634000 1362000 1600000 1
Tổng chi phí 632060 1359985 1590000 2
Lợi nhuận 1940 2015 10000 3
Hệ số hiệu quả 0,003069 0,001481 0,006289 4
Chỉ tiêu doanh thu/chi 1,003069 1,001481 1,006289 5
phí
Nguồn phong kế hoạch tổng hợp
Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu bên cạnh việc phải đầu tư vào cơ sở
sản xuất trực tiếp như nhà máy bánh quy cao cấp Hữu Nghị, xí nghiệp chế biến thực
phẩm, dây chuyền sản xuất rượu vang Hữu Nghị đối với nguồn hàng nhập khẩu
công ty phân phối cho các cửa hàng, các chi nhánh của đơn vị tư nhân, quốc doanh
khác. Đối với nguồn hàng xuất khẩu, công ty thu gom kýkết hợp đồng mua bán trực
tiếp với các đơn vị sản xuất sau đó sẽ đảm nhận khâu giao hàng xuống cảng. Do đó
khi tính hiệu quả kinh doanh công ty đã tách giá mua vào và phần khấu hao tài sản
cố định để tính lãi ròng để lại của doanh nghiệp.
II. Thực trạng kinh doanh xuất khẩu mặt hàng cao su
1. Thực trạng xuất khẩu của công ty nói chung
Nhiệm vụ chính của Công ty đó là sản xuất kinh doanh, trong những năm qua Công
ty luôn phát huy và giữ vững truyền thống là đơn vị làm ăn tương đối tốt. Các mặt
hàng xuất khẩu chính của công ty chủ yếu là hàng nông sản thực phẩm như: đường,
cao su, cà phê, bột mì, sữa các loại...Việc xuất khẩu những mặt hàng này cũng có
một phần đóng góp trong sự phát triển chung của công ty. Mặc dù trong hoạt động
xuất khẩu của mình công ty cũng gặp nhiều khó khăn, trở ngại do những nguyên
nhân chủ quan và khách quan khác nhau, nhưng ban lãnh đạo cùng tập thể cán bộ
công nhân viên trong côg ty vẫn nỗ lực tìm tòi, phấn đấu nhăm đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu của công ty.Trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu,nâng cao chất lượng và
mở rộng thị trường.
Bằng những nỗ lực vượt bậc trên, trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu của
công ty đã khôg ngừng tăng lên từ 575 nghìn USD năm 97 lên 18000 nghìn USD
năm 2001 và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và
trong tổng doanh thu của công ty. Nếu như trong năm 97 kim ngạch xuất khẩu chỉ
chiếm 7,02% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thì đến năm 2001 đã lên tới 62,07%.
Năm 2000 công ty đã xuất khẩu được 40.000 tấn đường, 6500 tấn cao su trong khi
năm 97 công ty chỉ xuất khẩu được 548 tấn cao su đường chưa có.
Một nguyên nhân nữa làm cho hoạt động kinh doanh đạt được những kết quả khả
dĩ trên đó là do công ty không ngừng mở rộng lĩnh vực kinh doanh của mình. Hiện
tại công ty không chỉ xuất khẩu cao su, đường mà còn xuất khẩu một số mặt hàng
khác như cà phê, rượu, thuốc lá, hạt điều... Trong giai đoạn tới công ty sẽ tham gia
xuất khẩu cả các mặt hàng chế biến có chất lượng cao, bao bì mẫu mã đẹp.
2. Kim ngạch xuất khẩu cao su
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường thế giới, tuy gặp
nhiêu khó khăn để tăng kim ngạch xuất khẩu nhưng những năm qua mặt hàng cao
su xuất khẩu của Công ty đã có những bước tiến vượt bậc, kim ngạch xuất khẩu
không ngừng tăng.Trong những năm qua,cao su luôn là là mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của công ty.Chính xuất khẩu cao su đã góp phần đáng kể vào việc tăng kim
ngạch xuất khẩu nói chung của Công ty trong thời gian qua. Kết quả xuất khẩu cao
su của công ty được thể hiện qua bảng sau:
Biểu 10 : Khối lượng và kim ngạch xuất khẩu cao su giai đoạn 1997-2001
Năm Khối lượng (tấn) Kim ngạch (USD)
1997 548 537040
1998 1479 934728
1999 4528 2406560
2000 6500 3497000
2001 7600 4256000
Nguồn phòng kinh doanh xuất nhập khẩu
Nhìn vào bảng số liệu trên, nếu năm 97 giá trị xuất khẩu hàng cao su của công ty
đạt 537.040 USD thì năm 2001 giá trị xuất khẩu đạt 4.256.000 USD tăng về giá trị
tuyệt đối là 3.718.960 USD tăng gấp 7,92 lần. Điều đó cho thấy trong tương lai triển
vọng của hoạt động xuất khẩu cao su của công ty la rất sáng sủa.
Tuy nhiên sự rớt giá liên tục của mặt hàng cao su trong những năm qua, sự rớt giá
mang tính nghiêm trọng từ năm 1997,là một vấn đề rất đáng quan tâm không chỉ
riêng của công ty mà là vấn đề mà các doanh nghiệp xuất khẩu cao su Việt Nam cần
phải quan tâm.Bên cạnh đó cuộc khủng hoảng tài chính khu vực từ năm 1997 tiếp
tục tác động gay gắt đến hoạt động xuất khẩu của công ty trong năm 1998,nhưng
hoạt động xuất khẩu của công ty vẫn đạt được những kết quả khả quan, điều này là
do uy tín, khả năng mở rộng quan hệ bạn hàng của công ty .Bên cạnh đó rút kinh
nghiệm từ các năm trước, ban lãnh đạo công ty đã đề ra phương hướng và những
biện pháp cụ thể phù hợp với hiện tại để vượt lên những khó khăn trước mắt và tiếp
tục phát triển trong thời gian tới .Trên thực tế kim ngạch xuất khẩu hàng cao su của
công ty đã có sự tăng lên tương đối khả quan. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu cao
su đã tăng so với 1997 là 397.688 USD tương đương 74,05%. Một biện pháp mà
công ty đã áp dụng cho phù hợp với tìn hình mới là:bổ sung và hoàn chỉnh cơ chế
khoán kinh doanh với mức phí thích hợp, đảm bảo vốn kịp thời cho hoạt động kinh
doanh thông qua việc tranh thủ các mối quan hệ ngân hàng để vay vốn.
Sang năm 1999 và năm 2000, cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực đã tạm
ngưng, nền kinh tế các quốc gia trong khu vực đã bắt đầu hồi phục. Tuy nhiên giá
cao su trên thị trường thế giới vẫn liên tục giảm, xuống tới mức kỷ lục trong vòng
30 năm qua vào những tháng cuối năm 2000.Nguyên nhân là do nhu cầu cao su ở
trên thế giới ở mức thấp, theo tính toán năm 2000 cung trên thế giới về cao su đã
vượt cầu khoảng 1 triệu tấn,tuy nhiên sự biến động lớn đó cũng không làm ảnh
hưởng lớn đến kết quả xuất khẩu cao su của Công ty những năm này.Năm 1999 giá
trị xuất khẩu hàng cao su tăng so với năm 1998 là 1.471.382USD tương đương với
157,46%. Và như vậy có thể nỏi rằng hoạt động xuất khẩu cao su của công ty là rất
khả quan. Năm 2000 giá trị xuất khẩu hàng cao su tăng so với năm 1999 là
1.090.440 USD tương đương vói 45,31%. Xét về giá trị tương đối và tuyệt đối, tốc
độ tăng của năm 2000 so với năm 1999 thấp hơn năm 1999 so với năm
1998.Nguyên nhân như đã nói ở trên là do sự ảnh hưởng của sự dư cung trên thị
trường thế giới và sự rớt giá của hàng cao su xuất khẩu. Đến năm 2001 giá cao su
trên thị trường thế giới đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. Vì thế kim ngạch xuất
khẩu cao cao su của Công ty cũng đã được cải thiện rõ rệt. Năm 2001 kim ngạch
xuất khẩu của hàng cao su tăng so với năm 2000 là 759.000USD tương đương
21,7%.
Trong những năm qua mặc dù bị ảnh hưởng của các tác động kháchd quan nhưng
hoạt dộng xuất khẩu hàng cao su của công ty vẫn không nghừng phát triển, không
những tăng về khối lượng xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu mà còn tăng cả tỷ trọng
trong cơ cấu xuất khẩu của công ty.
3. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
Với địa vị là một doanh nghiệp đuợc phép xuất nhập khẩu trực tiếp thì việc tìm
hiểu nghiên cứu nhu cầu về sản phẩm của thị trường đối với một doanh nghiệp như
Công ty Thực Phẩm Miền Bắc là một việc làm hết sức quan trọng, nó quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của công ty.Vì vậy trong kế hoạch phát triển của mình
công ty đã chủ động đề ra những chương trình hoạt động và chủ động thích nghi với
những đIều kiện thị trường thường xuyên thay đổi. Để làm được điều này công ty
thường xuyên làm tốt công tác Marketing nhằm đa dạng hoá sản phẩm và lựa chọn
sản phẩm xuất khẩu thích hợp nhằm mang lại lợi nhuận cao nhất. Công ty luôn xác
định công tác Marketing là một trong những công tác quan trọng nhất giúp cho
doanh nghiệp có đựoc lợi thế cạnh tranh, là công cụ tốt nhất giúp cho Công ty phục
vụ những nhu cầu đa dạng của thị trường một cách có hiệu quả. Cũng nhờ công tác
này mà công ty nhanh chóng nhận biết được sự thạy đổi của trường, từ đó có có
đựoc những biện pháp thích nghi tốt hơn nhằm mang lại hiệu quả cao hơn.
Công ty Thực phẩm miền Bắc là một công ty sản xuất kinh doanh tuy nhiên trong
lĩnh vực này công ty lại không tham gia sản xuất trực tiếp mà chỉ tham gia như một
trung gian thương mại. Do đó cao su xuất khẩu của công ty chủ yếu ở dạng sơ chế
và cao su nguyên liệu như : SVR32,SVR10, SVR20 , SV5 tỷ trọng từng mặt hàng
cao su xuất khẩu được thể hiệ qua bảng sau.
Biểu 11 : Cơ cấu và tỷ trọng từng mặt hàng cao su xuất khẩu giai đoạn
1998-2001
Tên sp Năm 98 Năm 99 Năm 2000 Năm 2001
Klưọng Tỷ Klượng Tỷ Klượng Tỷ Klưọng Tỷ
trọng trọng trọng trọng
SVR3L 438,4 80% 1271,94 86% 5850 90% 6384 84%
SVR10 65,76 12% 103,53 7% 195 3% 456 6%
SVR20 21,92 4% 73,95 5% 260 4% 380 5%
SV5 21,92 4% 29,58 2% 195 3% 380 5%
Nguồn phòng kinh doanh xuất nhập khẩu
Qua bảng trên ta thấy mặt hàng xuất khẩu cao su chủ lực của công tytrong thời
gian qua là SVR3L. Mặt hàng này luôn chiếm tỷ trọng lớn từ 80-90%khối lượng
xuất khẩu. Các mặt hàng cao su khác chỉ chiếm từ 10-20%.
