BẢO LÃNH PHÁT HÀNH CHỨNG KHOÁN – Phần 1

Phát hành chứng khoán

Phân loại phát hành chứng khoán

- Dựa vào đối tượng đầu tư

Phát hành chứng khoán ra công chúng (Public offering): là việc chào bán chứng

khoán thông qua các phương tiện thông tin đại chúng kể cả Internet, hoặc chào bán chứng

khoán cho trên 100 nhà đầu từ, trừ nhà đầu tư chuyên nghiệp hoặc chào bán cho một số

lượng nhà đầu tư không xác định.

Phát hành riêng lẻ (Private placement): Là việc phát hành không thực hiện chào bán

chứng khoán ra công chúng.

Đối tượng mua chứng khoán theo phương thức phát hành riêng lẻ phải có dự tính

đầu tư lâu dài vì chứng khoán phát hành theo phương thức này thường bị hạn chế giao dịch

trong một khoản thời gian nhất định. Hình thức phát hành này được sử dụng phổ biến hơn

trên thị trường trái phiếu.

- Dựa vào thời điểm phát hành:

Phát hành lần đầu (Initial Public offering - IPO): Tổ chức phát hành huy động vốn

thông qua chào bán chứng khoán ra công chúng lần đầu và trở thành công ty đại chúng

(Public compali).

Công ty đại chúng là tổ chức phát hành: Thực hiện chào bán chứng khoán ra công

chúng phải có trên 100 nhà đầu tư (nếu dưới 100 nhà đầu tư thì tổ chức phát hành sẽ ngừng

tư cách là công ty đại chúng)

Có chứng khoán niêm yết trên SGD hoặc đăng ký giao dịch tại trung tâm giao dịch

chứng khoán hoặc phải có tài sản đạt mức quy định theo luật hiện hành.

Phát hành bổ sung (Seasoned offcering): Các công ty sở hữu đại chúng phát hành

thêm cổ phiếu để huy động vốn bổ sung.

- Dựa vào bản chất của chứng khoán:

Phát hành sơ cấp (Primary offering): Qua hình thức này các chứng khoán mới được

chào bán và lượng tiền thu được thuộc về chủ thể phát hành.

Phát hành thứ cấp (Secondary offering): Các chứng khoán đang lưu hành được chào

bán và lượng tiền thu được thuộc về các cổ đông hiện tại chứ không phải là chủ thế phảt

hành chứng khoán đó.

- Các hình thức khác.

Phát hành kết hợp (Split offering): Là sự kết hợp giữa phát hành sơ cấp và phát hành

thứ cấp. Theo đó, một số chứng khoán chào bán là chứng khoán mới ro doanh nghiệp phát

hành còn số chứng khoán còn lại là chứng khoán đang lưu hành do cổ đông hiện hữu bán ra.

Phát hành từng phần (Shelf registration offering): Tại một số nước có thị trường vốn

phát triển, các công ty có uy tín thường được phát hành chứng khoan nhiều đợt trong khoản

thời gian nhất định kể từ thời điểm nhận giấy phép phát hành.

Phát hành đặc quyền mua trước (Rights offering): Khi công ty đại chúng chào bán

chứng khoán bổ sung để huy động vốn, sự tham gia của các cổ đông mới có thể khiến cơ

cấu sở hữu hiện tại bị thay đổi dẫn đến những bất lợi cho ban điều hành công ty. Do đó, để

bảo vệ cơ cấu sở hữu hiện tại, thay vì phát hành cổ phiếu mới họ sẽ phát hành đặc quyền

mua trước cho các cổ đông dựa trên lý lẽ nắm giữ cổ phần hiện hữu để phân phối cổ phần

mới.

4.1.2. Qui trình phát hành chứng khoán ra công chúng

Thông thường tổ chức phát hành thường phối hợp với các bên liên quan (UBCKNN,

Tổ chức BLPH tổ chức kiểm toán…) theo các bước sau: (9 bước)

Bước 1: Tổ chức họp Đại hội cổ đông để xin ý kiến chấp thuận của Đại hội đồng cổ

đông về việc chào bán chứng khoán.

Bước 2: Thành lập Ban chuẩn bị cho đợt chào bán chứng khoán lần đầu ra công

chúng.

