MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, 54 dân tộc là 54 sắc màu văn hóa tạo nên nền

văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Do đặc điểm về điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội và nhiều

nhân tố ảnh hưởng khác nhau nên đã hình thành các vùng văn hóa khác nhau. Từ đó,

văn hóa của các dân tộc cũng có những điểm khác biệt mang tính đặc thù. Một trong các

vùng văn hóa ấy là vùng văn hóa Tây Nguyên (Kom Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Lâm Đồng,

Đăk Nông). Đây là vùng văn hóa rộng lớn gồm nhiều dân tộc sinh sống, có sự giao lưu và

tiếp biến văn hóa. Mỗi dân tộc với những đặc điểm riêng, đều sớm hình thành những nét

văn hóa, độc đáo của mình. Nhờ đó, đã có nhiều đóng góp cho cộng đồng dân tộc trên

mọi lĩnh vực.

Krông Năng là một trong những địa bàn cư trú lâu đời của đồng bào dân tộc Êđê.

Tại đây, cũng như nhiều dân tộc thiểu số bản địa khác ở Tây Nguyên, quá trình sinh sống

của đồng bào Êđê trải qua nhiều thế hệ đã hình thành những nét văn hóa vô cùng đặc

sắc.

Dân tộc Ê-đê là dân tộc có nền văn hóa truyền thống đặc sắc trong 54 dân tộc anh

em ở nước ta. Cũng như mọi dân tộc khác, người Ê-đê ở Đăk Lăk đã sớm hình thành giá

trị văn hóa mang màu sắc riêng. Nền văn hóa ấy ảnh hưởng sâu xa đến từng cá nhân

trong cộng đồng người Ê-đê, góp phần làm tăng thêm giá trị cho nền văn hóa đa dân tộc

vùng Tây Nguyên Việt Nam.

Những năm gần đây, tình hình thế giới có nhiều biến đổi. Xu thế toàn cầu hóa đang

diễn ra như một cơn lốc cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Việt Nam cũng như tất cả

các quốc gia khác không thể đứng ngoài cơn lốc ấy. Đặc biệt, kinh tế thị trường với những

ưu điểm và mặt trái của nó có ảnh hưởng không nhỏ đến nền văn hóa truyền thống của

các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hóa của dân tộc Ê-đê

huyện Krông Năng, Đăk Lăk. Trước tác động của cơ chế thị trường, của mở rộng hội

nhập quốc tế và giao lưu văn hóa hiện nay, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của người

Ê-đê nói chung, và người Ê-đê ở huyện Krông Năng nói riêng đang bị mai một, pha trộn,

lai căng. Vì thế, cần phải có thêm nhiều tài liệu giúp cho mọi người, đặc biệt là lớp trẻ

được tiếp cận với kho tàng truyền thống của dân tộc mình, để hiểu và để tạo nên niềm tự

hào về quê hương đất nước.

Xuất phát từ lí do trên, tôi đã quyết định chọn đề tài “Văn hóa truyền thống của

người Ê-đê ở huyện Krông Năng tỉnh Đăk Lăk” làm đề tài thực tập tốt nghiệp của mình.

1

2. Mục đích nghiên cứu

Thông qua khảo sát thực địa tại địa phương, cụ thể là huyện Krông Năng để tìm

hiểu đời sống văn hóa của đồng bào nơi đây. Đồng thời, tìm hiểu điều kiện tự nhiên, xã

hội đã chi phối như thế nào đến đời sống văn hóa của người dân. Thông qua tìm hiểu đời

sống văn hóa truyền thống, phong tục tập quán làm ăn sinh sống của đồng bào, tác giả sẽ

chỉ ra những tác nhân tạo nên văn hóa truyền thống của văn hóa đồng bào Ê-đê. Từ đó,

có cơ sở để đề xuất phương hướng bảo tồn cũng như phát triển văn hóa truyền thống của

đồng bào Ê-đê tại huyện krông Năng nói riêng và người Ê-đê ở các địa phương khác nói

chung.

Đề tài này nhằm đưa đến cái nhìn cụ thể và toàn diện hơn về dân tộc Ê-đê ở huyện

krông Năng trên phương diện văn hóa truyền thống.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Ê-

đê tại huyện Krông Năng, tỉnh Đăk Lăk. Trong phạm vi một bài tập tôt nghiệp, tác giả chỉ

tập trung tìm hiểu một số phương diện của văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của

người Ê-đê ở Krông Năng, Đăk Lăk.

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Người Ê-đê đã có mặt rất sớm ở huyện Krông Năng. Dấu vết của dân tộc Ê-đê tại

huyện Krông Năng đã phản ánh đậm nét trong các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc,

nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng Ê-đê vẫn còn là xã hội mang dấu

ấn mẫu hệ đậm nét ở nước ta, có giá trị đóng góp không nhỏ vào kho tàng văn hóa dân

tộc Việt Nam. Chính vì vậy, từ lâu đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu tìm hiểu

và nhiều người quan tâm.

Những năm sau 1980, các nhà dân tộc học Việt Nam tiến hành nhiều đợt khảo sát

ở vùng văn hóa Tây Nguyên bao gồm khu vực có người Ê-đê cư trú, theo đó nhiều công

trình được xuất bản như:

Đại cương về dân tộc Ê-đê, M’nông ở Đăk Lăk (1982) của Bế Viết Đẳng, Chu Thái

Sơn, Vũ Thị Hồng, Vũ Đình Lợi. Công trình này đã trình bày những vấn đề chung nhất về

đời sống của hai dân tộc Ê-đê, M’nông trên các phương diện: thiên nhiên và dân cư (đặc

điểm địa lý, sự phân bố dân cư và thành phần dân tộc, vài nét về truyền thống văn hóa,

nguồn gốc lịch sử, những đặc điểm nhân chủng của các dân tộc Ê-đê, M’nông) kinh tế và

xã hội. Đặc biệt, ở phần thứ 3 (chương 1) của công trình, tác giả Chu Thái Sơn đã đề cập

đến văn hóa vật chất của người Ê-đê. Và ở chương 3, tác giả Vũ Đình Lợi cũng đã đề cập 2

đến những lễ nghi-phong tục trong chu kỳ đời sống của người Ê-đê nhưng chỉ bó hẹp

trong phạm vi 8 trang (157-164). Nên những gì mà tác giả trình bày còn ở mức độ sơ

lược, chỉ mang tính gợi mở, nhưng lại là cơ sở để người nghiên cứu kế thừa và phát triển.

Bên cạnh đó, khá nhiều công trình nghiên cứu về người Ê-đê đăng trên các tạp chí

như:

(cid:0) Một số đặc điểm xã hội của các dân tộc Trường Sơn-Tây Nguyên, tạp chí Dân tộc

học số 1, 1954.

(cid:0) Bàn về lịch sử tộc người và đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa cư dân Tây Nguyên

của Chu Thái Sơn, tạp chí Dân tộc học số 2-1979.

(cid:0) Mấy nhận xét về hôn nhân và gia đình của người Ê-đê của Nông Hoàng Cư, tạp

chí Dân tộc học số 3-1980...

Tuy nhiên, có thể thấy rằng, các học giả chỉ nghiên cứu ở những địa bàn lớn, riêng

nghiên cứu về văn hóa truyền thống ở huyện Krông Năng thì hiện chưa có công trình nào.

Nhất là, qua thời gian, khi mà nhà nước can thiệp vào cuộc sống của người Ê-đê như xây

dựng nông thôn mới, bê tông hóa các công trình…rồi yếu tố cơm, áo, gạo, tiền đòi hỏi

người Ê-đê phải chạy theo kinh tế, để mưu sinh, lo toan cho cuộc sống, thì những yếu tố

văn hóa truyền thống có gì biến đổi vẫn chưa được quan tâm.

Vì vậy đó là những cơ sở để người tác giả mạnh dạn lựa chọn “Văn hóa truyền

thống của người Ê-đê ở huyện Krông Năng, tỉnh Đăk Lăk” để làm đề tài cho bài tập tốt

nghiệp của mình nhằm đem lại cái nhìn rõ nét và toàn diện nhất về văn hóa truyền thống

và những biến đổi văn hóa truyền thống của người Ê-đê ở huyện Krông Năng hiện nay.

5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Bài tập tốt nghiệp sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử kết hợp phương pháp

logic. Ngoài ra, phương pháp liên ngành dân tộc học - văn hóa học cũng được tác giả sử

dụng để hoàn thành mục đích nghiên cứu. Thông qua quá trình điền dã, thu thập thông

tin, quan sát cuộc sống của người Ê-đê ở địa bàn huyện Krông Năng, tác giả làm rõ

truyền thống văn hóa của người Ê-đê trên 2 phương diện: văn hóa vật chất và văn hóa

tinh thần. Phương pháp so sánh cũng là phương pháp được chú trọng để rút ra những

điểm chung và những nét khác biệt so với các tộc người Ê-đê ở các địa phương khác.

Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng phương pháp định tính, định lượng, phương

pháp tổng hợp và phân tích… khi cần thiết, nhằm thu thập, đưa ra các lý giải rõ hơn về

văn hóa truyền thống của đồng bào Ê-đê ở huyện Krông Năng, tỉnh Đăk Lăk.

3

6. Đóng góp của đề tài

Mặc dù đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về tộc người Ê-đê, nhưng đến nay

vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể nào mang tính hệ thống, khái quát cụ thể về một tộc người

Ê-đê cư trú tại huyện Krông Năng. Do đó, giải quyết tốt các nhiệm vụ đặt ra của đề tài tác

giả mong muốn tái hiện lại những giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Ê-đê một

cách toàn diện và đầy đủ nhất.

Bài tập tốt nghiệp góp phần giúp độc giả hình dung, nhìn nhận, đánh giá về văn

hóa truyền thống của người Ê-đê ở huyện Krông Năng, tỉnh Đăk Lăk. Đồng thời, giúp cư

dân, đặc biệt là giới trẻ nhận thấy được giá trị văn hóa truyền thống của tộc người mình

và đánh giá thực trạng của vấn đề để có phương hướng phục dựng và bảo tồn các giá trị

văn hóa tốt đẹp của đồng bào. Thông qua việc tìm hiểu văn hóa truyền thống của người

Ê-đê ở một không gian hẹp, tác giả hy vọng sẽ góp thêm tư liệu cho những người đam mê

nghiên cứu về văn hóa tộc người Ê-đê ở Việt Nam nói chung và người Ê-đê ở huyện

Krông Năng nói riêng.

Cuối cùng, với việc nghiên cứu về văn hóa truyền thống của người Ê-đê ở huyện

Krông Năng hy vọng đề tài của tôi sẽ đóng góp một phần nhỏ bé trong việc nghiên cứu và

bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tộc người một cách khoa học nhất.

7. Bố cục của đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài

được chia thành 3 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở hình thành văn hóa truyền thống của người Ê-đê ở huyện Krông Năng,

tỉnh Đăk Lăk.

Chương 2: Văn hóa truyền thống của người Ê-đê ở huyện Krông Năng, tỉnh Đăk Lăk.

Chương 3: Biến đổi văn hóa và vấn đề bảo tồn văn hóa truyền thống của người Ê-đê ở

huyện Krông Năng, tỉnh Đăk Lăk.

4

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ HÌNH THÀNH VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ Ở HUYỆN

KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐĂK LĂK

1.1.

Điều kiện tự nhiên

1.1.1 Vị trí địa lý

Đăk Lăk, Darlac hay Đắc Lắc (theo tiếng M'Nông: Đăk = nước; Lăk = hồ) là một

tỉnh nằm ở trung tâm Tây Nguyên, Việt Nam. Tỉnh lỵ của Đăk Lăk là thành phố Buôn Ma

Thuột, nằm cách Hà Nội 1.410 km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km. Tỉnh Đăk Lăk

được tái lập vào ngày 26 tháng 11 năm 2003, trên cơ sở tách tỉnh Đăk Lăk thành hai tỉnh

mới là Đăk Lăk và Đăk Nông. Tỉnh Đăk Lăk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên nằm trong

5

khoảng tọa độ địa lý từ 107o28'57"- 108o59'37" độ kinh Đông và từ 12o9'45" - 13o25'06" độ

vĩ Bắc. Độ cao trung bình 400 – 800 mét so với mặt nước biển. Phía Đông của Đăk Lăk

giáp Phú Yên và Khánh Hoà, phía Nam giáp Lâm Đồng và Đắk Nông, phía Tây

giáp Campuchia với đường biên giới dài 193 km, phía Bắc giáp tỉnh Gia Lai. Tỉnh có 15

đơn vị hành chính cấp huyện, gồm: thành phố Buôn Ma Thuột, thị xã Buôn Hồ và

13 huyện: Krông Buk, Krông Pak, Lắk, Ea Súp, M’ Drăk, Krông Ana, Krông Bông, Ea

H’leo, Cư M’gar, Krông Năng, Buôn Đôn, Ea Kar, Cư Kuin. Trong đó, có 184 đơn vị hành

chính cấp xã, gồm có 152 xã, 20 phường và 12 thị trấn.

Huyện Krông Năng được thành lập ngày 09/11/1987, Hội đồng Bộ trưởng (nay là

Chính phủ) có Quyết định số 212/HĐBT chính thức thành lập huyện Krông Năng thuộc

tỉnh Đăk Lăk. Huyện nằm ở phía Đông bắc tỉnh Đăk Lăk, cách trung tâm tỉnh lỵ 50 km theo

đường Quốc lộ 14, tỉnh lộ 14. Có đường địa giới hành chính tiếp giáp như sau: Phía Tây

và Tây Nam giáp huyện Krông Buk, phía Bắc giáp huyện Ea H’Leo, phía Đông giáp huyện

Sông Hinh- tỉnh Phú Yên, phía Đông Bắc giáp tỉnh Gia Lai, phía Nam và Đông Nam giáp

huyện Ea Kar. Có 12 đơn vị hành chính cấp xã (gồm: thị trấn Krông Năng, các xã: EaTam,

Tam Giang, EaHồ, Phú Xuân, Đliêya, Phú Lộc, EaTóh, CưKlông, EaDăh, EaPúk, EaTân);

có diện tích tự nhiên 614,79 km2, dân số trung bình 118.335 người (năm 2008) gồm có 23

dân tộc anh em, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 31,24%, với 28 buôn đồng bào

dân tộc Ê-đê tại chỗ.