4. Thị trường và bạn hàng xuất khẩu
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và kinh doanh cao su nói riêng,việc
tìm kiếm thị trường là vấn đề quan trọng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được
diễn ra liên tục và đạt hiệu quả cao .
Từ khi thành lập công ty , thị trường truyền thống của công ty là các nước thuộc
Liên Xô cũ . Nhưng từ khi hệ thống XHCN trên thế giới tan vỡ cùng với sự tan vỡ
của Liên Xô thị trường này không còn là thị trường chính của công ty đã đặt công
ty vào một hoàn cảnh vô cùng khó khăn trong vấn đề tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay ,
Trung Quốc là thị trường xuất khẩu chính của công ty , thị trường này luôn chiếm
khoảng 90%tổng giá trị xuất khẩu cao su của công ty. Ngoài thị trường các nước
Liên Xô cũ và Trung Quốc, Hàn Quốc cũng là một trong những thị trường xuất
khẩu cao su của công ty. Tuy nhiên thị trường này chiếm một tỷ trọng khá nhỏ
trong tổng giá trị xuất khẩu cao su của công ty .Dưới đây là cơ cấu thị trường xuất
khẩu cao su của công ty
Biểu 12 : Cơ cấu thị trường xuất khẩu mặt hàng cao su của công ty
1998 1999 2000 2001
Thị trường Kh/ lg Tỷ Kh.lg Tỷ Kh.lg Tỷ Kh.lg Tỷ
trọng trọng trọng trọng
1286,73 87% 3848,8 85% 5785 89% 6840 90% Trung
Quốc
Liên Xô cũ 147,9 10% 407,52 9% 390 6% 532 7%
Hàn Quốc 44,37 3% 271,68 6% 325 5% 228 3%
* Đặc điểm thị trường các nước Liên Xô cũ.
Đây là một thị trường tương đối rễ tính, nhu cầu đòi hỏi về chất lượng không quá
cao, kênh phân phối sản phẩm vào thị trường này gồm hai kênh chính: Thứ nhất là
bán theo các hiệp định hàng hoá được ký kết thông qua hiệp định í kết giữa chính
phủ Việt Nam và chính phủ các nước bạn, sau đó hạn ngạch đựơc phân bổ cho
từng doanh nghiệp cho nên số lượng sản phẩm xuất khẩu phụ thuọc rất lớn vào
việc đàm phán trả nợ giữa nước ta và nước bạn. Thứ hai là bán theo hình thức liên
kết giữa các lưu học sinh Việt Nam ở nước ngoài, hình thức này đơn giản cả về
điều kiện cơ sở giao hàng cũng như điều kiện về thanh toán, song bán hteo hình
thức này số lượng hàng hoá bán được rất nhỏ.
Tuy nhiên gần đây công ty bị thu hẹp thị trường ở các nước này mà nguyên
nhân chủ yếu do:
+Các hiệp định trả nợ giữa nước ta với các nước trên đã sắp hoàn thành.
+Do không có chính sách bán hàng hợp lý nên bị các sản phẩm cùng loại của
các quốc gia khác cạnh tranh gay gắt, chiếm mất thị trường.
+Do cơ chế cũng như phương thức thanh toán còn phức tạp
* Thị trường Hàn Quốc:
Thị trường Hàn quốc là một thị trường nẳmtong khu vực Châu á. Đây là một thị
trường mới của công ty, thị trường này có đòi hỏi khắt khe hơn rất nhiều so với thị
trường các nước Liên Xô cũ. Tuy nhiên, cũng có những thuận lợi của công ty khi
xâm nhập vào thị trường này là.
-HànQuốc có vị trí đại lý gầnViệt Nam nên chi phí vận chuyển hàng hoá
thấp. Đây là một cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh của công ty.
-Đây là thị trường có tiềm năng lớn.
Trên thực tế, công ty đã chú trọng hơn đến tiềm năng của thị trường này tuy
nhiên kết quả mang lại cũng không mấy khả quan.
*Thị trường Trung Quốc:
Đây là thị trường nhập khẩu hàng ao su lớn nhất của công ty trong những năm
qua.
Với 1036 km đường biên giới và có 25 cửa khẩu lớn nhỏ là con đường lưu thông
qua buôn bán giữa Việt Nam –Trung Quốc. Đó là một điều kiện rất thuận lợi cho
công tác thăm dò, tìm kiếm bạn hàng của các doanh nghiệp giữa hai quốc gia.
Bên cạnh đó Việt Nam – Trung Quốc là hai nước láng riềng “núi liề núi, sông
liền sông”, và đặc biệt hơn là nền văn hoá Việt Nam và trung Quốc có những điểm
rất tương đồng, là những nét rất thuận lợi trong văn hoá kinh doanh.
Cũng từ sự giáp danh về biên giới của hai quốc gia đã tạo cho các doanh nghiệp
của hai nước có nhiều thuận lợi.
+Lợi thế về chi phí vận chuyển.
+Các doanh nghiệp có thể dễ dàng gặp gỡ trực tiếp để đàm phán về việc xuất
nhập khẩu cao su.
Hơn nữa , thị trường Trung Quốc cũng không quá khắt khe trong quy cách và
chất lượng sản phẩm trong khi mà sản phẩm cao su của công ty nói riêng và Việt
Nam nói chung còn chưa đạt tiêu chuẩn về chất lượng để cạnh tranh trên thị
trường quốc tế.
Trên thực tế, những năm qua, Trung quốc luôn là thị trường nhập khẩu cao su lớn
nhất của công ty. Tỷ trọng xuất khẩu cao su sang thị trường này luôn chiếm một tỷ
trọng lớn, khoảng 90% khối lượng cao su xuất khẩu của công ty,
Bên cạnh những thuận lợi trong quá trình xuất khẩu cao su sang Trung quốc,
công ty nói riêng và các doanh nghiệp xuất khẩu cao su Việt nam sang thị trường
Trung quốc nói chung cũng đã gặp không ít khó khăn, nhiều khi phải “ ngậm đắng
nuốt cay”. Các thương nhân Trung quốc thường xuyên chèn ép, giảm giă xuất
khẩu cao su của Việt nam.
Gần đây nhất là việc các thương nhân Trung Quốc đồng loạt không nhập khẩu
ngay hàng cao su của Việt nam trong khi mặt hàng này vẫn ngày càng được đưa
đến các cửa khẩu ngày một nhiều,Lợi dụng tình hình, mủ cao su xuất khẩu không
để được lâu, các thương nhân Trung Quốc đã chèn ép buộc các doanh nghiệp Việt
nam phải giảm giá thì mới nhập khẩu.
Xét về mặt kinh tế thì trước mắt có thể các bạn hàng Trung Quốc sẽ mang lại
kim ngạch lớn hơn song nếu như họ “ dở trò” lúc đó, chúng ta sẽ lâm vào tình
trạng tiến thoái lưỡng nân, giá rẻ mà vẫn phải bán vì để lâu cao su chưa được sơ
chế sẽ hỏng hết.
5. Phương thức xuất khẩu
Hiện nay hình thức xuất khẩu chủ yếu đang được công ty áp dụng là hình thức
xuất khẩu, trực tiếp, giá trị xuất khẩu theo hình thức này chiếm khoảng 90% giá trị
xuất khẩu của công ty.
Đối với mặt hàng cao su xuất khẩu thì phương thức xuất khẩu hàng này đều là
xuất khẩu trực tiếp. Công ty thường cử đại diện của mình ra nước ngoài để kí hợp
đồng hay nhiều trường hợp phí đối tác cử đại diện đến công ty để thoả thuận một
số điều khoản hợp đồng. Đối với một số đối tác ở xa không có điều kiện đàm phán
trực tiếp, hợp đồng thường được kí kết thong qua các hình thức như: Điện thoai,
Fax, Email. .. hình thức xuất khẩu trực tiếp đã và đang tạo ra cho công ty một vị
thế vững chắc trên thị trường thế giới, đồng thời nâng cao uy tín của công ty.
6. Tổ chức nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu cao su
6.1. Kiểm tra L/C
Sau khi ký kết hợp đồng xuất khẩu cao su, phía đối tác của công ty sẽ mở L/C tại
một ngân hàng nào đó có ngân hàng thông báo tại Việt Nam. Sau khi nhận được
giấy thông báo mở L/C của đối tác công ty kiểm tra nội dung L/C một cách chặt
chẽ, xem có đúng như hợp đồng đã ký kết chưa. Nếu có gì chưa hợp lý thì báo lại
cho phía đối tác để 2 bên cùng thống nhất sửa lại
6.2. Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu
Sau khi kiểm tra L/C, công ty tiến hành việc chuẩn bị cao su xuất khẩu.Trước tiên
công ty tiến hành thu gom tập trung thành lô hàng xuất khẩu. Để thu gom công ty
thông qua các đại lý, đại diện của mình ở những tỉnh, thành, khu vực sản xuất ký kết
các hợp đồng thu mua cao su, sau đó gom chúng lại.Cuối cùng thì thực hiện việc
đóng gói bao bì hàng cao su xuất khẩu. Bao bì được lựa chọn phù hợp với mặt hàng
cao su xuất khẩu và yêu cầu nêu ra trong hợp đồng.
6.3. Thuê phương tiện vận chuyển
Do cao su của công ty đều xuất khẩu sang Trung Quốc nên hầu hết các hợp đồng
xuất khẩu cao su công ty phải vận chuyển bằng ô tô đến biên giới rồi giao lại cho
người nhập khẩu. Đội xe của công ty sẽ phải đến những nơi thu hàng gom chúng lại
rồi vận chuyển đến biên giới để giao hàng cho khách hàng theo đúng hợp đồng đã
ký kết.
6.4. Làm thủ tục hải quan
- Khai báo và tiếp nhận hồ sơ hải quan
+ Công ty phải tự khai các đối tượng làm thủ tục hải quan theo mẫu tờ khai do
Tổng cục trưởng Tổng cục hải quan quy định
+ Nộp và xuất trình bộ hồ sơ hải quan
- Xuất trình và kiểm tra hàng hoá
+ Công ty xuất trình đầy đủ hàng hoá để cơ quan hải quan kiểm tra theo thời
gian và địa điểm
+ Bố trí phương tiện và nhân công phục vụ việc kiểm tra hàng hoá của cơ quan
hải quan
- Nộp thuế xuất khẩu theo quy định của luật thuế xuất khẩu và các luật thuế khác
có liên quan.