Bước 3: Lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành và kí hợp đồng bảo lãnh sợ bộ và các

văn bản ghi nhớ cần thiết khác

Bước 4: Tổ chức PHCK nộp hồ sơ đăng kí phát hành lên UBCKNN

Bước 5: Kí hợp đồng bảo lãnh chính thức và các văn bản có liên quan

Bước 6: Công bố thông tin về đợt chào bán

Bước 7: Tổ chức BLPH phối hợp với doanh nghiệp CPH tổ chức bán đấu giá CP ra

bên ngoài.

Do tính đặc thù của TTCK Việt Nam bên cạnh cổ phiếu của công ty cố phần mới

thành lập, còn có cổ phiếu của các DNNN cổ phần hoá được chuyển thành công ty đưa sở

hữu. Quy trình các DNNN thực hiện cổ phần hoá có thể bán cổ phần lần đầu như sau:

DN cổ phần hoá

Bán cổ phần ra ngoài

Có tổ chức bảo lãnh HP Không có tổ chức bảo lãnh

Tự tổ chức đấu giá Bán CP theo kiểu đấu giá nhờ một tổ chức tài chính trung gian bán đầu giá Nhờ các đại lí phân phát bán

Đấu giá không qua TTGDCK Đấu giá qua TTGDCK (tổ chức tài chính trung gian là TTDGCK) Tổ chức tài chính trung gian không là TTGDCK

Theo văn bản hiện hành thì BLPH trong trường hợp bán cổ phần làn đầu của DNNN

cổ phần hoá là việc tổ chức nhận bảo hành đảm bảo thực hiện phương án bán cổ phần của

DNNN cổ phần hoá cho các đối tượng bên ngoài theo hình thức đấu giá. Trường hợp

không bán hết CP tổ chức nhận bảo lãnh phải mua số CP còn lại theo giá khởi điểm.

Nếu tổ chức BLPH được chỉ định làm tổ chức thực hiện đấu giá ra bên ngoài, tổ

chức BLPH sẽ cùng doanh nghiệp CPH tiến hành tổ chức đấu giá theo quy trình sau:

(1)Thành lập hội đồng đấu giá (HĐ ĐG)

(2) Xây dựng và đệ trình quy chế đấu giá lên HĐ ĐG:

(3) Thông báo về việc bán đấu giá cổ phần của doanh nghiệp CPH

(4) Nhận phiếu đăng ký tham gia đấu giá

Phiếu tham dự có đánh số thứ tự, ghi rõ họ tên và địa chỉ cá nhân, tổ chức tham dự,

số lượng CP đăng ký mua, số tiền đặt cọc.

(5) Tiến hành kiểm tra điều kiện tham dự đấu giá, thông báo cho các cá nhân, pháp

nhân có đủ điều kiện

Bước 8: Tổ chức BLPH thực hiện cam kết của mình, phân phố chứng khoán và

thanh toán

Bước 9: Báo cáo kết quả của đợt PHCK lên UBCKNN Các bên liên quan sẽ tiến

hành hoàn tất một số công việc: Thanh lí toàn bộ các hợp đồng liên quan, hợp đồng

bảo lãnh, hợp đồng tư vấn kiểm toán….

4.2 Khái niệm và vai trò của bảo lãnh phát hành

a. Khái niệm

Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành

thực hiện các thủ tục trước khi chào báo chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán,

nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán còn lại chưa phân phối hết và giúp ổn giá

chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành.

b. Vai trò

● Đối với tổ chức phát hành

- Thứ nhất, qua hoạt động tư vấn tài chính, tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành

xem xét lại công tác quản lí tài chính, phát hiện ra các mặt tích cực cũng như các yếu kém,

từ đó tư vấn cho tổ chức phát hành các biện pháp hoàn thiện công tác quản lí tài chính,

nâng cao hiệu quả sử dụng vốn huy động được từ đợt phát hành. Mặt khác với các doanh

nghiệp đang muốn niêm yết chứng khoán trên SGDCK hay phát hành chứng khoán ra công

chúng thường được yêu cầu áp dụng mô hình quản trị kinh doanh hiện đại, trong đó có

quản trị tài chính doanh nghiệp, do đó kết quả của hoạt động tư vấn tài chính không chỉ là

tài liệu hữu ích giúp cải thiện tình hình tài chính hiện tại mà còn giúp cho việc hoạch định

chiến lược tài chính dài hạn của tổ chức phát hành.