Huyện Krông Năng là huyện vừa có vị trí quan trọng về quốc phòng, vừa là vùng

giao lưu buôn bán giữa các tỉnh Tây Nguyên với các tỉnh duyên hải miền Trung. Với các

dân tộc sinh sống như: Ê- đê, Bana, Kinh, Tày, Nùng, Dao, Thái… nên đời sống văn hoá

hết sức phong phú đa dạng. Việc bảo tồn phát huy các giá trị di sản văn hoá của đồng bào

các dân tộc huyện Krông Năng từng bước được chú trọng đầu tư. Một số lễ hội văn hoá

và văn nghệ dân gian của đồng bào dân tộc Ê – đê (dân tộc bản địa) đã được phục dựng

và bảo tồn như: lễ hội cồng chiêng, lễ cầu mưa, lễ mừng nhà mới, lễ cúng vòng đời… Các

loại nhạc cụ như: sáo đất, đàn Gông… cũng được các nghệ nhân quan tâm và gìn giữ.

Đây còn là vùng đất có lịch sử phát triển lâu đời, giàu truyền thống hào hùng trong

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc.

Tài nguyên thiên nhiên 1.1.2.

Địa hình của Krông Năng là địa hình cao nguyên tương đối bằng phẳng, xen kẽ

những đồi thấp lượn sóng, nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp; đất đai, khí hậu, thời tiết khá

6

thuận lợi cho phát triển nông nghiệp hàng hoá, phát triển dịch vụ, du lịch, công nghiệp,

tiểu thủ công nghiệp và các ngành sản xuất kinh doanh. Hệ thống giao thông nông thôn đã

định hình và phát triển, đảm bảo lưu thông hàng hoá tốt cả 2 mùa, hệ thống mạng lưới

điện Quốc gia đã đến được hầu hết các xã trên địa bàn, các công trình phục vụ sản xuất

nông nghiệp được xây dựng và ngày càng phát huy hiệu quả. Những điều kiện trên là cơ

sở và động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của huyện theo hướng công nghiệp hoá

- hiện đại hoá với cơ cấu phát triển một nền kinh tế hàng hoá bao gồm nông lâm nghiệp,

công nghiệp- xây dựng, dịch vụ mang lại hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội và môi trường

bền vững.

Ngoài ra đây còn là nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng như tài

nguyên rừng, tài nguyên kháng sản và tài nguyên du lịch.

Mặt khác, với nhiều dân tộc sinh sống trên địa bàn, có nhiều phong tục tập quán

khác nhau, mở ra khả năng khai thác lợi thế này để phát triển du lịch, dự án Chợ Tình

(chợ văn hoá Việt Bắc) ở xã Ea Tam với nét đặc biệt riêng có của đồng bào dân tộc ít

người phía Bắc sẽ tô thêm nét phong phú về văn hoá các dân tộc trên địa bàn.

Điều kiện kinh tế - xã hội 1.2.

Là một huyện vùng sâu vùng xa tỉnh Đăk Lăk thuộc diện đầu tư chương trình 134

và 135 của chính phủ. Krông Năng có điều kiện tự nhiên đất đai thổ nhưỡng thuận lợi để

xây dựng và phát triển kinh tế, nhất là với nhiều loại cây nông nghiệp, công nghiệp dài

ngày như càphê, hồ tiêu, cao su.

Về kinh tế: Trong 9 tháng đầu năm 2014, tình hình kinh tế trên địa bàn huyện tiếp

tục phát triển ổn định, tổng giá trị sản xuất ước đạt 1.479 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách

Nhà nước trên địa bàn huyện được 45,605 tỷ đồng, đạt 42,13% so với dự toán tỉnh giao.

Về xã hội: Trường đạt Chuẩn quốc gia có 20/66 trường (Kế hoạch 21/66); 100% xã,

thị trấn có trường mẫu giáo (Kế hoạch 100%). Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo 2011 -

2015) giảm xuống còn 10,37% (Kế hoạch <9%). Tỷ lệ hộ gia đình đạt danh hiệu gia đình

văn hóa 72,7% (Kế hoạch 73%); số thôn, buôn, tổ dân phố đạt danh hiệu văn hóa 66,8%

(Kế hoạch 88%). Quốc phòng an ninh đảm bảo, đồng thời phối hợp với Hội cựu chiến

binh và công an các cấp trong việc đấu tranh chống âm mưu “Diễn biến hoà bình”,

chương trình hành động phòng chống ma tuý, tệ nạn xã hội; tham gia giải quyết các mâu

thuẫn trong nội bộ nhân dân.

Vấn đề giáo dục được xã tập trung chỉ đạo, tuyên truyền, vận động nên năm 2014

huyện tiếp tục giữ vững phổ cập trung học cơ sở, phổ cập tiểu học và mẫu giáo đúng độ

7

tuổi, công tác giáo dục - đào tạo được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Trong năm 2013-2014

các đơn vị thường xuyên tổ chức các hoạt động chuyên môn liên tục trong suốt năm học,

tạo khí thế thi đua sôi nổi cho toàn ngành. Điều đáng chú ý là tỷ lệ học sinh là đồng bào Ê-

đê chiếm tỷ lệ khá cao, cho thấy đồng bào Ê-đê đã quan tâm đến việc học của con em

mình, nhiều người trong số đó đã thành đạt nắm nhiều vị trí quan trọng trong bộ máy nhà

nước.

Công tác y tế, dân số gia đình và trẻ em được quan tâm và đạt được nhiều thành

tựu đáng kể. Khi có bệnh tật thì người Ê-đê đến các trạm Y tế để khám và điều trị, không

còn trường hợp chữa bệnh bằng “thầy cúng”. Rõ ràng nhận thức về xã hội trong cộng

đồng người Ê-đê đã được nâng cao đáng kể.

Trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ thể dục thể thao những năm qua huyện đã tiếp

tục tuyên truyền rộng rãi cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh”, tiếp-phát đầy đủ chương trình truyền thanh, đảm bảo tuyên truyền đầy đủ chủ

trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đến từng người dân. Hiện nay Ủy

ban nhân dân cũng đã triển khai tu sửa các loa đài của Đài truyền thanh huyện đảm bảo

thông tin kịp thời về tin tức thời sự - kinh tế - văn hóa xã hội - an ninh quốc phòng…

Công tác bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc được chú trọng. Việc

bảo tồn tiếng nói và chữ viết được quan tâm, đã tổ chức các lớp dạy tiếng Ê-đê cho cán

bộ chủ chốt của huyện và một số lễ hội được phục dựng để lưu giữ . Các sinh hoạt lễ hội

dân gian ấy được gìn giữ và phát huy trong 28 buôn làng đồng bào Ê-đê ở Krông Năng.

Đội ngũ nghệ nhân dân gian với gần 200 nghệ nhân đàn, hát dân ca, dệt thổ cẩm… là

“báu vật sống” vô giá của huyện đã phát huy tích cực trong việc bảo tồn; phát huy những

giá trị văn hoá truyền thống. Mặt khác, một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm

nên nét đặc sắc trong sinh hoạt lễ hội của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ là các nhạc

cụ. Hiện toàn huyện có 12 giàn nhạc, 2 đội nhạc ngũ âm, hơn 10 giàn cồng chiêng Ê-đê…

Nhìn chung đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân các dân tộc huyện Krông

Năng có nhiều khởi sắc với những hoạt động tích cực. Đồng thời đây chính là động lực

thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần giữ vững, ổn định tình hình an ninh chính

trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố, thắt chặt khối đại đoàn kết các dân tộc anh em.

1.3. Đặc trưng văn hóa người Ê-đê

1.3.1. Địa bàn cư trú

Người Ê-đê ở huyện Krông Năng cư trú tập trung chủ yếu ở 28 buôn phân bố rải

rác ở các xã Ea Hồ, Ea Tóh, Cư Klông, Dliêya và thị trấn Krông Năng, trong đó nhiều nhất

8

là xã Ea Hồ với 12/28 buôn. như : buôn Giêr (xã EaHồ), buôn Jun (xã DliêYa), buôn Wiâo

(huyện Krông Năng). .. Mỗi buôn có khoảng từ 30 – 50 ngôi nhà dài với khoảng trên 500 –

600 người, bao gồm các thành viên của một dòng họ hợp thành, buôn thường mang tên

người chủ bến nước . Địa điểm tụ cư của họ thường nằm theo các triền suối, sông nhỏ

hay những chỗ đất cao và bằng phẳng, xa tít là những dãy núi chập chùng, xanh ngắt một

màu.

Người Ê-đê quần cư theo buôn, họ không quen sống xen kẽ với các dân tộc khác.

Vì thế cư trú với mật độ khá tập trung. Ngày nay, tại các giếng tập thể tất cả tộc người Ê-

đê cùng múc nước và đem về dùng. Mỗi buôn có một khu vực để sản xuất, chăn thả,

buôn này không được xâm lấn buôn kia, nhà này không được xâm phạm đất đai của nhà

khác, quy định về tính cộng đồng của người Ê-đê được thể chế hóa bằng hệ thống luật

tục. Đứng đầu là già làng, người giữ quyền lực về thể chế trong thôn buôn.

1.3.2. Tên gọi và thành phần tộc người

Người Ê-đê ở huyện Krông Năng là dân tộc có nguồn gốc từ nhóm tộc người Mã

Lai ở các hải đảo Thái Bình Dương, họ có mặt lâu đời ở Đông Dương. Truyền thống dân

tộc Ê-đê đến nay vẫn còn mang đậm nét mẫu hệ và dấu vết hải đảo của nhóm tộc người

nói tiếng Mã Lai – Đa Đảo. Ê-đê còn có những tên gọi khác nhau Rađê, Rhađê, Anăk

Êđê, Đê, Êđê EEgar, Mọi, Thượng hay Rơđê… Đây là một trong những tộc người có khá

nhiều nhóm địa phương. Những nhóm địa phương có số dân đông là Kpă, Adham, Krung,

Ktul, Hwing, Epan, Bil và M’Dhur.

Trên địa bàn huyện Krông Năng người Ê -đê có các họ sau: Ksor, Niê, Byă, Mlô, K

Dăm, K Buôr, Niê Hra … Trong số các họ thì họ Mlô, Niê là phổ biến nhất chiếm phần lớn

dân số ở địa bàn. Trong giao tiếp thường ngày, cũng như người Việt họ chỉ gọi tên, ví dụ

như một người có tên là “Hngon Niê” thì lúc gọi tên trong giao tiếp gọi là Hngon. Đối với

người già, nếu là người thân trong nhà thì đàn ông gọi là “Oi”, nếu là phụ nữ thì gọi là“

Tun” hoặc “Adôn”. Điều đó thể hiện sự lịch thiệp trong quan hệ xã hội, cộng đồng, thể hiện

tình cảm thiêng liêng gắn chặt quan hệ gia đình, bạn bè làng xóm.

1.3.3. Hoạt động kinh tế

Căn cứ vào kỹ thuật canh tác và môi trường sống, người ta xếp dân tộc Ê- đê

huyện Krông Năng vào nhóm dân cư nông nghiệp nương rẫy, khác với nhóm dân cư nông

nghiệp lúa nước. Do điều kiện tự nhiên, nơi cư trú của người Ê-đê huyện Krông Năng, về

đất đai chủ yếu đất đỏ bazan nên người Ê-đê ở đây cũng làm lúa nước nhưng diện tích

không lớn, chỉ ở một vài nơi ven suối, ven sông hoặc xung quanh hồ mà chủ yếu là trồng

9

cây công nghiệp (Cà phê, Cao su, Hồ tiêu…). Ngoài ra còn sản xuất hoa màu phụ và chăn

nuôi gia súc.

Trong đời sống người Ê-đê huyện Krông Năng là nghề thủ công không thể thiếu

nghề dệt vải và chế biến Rượu cần. Trong đó, Rượu cần được sử dụng trong các buổi lễ

cúng Yang và đã trở thành văn hóa truyền thống của người Ê -đê. Rượu cần là một lễ vật

không thể thiếu trong các buổi lễ, bất cứ là lễ gì, lớn hay nhỏ đều có rượu cần. Người Ê-

đê ở đây có thói quen hút thuốc lá, trong các mảnh vườn nhỏ, gần nơi cư trú những người

già trong nhà trồng các cây thuốc lá, sau đó phơi khô và thái nhuyễn đem cất vào bao. Họ

chủ yếu hút thuốc lá bằng tẩu. Vì thế, tẩu thuốc được chế tác khá nhiều kiểu. Có loại bằng

tre, nứa, gỗ, được gọt đẽo rất công phu và được quấn đồng, nhôm hoặc bạc xung quanh

tẩu thuốc, nhưng thông dụng nhất vẫn là tẩu thuốc được quấn bằng lá chuối. Có thể thấy,

cuộc sống của người Ê-đê tách ra khỏi các dân tộc khác nên còn lưu giữ được những văn

hóa truyền thống mang đậm bản sắc riêng của dân tộc mình. Dù có những thay đổi về

phương thức sinh hoạt do bước tiến của xã hội, nhưng nét văn hóa truyền thống giàu bản

sắc dân tộc vẫn còn sống mãi với cư dân Ê-đê ở Krông Năng.

1.3.4 Truyền thống đoàn kết đấu tranh

Đồng bào các dân tộc trong huyện Krông Năng vốn có truyền thống đấu tranh cách

mạng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhiều buôn làng ở Krông

Năng là cơ sở cách mạng, những căn cứ cách mạng được xây dựng và hoạt động từ đây

toả đi nhiều nơi ở Đắk Lắk như căn cứ H4 (Dliê Ya). Nơi nổ ra những cuộc phản kháng

đầu tiên chống sự do thám, thâm nhập, chiếm đóng của thực dân Pháp; nơi hai lần là căn

cứ địa cách mạng của tỉnh Đăk Lăk trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế

quốc Mỹ. Trong đó phải nói đến chặng đường hai mươi năm chống Mỹ cứu nước, Krông

Năng luôn là chiến trường nóng bỏng và trung dũng. Căn cứ Dliê Ya là thành luỹ che chở

các cơ quan kháng chiến trong những thời điểm gian khổ và ác liệt; chính vùng đất Dliê Ya

đã chứng kiến sự ra đời của Đảng bộ tỉnh, sự ra đời của các cơ quan, đoàn thể và lực

lượng vũ trang tỉnh...