- Công ty có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ hải quan của những lô hàng đã giải phóng
trong thời hạn 5 năm kể từ ngày giải phóng hàng và có trách nhiệm trình bộ hồ sơ
cùng sổ sách, chứng từ liên quan khác cho cơ quan hải quan khi họ yêu cầu.
6.5. Làm thủ tục thanh toán
Đây là khâu quan trọng và là khâu phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động xuất
khẩu. Hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực xuất khẩu một phần nhờ vào chất lượng của
việc thanh toán. Thanh toán là bước bảo đảm cho công ty thu được tiền về.
6.6. Giải quyết khiếu nại (nếu có)
7.Các biện pháp công ty đã sử dụng
-Đa dạng hoá loại hình xuất khẩu và đa phương hoá trong quan hệ với khách
hàng trên thị trường quốc tế.
-Củng cố và phát triển mạng lưới thu mua tại các tỉnh và vùng trọng điểm trong
cả nước.
-áp dụng các chính sách linh hoạt về giá cả cải tiến phương thức bán hàng, tăng
cường quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá,
tăng vòng quay vốn.
-Thành lập các cơ sở, văn phòng tại một số nước có quan hệ làm ăn buôn bán lâu
dài với công ty như ở các nước SNG, Trung Quốc.
Đầu tư vào từng bước hiện đại hoá mạng lưới thông tin liên lạc, các phương pháp
quản lý hiện đại.
Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho cán bộ công nhân viên.
8. Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu cao su
8.1 Chỉ tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu chung nhất và quan trọng nhất đối với các nhà kinh doanh
xuất khẩu. Song nó không phản ánh chính xác chất lượng kinh doanh cũng như tiềm
lực kinh doanh của doanh nghiệp, mặt khác nó không cho phép so sánh hiệu quả
kinh doanh giữa các kỳ với nhau.
Năm 1999, lợi nhuận xuất khẩu cao su để lại của công ty là 57931USD năm 2000
là 67667 USD và năm 2001 là 98709 USD. Như vậy ta thấy tính hiệu quả trong
hoạt động xuất khẩu cao su của công ty là rất ổn định. Ta có thể so sánh lợi nhuận
xuất khẩu cao su của công ty qua các năm.
P2000/ P99 = 67667/57931=116,81% tăng tuyệt đối là 9736 USD
P2001/P2000 = 98709/67667 = 145,87% tăng tuyệt đối là 31042 USD.
Như vậy lợi nhuận xuất khẩu cao su từ năm 1999 đến năm 2001 không ngừng gia
tăng. Nguyên nhân là do công ty đã không ngừng mở rộng nghiên cứu thị trường,
nâng cao nghiệp vụ của cán bộ xuất khẩu và không ngững đúc rút kinh nghiệm
kinh doanh xuất khẩu sau mỗi hợp đồng được thanh lý
8.2.Chỉ tiêu tỉ suất doanh lợi xuất khẩu.
Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quae
xuất khẩu. Chỉ tiêu này cho ta biết một đồng chi phí xuất khẩu đem lại bao nhiêu
đồng lợi nhuận.
Với mức lợi nhuận trên tỷ suất doanh lợi tương ứng là:
Năm 1999: 57931/2348629 = 0,0247
Năm 2000: 67667/ 3497000 = 0,0194
Năm 2001: 98709 /4256000 = 0,0232
Lợi nhuận thu được khi bỏ một đồng chi phí xuất khẩu giảm từ 0,0247 năm 1999
xuống 0,0194 năm 2000 và có dấu hiệu tăng lên vào năm 2001 lên 0,0232
Như vậy, một đồng chi phí xuất khẩu đem lại lơị nhuận cao nhất vào năm 199 và
thấp nhất vào năm 2000.Nguyên nhân là do sự rớt giá nghiêm trọng của giá cả cao
su thế giưói năm 2000 (giá thấp nhất trong vòng 30 năm qua).
Giá giảm, trong khi chi phí để xuất khẩu vẫn giữ nguyên đã làm sụt giảm lợi
nhuận xuất khẩu cao su cuat công ty một cách đáng kể. Đến năm 2001, giá cao su
trên thị trường thế giưói đã có dấu hiệu hồi phục. Vì vậy mà tỷ suất lợi nhuận của
xuất khẩu cao su được cải thiện rõ rệt.
Để đánh giá chỉ tiêu này ta có bảng sau:
Biểu 13 : Tỷ lệ thực hiện xuất khẩu cao su so với kế hoạch thời gian qua.
Kế hoạch Thực hiện Năm %
1997 322 548 170
1998 821 1479 180
1999 2460 4528 184
2000 3421 6500 190
2001 3800 7600 200
Nguồn phòng kinh doanh xuất nhập khẩu
Qua bảng trên ta thấy hoạt động xuất khẩu cao su của công ty đều vượt kế hoạch
trong các năm qua.
Năm 1997 thực hiện so với kế hoạch bằng 170 %
Năm 1998 thực hiện so với kế hoạch bằng 180 %
Năm 1999 thực hiện so với kế hoạch bằng 184 %
Năm 2000 thực hiện so với kế hoạch bằng 190 %
Năm 2001 thực hiện so với kế hoạch băng 200 % kế hoạch.
Điều đó cho thấy hoạt động xuất khẩu cao su của công ty mặc dù bị ảnh hưởng
không nhỏ của các tác đọng khách quan nhưng vẫn đạt được những kết quả khả
quan.
Theo phân tích của các chuyên gia, trong những tháng tới của năm 2002 giá cao
su xuất khẩu sẽ không ngừng tăng lên. Và như vậy hoạt động xuất khẩu cao su sẽ
có triển vọng tăng cao hơn nữa.
Lợi nhuận là chỉ tiêu chung nhất và quan trọng nhất đối với các nhà kinh doanh
xuất khẩu. Song nó không phản ánh chính xác chất lượng kinh doanh cũng như tiềm
lực kinh doanh của doanh nghiệp, mặt khác nó không cho phép so sánh hiệu quả
kinh doanh giữa các kỳ với nhau.
III. Kết luận rút ra qua phân tích thực trạng kinh doanh xuất khẩu cao su
của công ty thực phẩm miền Bắc thời gian qua
1.Những thuận lợi.
Trong những năm qua hoạt dộng sản xuất cao su của công ty đã có nhữg bước phát
triển đáng kể. Đạt được điều này ngoài sự nỗ lực của bản thân công ty còn có những
thuận lợi lớn từ phía nhà nước cụ thể là.
1.1.Những thuận lợi khách quan và bản thân công ty:
a)Những thuận lợi khách quan.
-Chính sách mở cửa năng động cùng với chính sách ngoại giao “Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” nên kết quả đạt được trong thời
gian qua đã tạo vị thếmới, thuận lợi hơn cho Việt Nam trong việc hoà nhập vào sự
phân công lao động và mậu dịch quốc tế. Đặc biệt trong những năm gần đây Việt
Nam đã đạt được những thành công lớn trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại như: Việc
mỹ bãi bỏ cấm vận, bình thường hoá quan hệ với Việt Nam và hai nước đã kí kết
hiệp định thương mại Việt Mỹ trong năm 2000, Việt Nam gia nhập khối Asean, trở
thành thành viên chính thức Apech, đồng thời tiến hành kí hiệp định khung hợp tác
quốc tế giữa Việt Nam và liên minh châu Âu cũng như trong tương lai sẽ phấn đấu
trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTU)…. Tất cả
những điều này đã tạo ra một sinh lực mới cho các doanh nghiệp Viêtj Nam trong
quan hệ thương mại với nước ngoài trong đó có F0NEXIM – Bộ thương mại.
Nền kinh tế thị trường cùng với sự bung ra hàng loạt các loại hình công ty làm
cho tính cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt và quyết liệt, do đó đồi hỏi doanh
nghiệp phải không ngừng phát huy tính năng động sáng tạo của mình cũng như
không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩmcoi hệ quả kinh doanh là hàng đầu cũng
thông qua hoạt động thực tế của doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nhà nước đã từng
bước hoàn thiện chính sách quản lý phù hợp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
hoạt động kinh doanh được thuận lợi. Nói chung, nhà nước đã không ngừng tích
cực đổi mới chinh sách kinh tế đối ngoại, kinh tế ngoại thương nói chung và chính
sách xuất khẩu nói riêng nhằn phát huy quyền chủ động sáng tạo của các địa
phương, các ngành, các đơn vị cơ sở, xoá bỏ cơ chế tập trung bao cấp, coi lợi ích
kinh tế là động lực chủ yếu thúc đẩy các tổ chức kinh tế tham gia vào thị trường lớn
.
b. Thuận lợi từ bản thân công ty .
Là doanh nghiệp nhà nước có uy tín nên trong những năm qua công ty cũng có
những thuận lợi nhất định .
- Nguồn cung cấp cho xuất khẩu lớn và tương đối ổn định
- Mặc dù mới đi vào hoạt động, nhưng công ty cũng đã có sự tích luỹ kinh
nghiệm kinh doanh xuất nhập khẩu trên thực tế thế giới rất đáng quí để có thể biết
được những mặt hàng kinh doanh và sự am hiểu thực tế. Đây là một thuận lợi giúp
công ty hạn chế được những rủi ro khi kinh doanh trong việc ký kết hợp đồng, có
thể thiết lập những mối quan hệ làm ăn với các nguồn cung cấp một cách tốt đẹp .
- Công ty có một đội ngũ cán bộ nhân viên đông đảo, hầu hết họ là những
người năng động , sáng tạo , nhiệt tình và trung thành với công ty với những thuận
lợi như vậy , những năm qua trong quá trình hoạt động và phát triển của mình công
ty đã đạt được những thành công cụ thể .
1.2 Thành công của công ty .
- Công ty đã tạo đươc mối liên kết chặt chẽ với các cơ sở thu mua cũng như
quan hệ bạn hàng với các nhà sản xuất chế biến, tạo nên mốiquan hệ thống nhất từ
trên suống dưới. Sở dĩ tạo ra được những mối
Liên kết là do công ty đã biết gắn lợi ích của mình vói lợi ích của các nhà cung
cấp. Thực tế đã chứng minh không có mối quan hệ kinh tế nào bền vững bằng mối
quan hệ kinh tế hai bên cùng có lợi.
-Cùng với sự phát triển của đất nước, hàng năm trong hoạt động xuất khẩu
cao su công ty đã thu về một lượng lớn ngoại tệ, tăng lợi nhuận góp phần tạo thêm
nguồn vốn cho công ty cũng như thực hiện tốt nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước.