- Thứ hai, nâng cao khả năng thành công của đợt phát hành. Các nhân viên của tổ

chức bảo lãnh phát hành là những người có kiến thức chuyên môn về lĩnh vực kinh tế tài

chính, cộng với việc họ là các nhà kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp, được chuyên

môn hóa trong lĩnh vực bảo lãnh phát hành chứng khoán, nên họ có lợi thế hơn trong việc

nắm bắt các nhu cầu của thị trường. Nhờ đó họ có thể đưa ra lời tư vấn đáng giá cho tổ

chức phát hành nên phát hành loại chứng khoán nào vừa phù hợp với nhu cầu huy động

vốn, vừa phù hợp với nhu cầu đầu tư trên thị trường. Trong quá trình phân phối chứng

khoán, do là nhà phân phối chuyên nghiệp, tổ chức bảo lãnh phát hành có sẵn một mạng

lưới phân phối và các mối quan hệ từ trước với các đại lí phát hành, với các nhà đầu tư,

nhất là các tổ chức đầu tư lớn, do vậy việc phân phối chứng khoán chắc chắn sẽ có nhiều

thuận lợi hơn so với trường hợp tổ chức phát hành tự phân phối chào bán chứng khoán.

- Thứ ba, hạn chế và chia sẻ rủi ro. Nếu tự phát hành , tổ chức phát hành sẽ phải

gánh chịu mọi rủi ro của đợt phát hành. Còn nếu phát hành qua tổ chức bảo lãnh, sẽ có sự

chia sẻ rủi ro giữa hai bên khi có rủi ro. Các đơn vị bảo lãnh trong tổ hợp cũng có thể chia

sẻ rủi ro cho nhau.

Tuy nhiên phát hành chứng khoán qua tổ chức bảo lãnh cũng có những nhược điểm

nhất định, đó là: (1) tổ chức phát hành phải trả cho tổ chức bảo lãnh một khoản phí bảo

lãnh, phí này thường khá lớn và trong một số trường hợp, tùy thuộc vào hợp đồng kí kết,

phí bảo lãnh không phụ thuộc vào số vốn huy động được từ đợt phát hành; (2) Do không

trực tiếp phân phối chứng khoán nên tổ chức phát hành khó kiểm soát được thành phần cổ

đông mới; (3)Nếu trình độ chuyên môn nghiệp vụ của tổ chức bảo lãnh phát hành không

tốt, đợt phát hành không thành công có thể gây thiệt haị cho tổ chức phát hành.

● Đối với tổ chức bảo lãnh

- Tăng thu nhập cho doanh nghiệp,

- Nâng cao vị thế uy tín của doanh nghiệp,

- Tạo điều kiện để phát triển các dịch vụ khác.

4.3. Các hình thức bảo lãnh phát hành

Việc bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các phương thức sau:

a. Bảo lãnh theo phương thức cam kết chắc chắn (Fifm commitment): Là phương

thức bảo lãnh phát hành mà tổ chức BLPH cam kết với tổ chức PH sẽ mua hết lượng chứng

khoán ở một mức giá thoả thuận và phân phối lại cho công chúng tại mức giá chào bán ra

công chúng (POP). Giá chào bán ra công chúng POP không được thay đổi trong suốt quá

trình chào bán. Mức giá thoả thuận còn được gọi là mức giá chiết khấu (Discount) và

chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của tổ chức bảo lãnh và giá bán ra công chúng được

gọi là hoa hồng chiết khấu (Underwrting spread).

Tuỳ và tổ chức bảo lãnh là tổ chức bảo lãnh chính hay là đơn vị bảo lãnh thành viên

mà khoản thu nhập họ nhận được sau đợt phát hành sẽ khác nhau. Nguồn thu của tổ chức

bảo lãnh - thường gọi là hoa hồng bảo lãnh – là phần chênh lệch giữa giá bán chứng khoán

trên thị trường (giá POP) và giá mua chiết khấu theo thoả thuận, hoa hồng bảo lãnh bao

gồm 3 phần chính: phí quản lý, phí nhượng bán và phí bảo lãnh.