Nhiều gia đình dân tộc Ê-đê ở buôn Dliê Ya và hàng trăm gia đình ở các buôn làng

khác trong huyện đã tham gia chống dồn dân lập ấp, dời nhà vào núi lập làng chiến đấu

trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ-Diệm. Quân dân Krông Năng còn góp phần vào lịch

sử đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng căn cứ địa cách mạng và phát triển chiến tranh

du kích vùng địch hậu.

10

Vùng đất kiên cường Krông Năng còn có địa danh Núi Voi, là căn cứ H4 trong

kháng chiến chống Mỹ của Tỉnh uỷ Đăk Lăk. Nơi đặt trụ sở Liên hiệp Bốn bên của tỉnh và

là nơi từng diễn ra nhiều trận chiến đấu của quân dân Krông Năng chống sự áp chế, phá

hoại Hiệp định Paris, lấn đất giành dân của địch vào vùng giải phóng. Tại Núi Voi, sẽ có

một tượng đài Vệ quốc được xây dựng. Đó là biểu tượng để các thế hệ kế tiếp sẽ mãi mãi

ghi nhớ truyền thống đấu tranh quật cường của quân và dân các dân tộc huyện Krông

Năng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

CHƯƠNG 2

VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ Ở HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH

ĐĂK LĂK

2.1. Văn hóa vật chất

2.1.1. Ẩm thực

11

Trước đây, mặc dù sống trong những điều kiện kinh tế, xã hội thấp, nhưng vì nhu

cầu của cuộc sống người Ê-đê luôn sáng tạo để thích nghi với môi trường. Sống dựa vào

thiên nhiên nên người Ê-đê đã lợi dụng và biến đổi để hòa hợp với đời sống của mình.

Cũng như bao dân tộc khác, nguồn lương thực chính của người Ê-đê là gạo tẻ, chỉ những

lúc mất mùa bà con mới dùng khoai, ngô, sắn nấu độn với gạo và ăn qua ngày. Hầu hết

người Ê-đê ăn hai bữa chính trong ngày, bữa sáng và bữa chiều, chỉ những lúc đi làm xa

thì họ mới đem theo cơm vắt, muối ớt ăn phụ vào buổi trưa.

Rau, củ, quả và thịt thú rừng là nguồn thực phẩm chính dùng trong bữa ăn chính

của người Ê-đê. Rau, củ, quả chủ yếu là bà con lúc đi nương rẫy hái về, một số ít trong số

đó là tự trồng lấy rau ở xung quanh vườn nhưng thường rất hiếm. Bởi vì, đa phần họ chăn

nuôi bò, heo theo hình thức chăn thả rông nên bò, heo phá vườn của họ, chỉ rất ít hộ gia

đình rào thật kỹ mới trồng được rau, củ. Thịt thú rừng, thủy sản ở sông, suối, ao, hồ hoặc

thịt các con vật giết mổ thường để cúng tế.

Cách chế biến món ăn của người Ê-đê khá đơn giản, trong tâm thức suy nghĩ của

họ là phải làm sao khi nấu ăn hạn chế thấp nhất việc làm mất mùi vị của đồ ăn. Nghĩa là,

đối với loại thực phẩm là rau, củ, quả, đồng bào thường chế biến thành món canh, món

luộc, hoặc nấu mặn với cá hoặc thịt. Trong bữa ăn không thể thiếu chén muối ớt. Đối với

loại thực phẩm từ động vật, người Ê-đê chủ yếu nấu cho chín và chấm với muối ớt.

Nướng thịt, nấu mặn với rau, củ là những cách chế biến món ăn được họ quan tâm nhất.

Ngoài ra còn có khá nhiều món chế biến từ động vật như lòng heo nấu với quả chuối

xanh và tiêu, món thịt thái nhỏ, trộn đều với muối ớt và nướng gọi là “knut”, món thịt nấu

với các loại rau quả gọi là “tukdjam”. Người Ê-đê rất thích ăn món gié. Nguyên liệu để chế

biến món gié là ruột non, da, xương của các con vật được giết mổ, đem băm nhỏ, trộn

đều với muối, bỏ vào tô ướp từ 4 đến 5 ngày là có thể lấy ra ăn được. Một món ăn cũng

được rất nhiều người chế biến đó là món thịt chuột nướng. Đây là món thường chỉ dành

cho những người lớn tuổi. Chuột được bắt ở ngoài đồng, đem về lột da và hun khói trên

bếp lửa để giành lúc mưa bão không kiếm được nguồn thức ăn.

Người Ê-đê ở đây quen uống nước lã, nước được lấy từ ngoài sông, suối hoặc

những cái giếng làng. Chỉ khi sinh đẻ, bệnh tật thì họ mới uống nước đun sôi. Các buổi lễ

cúng hay họp mặt họ uống rượu cần, chứ không dùng thêm bất cứ loại rượu nào. Trong

tập tục sinh hoạt cư dân cũng đặt ra nhiều kiêng cữ để bảo vệ nguồn nước, hằng năm

trong buôn thường tổ chức các buổi lễ cúng bến nước, họ không cho bất cứ ai làm bẩn

nguồn nước đầu nguồn, cấm phóng uế, vứt động vật chết xuống sông suối.

12

2.1.2. Trang phục

Người Ê đê có đầy đủ các thành phần, chủng loại trang phục và phong cách thẩm

mỹ khá tiêu biểu cho các dân tộc khu vực Tây Nguyên. Y phục cổ truyền của người Ê đê

là màu chàm, có điểm những hoa văn sặc sỡ.

Trang phục phụ nữ: Trang phục Êđê độc đáo và khá lạ so với nhiều vùng miền

khác ở chỗ phong cách trang trí là không có đường ở giữa thân áo. Đếch là tên gọi mảng

hoa văn chính ở gấu áo. Ngoài ra phụ nữ còn có áo lót cộc tay (áo yếm).

Hàng ngày, đồng bào dân tộc Ê-đê thường mặc loại áo băl. Loại áo này không

trang trí hoa văn. Những người già lão ở đây còn ưa mặc một loại áo lót trong gọi là ao

yên, chỉ có phần vải che ngực. Áo tiêu biểu của người Ê-đê huyện Krông Năng quen gọi là

“Ao đếch kvich grư”. Loại áo này có tay dài, cổ kéo dài ngang vai, thân và tay áo đều hẹp,

mặt trước và mặt sau bằng nhau áo mở ở hai vai, đôi khi có đính một hàng cúc trước

ngực để khi mặc áo chui đầu, lúc đi lao động họ thường mặc áo và váy đơn giản đó là loại

áo và váy trơn đơn giản không trang trí hoa văn có tên gọi là “Ao-băl”.

Về váy, Phụ nữ Ê-đê diện nhiều loại váy khác nhau. Váy loại tốt là myêng đếch, rồi

đến myêng đrai, myêng piêck. Loại váy này mặc trong những dịp hội hè long trọng, trong

cưới xin, nhất là của những gia đình khá giả. Váy kdruêch piêck cũng là loại váy sang,

nhưng không đẹp bằng hai loại váy kể trên. Còn váy bơng thì may bằng vải thô, không

trang trí gì, thường mặc khi đi làm. Những bà già nghèo khó vẫn mặc loại váy này vì họ

không có điều kiện mua sắm vải đắt tiền. Ngày nay thiếu nữ Ê-đê thường mặc váy kín.

Phụ nữ Ê-đê cũng như phụ nữ nhiều dân tộc khác, họ chú trọng nhiều đến trang sức,

chuộng các đồ bằng bạc hay đồng làm vòng đeo cổ, đeo tay.

Nguyên liệu làm váy chủ yếu bằng vải bông màu chàm hoặc đen, tùy từng loại váy

mà trang trí nhiều hay ít đường nét hoa văn. Ngày nay, váy được may bằng vải công

nghiệp, chất lượng tốt hơn và cũng đẹp hơn, thậm chí trên nền vải còn trang trí những

đường nét thêu thùa bắt mắt. Cách mặc váy cũng khá độc đáo, họ đặt mép váy ở sườn

bên trái, quấn một vòng quanh người từ eo bụng trở xuống, dắt mép váy ngoài về phía

sườn bên phải. Để cho chặt có thể dùng thêm thắt lưng bằng vải hay bằng kim loại.

Vào lúc thời tiết nóng những người phụ nữ lớn tuổi thường chỉ mặc váy và ở trần.

Vào những ngày lạnh họ thường mặc nhiều áo và đôi khi có khoác một tấm chăn mỏng

bên ngoài. Ngoài ra, phụ nữ Ê-đê có thói quen bới tóc sau gáy rồi cài trâm bằng đồng

13

hoặc bằng ngà voi, thỉnh thoảng bằng bạc. Đối với những người phụ nữ lớn tuổi có những

vòng đồng lớn, vòng bạc đeo ở cổ, cổ tay, cổ chân, và đeo các khuyên tai bằng bạc, đồng,

gỗ, xương thú.

Một loại phụ kiện không thể thiếu của người Ê-đê là chiếc khăn. Khăn được nhuộm

chàm dùng để quấn tóc trên đầu. Khăn quấn hình chữ “nhân” trước trán rồi buộc thành

mối ra sau gáy và bịt khăn kín cả trán và đầu.

Trang phục nam giới: Người đàn ông Ê-đê có tập quán mang khố (kpin). Khố của

nam giới màu đên, được đồng bào dệt lấy bằng sợi bông xe săn khổ rộng 0,28m, dài từ 3

đến 5m. Trên mặt khố cóa nhiều đường hoa văn chạy dọc theo hai bên mép vải. Ở hai

đầu khố có tua dài 0,25m và có một dải hao văn nằm ngang chạy dọc theo hai bên mép

khố.

Về áo, chiếc áo truyền thống của nam giới là loại áo lửng, tay áo dài và hẹp, cổ áo

thấp, trước ngực có hàng khuy có thể là bằng sừng trâu hoặc đồng, đôi khi làm bằng gỗ.

Hoa văn trang trí trên áo nam thường nằm ở hai nách áo và mép cuối của áo và cổ tay. Áo

có giá trị nhất là áo mà người Ê-đê nơi đây quen gọi là “Đêch kvưh grư”. Loại áo này chỉ

dành cho những người có quyền lực trong buôn vào các dịp lễ hội lớn của buôn. Thường

ngày, họ ít đem ra mà bảo quản rất cẩn thận. Vì thế kiểu áo này được dệt và trang trí rất

công phu, các hoa văn được trang trí ở hai bên nách, ở phần trước ngực áo được dệt bởi

những sợi dây màu đỏ tạo thành một mảng trang trí rất bắt mắt. Theo quan niệm của

người Ê-đê nếu màu đỏ trước ngực mà lớn, và sặc sỡ thì người đàn ông đó càng có

quyền lực và giàu có. Tuy nhiên, biến tấu về trang trí hoa văn cũng có nhiều thay đổi, các

trang trí hoa văn không đặc sắc như người Ê-đê ở Krông Năng . Ở một số nơi như Phú

Yên áo dùng trong lao động là loại áo không được trang trí hoa văn, không có sợ chỉ đỏ

trước ngực. Vào mùa hè đàn ông Ê-đê thường đóng khố và cởi trần, về mùa lạnh họ

thường khoác thêm tấm đắp mà gọi là “abăn”.

Thầy cúng thường quấn khăn nhiều vòng trên đầu, đóng khố. Áo dài trùm mông, xẻ

nách và trang trí hoa văn ở hai bên nách thường là màu vàng, trắng, hồng. Trước ngực,

hai cánh tay áo được trang trí bằng những đường vuông hoặc đường viền theo hình lưỡi

cưa. Vải màu đỏ hoặc vàng ở trước ngực khiến cho chiếc áo trông vừa mạnh mẽ, lại đẹp

phóng khoáng đúng với phong cách người Ê-đê.

Nếu ở Phú Yên, người thầy cúng quấn khăn màu đen nhiều vòng trên đầu thì

người Ê-đê ở huyện Krông Năng lại quấn bằng khăn màu đỏ. Bởi lẽ, người Ê-đê huyện

14

Krông Năng luôn chọn cho mình khăn màu đỏ, như vậy thần linh sẽ giúp đỡ cho mình và

dân làng nhiều hơn.

Điều đặc biệt là mỗi khi đi làm, hay đi ra khỏi nhà là người đàn ông đứng tuổi luôn

ngậm tẩu thuốc lá làm bằng đồng, tre. Bình thường hơn là những điếu thuốc được quấn

bằng lá chuối, trên vai vác chiếc rựa, cung tên và họ hay dẫn chó đi cùng. Phụ nữ đi theo

sau và luôn mang theo gùi để đựng các dụng cụ cần thiết.

2.1.3. Nhà cửa

Người Ê-đê huyện Krông Năng cũng như cộng đồng người Ê-đê ở nơi khác đều có

tập quán sống chung hai hoặc ba thế hệ trong một ngôi nhà lớn. Họ rất ít khi làm nhà mới

thay cho nhà cũ, nếu có thêm người thì nối phần sau nhà dài thêm. Cũng bởi lẽ đó nên

trong dân gian còn có tên gọi là nhà sàn dài. Nhà sàn dài chính là sự phản ánh tiêu biểu

cho chế độ mẫu hệ của người Ê-đê. Nó còn là biểu tượng cho sự gắn bó giữa con người

với cộng đồng, giữa con người với thiên nhiên. Thành phần gia đình trong một ngôi nhà

gồm có những cặp vợ chồng, trong đó vợ con đều cùng một dòng họ phía mẹ và những

người đàn ông đến làm rể.