Tuy gặp nhiều khó khăn ở các khẩu baỏ quản, tiêu thụ.. song hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty đã có nhiều bước tiến rõ rệt. Thể hiện là 5 năm qua số
lượng cao su xuất khẩu của công ty đã không ngừng tăng, nếu như năm 1997 cao su
xuất khẩu của công ty đã đạt kim ngạch 537.040 USSD thì đến năm 2001 kim
ngạch xuất khẩu cao su công ty đã đạt 4.256.000 USD. Đây thực sự là một kết quả
khả quan đối với hoạt động xuất khẩu công ty , nó có thể tự bù đắp được chi
phí,đảm bảo có lãi tăng lợi nhuận của công ty.
-Trong quá trình hoạt động kinh doanh xuất khẩu cao su của mình cũng như
xuất khẩu các mặt hàng khác nói chung, đội ngũ cán bộ công ty ngày được nâng
cao về kinh nghiệm thông qua việc thườn xuyên cọ sát thực tế, đó là yếu tố góp
phần quan trọng vào thắng lợi bước đâù hoạt động kinh doanh xuất khẩu cao su của
công ty. Mặt khác trong những năm qua từ việc xuất khẩu cao su cũng góp phần
tăng thu nhập, ổn định đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty, tạo cho họ sự
yên tâm trong công việc, khuyến khích khả năng sáng tạo của mỗi người để họ làm
việc có hiệu quả cao.
Mặc dù thời gian tham gia hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty nhiều
nhưng với việc thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu đã từng bước khẳng định sự vững
vàng cảu mình trong kinh doanh. Quá trình này cũng giúp cho công ty rút ra được
nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong việc giao dịch với khách hàng, từ đó có
thể phân loại được twrfng khách hàng với nhu cầu khác nhau của họ ở các thị
trường khác nhau để có cách ứng sử một cách hợp lý...
Cùng với thành công này, với sự phát triển và phấn đấu không ngừng của
mình chắc chắn công ty sẽ vận dụng được tốt nhất các thời cơ, phát huy ưu điểm có
thể mở rộng quy mô hoạt động của mình đưa uy tín của công ty ngày một có vị thế
rõ rệt trên thị trường trong nước và quốc tế.
2.Khó khăn và hạn chế
2.1. Những khó khăn
a-Khó khăn khách quan.
-Do Việt Nam không phải là thành viên chính thức của tổ chức TMTG (WTO)
nên không được hưởng quy chế cũng như các ưu đãi khác về thuế quan.
Chính sách khuyến khích xuất khẩu của Nhà nước cũng có những thuận lợi
hơn nhưng chưa thực sự hoàn chỉnh, có nhiều vấn đề còn khá cứng nhắc, không
thoáng. Mặc dù đã qua nhiều lần sửa đổi với cơ chế mới, giảm bớt đi nhiều các thủ
tục hành chính nhưng điều hành này vẫn chưa đủ sức thyết phục các doanh nghiệp
yên tâm trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh xuất khẩu của mình.
-Vấn đề vốn và sự hỗ trợ xuất khẩu các mặt hàng nông sản nói chung và với
mặt hàng cao su nói riêng vẫn chưa được quan tâm 1 cách đúng mức và kịp thời. Vì
thế cũng rề gây ra khó khăn cho các công ty hoạt động lĩnh vực xuất khẩu mặt hàng
nông sản.
b-Về phiá Công ty
-Dưới tác động của cơ chế thị trường, số lượng của các đơn vị kinh doanh
các mặt hàng nông sản nói chung và đặc biệt là hoạt động xuất khẩu cao su cũng
đang ngày càng phát triển, tạo nên sự ganh đua mua bán, dẫn đến giá mua hàng cao
và giá bấn lại hạ xuống. Cả hai điều này đều không tốt mà lại điên ra đồng thời nên
càng gây thiệt hại cho công ty. Hiện nay công ty đang phải cạnh tranh gay gắt với
các công ty thương mại trong nước cũng như các doanh nghiệp tư nhân hoạt động
xuất khẩu nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng cao su trên thị trường. Mặt khác với sự
cạnh tranh với một số đổi thủ ở thị trường nước ngoài nhe: Inđônêsia, Malaysia và
Thái Lan... Do vậy đây thực sự là khó khăn rất lớn đối với công ty trong việc ổn
định và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Thiếu vốn cũng là khó khăn trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu cao su
công ty,vì thế đã có nhiều cơ hội để tuột mất.Trên thực tế nguồn vốn của công ty
bao gồm:
+Nguồn vốn do ngân sách nhà nước từ khi mới thành lập (là rất nhỏ), còn
chủ yếu là vốn vay. Do vậy khi sử dụng vốn đi vay công ty phải có sự cân nhắc giữa
hiệu quả kinh doanh và chi phí phải trả cho đồng vốn vay đó. Chính điều này đã
cản trở công ty trong việc huy động vốn. Mặt khác công ty cũng không thể hy vọng
các khoản tín dụng từ phía khách hàng hoặc của người cung cấp.
-Mặc dù trong 5 năm hoạt động của mình công ty đã có một đội ngũ cán bộ
kinh doanh nhiệt tình, gắn bó với công việc song những người có đủ trình độ nghiệp
vụ chưa nhiều. Do vậy trong việc thực hiện hoạt động xuất khẩu cao su nói riêng và
hoạt động xuất khẩu của công ty nói chung thường gặp phải những khó khăn về
giao dịch, đàm phán ký kết hợp đồng...Làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của
công ty .
2.2.Những hạn chế
Trong hoạt động xuất khẩu chỉ đạt ở mức trung bình so với thế giới. Vì vậy,
công ty cũng còn nhiều hạn chế về chất lượng cao su xuất khẩu. Mặt khác do các
nguồn hàng nằm xa thành phố nên việc thu gom tốn nhiều thời gian, ảnh hưởng đến
việc kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi nhập hàng, dễ gây tổn thất lớn, Diều
này đã phần nào làm giamr đi năng lực cạnh tranh của công ty, cũng như làm giảm
đi lợi nhuận,, uy tín của công ty.
-Về giá cả:
Do chất lượng cao su còn thấp nên giá cao su xuất khẩu của công ty cũng
thường thấp hơn so với các bạn hàng xuất khẩu khác trên thị trường thế giới. Vì
vậy, khi xuất khẩu thị trường cao su sang nước ngoài công ty thường phải chịu sức
ép giá của khách hàng cũng như khó giành được thế chủ động trong việc ký kết
hoạt động mua bán của mình .
-Về thị trường xuất khẩu .
Mặc dù thị trường xuất khẩu xt cao su của Việt Nam là tương đối lớn tuy
nhiên thị trường xuất khẩu cao su của công ty còn rát nhỏ hẹp, chủ yếu là xuất khẩu
sang thị trường Trung Quốc. Vì vậy, thời gian tới công ty còn phaie mở rộng hơn
nữa thị trường xuất khẩu của mình . Từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
của công ty
-Tổ chức xuất khẩu :
Tới mặt hàng xuất khẩu cao su của công ty vẫn chủ yếu là dạng thô và sở chế
do vậy hoạt động xuất khẩu cao su công ty vẫn chưa có tốc độ tăng trưởng vững
chắc. Kim ngạch xuất khẩu qua các năm còn nhiều chênh lệch. Và thực tế hoạt động
tỏ chức xuất khẩu của công ty còn rất cồng kềnh, lãng phí , chưa có
Sự quản lý đúngmức nên chưa tạo được sự thông nhất cho toàn công ty .
3. Nguyên nhân làm hạn chế công tác thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cao su
của công ty .
3.1. Nguyên nhân khách quan :
- Nước ta nằm trong khu vực Đông nam á , nơi có nhiều nước cũng có matự
hàng nông sản xuất khẩu giống nhau ( cà phê ,gạo ,cao su..)nên tính cznhj tranh là
rất lớn. Các doanh nghiệp Việt nam lại mới tham gia vào hoạt động kinh doanh trên
thị trường thế giới trong điều kiện thị trường thế giới đã được phân chia , phân công
lao động quốc tế đã được xây dựngtương đối ổn định . Các doanh nghiệp việt nam
còn đang non trẻ đã phải chấp nhận cạnh tranh với các tập đoàn đa quốc gia có
nhiều kinh nghiêm trên thị trường .
- Hệ thống chính sách của nhà nước
Hiện nay việc sản xuất và xuất khẩu cao su của Việt nam đòi hỏi nhà nước
cần có những chính sách tăng cường đầu tư một cách thích hợp và hợp lý. Để không
những có thể xuất khẩu được một lượng cao su lớn mà còn làm cho sức cạnh tranh
của cao su xuất khẩu ở Việt nam ngày càng mạnh trên thi trường quốc tế và mang
lại lợi nhuận một cách tối ưu nhất .
- Cơ chế quản lý trong hoạt động xuất nhập khẩu nói chung còn nhiều bất cập .
Từ năm 1995 nhà nước ta đã tổ chức và sắp xép lại hệ thống lưu thông ,phân
phối các đầu mối xuất khẩu .Nhà nước tự do hoá lưu thông phân phối , mở rộng
quyền tự chủ cho các loại hình doanh nghiệp có thể mua bán cao su ở thị trường
nội địa để từ đó phục vu cho xuất khẩu . Tuy nhiên hoạt động xuất khẩu cao su vẫn
còn chủ yếu tập trung vào những công ty lớn , phần nào đã có được những sức
mạnh và uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Vì vậy luôn có sự cạnh tranh
không lành mạnh giữa các thương nhân làm ảnh hưởng đến hoạt động mua bán cao
su xuất khẩu .
Mặt khác công tác quản lý hoạt động xuất khẩu vẫn còn nhiều tồn tại thể
hiện :
+ Hệ thống vănbản pháp qui chưa hoàn chỉnh , nhiều công văn còn chung
chung chưa rõ ràng , cụ thể là một số qui định còn bất hợp lý hay không có tính khả
thi .Và đăc biệt là sự bất ổn định , thay đổi quá nhiều,qua nhanh của những văn bản
này khiến cho các doanh nghiệp chưa thưc sự yên tâm trong hoạt động xuất nhập
khẩu .
+ Hệ thống thuế xuất nhập khẩu vẫn còn nhiều bất cập, các danh mục hàng
hoá tính thuế chưa đầy đủ dẫn đến việc áp dụng tuỳ tiện , nhiều thuế xuất chưa hợp
lý , còn có các hiện tượng thuế chồng thuế.
+ Công tác hải quan vẫn gây khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu .Các
thủ tục này tuy đã có sự đơn giản song người xuất khẩu vẫn còn gặp nhiều phiền
phức trong thái độ quan liêu của các nhân viên hải quan , họ thường thiếu tinh thần
hợp tác và không mấy thiện chí.
+ Công tác tổ chức thông tin giữa cơ quan quản lý nhà nước với doanh
nghiệp chưa tốt , chưa kịp thời , đồng bộ và chất lượng chưa cao. Nhà nước chưa
quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp phát triển sản xuất,
tạo nguồn hướng dẫn và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng
thị trường xuất khẩu .