+ Phí quản lý là khoản chi phí dành cho tổ chức bảo lãnh chính để tổ chức này thành

lập và quản lý tổ hợp bảo lãnh.

+ Phí nhượng bán là khoản phí dành cho các tổ chức bảo lãnh do họ phải chấp nhận

các rủi ro có thể xảy ra, khoản phí này có thể không bù đắp được hết những thiệt hại song

nó được coi như một khoản đền bù rủi ro cho các tổ chức bảo lãnh.

Rủi ro mà tổ chức có thể gặp phải khi ký hợp đồng bảo lãnh theo phương thức đảm

bảo chắc chắn xảy ra khi tổ chức bảo lãnh không bán hết số chứng khoán đã mua, học buộc

phải trở thành nhà đầu tư đối với doanh nghiệp, hoặc khoản hoa hồng bảo lãnh mà họ nhận

được không đủ bù đắp các chi phí đã bỏ ra để thực hiện hợp đồng. Các khoản chi phí giới

thiệu, quảng cáo cho đợt phát hành (Roadshow), phí dàn xếp hợp đồng, lãi vay phải trả

(nếu có), phí ổn định thị trường và các loại phí khác. Để giảm thiểu rủi ro và chắc chắn bán

được hết số chứng khoán đã cam kết, tổ chức bảo lãnh với một hệ hống các đại lý phân

phối được thành lập nhằm san sẻ rủi ro.

Trường hợp này tổ chức bảo lãnh đã mua hết số lượng chứng khoán nên họ sẽ gánh

chịu toàn bộ rủi ro của đợt phát hành. Do đó, tổ chức bảo lãnh chỉ chấp nhận ký kết hợp

đồng bảo lãnh theo phương thức bảo đảm chắn chán khi các tổ chức phát hành là tổ chức

có uy tín, thị trường đang có nhu cầu đầu tư cao.

b. Bảo lãnh với cố gắng cao nhất (Best efforts): Là phương thức bảo lãnh mà theo

đó tổ chức bảo lãnh chỉ đóng vai trò đại lí phát hành là tổ chức có uy tín, thị trường đang có

nhu cầu đầu tư cao.

c. Bảo lãnh tất cả hoặc không (All or None offring AON): Là phương thức tổ chức

phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành phải bán trọn đợt phát hành nếu không

bán được hết họ sẽ huỷ bỏ đợt phát hành đó.

Với cam kết AON tổ chức bảo lãnh phải hết sức cố gắng nêu họ không muốn bị thiệt

hại về kinh tế (mất phí bảo lãnh…) và giảm sút về uy tín (do đợt phát hành bị huỷ bỏ). Đối

với tổ chức phát hành họ có thể định liệu được lượng vốn huy động của mình qua đợt phát

hành.

Như vậy, để nhận được hoa hồng bảo lãnh tổ chức bảo lãnh phải bán được ít nhất số

đã cam kết. Rủi ro của phương thức bảo lãnh được san sẻ cho cả hai bên, nếu không bán

được trên mức tối hiểu tổ chức phát hành không huy động được vốn còn tổ chức bảo lãnh

không thu được hoa hồng bảo lãnh trong khi vẫn phải bỏ ra chi phí để thực hiện toàn bộ

các khâu của quá trình bảo lãnh.

d. Bảo lãnh theo phương thức tổi thiểu - tối đa (Mini – max commitment): Là

phương thức trung gian pha trộn giữa cam kết chắc chắn và cố gắng cao nhất. Theo phương

thức này, có hai lượng chứng khoán cần xác lập, đó là: lượng sàn (Floor amount) và lượng

trần (ceiling amount).

Tổ chức phát hành đưa ra lượng trần là lượng chứng khoán mà họ muốn bán. Tổ

chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh phải xác lập được lượng sàn và lượng chứng

khoán họ có thể cam kết chắc chắn đồng thời phải cố gắng tối đa để bán đến lượng trần.

Nếu lượng chứng khoán bán ra thấp hơn lượng sàn thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị

huỷ bỏ, tổ chức bảo lãnh không nhận được bất cức một khoản hoa hồng nào. Qua lượng

sàn mà mình xác lập tổ chức bảo lãnh phát hành g iúp tổ chức phát hành dữ liệu được

khoản vốn tối thiểu huy động được.