Nhà sàn dài của người Ê-đê huyện Krông Năng và các nhóm địa phương khác như

ở Phú Yên, Gia Lai đều có những điểm tương đồng đó là nhà sàn khung cột. Nhà có chiều

ngang thì hẹp, chạy dài theo chiều dài của nhà. Những ngôi nhà truyền thống đều được

lợp bằng mái tranh, những bộ phận của nhà đều có thể tháo lắp ra được, nội thất của ngôi

nhà chia làm hai phần chính đó là gian khách (gah) và gian ngủ (ôk). Thường được xây

dựng bằng các vật liệu lấy trong rừng tự nhiên như gỗ làm cột kèo; tre, nứa thưng vách,

làm sàn; lợp mái bằng cỏ tranh ... Đặc điểm chung của những ngôi nhà này là thường rất

dài, vì là nơi ở chung có khi của cả một dòng họ. Vì vậy có những huyền thoại nhà dài

như tiếng chiêng ngân bởi vì đứng ở đầu nhà đánh chiêng thì cuối nhà chỉ còn nghe rất

nhỏ, ra khỏi là mất luôn, không còn nghe thấy gì nữa. Nhà có kết cấu cột kèo bằng gỗ tốt,

có sức chịu đựng với thời gian. Các đà ngang, đòn dông luôn luôn bám nguyên tắc được

đẽo hoàn toàn bằng tay, từ những cây gỗ nguyên vẹn dài có thể tới trên chục mét; đếm

chúng, ta có thể biết nhà đã có thêm bao nhiêu lần được nối dài. Những lần nối dài

thường là khi trong nhà có một thành viên nữ xây dựng gia đình vì người Ê Đê theo chế

độ mẫu hệ, người con trai khi lấy vợ sẽ đến ở nhà vợ và không có quyền hành gì. Nhà dài

được thưng vách và lót sàn bằng các phên nứa; mái lợp cỏ tranh đánh rất dày, trên 20cm,

thường chỉ làm một lần và sử dụng vĩnh viễn không phải lợp lại. Khi làm nhà mới, người Ê

15

Đê rất kiêng không bao giờ dùng lại gỗ nhà cũ mà thường đốt bỏ, tuy nhiên ngày nay

phong tục này chỉ còn tồn tại ở các vùng sâu gần rừng nơi còn dễ kiếm gỗ làm nhà.

Các cột phía trước nhà thường được trang trí bằng các mặt trăng khuyết hay hình

các con vật như ba ba, kỳ đà ...và có cầu thang đẽo từ nguyên cây gỗ, trước đây nhà

thường có 2 cầu thang phân ra đực và cái. Cầu thang cái được đẽo công phu hơn, cũng

có trang trí bằng hình trăng khuyết nhưng luôn có thêm hình hai bầu sữa mẹ trông rất

phồn thực. Điểm đặc biệt là các vật trang trí này luôn được đẽo bằng tay với cây rìu

truyền thống.

Nét đặc sắc của ngôi nhà dài Ê-đê kiểu cổ truyền là tính mẫu hệ nổi lên rất rõ. Ngay

từ chiếc cầu thang ván “đơn giản là một khúc gỗ có nhiều nấc, đặt dựa vào cửa hay sàn

nhà….ở những nhà trung lưu gọi là “ê nhan pla đang”, là một tấm ván đưuọc đẽo cong để

phần đầu uốn về phía trước, có khắc hai đầu núm vú (k’sâu). Thang được đặt ghếch lên

chiếc sàn phía trước nhà, có nhà có khi đặt ba, bốn chiếc ở ba phía vì coi đó là biểu

tượng cho sự giàu có, sung túc của gia đình, phía trên đôi núm vú có khi còn khắc hình

trăng lưỡi liềm, có người cho là biểu tượng đôi sừng trâu, một mô tip giống các cửa sổ

của người Thái đen”.

Mỗi nhà sàn dài của người Ê-đê thường có 2 cầu thang, cầu thang chính ở đầu

nhà là dành cho khách và những người đàn ông và một cầu thang đặt ở cuối nhà thường

là gần gian bếp dành cho đàn bà. Các bậc thang cũng có những quy ước riêng thường chỉ

là số lẻ ví dụ như 5, 7, 9, vì người Ê-đê cho rằng nếu mình làm cầu thang mà đẽo các bậc

thang là những số chẵn thì không tốt.

Cũng như các nhóm địa phương khác, nhà sàn dài người Ê-đê huyện Krông Năng

có điểm riêng được chia làm ba phần: sân sàn, ngăn khách và ngăn ở. Sân sàn trước

(dring gah) có một hoặc hai cầu thang, thường rộng rãi, là nơi phơi áo quần, nơi giã gạo

mỗi sáng, nơi ngồi chơi hóng mát mỗi chiều. Sân sàn sau (dring ôk) chỉ có một cầu thang

và dành riêng cho người trong gia đình nhỏ hơn, thường là nơi rửa ráy, nấu ăn. Từ sân

sàn trước bước vào khoảng không gian quan trọng nhất là nơi tiếp khách và sinh hoạt

chung của cả gia đình, cũng là nơi có thể chiêm ngưỡng những đồ quý giá và linh thiêng

của người Ê-đê như trống, chiêng, ché rượu, các bộ sừng trâu, hươu nai... Nối tiếp ngăn

khách là ngăn ở (ôk) được chia thành từng ngăn nhỏ cho các tiểu gia đình dọc lối đi suốt

tới sân sàn sau. Đây là điểm nổi bật mà ít ngôi nhà nào của các dân tộc khác có được, bởi

mọi sinh hoạt lễ nghi đều được diễn ra ở tại phòng khách này từ cưới xin, ma chay, cúng

lễ. Mọi vật dụng trong nhà cũng đều được làm bằng những nguyên vật liệu sẵn có trong

16

thiên nhiên. Những chiếc ghế dài được làm ra từ nguyên một cây gỗ trong rừng, chiếc

trống đánh trong ngày hội được làm từ da voi. Hình thức trang trí ngôi nhà thường đơn

điệu hơn, chiều dài ngôi nhà cũng ngắn hơn, nếu có chạm khắc thì đó cũng chỉ là những

hình ảnh bình thường, dễ bắt gặp nhất là những hình ảnh về những con vật, những ô

carô… Cuối nhà là nơi đặt bếp lửa nguyên bản trước đây, bếp lửa của người Ê-đê thường

được đặt trực tiếp trên sàn nhà. Người ta đóng một khung vuông bằng gỗ cao khoảng 10

cm, đổ đất nện, sau đó đốt lửa trên đó cả ngày với mục đích giữ lửa.

Mọi thứ từ vật bé nhất, đến lớn nhất đều được người Ê-đê làm ra từ mọi nguyên

liệu sẵn có trên mảnh đất Krông Năng này. Ngôi nhà sàn dài của người Ê-đê huyện Krông

Năng chính là biểu tượng cho sự gắn bó của con người với cộng đồng, với sông núi.

Hiện tại, cuộc sống hiện đại phần nào đã ảnh hưởng đến phong tục tập quán, bản

sắc của người dân tộc thiểu số nói chung và người Ê-đê nhất là người Ê-đê ở huyện

Krông Năng nói riêng. Mặt khác nguyên liệu gỗ, tre, nứa, tranh… để làm nhà cũng không

còn dễ kiếm như trước nữa nên những ngôi nhà thực sự dài (30m trở lên) ngày càng

thêm vắng bóng. Tuy nhiên, do người Ê-đê huyện Krông Năng rất quý trọng những giá trị

truyền thống của văn hóa dân tộc nên dù tiếp cận cuộc sống hiện đại, bên cạnh ngôi nhà

mới theo kiểu nhà trệt của người Kinh, họ vẫn cố giữ lại đoạn trước của nếp nhà sàn ông

cha để lại coi như là phòng khách. Cách làm này tuy có tạo ra sự đối chọi trong kiến trúc

nhưng vẫn đáng hoan nghênh, bởi vì thế mà các ngôi nhà dài vẫn chiếm số lượng lớn

trong các buôn làng của người Ê-đê dù là không còn dài như tiếng chuông chiêng ngân.

2.2. Văn hoá tinh thần

2.2.1 Nghi lễ - Tín ngưỡng cúng theo vòng đời người

2.2.1.1. Lễ cúng trước khi sinh nở

Đời sống văn hóa của người Ê-đê nói chung và Ê-đê ở huyện Krông Năng nói riêng

luôn coi trọng việc duy trì và phát triển giống nòi của mình. Là tộc người có chế độ mẫu hệ

thể hiện rõ nét, in đậm trong văn hóa truyền thống, vì vậy người phụ nữ Ê-đê được có

những quyền đặc hữu trong đời sống, đặc biệt là lúc mang thai. Điều đó thể hiện ngay

trong bữa ăn, khi người phụ nữ mang thai khoảng 3 tháng trở lên, người chồng và những

người thân trong gia đình luôn dành những thức ăn ngon nhất và khuyên nhủ ăn nhiều

hơn. Khi đó người Ê-đê tiến hành lễ cúng cầu mong sức khỏe cho người phụ nữ có thai.

Lễ vật gồm một chén rượu một con gà, thầy cúng ngồi hướng mặt về phía đông, trước

mặt thầy cúng là người phụ nữ có mang ngồi đặt chân lên lưỡi rìu sắt và tay cầm vòng

đồng được buộc vào ché rượu.

17

Thầy cúng khấn, đại ý lời khấn như sau: “ Ơ yang, đây một ché rượu, một con gà.

Cầu cho ami Ê sức khỏe dồi dào... cho nó đẻ được con trai, con gái cho nó được con

cháu đầy đàn yên vui, cho nó mễm như cây môn, cứng như củ sả. Cứng từ mẹ đến con.

Ban cho nó được nhiều điều tốt lành... Ngày mai, ngày mốt nó sẽ nằm lửa. Nó sẽ gần

bếp. Đẻ được con gái cho nó chóng lớn. Sinh được con trai cho nó nhanh khôn ngoan”

[10; tr429]. Sau khi khấn xong thầy cúng lấy bông thấm rượu có tiết gà bôi lên chân người

phụ nữ có mang và lấy lá xoan quệt tiết chó thoa lên trán và quanh bụng người phụ nữ có

mang để đuổi thần ác.

2.2.1.2. Lễ cúng sau sinh nở

* Lễ cúng đặt tên-thổi tai

Diện mạo văn hóa của mỗi vùng, mỗi dân tộc thường được biểu hiện một cách tập

trung nhất, sinh động nhất ở các buổi lễ, mỗi khi có các lễ hội, buổi cúng lễ của người Ê-

đê thì đó là nơi ta có thể nhìn thấy bản sắc văn hóa một cách sâu đậm. Bởi lẽ lúc đó là nơi

hội tụ của trang phục đậm nét nhất, cồng ching được đánh rộn ràng nhất… Tất cả đều

được bộc lộ, đầy đủ và tự do để đặt tên cho một con người mới chào đời. Người Ê-đê

quan niệm mỗi con người đều có linh hồn. Một đứa bé vừa ra đời, các linh hồn sẽ nhập

vào đứa bé và cất tiếng khóc chào đời.

Lễ được thực hiện sau khi đứa trẻ ra đời từ 1 đến7. Lễ cúng đặt tên-thổi tai ngày

gồm hai bước. Bước thứ nhất là cúng Yàng Bah Huê- thần che chở trẻ sơ sinh và con

người. Tiếp theo là lễ thổi tai cho trẻ: Bà đỡ mồm nhai củ gừng, thổi khẽ hai bên tai tre và

cầu thần Trời cho bé được khỏe mạnh, thông minh và có lỗ tai thính để tiếp thu những

điều hay lẽ phải.

Người Ê-đê cho rằng: Trẻ sơ sinh chưa có linh hồn, nên lúc đặt tên cũng là lúc làm

lễ nhập hồn cho trẻ. Mâm cúng gồm một ché rượu, một con gà, một quả cà cắm vào dùi

sắt, một củ gừng, lá cây, trên lá có một giọt sương lớn. Họ quan niệm giọt sương là nơi

ngự của tổ tiên và hồn này sẽ nhập vào đứa trẻ. Thầy cúng khấn các vị thần linh xin đặt

tên cho đứa trẻ. Sau đó bà đỡ đặt các lễ vật trong cái thúng bên cạnh đứa bé và cầu

nguyện để đặt tên. Bà đỡ sẽ gọi tên của những người đã khuất trong gia đình họ mẹ để

chọn và đặt tên cho đứa bé, nếu đọc đến tên của một người nào đó mà đứa bé thè lưỡi

liếm giọt sương thì chứng tỏ đã có sự đồng ý giữa linh hồn và đứa trẻ với cái tên đã đặt.

Ở trước sân và dưới sàn nhà, người cha và người cậu đứng hai bên. Trong tay cầm

những chiếc chày giã gạo hoặc cũng có thể là hạt thóc, hạt gạo ném qua ném lại và nói to

18

những lời cầu chúc sức khỏe cho đứa trẻ và đuổi Yang ác, Yang xấu đi không được quấy

nhiễu đứa trẻ. Khi đứa trẻ đã có tên, thầy cúng khấn tiếp:

“Ơ yang ! Nay ta đổ nước lên miệng ché. Mời các thần đến hưởng… Các ngài là

thần nuôi nấng, thần tạo hóa. Hãy ban cho Y Ki khôn lớn, khỏe mạnh. Cho nó nhanh mọc

răng cửa. Cho nó nhanh mọc răng hàm. Cho nó nhanh đến tuổi trưởng thành. Ban cho nó

giàu to. Ban cho nó nhà lớn. Ban cho nó khỏe mạnh. Lớn lên có buôn làng giàu đẹp ”

[10;tr432].

Sau đó, bà đở lấy chiếc vòng bạc đeo vào tay phải cho đứa bé cầu cho đứa bé giữ

chiếc vòng bạc cho đến tuổi ông bà. Lễ cúng tên – thổi tai là một nghi lễ quan trọng trong

hệ thống nghi lễ vòng đời người của đồng bào Ê-đê. Nó là niềm hy vọng của gia đình đứa

trẻ về tương lai tốt đẹp của con mình.

2.2.1.3. Lễ cúng ở tuổi trưởng thành

Ở huyện Krông Năng bất cứ chàng trai Ê-đê nào bước vào độ tuổi từ 15 đến 20

tuổi đều phải có lễ cúng trưởng thành kết hợp với lễ cúng sức khỏe. Lễ cúng này là nghi

lễ vô cùng quan trọng không thể thiếu trong cuộc đời của mỗi con người. Những nghi lễ

sẽ được tổ chức vào thời điểm có đủ lễ vật. Nếu trong một đời người mà không thực hiện

được các nghi lễ này thì bản thân người đó và cả dòng họ anh em, họ hàng người đó sẽ

mắc nợ thần linh, dù người đó chết đi thì người thân gia đình vẫn phải cúng để tạ thần

linh.