3.2. Những nguyên nhân chủ quan
-Công ty vẫn chưa có đủ uy tín và tên tuổi trên thị trương fquốc tế, nhiều mặt
hàng cao su của công ty đến nay vẫn rất khó khăn trong việc tạo chỗ đứng trên thị
trường thế giưoí.
-Công ty chưa chủ động đưa ra những biện pháp Marketing cần thiết để tìm
hiểu một cách sâu sắc hơn nhu cầu thị trường. Vì vậy mà khả năng tìm kiếm thông
tin về thị trường của công ty chưa mang tính cập nhật, nhanh chóng và chính xác,
tạo nên sự không ổn định về thị trường và kả năng xâm nhập là không mấy hiệu
quả.
-Chưa hình thành hệ thống phânphối trực tiếp ở nước ngoài. Chưa có một đội
ngũ tiếp thị chuyên môn nên ngay cả ở các thị trường truyền thống cũng vẫn phải
bán qua các nhà nhập khẩu của họ. Do đó mạng lưới tiêu thụ mặt hàng cao su là rất
khó khăn và khả năng kinh doanh trên thị trường luôn bất ổn.
-Mặc dù hiện nay đội ngũ cán bộ công nhân viên công ty hầu hết đều có
trình độ đại học, cao đẳng, năng động nhưng trong môi trường kinh doanh quốc tế
ngày nay luôn thường xuyên biến động vì vậy mà có nhiều người không theo kịp
được thời cuộc, họ làm việc theo một nguyên tắc quá cứng nhắc, có nhiệt tình song
lại chậm chạp và quan liêu. Thực tế, xu hướng hiện nay thì không còn thích hợp với
những người như vậy mà đòi hỏi phải có sự linh hoạt, năng động sáng tạo, có khả
năng dự báo, nắm bắt nhanh những thông tin về tình hình kinh tế thế giới. Do vậy
đã làm ảnh hưởng đến quá trình giao dịch, thực hiện hợp đồng cũng như tăng khả
năng tìm hiểu thị trường, khách hàng,...
-Một nguyên nhân cũng hết sức cơ bản khiến hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
cao su ở công ty còn thấp, đó là vấn đề quản lý và sử dụng vốn. Việc quản lý vốn
còn rất lỏng lẻo và không hiệu quả làm tăng chi phí, mất cơ hội và kinh doanh
không mang lại lợi nhuận.
Như vậy qua phân tích các dữ liệu trên,thực tế công ty còn rất nhiều khó
khăn thử thách trước mắt. Do đó việc đưa ra giải pháp hữu hiệu hiện nay cho quá
trình đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu cao su ở công ty luôn được xem là vấn đề cần
thiết trong sự phát triển của toàn công ty.
Chương III
phương hướng và biện pháp thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu cao su ở công ty
thực phẩm miền bắc
I. Dự báo thị trường cao su thế giới
Sự rớt giá cao su bắt đầu mang tính chất nghiêm trọng từ năm 1997 và xuống
thấp tới mức kỷ lục trong vòng 30 năm qua vào những tháng cuối năm 2000. Tổ
chức cao su thiên nhiên quốc tế (INRo) đã thất bại trong việc kêu gọi các nước
thành viên giữ mức giá xuất khẩu tối thiểu nên Thái Lan, Malaysia- hai nước chiếm
khoảng 60% sản lượng cao su thiên nhiên thế giới đã quyết định rút khỏi INRo và
làm cho tổ chức này tan rã. Ngay sau đó 3 nước Thái Lan, Malaysia, Indonêsia với
sản lượng 4,5 triệu tấn/năm, chiếm 80% sản lượng thế giới đã đi tới thống nhất sẽ
ký một hiệp định về cao su. Theo đó, sẽ có một Uỷ ban thẩm định đề ra mức giá
xuất khẩu cao su tối thiểu và các quyết định về hợp đồng bán cao su kỳ hạn cũng
như kế hoạch giữ cao su dự trữ. Tuy nhiên các cuộc họp cấp Bộ trưởng 3 nước liên
tục bị hoãn nhiều lần từ tháng 12/2000 sang tháng 1/2001 và tới nay 1 Hiệp định tay
3 như vậy vẫn chưa được ký kết do không nhất trí được chương trình nghị sự. Trong
khi đó Nhật Bản- nước nhập khẩu cao su thiên nhiên lớn thứ 3 thế giới nhu cầu tiêu
thụ năm 2002 giảm 2,2% so với năm 2001, chỉ còn 1,446 triệu tấn. Theo Hiệp hội
các nhà chế biến cao su miền Bắc, năm nay nhu cầu cao su cho sản xuất săm lốp
giảm 35 ngàn tấn, nhu cầu tiêu thụ cao su tổng hợp giảm 52 ngàn tấn. Chính trong
thời điểm khó nhất vè giá cao su, các chuyên gia về cao su vẫn dự đoán: cao su là
mặt hàng có nhiều triển vọng nhất trong năm 2002 so với đa số các mặt công nghiệp
khác không mấy khả quan lý do chính là nguồn cung cấp từ Malaysia, Thái Lan,
Indonesia giảm. Malaysia là nước sản xuất cao su lớn thứ 3 thế giới, năm 1990 đã
sản xuất được 1,5 triệu tấn nhưng đến năm 1999 chỉ còn 883,484 tấn, giảm xuống
768872 tấn năm 2000 và xuống 608400 tấn năm 2001 do nông dân phá diện tích
cao su để chuyển sang trồng cọ dầu. Hiện nay nước này vẫn còn xuất khẩu hàng
năm khoảng 600.000 tấn nhưng lại phải nhập lại 500.000 tấn/năm cho nhu cầu nội
địa. Đầu năm 2002, nhà nước Malaysia đã cấp 263 triệu USD tín dụng để khôi phục
lại diện tích. Nhưng phải mất từ 4- 8 năm cây cao su mới cho mủ. Thái Lan- nước
sản xuất và xuất khẩu cao su lớn nhất thế giới. Trong 2 năm qua diện tích đã hạn
chế ở mức 2 triệu ha nên ảnh hưởng đến sản lượng xuất khẩu. Nhìn chung nguồn
cung trên năm 2000 giảm khoảng 10% so với năm 2001. Mặt khác, Trung Quốc
nước tiêu thụ cao su lớn thứ 2 thế giới vẫn tiếp tục giữ được sự tăng trưởng kinh tế
đáng khích lệ, khoảng 8- 9%, năm 2001 đã nhập của Thái Lan 300 ngàn tấn và năm
2002 sẽ tăng lên chút ít. Chính vì những lý do nàh, 3 tháng đầu năm 2002, giá cao
su thế giới có nhiều khởi sắc. Tại TokyO, giá cao su giao ngay tăng đều qua các
tháng, đến tháng 3 tăng 18,1%, so với tháng 1/2002. Còn tại thị trường Thượng Hải
(Trung Quốc) giá biến động từ không thay đổi đến tăng nhẹ. Tuy nhiên, giá cao su ở
đây chịu ảnh hưởng bởi nhập khẩu từ Indonesia giá rẻ (do đồng Tupia nước này bị
mất giá so với USD). Đối với Việt Nam, năm 2002 là năm thuận lợi cho xuất khẩu
cao su. Sự hạn chế nguồn cung từ Thái Lan, Indonesia, Malaysia tạo điều kiện cho
nhiều khách hàng đến Việt Nam. Đồng thời, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam là Trung Quốc đang tiếp tục tăng nhu cầu tiêu thụ cao su. Chính vì vậy, trong
4 tháng đầu năm 2002, Việt Nam đã xuất khẩu 80 ngàn tấn, bằng 102,3% so với
cùng kỳ 2001. Chúng ta cũng đang khai thác cơ hội kinh doanh cao su bằng cách
hợp tác cho Malaysia đầu tư khai thác cao su thiên nhiên để bù vào sản lượng nước
này bị giảm sút. Phía Malaysia khẳng định có thể tiêu thụ hết 50 ngàn tấn mủ cao su
latex/năm của Việt Nam. Nhiều chuyên gia khẳng định cùng với diễn biến thuận lợi
trên thị trường thế giới, việc hợp tác giữa Việt Nam- Malaysia nếu thành công có
thể thúc đẩy giá bán cao su của Việt Nam hiện đang ở mức bình quân thành công có
thể thúc đẩy giá bán cao su của Việt Nam hiện đang ở mức bình quân 538 USD/tấn
lên 560 USD/tấn trong vòng 3 tháng tới.
Xét tương quan cung- cầu trên phạm vi thế giới, giá cao su từ nay đến hết năm
2000 vẫn còn tăng dù không đột biến và có nhiều khả năng tiếp tục và tăng trong 6
tháng đầunăm 2002.
II. Phương hướng xuất khẩu cao su.
1. Định hướng xuất khẩu cao su của Việt Nam
Năm 1999 Việt Nam đã xuất khẩu được 265.331 tấn cao su thiên nhiên đạt tổng
trị giá trên 146,8 triệu USD.
Năm 2000 Việt Nam đã xuất khẩu được 273.401 tấn cao su thiên nhiên trị giá
166.022.498 USD tăng 3,04% về lượng và tăng 13% về giá trị so với năm 1999.
Như vậy, chúng ta có thể thấy ngành công nghiệp cao su là một trong những
ngành xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Trong khi đó, việc trồng và xuất khẩu cao su
ở Việt Nam lại rất thuận lợi.
Như chúng ta đã biết, nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, đây là
điều kiện rất thuận lợi cho tài nguyên rừng phát triển trong đó có cây cao su. Hiện
nay nước ta có khoảng 700.000 ha cây cao su, trồng phổ biến ở miền Trung, Tây
Nguyên và Đông Nam Bộ, mọt số vùng mà cây hoa màu và cây công nghiệp khác
phát triển kém thì ở đó cây cao su lại phát triển được. Mặt khác xét về lợi ích kinh
tế thì chi phí để trồng cây cao su là rất rẻ ở Việt Nam.
Với tiềm năng rộng lớn về đất đai, khí hậu thuận lợi triển vọng xuất khẩu cao su
của Việt Nam là rất sáng sủa. Đó là lợi thế so sánh mà Việt Nam có được so với các
nước khác. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng việc sản xuất và xuất
khẩu cao su. Trong các kỳ đại hội Đảng ta không ngừng nhấn mạnh tầm quan trọng
của hoạt động xuất khẩu cao su.
Phương hướng xuất khẩu cao su của Việt Nam trong thời gian tới là khuyến
khích các doanh nghiệp tăng cường khối lượng xuất khẩu. Ưu đãi đầu tư trong và
ngoài nước vào lĩnh vực sản xuất cao su để xuất khẩu nhằm nâng cao chất lượng
cao su xuất khẩu, nói cách khác chuyển dạng hàng hoá nguyên liệu thô sang hàng
hoá chế biến với hàm lượng lao động kỹ thuật cao, có giá trị lớn, đạt tiêu chuẩn
quốc tế.