Lễ được tổ chức to hay nhỏ tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình, nhưng

theo thông lệ thì tất cả mọi người trong buôn sẽ cùng tới chia vui cùng với gia đình. Đối

với con trai thì cúng 3 lần nghĩa là cúng rượu 3, rượu 5 và rượu 7, còn đối với con gái

thường được dừng lại ở lễ cúng rượu 3.

Vào thời điểm này cha mẹ sẽ tổ chức một nghi lễ cầu cúng ông bà, tổ tiên, nhằm

cầu mong cho đứa trẻ dồi dào sức khỏe, làm nương rẫy, gùi củi và dệt vải giỏi dang (chỉ

người con gái). Lễ bắt đầu bằng nghi thức rửa mặt của chàng trai ngoài bến nước của

buôn. Từ sáng sớm, người được cúng lễ trưởng thành phải đi ra bến nước của buôn mình

với trang phục truyền thống. Khi đến bến nước chàng trai (hoặc cô gái) rửa mặt trước sự

chứng giám của trời đất và thần bến nước cùng sự hiện diện của bà con trong buôn. Khi

đã gội đầu xong, chàng trai hứng nước đầy vào quả “bầu eo” mang về làm lễ cúng Yang.

Việc làm này có ý nghĩa là tẩy chay, rửa sạch tội trong quá khứ.

Người Ê-đê ở huyện Krông Năng coi lễ cúng rượu 3 là lễ cúng trưởng thành, còn lễ

cúng rượu 5 (năm lơ má) và rượu 7 (bảy lơ má) là lễ cúng sức khỏe gọi là “Yang-met

19

awa”. Dưới đây chúng tôi xin trình bày toàn cảnh một buổi lễ cúng rượu 5 của Ma Ka (tức

Y Dung ở Buôn Năng- xã Eaho).

Lễ vật gồm có 5 ché rượu, 1 con gà, 1 đầu heo, 1 phần trong bộ lòng của con heo

thường là bong bóng heo được treo trên những cây nẹp ché rượu và 1 bình nước lã.

Những người có mặt trong buổi lễ cúng là những người thân trong gia đình và tất cả bà

con trong buôn cùng đến tham dự. Khi tiếng cồng chiêng vang lên là báo hiệu cho buổi lễ

bắt đầu. Những ché rượu được đặt chính giữa nhà, có dây và kèo buộc chặt, cố định các

ché lại với nhau, các ché rượu được đặt theo hình tam giác đứng, nghĩa là ché to nhất

được đặt ở chính giữa các ché nhỏ hơn được đặt ở hai bên. Anh Y Dung trong trang phục

truyền thống ngồi ở phía nam của ngôi nhà, ở hai bên anh Y Dung có hai người phụ nữ

đứng rót rượu, bốc đồ ăn. Việc làm này thể hiện cho sự sung túc, cuộc sống thảnh thơi,

nhàn hạ và đó cũng là lễ nghi trong tín ngưỡng của đồng bào. Thầy cúng ngồi hướng về

phía đông, tay phải cầm ché rượu, tay trái cầm vòi và bắt đầu bài cúng. Xong bài cúng thứ

nhất (kể về cuộc đời của người được cúng), rồi lấy 1 ly nước lã cho chủ nhà rót đầy lên 5

ché, thầy cúng tiếp tục múc 1 ly nước nữa đổ đều lên các ché và cúng bài thứ 2 (xin thần

linh phù hộ, ban sức khỏe). Những người đánh cồng chiêng ngồi một hàng dài trên ghế

Kpan. Âm vang của bài cúng cộng hưởng với âm thanh của cồng chiêng càng làm cho

buổi lễ thêm phần rộn ràng, ấm cúng và tạo tình đoàn kết trong buôn. Dứt lời, thầy cúng

lấy 5 còng đồng đeo cho anh Y Dung. Khi vào bữa tiệc những người thân trong gia đình

được phép ăn trước, dùng tay bốc mỗi thứ một ít ăn theo vòng. Người Ê-đê huyện Krông

Năng không có thói quen phụ nữ và đàn ông ngồi ăn chung mà được phân ra rất rõ rệt,

những người thân trong gia đình và người lớn tuổi, người đánh cồng chiêng được ngồi ở

gian khách (dring gah), còn những người phụ nữ thường ngồi ăn ở phía gian thứ hai

(dring ôk) của ngôi nhà. Đầu tiên người cầm cần là thầy cúng cho người trong gia đình

uống trước, sau đó người chủ nhà cầm cần cho tất cả những người trong buổi lễ. Và cứ

thế họ ăn và uống rượu cần cùng nhảy múa, ca hát suốt buổi chiều hôm đó. Đến tối, chủ

nhà chuẩn bị thêm 2 đến 5 ché nữa để phục vụ cho thanh niên trong làng, những người

phụ giúp trong ngày hôm đó và cho cả những người đến sau cùng chung vui, buổi lễ

thường kéo dài đến 2 giờ sáng. Xong xuôi ai về nhà nấy và lại tiếp tục một ngày mới với

những công việc thường ngày.

Qua ngày hôm sau, chủ nhà chuẩn bị 3 ché nữa. Hôm nay anh Y Dung phải tháo

vòng đồng ra, đồng thời đem lễ vật là 1 ché rượu với 1 con gà sang nhà vợ tiếp tục cúng,

buổi lễ kéo dài đến khi mặt trời tắt hẳn. Với tục cúng vòng đời này thì việc cúng cho con

20

trai lớn hơn cúng cho con gái, khi đến chừng khoảng 20-40 tuổi là cúng lớn nhất, người

đồng bào gọi đây là lễ cúng 7 ché, lễ này được kéo dài đến 7 ngày, ngày thứ nhất là 7

ché, ngày thứ hai là năm ché, sang ngày thứ ba là 3 ché. Vào ngày này người cha, hay

những người chủ gia đình mời hết bà con trong buôn, và mời bà con, anh em thân thuộc

từ các buôn khác đến. Các con số như 3, 5 ,7 đó gần như là luật tục, nằm trong quy ước

của người Ê-đê. Có thể nói lễ cúng vòng đời là lễ cúng lớn nhất kéo dài gần một tuần lễ

trong không khí linh thiêng của đất trời huyện Krông Năng.

2.2.1.4. Lễ cưới

Người Ê-đê theo chế độ mẫu hệ, vì vậy trong gia đình cũng như ngoài xã hội,

người phụ nữ có quyền rất lớn. Một trong những quyền đó là quyền cưới chồng, con gái

lấy họ mẹ và có vị trí đặc biệt trong gia đình. Khi đến tuổi trưởng thành, các cô gái Ê-đê có

“nhiệm vụ” đi tìm bạn trăm năm qua các cuộc lễ lạt, hiếu hỷ, cúng viếng và đặc biệt trong

các lễ hội mùa xuân. Sau mùa gặt bội thu mùa lễ hội trong các buôn làng tưng bừng. Đây

là dịp các cô gái thực hiện công việc trọng đại của mình – tìm bạn trăm năm. Trong những

cuộc giao duyên đó, nếu chàng trai lọt vào mắt xanh của cô gái thì về nhà thưa chuyện

với cha mẹ để nhờ mai mối đến nhà trai đánh tiếng dạm hỏi.

Lễ cưới của người Ê-đê thường được tổ chức hàng năm sau mùa rẫy, khoảng từ

tháng 12 năm trước đến tháng 3 dương lịch năm sau. Quy mô lễ cưới của đồng bào Ê-đê

không chỉ giới hạn trong phạm vi nhà trai, nhà gái mà thu hút sự tham gia của hai dòng họ

và cả cộng đồng buôn làng. Lễ cưới của người Ê-đê được tiến hành theo các bước sau:

Lễ hỏi chồng, lễ thỏa thuận, lễ rước, lễ cưới.

Có thể nói lễ cưới của người Ê-đê là một ngày hội lớn cộng đồng. Trong lễ cưới,

phong tục tập quán, không gian lễ hội, trang phục, ẩm thực, các loại hình nghệ thuật dân

gian thể hiện khá phong phú, giàu bản sắc dân tộc. Qua lễ cưới nhằm giáo dục cho mỗi

thành viên trong cộng đồng lòng chung thủy, nhân ái, tình yêu thương con người, yêu

thương buôn làng và yêu cuộc sống lao động. Đồng thời, nhắc nhở họ sống có trách

nhiệm vì tương lai của gia đình, dòng họ và cộng đồng.

2.2.1.5. Lễ cúng sau khi chết

Khi trong nhà có người chết, người thân trong gia đình giết 1 con gà, 1 ché rượu

đặt trên đầu người chết. Ngày xưa có thể giết bò hoặc heo để cúng người chết, những

người trong buôn mang đến những ché rượu, cơm, gà coi như là chia sẻ nỗi buồn cho gia

chủ và để làm cơm đãi khách. Họ không xem giờ hay ngày tốt mà thi thể thường được để

trong nhà khoảng 2 ngày mới đi chôn. Nếu gia đình nào có điều kiện thì tiến hành lễ bỏ

21

mả ngay sau khi người chết được 2 ngày. Trong lễ này có nghi thức là giải phóng cho con

người sống, nghĩa là những người chồng hoặc vợ của người đã khuất chỉ được chải tóc,

ăn mặc đẹp, vui chơi, kết hôn sau nghi lễ bỏ mả.

Người Ê-đê tiến hành tập tục chuê-nuê để nối kết vợ chồng cho những người góa

trong lúc tiến hành lễ bỏ mả. Người thay thế người chồng hoặc người vợ người đã khuất

sẽ do họ hàng phía người đã khuất chỉ định. Nếu người được lựa chọn đồng ý thì phải

báo tin cho người đã khuất biết rằng vợ hoặc chồng đã có người chăm lo. Thông thường

tục chuê-nuê của người Ê-đê huyện Krông Năng thường được thể hiện như sau: Nếu

người vợ chết đi người chồng có thể lấy em gái hoặc chị gái của dòng họ đằng gái làm

vợ, nếu không đồng ý thì phải dâng lễ vật vì đã không làm theo luật tục. Tùy theo người

chết là nam hay nữ mà phần của cải được chia cho phù hợp và chôn ở nhà mồ. Nhà mồ

của người Ê-đê huyện Krông Năng thường cách ngôi nhà cuối cùng trong buôn là khoảng

trên 50m kể từ nóc nhà cuối cùng. Những vật dụng hằng ngày được bẻ gãy để chia cho

người chết vì người Ê-đê tin rằng những đồ dùng ở dưới âm phủ sẽ dùng ngược với

những thứ trên trần gian.

Trước khi tiến hành lễ bỏ mả, những người thân hoặc thanh niên trong buôn đẽo

tượng nhà mồ theo cách truyền thống của dân tộc. Thông thường những nghệ nhân nghề

mộc trong buôn sẽ đẽo 4 cây cột dựng 4 góc nhà mồ, điêu khắc cột klao dựng trước nhà

mồ. Ngôi nhà mồ thông thường chia làm 3 phần chính, ở giữa là phần mộ để đặt quan tài

người chết, 2 đầu nhà mồ được dựng sàn để cho người thân ngồi than khóc, mái nhà

thường được lợp bằng mái tranh. Nghi thức chính của buổi lễ bỏ mả là lễ đâm trâu, hoặc

heo và nhảy múa, đánh cồng ching và múa hát trong nhà mồ. Nhà giàu thì thịt nhiều bò

heo và rượu cần, nhà nghèo thì cũng phải làm sao cho đủ thịt và rượu cho mọi người

trong buôn đến chia buồn. Lễ vật như rượu ché, đồ tễ lễ luôn được đặt quay về phía

đông.

Khi thịt các con vật tế lễ được nấu chín, gia chủ dùng lá chuối trải trên mặt đất chia

ra từng mâm để những người dân trong buôn làng cùng ăn lần cuối với người chết.

Những người trong buôn sẽ ngồi ở hai đầu nhà mồ để khóc lóc, kể về những chuyện đã

qua trong cuộc sống, xong họ cúi đầu lặng lẽ đi về không quay đầu hay ngoái đầu lại vì họ

sợ hồn ma sẽ tiếc nuối và đi theo họ về buôn. Một người đi sau cùng sẽ đập vỡ và đốt tất

cả các vật dụng mà gia chủ đã chia cho người đã khuất. Từ đây nhà mồ sẽ bị bỏ hoang

mục nát.

22

Trường hợp nếu người chết do tự sát hay do tai nạn thì không được xây nhà mồ,

không tiến hành các nghi lễ như người chết bình thường mà quấn chiếu hoặc mua hòm

và chôn trong ngày. Phần mộ của họ thường được đặt ở phía dưới của nghĩa địa không

được đặt gần phần mộ của những người chết bình thường vì người Ê-đê cho rằng nếu họ

không làm như vậy sẽ khiến người thân trong gia đình chết theo.

2.2.2. Nghi lễ - Lễ hội nông nghiệp

2.2.2.1. Lễ cúng rẫy

Lễ cúng rẫy là một trong những nghi lễ nông nghiệp quan trọng của người Ê-đê nói

chung và người Ê-đê huyện Krông Năng nói riêng . Hằng năm, mỗi khi bước vào mùa rẫy

(từ tháng 3 đến tháng 5 dương lịch), các gia đình người Ê-đê thường tổ chức lễ phát rẫy

và cúng rẫy. Lễ vật gồm một con gà trống choai còn sống, một ché rượu nhỏ. Khi đi đến

rẫy họ đặt lễ vật xuống đất được lót bằng lá chuối và khấn:

“Ơ Yang Rẫy, Yang Rừng, Yang Núi, Yang Sông, Yang biển Đông, Yang biển Tây!

Hôm nay gia đình tôi mang con gà, ché rượu cúng các yang, mong các yang giúp cho việc

làm rẫy được thuận lợi, lúa được đầy kho, bắp được đầy bồ. ơ yang” [10;tr461].

Khấn xong chủ rẫy cắt tiết gà, lấy tiết hòa vào rượu đựng trong tô đồng vẩy xung

quanh rẫy và dụng cụ làm rẫy. Do đặc thù ở huyện Krông Năng là chủ yếu trồng cây công

nghiệp cho nên lễ nghi cúng rẫy cũng đơn giản so với những nơi khác .