Giá xuất khẩu cao su là một vấn đề lớn của Việt Nam. So với thế giới giá xuất
khẩu cao su của Việt Nam thường thấp hơn từ 10- 15% thậm chí có những thời
điểm tới 20%. Nguyên nhân là do chất lượng còn thấp. Vì vậy Việt Nam có phương
hướng khắc phục điểm yếu này bằng cách chú trọng đầu tư đổi mới thiết bị công
nghệ chế biến cao su để nâng dần tỷ trọng cao su chế biến tinh trong cao su xuất
khẩu đồng thời tăng sức cạnh tranh của mặt hàng cao su Việt Nam trên thị trường
thế giới.
Bên cạnh đó, duy trì các mối quan hệ buôn bán với các bạn hàng truyền thống,
đặc biệt là Trung Quốc. Đây là thị trường xuất khẩu cao su lớn nhất của Việt Nam
và việc xuất khẩu này rất thuận lợi vì có quan hệ tự nhiên và văn hoá rất gần gũi.
Ngoài ra, Nhà nước còn phối hợp với các doanh nghiệp tham gia vào việc tìm kiếm
thị trường nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu. Từ những định hướng trên, mục
tiêu của nhà nước đặt ra là tăng kim ngạch xuất khẩu cao su lên 196 triệu USD vào
năm 2002 và phấn đấu đạt 287 triệu USD vào năm 2010. Khối lượng cao su xuất
khẩu tăng lên 35 ngàn tấn năm 2002 và phấn đấu đạt 454 ngàn tấn vào năm 2010.
2. Định hướng xuất khẩu cao su của công ty
2.1. Mục tiêu xuất khẩu cao su
Một tổ chức khi kinh doanh đều có vô vàn mục tiêu. Điều quan trọng là mục
tiêu nào được công ty xác định là phù hợp với tiềm năng của công ty ở hiện tại và
tương lai. Việc định ra các mụctiêu cụ thể là vô cùng cần thiết, căn cứ vào đó công
ty có thể lập ra các chiến lược, kế hoạch thực hiện để đạt được mục tiêu đó.
Công ty thực phẩm miền Bắc là một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất
nhập khẩu, hạch toán kinh doanh độc lập như các đơn vị kinh doanh khác, hiệuquả
cao trong hoạt động kinh doanh là mục tiêu số một đối với công ty. Mở rộng quy
mô kinh doanh xuất nhập khẩu cả về khối lượng, kim ngạch, mở rộng thị trường,
nâng cao hiệu quả xuất khẩu các mặt hàng, đặc biệt là mặt hàng chủ lực cao su.
Tập trung tìm kiếm bạn hàng mới, thị trường mới, tăng kim ngạch xuất khẩu
củng cố mối quan hệ làm ăn với bạn hàng truyền thống là Trung Quốc.
Mục tiêu phát triển xuất khẩu cao su năm 2002 là:
+ Khối lượng xuất khẩu: 10.000 tấn
+ Kim ngạch xuất khẩu: 5,6 triệu USD
Để thực hiện mục tiêu trên, công ty đã đề ra nhiều các biện pháp khác nhau. Đối
với lĩnh vực xuất khẩu cao su, công ty đã đề ra những hướng đi cụ thể và thích hợp.
2.2. Phương hướng xuất khẩu cao su
- Tiếp tục đầu tư sức lực và chi phí hợp lý để củng cố mở rộng thị trường. Đặc
biệt quan tâm hơn nữa đến thị trường EU và singapore, Nhật Bản, tăng cường quan
hệ với thị trường Trung Quốc.
Tranh thủ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, Bộ Thương mại để tìm kiếm thị
trường và bạn hàng. Tăng cường bám thị trường nội địa, phát huy thế mạnh về vốn,
kinh nghiệm tìm cách làm thích hợp để thâm nhập thị trường.
- Tiếp tục áp dụng các phương thức kinh doanh linh hoạt trong kinh doanh cao
su để tăng thêm số hợp đồng xuất khẩu.
- Duy trì sự phát triển ổn định của mặt hàng truyền thống cao su.
- Thiết lập cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hợp lý. Tăng mặt hàng cao su xuất khẩu
đã qua chế biến, giảm các mặt hàng cao su xuất khẩu thô.
III. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cao su ở công ty Thực phẩm miền Bắc
1. Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường.
Thị trường là vấn đề trọng yếu của nền kinh tế thị trường, cho nên bất cứ một đơn
vị sản xuất kinh doanh nào hoạt động trong cơ chế thị trường thì công việc đầu tiên
của họ cũng là nghiên cứu thị trường. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp kinh doanh
xuất nhập khẩu thì công việc này lại càng cần thiết và cực kỳ quan trọng bởi thị
trường ở xa, những chính sách điều chỉnh hd thương mại lại diễn ra thường xuyên ở
các nước, thị hiếu trào lưu tiêu dùng cũng luôn thay đổi... thực hiện công tác nghiên
cứu thị trường tốt sẽ tạo điều kiện giúp các nhà doanh nghiệp đưa ra những quyết
định đúng đắn góp phần vào việc nâng cao hiệu quả tránh được những tổn thất
không đáng có.
Công ty có thể tự tiến hành nghiên cứu thị trường, ngoài ra có thể sử dụng các
nhà cố vấn chuyên môn để tiến hành nghiên cứu rộng, độc lập và kỹ lưỡng.
Ngày nay thông tin đã trở thành một nguồn lực bên cạnh các nguồn lực khác,
chúng ta muốn hiểu biết về khách hàng phải thông qua thông tin. Nhu cầu về thông
tin ngày càng trở nên cấp bách do thị trường thay đổi về quy mô và phạm vi sự thay
đổi về chất của nhu cầu, sự lựa chọn của khách hàng thay đổi, sự cạnh tranh ngày
càng gay gắt với những hình thức ngày càng đa dạng. Chính vì vậy thu thập và sử lý
thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nghiên cứu thị trường .
Thời gian qua, việc thu thập và xử lý thông tin của Công ty thực phẩm miền Bắc
còn chậm, chưa đầy đủ, bỏ lỡ nhiều cơ hội làm ăn. Chính vì vậy mà trong thời gian
tới Công ty cần tăng cường hơn nữa công tác này. Có nhiều cách mà thông qua đó
công ty có thể có được những thông tin cần thiết về thị trường .
- Nguồn ghi chép nội bộ
Trước đây, công ty đã bỏ qua nguồn này. Đây là nguồn cung cấp thông tin về thị
trường hết sức chính xác, hơn nữa chi phí ít lại đơn giản. Tuy nhiên nguồn này chưa
cho phép doanh nghiệp có cái nhìn bao quát tổng thể thị trường khu vực và thế giới.
Công ty có thể thu thập thông tin từ các báo cáo về đơn đặt hàng tình hình tiêu thụ,
giá cả, mức dự trữ...
- Nguồn sách báo ấn phẩm
Đây là một trong các nguồn mà từ trước đến nay công ty rất hay sử dụng để thu
thập thông tin. Thông qua những sách báo chuyên ngành, tạp chí, các báo cáo của
chính phủ, của Bộ Thương mại đặc biệt qua mạng internet công ty có thể có những
thông tin cập nhật nhất.
Công ty cũng cần tăng cường tham gia hội chợ triển lãm trong nước và các nước
trong khu vực nhằm giới thiệu mặt hàng kinh doanh và tìm kiếm những cơ hội kinh
doanh mới cho công ty.
Công ty nên đặt các văn phòng đại diện, chi nhánh của công ty ở những thị
trường nước ngoài trọng điểm. Các đại diện này ngoài việc giúp công ty trong giao
dịch, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng tại khu vực đó còn thu thập thông tin
cho công tác nghiên cứu thị trường .
Công ty nên đưa ra các phiếu điều tra với các câu hỏi nhằm xác định nhu cầu về
sản phẩm của khách hàng, đặc điểm kỹ thuật, giá cả, khối lượng. Phiếu điều tra sẽ là
nguồn dồi dào thông tin hữu ích. Tuy nhiên công ty cần xem xét cẩn thận kết quả
thăm dò thị trường vì việc thăm dò này không được giới hạn trong khuôn khổ
những khách hàng hiện có nhằm tránh việc thu được những thông tin không chính
xác.
Khách hàng hiện tại và tương lai là dòng máu nuôi dưỡng công ty. Tăng cường
đối thoại với khách hàng, mời họ đến trụ sở công ty để thảo luận hững suy nghĩ của
họ đối với hàng hoá của công ty. Thường xuyên tham khảo ý kiến của họ làm việc
cùng nhau sẽ tạo ra sự ràng buộc thương mại vững chắc nhiều hơn so với mối quan
hệ buôn bán đơn thuần. Những cuộc gặp gỡ thảo luận không chính thức có thể trở
thành điểm tựa quan trọng để phát triển những ý tưởng mới. Như vậy công ty sẽ
luôn nắm bắt kịp thời nhu cầu của khách hàng, đảm bảo được các quyết định đưa ra
sẽ được thị trường chấp nhận.
Sau khi thu thập thông tin công ty cần phân tích kỹ lưỡng kết quả đạt được. Từ
đó lựa chọn thị trường trọng điểm để tìm kiếm đối tác cho xuất khẩu mặt hàng cao
su.
Sau khi lựa chọn được các thị trường trọng điểm, công ty cần phải chú ý đến các
hoạt động marketing để lôi kéo khách hàng từ thị trường đó. Việc thực hiện các
công cụ marketing phải thích hợp với đặc điểm của mỗi thị trường.
Chất lượng hàng hoá là nhân tố quan trọng trong hoạt động xuất khẩu. Vì vậy
công ty cần nâng cao hiệu quả công tác giám định chất lượng hàng hoá. Giá cũng là
một yếu tố quan trọng trong marketing xuất khẩu. Giá cả là công cụ để công ty thực
hiện lợi nhuận nhưng cũng là công cụ để lôi kéo khách hàng. Mức giá hợp lý là mức
giá thu hút được nhiều khách hàng trong khi vẫn đảm bảo mức lợi nhuận dự kiến.
Công ty nên áp dụng chính sách giá mềm dẻo, linh hoạt để thu hút được nhiều đối
tượng khách hàng mua với khối lượng lớn và những khách hàng truyền thống.
Các biện pháp xúc tiến và khuếch trương cũng rất quan trọng để bán được hàng
xuất khẩu. Công ty nên áp dụng các biện pháp: Quảng cáo trên mạng internet, tham
gia các hội chợ quốc tế, gửi các đơn chào hàng đến các nhà nhập khẩu nước ngoài...
tận dụng mọi cơ hội để giới thiệu khuếch trương uy tín hàng hoá của mình.