2.2.2.2. Lễ cầu mưa và cúng bến nước

Lễ cầu mưa mang một ý nghĩa tâm linh, cầu mong cho thần linh, ông Trời, bà Trời

và các thần lớn nhỏ mang mưa về, để cho buôn làng được mùa nương rẫy, lúa, bắp đầy

chòi, cây cỏ xanh tươi, đàn trâu, đàn bò sinh sôi. Cầu mưa cho khí hậu trong lành, con

người nhiều sức khỏe, mong cho cuộc sống luôn được ấm no, hạnh phúc.

Để làm lễ cầu mưa, dân làng chuẩn bị đồ lễ gồm 1 con trâu, nhưng thường là bò, 7

ché rượu cần. Sau đó các thầy cúng khấn thần linh để trồng cây gạo, cột trâu để giết làm

đồ tế. Lễ cúng bắt đầu với đồ tế gồm 7 ché rượu, thịt, lòng bò đựng trong 7 chén, 7 tô

rượu, 7 tô cơm đặt lên sàn. Các thầy cúng bắt đầu khấn mời ông Trời, bà Trời, các thần

sông thần sấm, sét… cùng về hưởng và đem hạt mưa về giúp cái nương, cái rẫy luôn

xanh tươi, được mùa, mang lại cuộc sống ấm no cho bà con. Chiêng, trống, cồng chiêng

vang lên cùng với lời khấn lúc trầm lúc bổng của các thầy cúng như thúc giục, mời gọi

thần linh về.

Để thực hiện nghi thức đặc biệt quan trọng trong đời sống của cộng đồng, người Ê-

đê huyện Krông Năng chọn ra những người đàn ông tài giỏi của buôn làng dựng cây nêu

23

tránh súc vật chạy qua, cây nêu sẽ được chọn dựng ở vị trí cao ráo trước nhà sàn dài.

Một số người khác sẽ phải đi lên đầu nguồn nước để kiểm tra, đảm bảo nguồn nước trong

lành sẽ chảy về làng. Trước khi tiến hành nghi lễ, từ sáng sớm, già làng sẽ đánh những

hồi chiêng dài báo cho buôn làng biết là sắp tổ chức lễ cúng bến nước. Bến nước hôm đó

được trang hoàng với cổng chào bằng lá cây, cỏ lá dài, treo đồ vật trang trí.

Theo giải thích của bà H’Lum (83 tuổi, buôn Năng- Eaho- Krông Năng) thì lễ cúng

có 3 phần. Phần thứ nhất là cúng tại bến nước để cầu cho thần nước mang lại sức khỏe

cho buôn làng, tiếp đó là cúng tại hàng rào trước khi mang nước vào nhà và cuối cùng là

cúng tại nhà của chủ bến nước. Sau khi làm thủ tục cúng xong ở bến nước, người ta sẽ

lấy nước vào các vật đựng nước, thường là các quả bầu khô, bỏ vào gùi và gùi về nhà lấy

phước. Trong khi đó, một đoàn người sẽ theo người chủ lễ đi đến cầu thang từng nhà, hát

cầu cúng và rưới tiết vào chân cầu thang để cầu may cho nhà chủ...

Kết thúc nghi lễ, cả buôn làng tập trung về nhà dài để ăn tiệc, uống rượu cần và

nhảy múa trong không khí của lễ hội với âm vang cồng chiêng rộn rã. Những tiếng cồng,

tiếng chiêng, những điệu nhảy tưng bừng đưa mọi người xích gần nhau hơn, trong tiếng

hát ca dưới mái nhà chung của dân tộc. Lễ cúng bến nước là nghi lễ chung của toàn

buôn, sau lễ cúng chính, mỗi gia đình đều tổ chức cúng tại nhà.

CHƯƠNG 3

BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI

Ê-ĐÊ Ở HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐĂK LĂK

3.1. Biến đổi văn hoá truyền thống của người Ê đê ở huyện Krông Năng, tỉnh Đăk

Lăk

3.1.1. Biến đổi văn hoá vật chất

Trong thập niên tám mươi của thế kỷ XX kinh tế - xã hội nước ta lúc đó bị khủng

hoảng nghiêm trọng. Nhằm thoát khỏi tình trạng trên, Đảng, nhà nước ta đã ban hành

chính sách đổi mới: Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội

chủ nghĩa. Ở khu vực Tây Nguyên, đã xây dựng một số vùng kinh tế mới cho đồng bào

dân tộc; đưa người Kinh vào ở xen kẽ nhằm hướng dẫn đồng bào về phương thức canh

24

tác, đồng thời đưa phương thức và kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp; mở mang

trường học, các cơ sở y tế để nâng cao dân trí và sức khỏe cho đồng bào. Chính những

điều trên đã tác động mạnh mẽ và làm thay đổi nền văn hóa truyền thống của người Ê-đê

ở Tây Nguyên nói chung và đồng bào Ê-đê ở huyện Krông Năng nói riêng.

Trước kia, ở huyện Krông Năng môi trường tự nhiên rất phong phú và đa dạng

người Ê-đê có thể tận dụng để ăn uống và giữ gìn sức khỏe, tạo ra các vật dụng hằng

ngày. Nguồn thực phẩm chủ yếu từ săn bắt và chăn nuôi. Do đó, bữa ăn của họ khá đơn

giản và đạm bạc. Mỗi khi có tiệc tùng hay lễ hội, bữa ăn có thêm các món ăn phong phú

hơn, họ vừa ăn vừa uống rượu cần. Từ trẻ em đến cụ già, từ nam tới nữ đều biết uống

rượu cần và coi đó là thú vui, thuốc lá là đồ hút cho cả nam lẫn nữ. Nhưng nay tiến bộ

hơn, các bài thuốc hái từ cây, lá rừng ít người sử dụng, người ta đi khám bệnh xin thuốc,

mua thuốc tại các trạm xá bệnh viện. Người ta ăn chín uống sôi, hợp vệ sinh, thức ăn mua

từ chợ phong phú đạm bạc hơn, nhiều người có nhu cầu ăn ngon, uống nhiều thức uống

ngon bổ, sử dụng nguồn nước sạch,v.v…

Trang phục truyền thống chủ yếu chỉ còn ở người cao tuổi trong buôn. Thanh niên

không mặc áo quần truyền thống, họ ưa chuộng quần jean, áo thun theo phong cách

người Việt, bị “Việt hóa” họ chỉ mặc trang phục truyền thống trong các buổi lễ hội.

Trang phục phổ biến nhất của người Ê-đê xưa kia là nam đóng khố nữ mặc váy.

Trong những ngày lễ hội hoặc đi chơi, phụ nữ thường mặc váy mảnh theo kiểu quấn

quanh thân, có hoa văn ở cạp và gấu. Áo có thêu hoa văn ở vai, dọc theo nách, cổ tay và

gấu áo. Trang sức của người Ê-đê khá phong phú. Đến tuổi trưởng thành, họ đều cưa

những chiếc răng cửa. Trẻ em một hai tuổi đã phải xâu lỗ tai. Con trai, con gái đều đeo

hoa tai và vòng đồng ở cổ tay. Con gái thường đeo hoa tai được tiện bằng ngà voi khá to,

ngược lại con trai đeo những chiếc khuyên tròn bằng đồng ở cổ. Ngày nay, nhu cầu mặc

đẹp thường theo kiểu lịch sự, hiện đại như người Việt, các trang sức cũng đã thay đổi

nhiều, bằng vàng hoặc bằng đá quý…

Khi đặt chân đến các buôn trên địa bàn huyện Krông Năng rất khó tìm được ngôi

nhà sàn dài truyền thống bằng mái tranh, phên nứa mà thay vào đó là những nhà xây theo

kiến trúc của người Việt. Đa phần các ngôi nhà được làm hoàn toàn bằng gỗ thiên nhiên,

các bậc thang được bê tông hóa, không còn biểu trưng cho chế độ mẫu hệ là cầu thang

được trang hoàng bằng những bầu vú cách điệu, là những bậc được đẽo kỳ công đậm

chất văn hóa. Nhà rông truyền thống đã không còn hiện hữu trong tâm trí bà con nữa mà

25

thay vào đó là sự can thiệp của nhà nước là hàng loạt các nhà văn hóa, nhà sinh hoạt

cộng đồng được xây dựng.

Nghệ thuật tạo hình của người Ê-đê huyện Krông Năng khá độc đáo, thể hiện ở

điêu khắc, chạm trổ, trang trí hoa văn trên vật dụng hằng ngày, nhà cửa, tượng nhà mồ

phong phú, đa dạng có nhiều ý nghĩa biểu trưng cho cuộc sống. Nhưng nay, những yếu tố

truyền thống độc đáo ấy không còn nữa mà văn hóa chạm trổ, điêu khắc, trang trí đều ảnh

hưởng sâu sắc nét văn hóa hiện đại. Khi xã hội tiến bộ hơn người ta không còn nhu cầu

làm nhà sàn dài mà là nhà xây cho sáng sủa, lịch sự, ngăn nắp hơn, các trang thiết bị

dụng cụ sử dụng trong gia đình được mua về hợp với thời đại.

Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, người Ê-đê huyện Krông Năngvốn là

gốc nông nghiệp nương rẫy, phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên, nên cách sống của họ

luôn luôn hòa hợp với thiên nhiên, có ý thức tôn trọng thiên nhiên, không dám ganh đua

với thiên nhiên. Tuy nhiên, hiện nay trong ý thức của họ, thiên nhiên không còn thiêng

liêng, không còn thần linh ngự trị, các sản vật từ thiên nhiên không còn đủ để cung cấp

cho con người nên họ cũng sẵn sàng tham gia chặt phá rừng để làm lợi cho cá nhân.

Một số biểu hiện thay đổi khác, phổ biến hiện nay như người ta có nhu cầu cao về

sự thay đổi trong kỹ thuật sản xuất để trồng cây lâu năm, đào bồn quanh gốc cà phê, cao

su để bón phân tránh bị rửa trôi vào mùa mưa và giữ ẩm vào mùa khô. Họ có ý thức đầy

đủ về sự thay đổi công cụ sản xuất: mọi khâu sản xuất trong trồng trọt đã có sự thay đổi:

tưới tiêu, làm đất, vận chuyển, thu hoạch; từ các công cụ thô sơ (gậy chọc lỗ, xà gạc, rựa,

gùi…) sang công cụ cải tiến hiện đại hơn (cày, bừa, máy cày, máy phay đất…).

Các loại sản phẩm lương thực sản xuất ra vừa tiêu dùng vừa để bán, đó là các loại

sản phẩm cây công nghiệp như cà phê, mía, bắp, rau và các cây ăn quả. Bên cạnh đó,

còn có những thay đổi về cách thức tiếp nhận kỹ thuật. Những kỹ thuật bản địa trước đây

chủ yếu được truyền miệng, học qua kinh nghiệm thực hành và tích lũy lâu đời, được lưu

truyền trong cộng đồng người Ê-đê. Ngày nay, các kỹ thuật mới được tiếp nhận qua quan

sát cách làm của người ở nơi khác chuyển đến, qua sách báo, đài truyền thanh, truyền

hình, từ các cán bộ khuyến nông qua các lớp tập huấn, các hội thảo đầu về phương tiện

canh tác-sản xuất.

3.1.2. Biến đổi văn hoá tinh thần

Điều kiện môi trường sống thay đổi sẽ kéo theo một số yếu tố văn hóa ứng xử với

môi trường xã hội cũng thay đổi. Mặt khác, mặt trái của cơ chế thị trường cũng tạo ra nét

26

văn hóa mới trong đời sống, trong ứng xử khác với văn hoá ứng xử mang tính cộng đồng

trước đây. Sự thay đổi về quyền sở hữu đất đai, kinh tế tư nhân phát triển, đặc biệt lối

sống định canh định cư và xen cư giữa các thành phần dân tộc là những điều kiện dẫn

đến việc ngừng phát triển nhà sàn dài, một nét kiến trúc độc đáo trong văn hóa vật thể

dân tộc.

Việc không phát triển nhà sàn dài kéo theo việc không phát triển các không gian

văn hóa cộng đồng truyền thống, hạn chế môi trường dung dưỡng các giá trị văn hóa tinh

thần khác như âm nhạc cồng ching và những đêm “kể khan” (trường ca). Trước đây, có

những bản trường ca phải kể cả chục đêm. Ngày nay, ở các buôn được nghiên cứu không

còn bất kỳ người nào có thể kể được trọn một đêm khan. Những ràng buộc cũ về tập tục

dần dần thay đổi, không bị lệ thuộc vào các quy định văn hoá cũ. Ché, chiêng, nồi đồng,

v.v… bây giờ không còn là vật quy định mức độ giàu nghèo nữa mà bằng chính các vật

dụng mới trong nhà như bàn, ghế, giường, tủ, ti vi, xe máy...

Nhiều hủ tục lạc hậu trong ma chay, cưới xin không còn thích hợp nữa đều bị loại

bỏ, tiếp thu nét đẹp trong văn hóa ma chay, cưới xin theo tập tục mới ngày nay, v.v…Các

sinh hoạt văn hóa mang tính truyền thống được tổ chức lại trong các đội văn nghệ của xã.

Chỉ khi nào chuẩn bị cho các cuộc hội diễn, các cuộc thi ở các cấp khác nhau, người ta

mới luyện tập. Các hình thức hoạt động ở đây không hoàn toàn hướng đến cộng đồng.

Âm nhạc cồng chiêng được Nhà nước đánh giá cao, khuyến khích, như đánh cồng chiêng

trong những dịp lễ hội. Đặc biệt, nguồn suối, bến nước cũng góp phần tạo nên một nét

văn hóa đặc trưng của đồng bào Ê-đê, nhưng ngày nay đang bị ảnh hưởng nặng nề và có

nguy cơ biến mất hoàn toàn.

Theo GS. TS. Trần Văn Bính “Do cuộc sống xen kẽ từ lâu đời giữa người Kinh với

cộng đồng các tộc người nên trên đất nước ta đã sớm diễn ra sự giao lưu văn hóa giữa

tộc người với người Kinh, và giữa các tộc người với nhau” [5; tr31].

3.1.3. Một số nhận xét về vấn đề biến đổi văn hoá truyền thống

3.1.3.1. Điểm tích cực và hạn chế của sự biến đổi văn hóa truyền thống của người

Ê-đê

Văn hóa bắt nguồn từ cuộc sống, được kết tinh qua nhiều thế hệ tạo thành những

giá trị bền vững, ổn định. Vì thế, nó sẽ tác động qua lại trong quá trình trưởng thành và

27

tồn tại của mọi dân tộc. Tuy nhiên những biến đổi về văn hóa truyền thống cũng có tính

hai mặt của nó.

Trước tiên, những biến đổi về văn hóa truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa

đã tạo điều kiện cho người Ê-đê huyện Krông Năng xóa bỏ các hủ tục lạc hậu trong sản

xuất, thay vào đó họ đã tiếp thu các phương thức sản xuất và canh tác tiến bộ bằng cách

đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất không những nâng cao được chất lượng sản phầm

mà còn góp phần nâng cao cuộc sống của chính bà con.

Các công trình kiến trúc được cách điệu hóa để phù hợp với điều kiện tự nhiên và

bền vững theo thời gian, điển hình như nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng ở các thôn buôn

đều được xây dựng một cách kiên cố. Các công trình được cách điệu theo nhà sàn dài

của người Ê-đê, cách làm này mang tính bền lâu nhưng vẫn mang trong mình bản sắc

văn hóa. Những thay đổi đó đã làm thay đổi và nâng cao chất lượng cuộc sống người Ê-

đê huyện Krông Năng lên đáng kể.

Mặt khác, song hành với những thay đổi tiến bộ thì cũng tồn tại những mặt trái, đó

là sự mai một văn hóa. Hàng loạt các lễ hội và tập tục tốt đẹp bị loại bỏ, nhiều nhạc cụ

dân tộc bị thất thoát cùng với những sinh hoạt văn hóa cộng đồng giảm đi, trang phục dân

tộc không còn đáng kể. Rõ ràng, văn hóa truyền thống cũng mang lại nhiều vấn đề nan

giải trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Những thay đổi trên đang từng ngày làm

phai màu văn hóa người Ê-đê.

3.1.3.2. Nguyên nhân biến đổi văn hoá truyền thống

Như thế, một trong những nguyên nhân đã đến sự biến đổi văn hóa truyền thống

của người Ê-đê tại huyện Krông Năng -tỉnh Đăk Lăk là sự đồng hóa văn hóa người Việt,

làm đứt đoạn bản sắc văn hóa dân tộc. Điều này không có gì lạ bởi “đồng hóa tự nhiên là

một quá trình tiếp xúc, giao lưu ảnh hưởng văn hóa tự nhiên trong các tộc người, thường

là các dân tộc có dân số lớn, trình độ phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa cao hơn, thậm

chí các tộc người nhỏ ấy có thể bị đồng hóa một phần hay hoàn toàn vào các tộc người

lớn hơn”. [4; tr57].

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng hướng mục tiêu

phát triển kinh tế ở vùng miền núi, đặc biệt là các vùng đặc biệt khó khăn. Từ những năm

1990 đến nay, chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển hạ tầng cơ sở được đồng loạt

tiến hành trên hầu hết các địa bàn miền núi ở huyện Krông Năng. Các chương trình như 28

134 CP,135CP…đã làm cơ sở hạ tầng thay đổi rất nhiều ở nông thôn miền núi nói chung

trong đó có huyện Krông Năng. Sự thay đổi cơ sở hạ tầng và hàng loạt các chủ trương,

chính sách xây dựng nông thôn mới đã hình thành các đường giao thông, nước sạch..tạo

thuận lợi cho hoạt động giao lưu, buôn bán giữa người dân trên cùng địa bàn cũng như

với những người ở các địa phương khác.

Ngoài chính sách phát triển kinh - tế xã hội nói chung, việc nâng cao trình độ dân trí

cũng góp phần thay đổi nhận thức của người dân để có thể tiếp nhận nhanh chóng các tri

thức khoa học - kỹ thuật áp dụng vào sản xuất cũng như việc tiếp nhận các nhân tố văn

hóa mới. Các phương tiện truyền thông đại chúng như loa, đài, ti vi, báo... cũng tạo nên

động lực lớn cho người dân ở đây học hỏi lẫn nhau, giao lưu giữa các thành viên trong và

ngoài cộng đồng.

Việc người Ê-đê được dùng điện cũng đã tác động quan trọng về sự thay đổi đối

với nhận thức, khả năng tiếp nhận cách thức lao động mới, sử dụng công cụ sản xuất phù

hợp hơn và sử dụng các tiện nghi sinh hoạt hiện đại hơn. Thêm vào đó, Nhà nước tích

cực triển khai các chương trình khuyến nông với việc hỗ trợ giống, kỹ thuật, có cán bộ

khuyến nông hướng dẫn kỹ thuật tận địa phương cũng dễ dàng làm thay đổi những tập

quán sản xuất cũ lỗi thời, lạc hậu, năng suất thấp.

Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật là một trong những động lực chính của sự phát

triển, bởi việc ứng dụng rộng rãi khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất và đời sống đã

làm thay đổi dần tập quán canh tác cũng như các loại công cụ lao động mới. Con người

ngày càng làm chủ được thiên nhiên, làm thay đổi tập quán sinh hoạt thường nhật, thay

đổi cách làm nhà ở, đặc biệt là thay đổi về tập quán tín ngưỡng, lễ hội. Quan trọng hơn,

chính người đồng bào cũng tự nhận thấy các tiến bộ này đã làm cho đời sống của họ

ngày càng ổn định, nên đã tự giác tiếp nhận và nhân rộng ở cộng đồng. Sự thay đổi này

theo hướng ngày càng hiện đại hóa, lược bỏ bớt những hủ tục lạc hậu, lễ nghi rườm rà,

rút ngắn thời gian.

3.2. Các nhóm giải pháp bảo tồn văn hoá truyền thống của người Ê đê ở Krông

Năng, tỉnh Đắk Lắk

3.2.1. Giải pháp về kinh tế - xã hội

Nhà nước và chính quyền địa phương cần có chính sách và cơ chế bảo đảm sự

bình đẳng và có sự ưu tiên nhất định đối với người Ê-đê về phân bổ các nguồn lực phát

triển, về tiếp cận các nguồn vốn và cơ hội đầu tư phát triển kinh tế-xã hội ở vùng có người

29

Ê-đê sinh sống. Nâng cao nhận thức của tất cả các cấp, các ngành, nhất là các chủ doanh

nghiệp về việc tuyển dụng, sử dụng lao động người dân tộc thiểu số, nhất là người Ê-đê

và coi đó là nguồn nhân lực tại chỗ rất quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội ở địa

phương.

UBND cần có chương trình bồi dưỡng, nâng cao kiến thức về địa phương, về dân

tộc bản địa (trong đó có Ê-đê) cho tất cả cán bộ, công chức, viên chức, các chủ doanh

nghiệp ở tất cả các cấp và các lĩnh vực hoạt động để ý thức được và nhận diện được bản

sắc văn hóa của từng dân tộc, để không có sự phân biệt về tiếng nói, màu da... Cần có

chương trình trong một khoảng thời gian nhất định giải quyết dứt điểm tình trạng nghèo

đói ở vùng các dân tộc người Êđê, đồng thời, hạn chế tối đa sự phân hóa giàu nghèo. Tạo

điều kiện thuận lợi để các dân tộc thiểu số (trong đó có dân tộc Ê-đê) vừa hiểu sâu lịch sử

và văn hóa Việt Nam, vừa hiểu sâu về lịch sử văn hóa dân tộc mình (thông qua các hoạt

động giáo dục, văn hóa, thông tin, văn hoc nghệ thuật…). Cán bộ văn hóa xã cần xây

dựng và thực hiện các dự án về làng nghề thủ công truyền thống và làng nghề mới cùng

với mạng lưới chợ để tạo việc làm và trao đổi buôn bán cho người Ê-đê. Nghề thủ công

(dệt thổ cẩm, đan lát,…) là nghề truyền thống của người Ê-đê, những sản phẩm của nghề

này lại phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của xã hội hiện đại. Vì vậy, xây dựng những làng

nghề và cả chợ không chỉ góp phần xóa đói giảm nghèo, mà còn tạo lập thói quen tiếp

cận kinh tế thị trường cho người Ê-đê trong hội nhập.

Ở bất kỳ xã hội nào, dân tộc nào thì vấn đề giáo dục và phát triển nguồn nhân lực

luôn được quan tâm và chỉ đạo đến từng người dân. Bởi lẽ, trình độ giáo dục có ảnh

hưởng quyết định tới việc tiếp thu tri thức, ứng dụng vào đời sống và sản xuất. Nghiên

cứu cho thấy, trình độ dân trí của đồng bào Ê-đê ở đây rất thấp, những người không biết

chữ hoặc tái mù chữ sau khi được phổ cập chiếm một tỷ lệ rất cao, đặc biệt là phụ nữ.

Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức của đồng bào, từ đó cản trở việc ứng dụng

khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống cũng như sự thay đổi nhận thức nhằm xóa bỏ

những hủ tục lạc hậu. Việc đưa tiếng Ê-đê vào giảng dạy song song với tiếng phổ thông

trong nhà trường là một giải pháp hữu hiệu được đông đảo đồng bào tiếp thu hưởng ứng.

Cần có các biện pháp hiệu quả hơn nhằm nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối

với phụ nữ Ê-đê. Cụ thể là tích cực vận động phổ cập giáo dục, các lớp xóa mù chữ. Cần

có các chính sách hỗ trợ về nhiều mặt và tuyên truyền vận động cha mẹ cho con em mình

được đến trường. Nhà nước cần tiếp tục có các chính sách đưa người Ê-đê đi đào tạo

chuyên môn, nghiệp vụ, đào tạo giáo viên dân tộc Ê-đê và trở về công tác tại địa bàn.

30

Cần tích cực đẩy mạnh các hoạt động truyền thông nâng cao nhận thức về mọi mặt

cho đồng bào, cụ thể ở đây là người Ê-đê. Cần phổ biến đường lối chính sách pháp luật

của Đảng, Nhà nước, các chính sách bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và chính

sách văn hóa. Đồng thời, loại trừ những hủ tục lạc hậu trong phong tục tập quán của

người Ê-đê. Đặc biệt là đẩy mạnh phổ biến luật hôn nhân-gia đình, nâng cao nhận thức về

sức khỏe sinh sản và góp phần giảm tỷ lệ tảo hôn.

Phát triển kinh tế là một trong những điều kiện kiên quyết để bảo tồn và phát huy

bản sắc văn hóa dân tộc. Vì kinh tế có vững thì mới có điều kiện để nâng cao đời sống vật

chất và tinh thần cho đồng bào, và có thể tổ chức được các lễ hội thường xuyên hơn để

thu hút đồng bào quan tâm tham gia. Khi kinh tế ổn định và phát triển người Ê-đê sẽ quan

tâm hơn đến vấn đề phát triển và bào tồn các giá trị văn hóa của dân tộc mình.

3.2.2. Giải pháp về nghi lễ - lễ hội

Trước hết Đảng, Nhà nước ta cần có chính sách cụ thể và kinh phí đáng cho việc

khai thác, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong đó có nghi lễ - lễ hội

của đồng bào Ê-đê. Đồng thời nhanh chóng sưu tầm, phục hồi các nghi lễ - lễ hội Ê-đê,

thường xuyên tổ chức giáo dục và khơi dậy niềm tự hào trân trọng các giá trị văn hóa

truyền thống trong cộng đồng, nhất là trong con em đồng bào dân tộc Ê-đê.

Lần lượt chọn lọc, xuất bản các tác phẩm văn hóa nghệ thuật dân gian Ê-đê, nhất

là nghi lễ-lễ hội, phong tục, tập quán, truyện cổ… dàn dựng các chương trình văn nghệ

dân gian, ghi âm, ghi hình để phát sóng thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại

chúng. Tiếp tục tổ chức ccs hoạt động văn hóa lớn như: Ngày hội văn hóa các dân tộc,

Liên hoan ca múa nhạc dân gian, Liên hoan văn hóa cồng chiêng – nhạc cụ dân tộc…

Một vấn đề không thể thiếu đó là tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về dân

tộc, văn hóa, tôn giáo cho lực lượng cán bộ công chức ở vùng đồng bào dân tộc và tôn

giáo, nhất là cán bộ chuyên trách về công tác tôn giáo. Tăng cường quản lý nhà nước

bằng luật pháp, đồng thời vận động quần chúng giáo dân gắn đạo với đời, tích cực góp

phần vào sự nghiệp đổi mới bằng những hoạt động cụ thể thiết thực trong sản xuất, xây

dựng đời sống mới để làm giàu cho mình và cho đất nước.

3.2.3. Giải pháp đặc thù về văn hóa

Chính quyền điạ phương cần có chương trình và phương thức thực hành văn hóa

dân tộc, làm cho mỗi người Ê-đê tự ý thức được vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn

hóa của tộc người mình. Các lễ hội, hội diễn, liên hoan, các cuộc thi, phong trào văn hóa-

31

văn nghệ,… thuộc văn hóa Ê-đê hãy để người Ê-đê thực hiện, tự thể hiện giá trị và sắc

thái văn hóa của mình. Chỉ có như vậy, văn hóa người Ê-đê mới được bảo tồn, lưu truyền

trong đời sống hiện thực của nó. Ở đây, cần tránh xu hướng “chạy theo thành tích” bao

biện làm thay, “sân khấu hóa” các lễ hội.

Qua đó, hình thành các tổ chức quần chúng để bảo tồn văn hóa truyền thống và

phát huy các giá trị văn hóa “ngoại sinh” : “Hội bảo tồn và phát huy di sản văn hóa”, “Câu

lạc bộ sáng tác và biểu diễn”, “Quỹ giải thưởng văn hóa Ê-đê” v.v… Nòng cốt của những

hội này là những nghệ nhân, trí thức, văn nghệ sĩ, già làng, trưởng các buôn là người Ê-

đê. Hội viên của các tổ chức này gồm tất cả các cá nhân và các tổ chức đơn vị, cơ quan,

kể cả các doanh nghiệp yêu thích và tâm huyết với văn hóa Ê-đê.