Mặc dù hiện nay, công ty có quan hệ với các bạn hàng ở hầu hết các khu vực trên
thế giới. Tuy nhiên trong hoạt động xuất khẩu cao su của công ty còn rất nhỏ hẹp.
Thị trường xuất khẩu cao su truyền thống của công ty chỉ là Trung Quốc. Vì vậy
một mặt tăng cường quan hệ buôn bán với Trung Quốc, mặt khác công ty cần mở
rộng thêm thị trường xuất khẩu cao su của mình sang các quốc gia và khu vực khác.
Mặt hàng xuất khẩu cao su Việt Nam có rất nhiều khách hàng lớn, truyền thống
như SNG, Đông Âu và Trung Quốc, ngoài ra các thị trường Mỹ, Tây Âu, Đài Loan
cũng là những thị trường nhập khẩu cao su của Việt Nam với khối lượng lớn. Là
một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Thương mại, vì vậy côngty có thể thông
qua Bộ chủ quản của mình để mở rộng thêm thị trường hoặc thông qua các quan hệ
khác trong xuất khẩu với các quốc gia mà công ty có quan hệ nhằm mở rộng thêm
thị trường xuất khẩu cao su của công ty.
2. Hoàn thiện công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu
Công tác tạo nguồn hàng có vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu.
Nguồn hàng tốt đáp ứng kịp thời và chính xác nhu cầu của thị trường, thực hiện
đúng thời hạn của hợp đồng với chất lượng tốt sẽ là nhân tố quan trọng đem lại
thành coong trong thương vụ và nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Cũng như các
doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu khác FONEXIM nhận thức được tầm quan
trọng của công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Trong thu mua hàng hoá, lựa chọn nguồn hàng được công ty hết sức coi trọng.
Những yêu cầu về hàng hoá, cách thức mua của công ty... có được đáp ứng tốt hay
không đều tuỳ thuộc vào quyết định này. Để thực hiện được điều đó công ty tiến
hành như sau:
2.1. Hoàn thiện bộ máy thu mua tạo nguồn hàng.
Bộ máy thu mua tạo nguồn hàng phải gọn nhẹ, năng động cán bộ thu mua phải
có năng lực thực sự và biết phát huy năng lực đó một cách chủ động, sáng tạo. Đưa
vào đặc điểm của thị trường cung cấp, đặc điểm của loại hàng cao su, công ty cần
có những cán bộ thu mua chuyên trách để quen với thị trường nắm rõ đặc điểm của
nguồn hàng. Công ty tổ chức theo kiểu chuyên doanh, như vậy không chỉ phát huy
tác dụng ở khâu thu mua tạo nguồn hàng mà còn gắn liền hoạt động mua bán với
nhau để tránh tình trạng tồn đọng hàng hoá, gây ứ đọng hoặc xuống cấp về phẩm
chất của mặt hàng. Các phòng kế hoạch thị trường, phòng nghiệp vụ xuất nhập khẩu
trực tiếp cử cán bộ đi khai thác nguồn hàng. Cán bộ thu mua là người xem xét, kiểm
tra chất lượng sản phẩm, phải có sự am hiểu về sản phẩm như tiêu chuẩn về chất
lượng, tính chất lý hoá của mặt hàng để có thể xác định đún tiêu chuẩn mặt hàng.
Đồng thời phải có trách nhiệm giữ vững bạn hàng ổn định. Bởi có bạn hàng ổn định
sẽ có được nguồn hàng ổn định. Đó là những yếu tố góp phần tạo nên sự thắng lợi
của công ty.
2.2. Mở rộng hình thức tạo nguồn
Các hình thức tạo nguồn hiện nay ở công ty còn nhiều hạn chế. Hình thức chủ
yếu công ty sử dụng là mua từ các đầu mối khác nhau ở các địa phương hoặc thu
mua tập trung qua các trung gian. Hình thức này có ưu điểm là nhanh gọn, không
phải đầu tư trong thời gian dài, công ty lại có thể nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng
kinh doanh. Tuy nhiên nhượcđiểm của hình thức này là không chủ động được về
chất lượng, chi phí... Công ty cần phải đa dạng hoá hơn nữa các hình thức thu mua,
cụ thể:
- Tổ chức tốt mạng lưới thu mua hàng cao su, giảm bớt hình thức thu mua qua
trung gian vừa làm tăng giá, vừa khó kiểm soát về chất lượng.
- Tăng đầu mối thu mua ở ngay vùng nguyên liệu hoặc trực tiếp đặt hàng tại các
lâm trường sản xuất cao su ở ngay vùng nguyên liệu hoặc trực tiếp đặt hàng tại các
lâm trường sản xuất cao su để chủ động hơn về chất lượng, giảm chi phí, chủ động
về thời gian nhập hàng.
- Mở rộng phạm vi thu mua nguyên liệu, thiết lập thêm các đại lý thu mua ở Tây
Nguyên và miền Đông Nam Bộ.
2.3. Hoàn thiện, đổi mới cơ chế thu mua
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, công ty phải tổ chức thu mua hàng một
cách linh hoạt có hiệu quả, phải chấp nhận các khoản chi phí để cạnh tranh. Trước
đây công ty có chú ý đến việc bảo quản kiểm tra chất lượng hàng hoá trong khâu
thu mua, song chưa đòi hỏi khắt khe nên có một số lô hàng bị biến chất, mất mát.
Trong thời gian tới cần đưa ra hàng loạt biện pháp nhằm giữ vững và nâng cao
chất lượng hàng hoá như tổ chức kiểm tra chất lượng hàng trong khâu thu mua, chú
ý đến bảo quản hàng hoá trong kho. Công ty cần đưa ra văn bản hoặc các quy định
về kiểm tra chất lượng sản phẩm nhằm gắn trách nhiệm của cán bộ thu mua với
công ty, giải quyết tốt các nghiệp vụ phát sinh để nâng cao trình độ ý thức trách
nhiệm của họ.
Một vấn đề nữa mà công tác quản lý thu mua phải quan tâm đó là công ty cần
kiểm tra và theo dõi sát sao nguồn hàng thu mua được, tránh tình trạng mất mát,
thất thoát hàng hoá. Đồng thời xem xét, nghiên cứu đưa ra các giải pháp tối ưu
nhằm tối thiểu hoá chi phí trong quá trình thu mua tạo nguồn.
3. Nâng cao nghiệp vụ kinh doanh
Trong kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, con người là
yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Có người đã đặt con người ở vị
trí số 1, trên cả vốn và tài sản khi đánh giá sức mạnh của doanh nghiệp. Chính con
người với năng lực thật sự của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng được
sức mạnh khác một cách có hiệu quả để khai thác và vượt qua cơ hội. Tuy nhiên do
tình hình hiện nay trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ chưa đáp ứng được đầy đủ
trong cơ chế thị trường, còn nhiều hạn chế. Do vậy công ty cần áp dụng hợp lý các
hình thức đào tạo bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công nhân
viên nhằm đáp ứng được nhu cầu hoạt động kinh doanh của công ty. Để thực hiện
được mục tiêu trên công ty cần thực hiện các công tác sau:
- Đào tạo, bồi dưỡng và bồi dưỡng lại đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý cả về
chuyên môn nghiệp vụ và tổ chức quản lý. Giúp cho các trưởng phòng nghiệp vụ có
thể tổ chức quản lý sắp xếp lao động và hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Thường
xuyên gửi đến các cán bộ là trưởng, phó các phòng nghiệp vụ đi học các lớp bồi
dưỡng cán bộ. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu hiện nay và chiến lược phát
triển trong tương lai của công ty.
- Đối với đội ngũ công nhân viên làm công tác chuyên môn nghiệp vụ thì những
kiến thức về ngoại thuương, ngoại ngữ, tin học... là rất cần thiết. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường và xu hướng hội nhập giữa các nền kinh tế trên thế
giới thì kiến thức chuyên môn về nghiệp vụ nhập khẩu không khỏi bị lạc hậu. Bên
cạnh đó ở công ty thực phẩm miền Bắc có một số nhân viên làm chuyên môn được
đào tạo từ các trường đại học Kinh tế quốc dân, ngoại thương từ trước những năm
1990. Do vậy khả năng thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và các
quan hệ giao dịch thương mại còn nhiều hạn chế.
Trong thời gian tới công ty thường xuyên tổ chức các lớp nghiệp vụ ngắn hạn
cho đội ngũ nhân viên nghiệp vụ. Tạo thuận lợi cho các cán bộ nhân viên đi học lớp
nâng cao trình độ sau đại học như thạc sĩ kinh tế. Việc bồi dưỡng này có thể phân
đều cho các phòng để các trưởng phòng chủ động sắp xếp bố trí công việc cho nhân
viên để đảm bảo mọi hoạt động kinh doanh liên tục và có hiệu quả.
Bên cạnh một số biện pháp trên, công ty cần chú ý, quan tâm tới đời sống vật
chất, tinh thần của đội ngũ cán bộ công nhân viên, áp dụng hình thức trả lương khen
thưởng, khuyến khích vật chất và tinh thần cho cán bộ công nhân viên. Thường
xuyên tổ chức các buổi nói chuyện về tinh thần cho cán bộ công nhân viên. Thường
xuyên tổ chức các buổi nói chuyện về tình hình trong nước và thế giới đặc biệt là
tình hinhf kinh doanh của công ty cho cán bộ công nhân viên, tạo sự gắn bó hơn
trong công ty. Ngoài ra, hàng năm tổ chức cho một số hoặc tất cả cán bộ đi thăm
quan kinh tế các tỉnh vừa nghỉ ngơi, vừa nâng cao kiến thức hiểu biết nhằm phát
huy có hiệu quả nhân tố con người trong công ty.
4. Hoàn thiện phương thức xuất khẩu
Phương thức kinh doanh có ảnh hưởng trong cạnh tranh, từ đó quyết định vị trí
của doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy hoàn thiện phương thức kinh doanh xuất
khẩu có một vai trò hết sức quan trọng đối với sự thành bại của công ty. Cùng với
việc hoàn thiện phương thức xuất khẩu công ty cần đa dạng hoá các phương thức
kinh doanh xuất khẩu. Hiện tại phương thức kinh doanh xuất khẩu của công ty chủ
yếu là xuất khẩu trực tiếp. Vì vậy trong thời gian tới ngoài việc tiếp tục thực hiện
những phương thức kinh doanh xuất khẩu truyền thống, công ty nên áp dụng các
hình thức khác như xuất khẩu uỷ thác, buôn bán đối lưu, hàng đổi hàng, hình thức
này vừa giúp cho công ty tăng được kim ngạch xuất khẩu đồng thời tránh được các
thủ tục phiền hà cho cả hai bên khi tiến hành phương thức khác.