Cần có những mô hình và kinh nghiệm đã có về xây dựng nhà văn hóa cộng đồng,

gia đình văn hóa, làng văn hóa, cần thiết kế mô hình mẫu về “Gia đình văn hóa Ê-đê”,

“Buôn văn hóa Ê-đê” để thực hiện “Gia đình văn hóa Ê-đê”, “Làng văn hóa Ê-đê”. Chính

môi trường văn hóa lành mạnh có tác động tích cực không chỉ đến hoạt động kinh tế-xã

hội, mà còn thúc đẩy việc hình thành và phát triển nhân cách của người Ê-đê, nhất là đối

với lớp trẻ người Ê-đê. Hàng năm cần tổ chức các hội nghị, tọa đàm, hội thảo, liên hoan

về văn hóa, văn nghệ giữa các dân tộc trên địa bàn tỉnh và với các dân tộc ngoài tỉnh. Đó

là điều kiện và cơ hội để các dân tộc giao lưu văn hóa, văn nghệ. Trong đó, mỗi dân tộc

khẳng định bản sắc văn hóa của mình, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hóa của các

dân tộc khác. Đây là một trong những phương thức tốt nhất để bảo tồn các giá trị văn hóa

truyền thống và phát huy giá trị văn hóa “ngoại sinh” của các dân tộc nói chung và dân tộc

Êđê huyện Krông Năng nói riêng.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta thông qua, đã xác định các đặc trưng của

mô hình xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đảng ta xác định nhiệm vụ trung tâm của cách mạng

xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa là “xây dựng và phát triển nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”… “xây dựng lối sống lành mạnh, nếp sống

văn minh”…”xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa” [24;tr 33]

Vì vậy, việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh của đồng bào dân tộc

Ê-đê huyện Krông Năng trong giai đoạn hiện nay là vấn đề thực tiễn-cấp bách và cần có

những giải pháp thích hợp.

32

KẾT LUẬN

Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế-xã hội, sự tăng cường giao lưu

kinh tế xã hội giữa các vùng miền, các dân tộc, người Ê-đê qua các thế hệ đã dần dần trải

qua sự tiếp biến văn hóa và đã có một số nét đổi khác so với văn hóa truyền thống. Tuy

nhiên, với đặc thù về mặt địa lý và địa bàn cư trú biệt lập với các vùng và các dân tộc

khác, người Ê-đê ở huyện Krông Năng vẫn giữ được những nét văn hóa đặc trưng riêng

có của mình. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong các hoạt động sản xuất và đời sống đều

gắn chặt với tín ngưỡng và lễ thức theo chu kỳ vòng đời con người và chu kỳ nông

nghiệp.

Về tập quán sản xuất, nghề làm nương rẫy (đặc biệt là cao su và cà phê, sắn, ngô)

và chăn nuôi đại gia súc vẫn là hoạt động kinh tế chủ đạo mang lại nguồn thu chính cho

đồng bào Ê-đê. Song song với đó là việc duy trì các nghề thủ công truyền thống như thêu

dệt thổ cẩm. Hoạt động sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của người Ê-đê còn

mang nặng tính tự cấp tự túc và phụ thuộc phần lớn vào thiên nhiên, kỹ thuật canh tác và

sản xuất chậm cải tiến, còn rất lạc hậu làm cho năng suất sản lượng nông nghiệp không

cao. Tuy nhiên, quy mô và hình thức gia đình đã có nhiều thay đổi theo hướng tăng dần

mô hình gia đình mẫu hệ nhỏ.

Bên cạnh việc duy trì những đặc trưng văn hóa truyền thống, người Ê-đê huyện

Krông Năng đã có những biến đổi nhất định. Sự biến đổi này theo chiều hướng đơn giản

hóa, lược bỏ bớt các hủ tục lạc hậu, các thủ tục rườm rà, hao tốn thời gian và tiền bạc. Sự

biến đổi diễn ra theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực. Một mặt, văn hóa Ê-đê tiếp 33

thu những nét độc đáo của các nền văn hóa khác, đặc biệt là dân tộc Tày, Dao và Việt, bổ

sung và làm phong phú thêm bản sắc văn hóa truyền thống. Mặt khác, loại bỏ những

phong tục, tập quán, lỗi thời, lạc hậu. Điển hình như việc rút ngắn thời gian và chi phí cho

tổ chức tang lễ, giảm nhẹ các lễ vật thách cưới,… Biểu hiện của sự thay đổi tập quán sản

xuất là sự ứng dụng các loại giống mới vào sản xuất như cây mận, ngô và từng bước áp

dụng các kỹ thuật canh tác tiên tiến mang lại năng suất cao cho đồng bào. Tuy nhiên, sự

biến đổi của văn hóa Ê-đê cũng đã có tạo nên biểu hiện của sự mất dần bản sắc truyền

thống.

Có thế nói, văn hóa là phạm trù lịch sử, là một hình thái ý thức xã hội có môi trường

phát sinh, có điều kiện phát triển và biến đổi, được quyết định bởi đặc thù của nền kinh tế.

Văn hóa truyền thống dân tộc Ê-đê được hình thành, phát triển trong cơ chế tự túc, tự cấp

và sản xuất bằng kỹ thuật thủ công. Dưới sự tác động của các chính sách phát triển kinh

tế - xã hội, cách thức sản xuất của người Ê-đê từng bước được cải tiến theo chiều hướng

tăng cường giao lưu hội nhập giữa các nền văn hóa, đặc biệt là văn hóa người Việt. Sự

biến đổi các giá trị văn hóa của dân tộc Ê-đê chịu tác động tổng hợp của nhiều nguyên

nhân, trong đó nguyên nhân chính phải kể đến là sự tác động của các chính sách phát

triển kinh tế-xã hội của Đảng và Nhà nước cũng như sự phát triển của nền kinh tế thị

trường. Điều này đã giúp cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, gián tiếp

từng bước làm thay đổi các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Ê-đê ở huyện Krông

Năng nói riêng và cả nước nói chung.

34

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo tình hình thưc hiện nhiệm vụ phát triển KT, XH, ANQP năm 2014 và phương

hướng nhiệm vụ 2015 (Ủy Ban Nhân Dân huyện Krông Năng )

2. Trương Bi, Bùi Minh Vũ, Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các tôc người Ê-đê, M’nông.

Nxb.Văn hóa dân tôc, Hà Nội, 2009.

3. Trần Ngọc Bình, Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, 2008.

4. Trần Văn Bính, Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong quá trình công nghiệp hóa,

hiện đại hóa. Nxb. Chính trị, Hà Nội, 2006.

5. Trần Văn Bính, Văn hóa các dân tộc Tây Nguyên, thực trạng và những vấn đề đặt ra,

Nxb. Chính trị Quốc gia, 2004.

6. Nông Hoàng Cư,“Mấy nhận xét về hôn nhân và gia đình của người Ê-đê”, Tạp chí Dân

tộc học số 3, 1980.

7. Nguyễn Thành Chinh, “Luật tục Ê-đê, M’nông với việc xây dựng đời sống văn hóa buôn

làng”, Tạp chí Văn học dân gian, số 1, 2000.

8. Phan Hữu Dật, “Dấu vết bào tộc của người Ê-đê”, Tạp chí Dân tộc học số 5, 2002.

9. Ngô Văn Doanh, Lễ hội bỏ mả ở Bắc Tây Nguyên, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1995.

10. Ngô Văn Doanh, Trương Bi, Nghi lễ - Lễ hội của người Chăm và người Ê-đê, Nxb

văn háo dân tộc 2012.

11. Bế Viết Đẳng, Chu Thái Sơn, Vũ Thị Hồng, Vũ Đình Lợi, Đại cương về các dân tộc Ê

Đê, M’nông ở Đăk Lăk, Nxb. Khoa học xã hội,1982.

12. Bế Viết Đẳng, “Một số đặc điểm xã hội của các dân tộc Trường Sơn-Tây Nguyên”,

Tạp chí Dân tộc học số 1, 1984.

13. Nguyễn Thị Hòa, Nhà và sinh hoạt trong nhà của người Ê-đê ở Việt Nam, Luận án

Tiến sĩ 1996.

14. Phạm Văn Hóa, Văn hóa vùng, vùng văn hóa, Giáo trình lưu hành nội bộ, khoa Ngữ

Văn -Văn hóa học, Đại học Đà Lạt, 2011.

15. Vũ Ngọc Khánh, Sơ lược truyền thống văn hóa các dân tôc thiểu số ở Việt Nam, Nxb.

Giáo dục, 1998.

35

16. Vũ Ngọc Khánh, Truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb. Thanh

Niên, 2006.

17.

Vũ Quốc Khánh, Người Ê-đê ở Việt Nam, Nxb. Thông Tấn, Hà Nội,2010.

18. Ngô Văn Lệ, Nguyễn Văn Tiệp, Nguyễn Văn Diệu, Văn hóa các dân tộc thiểu số ở

Việt Nam, Nxb. Giáo dục, 1997.

19. Ngô Văn Lệ, Văn hóa tộc người truyền thống và biến đổi, Nxb. Đại học Quốc gia

HCM, 2010.

20. Chu Thái Sơn, “Bàn về lịch sử tộc người và đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa cư dân

Tây Nguyên”, Tạp chí Dân tộc học số 2, 1979.

21. Trương Thông Tuần, Khái quát dân tộc Ê-đê, Trường đại học Tây Nguyên.

22. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1999.

23. Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn, Luật tục Ê-đê, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996.

24. Văn kiện hội nghị lần thứ V ban chấp hành trung ương khóa VIII. Nxb chính trị Quốc

gia, Hà Nội, 1993.

25. Lê Trung Vũ, Lễ hội dân gian Ê-đê, Nxb. Văn hóa dân tộc, 1995.

26. http://web.cema.gov.vn/modules.php?name=Content&op=details&mid=6777

27.http://www.cuocsongviet.com.vn/index.asp?act=detail&mabv=17937&/Van-hoa-nha-

dai-cua-nguoi-E-de.csv

28. http://www.thpt-phanboichau-daklak.edu.vn/ca-to-chuyen-mon/8-cac-tin-khac/16-

krong-nng-thc-hin-toan-dan-oan-kt-xay-dng-i-sng-vn-hoa.html.

29. http://vi.wikipedia.org /wiki/người_Ê-đê

36

37

PHỤ LỤC HÌNH ẢNH

(Một số hình ảnh văn hóa truyền thống người Ê-Đê ở huyện Krông Năng- Đăk

Lăk)

Hình 1: Nhà văn hóa buôn WIÂO A

( Hình ảnh do cá nhân tự chụp)

Hình 2: Nhà sàn truyền thống người Ê-đê

(hình ảnh do cá nhân tự chụp)

Hình 3: Không gian trong nhà

(Hình ảnh do cá nhân tự chụp)

Hình 4: Không gian bếp

(hình ảnh do cá nhân tự chụp

Hình 5: Ghế Kpan

(hình ảnh do cá nhân tự chụp)

Hình 6: Nhạc cụ

( Hình ảnh do cá nhân tự chụp)

Hình 7: Trang phục nam nữ

( Hình ảnh do cá nhân tự chụp)

Hình 8: Nghề dệt vải

(Hình ảnh do cá nhân tự chụp)

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU........................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................2

2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................................3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................................3

4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề........................................................................................3

5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu...........................................4

6. Đóng góp của để tài .................................................................................................5

7. Bố cục của đề tài.......................................................................................................5

Chương 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VĂN HÓA CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ Ở HUYỆN

KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐĂK LĂK...............................................................................7

1.1. Điều kiện tự nhiên.................................................................................................7

1.1.1. Vị trí địa lý.....................................................................................................7

1.1.2. Tài nguyên thiên nhiên..................................................................................8

1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội........................................................................................9

1.3. Đặc trưng văn hóa người Ê-đê............................................................................11

1.3.1. Địa bàn cư trú..............................................................................................11

1.3.2. Tên gọi và thành phần tộc người................................................................12

1.3.4. Truyền thống đoàn kết đấu tranh...............................................................13

Chương 2: VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ Ở HUYỆN KRÔNG

NĂNG, TỈNH ĐĂK LĂK............................................................................................ 15

2.1. Văn hoá vật chất ..................................................................................................15

2.1.1. Ẩm thực.......................................................................................................15

2.1.2. Trang phục..................................................................................................16

2.1.3. Nhà cửa......................................................................................................19

2.2. Văn hoá tinh thần.................................................................................................22

2.2.1 Nghi lễ - Tín ngưởng cúng theo vòng đời người.........................................22

2.2.1.1. Lễ cúng trước khi sinh nở...............................................................22

2.2.1.2. Lễ cúng sau sinh nở........................................................................23

2.2.1.3. Lễ cúng ở tuổi trưởng thành...........................................................24

2.2.1.4. Lễ cưới............................................................................................26

2.2.1.5. Lễ cúng sau khi chết.......................................................................27

2.2.2. Nghi lễ - Lễ hội nông nghiệp.......................................................................29

2.2.2.1. Lễ cúng rẫy .....................................................................................29

2.2.2.2. Lễ cầu mưa và cúng bến nước.......................................................29

Chương 3: BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN

THỐNG CỦA NGƯỜI Ê-ĐÊ Ở HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐĂK LĂK...............31

3.1. Biến đổi văn hoá truyền thống của người Ê đê ở Huyện Krông Năng tỉnh Đắk

Lắk...............................................................................................................................31

3.1.1. Biến đổi văn hoá vật chất...........................................................................31

3.1.2. Biến đổi văn hoá tinh thần..........................................................................33

3.1.3. Một số nhận xét về vấn đề biến đổi văn hoá truyền thống.........................35

3.1.3.1. Điểm tích cực và hạn chế của sự biến đổi văn hóa truyền thống của

người Ê-đê:..................................................................................................................35

3.1.3.2. Nguyên nhân biến đổi văn hoá truyền thống:......................................36

3.2. Các nhóm giải pháp bảo tồn văn hoá truyền thống của người Ê đê ở Krông

Năng tỉnh Đắk Lắk.......................................................................................................37

3.3.1. Giải pháp về kinh tế - xã hội.......................................................................37

3.3.2. Giải pháp về nghi lễ – lễ hội.......................................................................39

3.3.3. Giải pháp đặc thù về văn hoá.....................................................................40

KẾT LUẬN............................................................................................................... 42

TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................44

PHỤ LỤC ....................................................................................................................47