Đa dạng hoá phương thức xuất khẩu sẽ tạo cho công ty nhiều cơ hội kinh doanh
hơn. Tuy nhiên, nhiệm vụ quan trọng vẫn là hoàn thiện các phương thức kinh doanh
xuất khẩu . Có như vậy hoạt động kinh doanh xuất khẩu mới đạt được kết quả tốt
hơn. Để hoàn thiện được công tác này, công ty phải không ngừng bồi dưỡng nghiệp
vụ cho cán bộ chuyên môn. Có như vậy, nhânv iên hoạt động trong lĩnh vực xuất
khẩu mới nắm bắt được những thay đổi của quá trình kinh doanh xuất khẩu trong
mỗi thời kỳ. Từ đó có thể hoàn thiện được nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu của
mình, hoàn thiện các phương thức kinh doanh xuất khẩu mà doanh nghiệp đang áp
dụng và sẽ áp dụng trong thời gian tới.
5. Biện pháp hỗ trợ từ phía Nhà nước
Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước các hoạt động kinh
doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng đều chịu sự quản lý của Nhà
nước. Các hoạt động quản lý vĩ mô thông qua cơ chế chính sách quản lý có ảnh
hưởng rất lớn tới hoạt động xuất khẩu. Do vậy đối với một công ty kinh doanh xuất
nhập khẩu để thúc đẩy xuất khẩu ngoài nỗ lực của công ty, nhà nước cần có cơ chế
chính sách quản lý xuất khẩu thích hợp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động
xuất khẩu của các doanh nghiệp.
Một là, hoàn thiện và bổ sung hệ thống luật pháp chính sách
Mặc dù, định hướng phát triển kinh tế của doanh nghiệp trong thời gian tới là
hướng về xuất khẩu. Tuy nhiên nhà nước vẫn chưa có những biện pháp hiệu quả
khuyến khích các doanh nghiệp hướng về xuất khẩu. Hiện nay ở nước ta thủ tục
xuất khẩu đã được cải thiện nhiều nhưng vẫn còn rườm rà, phức tạp, tốn nhiều thời
gian, gây khó khăn cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Vì vậy nhà nước cần đơn giản hoá các thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu. Tạo mọi
điều kiện để doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh xuất khẩu một cách
có hiệu quả nhất.
Có một chính sách thuế rõ ràng và hiệu quả. Nhà nước cần quy định cụ thể
chính xác tên hàng, mức thuế, nhà nước quản lý bằng hạn ngạch hay bằng giấy phép
để doanh nghiệp làm cơ sở để ký kết hợp đồng và khai baó hải quan, tính thuế.
Hai là, hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp yêu cầu về vốn xuất khẩu là rất lớn,
để có đủ vốn cho đầu tư đồng bộ vào các khâu quan trọng, chính sách tài chính
nhằm thu hút được các nguồn vốn cho xuất khẩu : cho vay vốn tín dụng nhà nước
thông qua hệ thống ngân hàng thương mại
Ba là, nâng cao đầu tư và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật từ đó tạo ra các
sản phẩm có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế, trước mắt cũng như lâu dài cần
tập trung cho công tác nghiên cứu lai tạo giống kết hợp chặt chẽ với nghiên cứu và
chuyển giao công nghệ. Từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng xuất
khẩu
Bốn là, lập các quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Nhà nước nghiên cứu xây dựng và triển
khai áp dụng các quỹ tài trợ xuất khẩu bằng nguồn ngân sách nhà nước, đóng góp
của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu... Nghiên cứu áp dụng các hình thức hỗ
trợ xuất khẩu như: Bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong
trường hợp cần thiết, cấp tín dụng bổ sung kịp thời vào thời điểm quan trọng.
Nghiên cứu, xây dựng và hình thành quỹ khai thác thị trường xuất khẩu nhằm hỗ trợ
giúp cho các hoạt động marketing ở thị trường nước ngoài, giúp đỡ kỹ thuật, dịch
vụ... nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu.
Năm là, hỗ trợ đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ xuất khẩu. Có
quy hoạch và kinh phí đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, nghiên cứu khoa học ở
trong và ngoài nước.
Sáu là, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường. Hầu hết các doanh
nghiệp đều gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường. Nguyên nhân chủ yếu của
tình trạng này là khong đủ chi phí cho hoạt động nghiên cứu thị trường một cách
thoả đáng. Do vậy, trong thời gian tới Nhà nước và các bộ có liên quan phải đặc biệt
chú ý đến công tác nghiên cứu, khảo sát thị trường để nắm bắt kịp thời nhu cầu của
thị trường quốc tế, thông tin về giá cả kịp thời cho các doanh nghiệp để tránh tình
trạng bị ép giá, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội thăm dò, tìm
kiếm thị trường.
Bảy là, mở rộng các mối quan hệ thương mại quốc tế
Đa dạng hoá quan hệ thương mại quốc tế là một tất yếu trong xu hướng toàn cầu
hoá kinh tế hiện nay. Để mở đường cho hoạt động thương mại quốc tế, nhà nước
cần phải thiết lập được các mối quan hệ hữu hảo về chính trị đối ngoại với tất cả các
quốc gia, khu vực trên thế giới.
Trong tình hình hiện nay, Việt Nam nên sớm nghiên cứu tìm ra các giải pháp để
phấn đấu trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Bên cạnh đó
việc mở rộng quan hệ thương mại với các nước châu Âu và châu Phi cũng là
phương hướng chiến lược cho xuất khẩu Việt Nam.
Kết luận
Việt Nam đang nỗ lực trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước để
bắt kịp xu thế phát triển kinh tế chung của toàn cầu.Góp tiếng nói quyết định là hoạt
động xuất khẩu,một nguồn cung cấp ngoại tệ chính để trang trải cho các nhu cầu
nhập khẩu của nề kinh tế,góp phần cân đối,duy trì và mở rộng tái sản xuất trong
nước,tranh thủ những tiến bộ khoa học công nghệ thế giới,đáp ứng nhu cầu không
ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế - xã hội nước nhà.
Công ty Thực phẩm miền Bắc là một doanh nghiệp Nhà nước tham gia vào lĩnh
vực xuất nhập khẩu từ ngay những ngày đầu.Hiện nay công ty đã tạo lập được một
vị trí tương đối vững vàng trên thị trường trong nước cũng như thế giới.Đặc biệt la
hoạt động xuất khẩu cao su đã và đang có vai trò ,ảnh hưởng rất lớn tới việc thúc
đẩy xuất khẩu cao su của Việt Nam nói chung.Trên cơ sở định hướng của Đảng và
Nhà nước công ty vẫn luôn coi cao su là mặt hàng xuất khẩu chiến lược trong
những năm tới và tích cực tìm kiếm những biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu mặt hàng này.
Nhận thức đuợc điều đó ,cộng với sự quan tâm,lòng mong muốn đóng góp ý kiến
vào sự nghiệp chung của Công ty,của đất nước,tôi mạnh dạn đề xuất một số biện
pháp như đã trình bày.Những kiến nghị này chỉ mang tính chất định hướng khoa
học do còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn,bởi vậy tôi rất mong sẽ nhận được những
góp ý,bổ sung từ phía thầy cô giáo và cán bộ trong Công ty .
Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình thương mại quốc tế
2.Giao trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương
3.Giáo trình Marketing thương mại quốc tế
4.Kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh của công ty thực phẩm
miền bắc
5.Tạp chí thương mại thị trường
6.Tạp chí ngoại thương
7.Thời báo kinh tế
Mục lục
Lời mở đầu
Chương I : những vấn đề cơ bảnvề kinh doanh xuất khẩu cao su mặt hàng
cao su…………………………………6
I.Khái quát về kinh doanh xuất khẩu hàng hoá………6
1.Khái niệm về kinh doanh xuất khẩu……………………………..6
2.Vai trò của kinh doanh xuất khẩu hàng hoá…………………….7
3.Nhiệm vụ của xuất khẩu hàng hoá………………………………13
4.Các hình thức xuất khẩu…………………………………………15
II.nội dung kinh doanh xuất khẩu mặt hàng cao su…19
1.Nghiên cứu thị trường xuất khẩu…………………………………19
2.Xây dựng chiến lược và kế hoạch xuất khẩu……………………..21
3.Tổ chức giao dịch và đàm phán ký kết hợp đồng………………..22
4.Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu…………………………..30
5.Đánh giá hiệu quả xuất khẩu……………………………………..34
III.thị trường cao su thế giới và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất
khẩu cao su…………………….37
1.Thị trường xuất khẩu cao su thế giới……………………………..37
2.Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu cao su………...40
chương II :thực trạng kinh doanh xuất khẩu cao su của công ty thực phẩm
miền bắc – bộ thương mại……45
I.khái quát chung về công ty thực phẩm miền
bắc……………………………………………………………………….45
1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty………………45
2.Bộ máy tổ chức,chức năng nhiệm vụ của công ty………………47
3.Đặc điểm vốn kinh doanh của công ty…………………………..51
4.Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty……………………..56
II.thực trạng kinh doanh xuất khẩu mặt hàng cao
su……………………………………………………………………………62
1.thực trạng xuất khẩu của công ty nói chung…………………….62
2.Kim ngạch xuất khẩu cao su……………………………………..63
3.Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu……………………………………….65
4.Thị trường và bạn hàng xuất khẩu……………………………….66
5.Phương thức xuất khẩu……………………………………………69
6.Tổ chức nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu cao su………………..70
7.Các biện pháp công ty đã sử dụng………………………………..71
8.Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu cao su…………………………..72
III.kết luận rút ra qua phân tích thực trạng kinh doanh xuất khẩu cao su của
công ty thực phẩm miền bắc thời gian
qua……………………………………………………..74
1.Những thuận lợi……………………………………………………74
2.Khó khăn và hạn chế………………………………………………77
3.Nguyên nhân làm hạn chế công tác thúc dẩy hoạt động xuất khẩu cao
su của công ty…………………………………………………………..79
chương III : phương hướng và biện pháp thúc đẩy kinh doanh xuất khẩu cao
suở công ty thực phẩm miền
bắc………………………………………………………………….83
I.dự báo thị trường cao su thế giới………………………..83
II.phương hướng xuất khẩu cao su…………………………85
1.Định hướng xuất khẩu cao su của Việt nam……………………..85
2.Định hướng xuất khẩu cao su của công ty……………………….86
III.giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cao su ở công ty thực phẩm miền
bắc………………………………………………….87
1.Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường……………………...87
2.Hoàn thiện công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu…………………91
3.Nâng cao nghiệp vụ kinh doanh…………………………………..93
4.Hoàn thiện phương thức kinh doanh……………………………..94
5.Biện pháp hỗ trợ từ phía nhà nước……………………………….95
kết luận
Tài liệu tham khảo