intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bí ẩn Châu Á trong tấm gương triết học Châu Á PHẦN 1

Chia sẻ: Pucanguyen Puca | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

179
lượt xem
43
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Triết học Châu Á hay là triết lý Châu Á không phải là một khái niệm triết học. Đây chỉ là một cách gọi tương đối. Nó khá mơ hồ, không đủ rõ ràng, không có nội hàm xác định, càng không được hiểu như nhau trong mọi văn cảnh. Nếu coi là một khái niệm triết học, thì triết học Châu Á còn mơ hồ hơn cả khái niệm triết học phương Đông. Tuy vậy, càng ngày, rất có thể, thuật ngũ triết học Châu Á sẽ càng được sử dụng nhiều hơn trong các diễn đàn học thuật...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bí ẩn Châu Á trong tấm gương triết học Châu Á PHẦN 1

  1. Bí ẩn Châu Á trong tấm gương triết học Châu Á PHẦN 1
  2. Triết học Châu Á hay là triết lý Châu Á không phải là một khái niệm triết học. Đây chỉ là một cách gọi tương đối. Nó khá mơ hồ, không đủ rõ ràng, không có nội hàm xác định, càng không được hiểu như nhau trong mọi văn cảnh. Nếu coi là một khái niệm triết học, thì triết học Châu Á còn mơ hồ hơn cả khái niệm triết học phương Đông. Tuy vậy, càng ngày, rất có thể, thuật ngũ triết học Châu Á sẽ càng được sử dụng nhiều hơn trong các diễn đàn học thuật và chính trị - xã hội thế giới. Bởi lẽ, khái niệm Châu Á ngày nay đã là điểm chú ý của hầu hết các vấn đề nóng của thời đại, từ khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên đến vụ kiện tranh chấp lợi ích buôn bán tôm và cá basa giữa Mỹ với một số nước Châu Á, từ vấn đề chính trị giữa hai bở eo biển Trung Hoa đến các vấn đề văn hóa Hồi giáo Malaysia, Indonesia, Pakistan và Trung Cận Đông... từ làn sóng toàn cầu hoá bao trùm khắp thế giới đến nạn dịch cúm gà và căn bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS), từ cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố đến những cáo buộc về nhân quyền đối với vài nước ở Châu Á, từ vị thế lục địa Á - Âu của nước Nga sau chiến tranh lạnh đến những trắc trở trong quá trình gia nhập liên minh EU của Thổ Nhĩ Kỳ, từ tốc độ tăng trưởng kinh tế chóng mặt ở Trung Quốc đến nạn bóc lột tình dục đối với phụ nữ ở một số nước Đông Nam Á và Đông Âu... Tất cả đều ít nhiều che giấu trong nó vấn đề về đặc thù ChâuÁ, gọi theo cách gọi của Tâya đơ Sácđanh thì đây chính là "bí ẩn Châu Á". Tất cả đều cần, phải được cắt nghĩa từ phương diện triết học. Và, triết học Châu Á, bởi thế, là cái phải được tính đến. Thực ra, Tâya đơ Sácđanh không phải là người đầu tiên nói đến điều bí ẩn Châu Á ông chỉ là một trong số ít người dùng đến khái niệm này theo nghĩa tất đẹp của ngôn từ. Nhiều người trước và sau ông, ngay cả Hêgen, khi coi Châu Á là mảnh đất không có tự do cũng ám chỉ điều bí ẩn Châu Á là hiện thân của những nét tiêu cực. Trong thế kỷ XIX, những người Âu theo chủ nghĩa Đông tiến, với ảo tưởng về một sứ mệnh thiêng liêng khai hoá văn minh cho những vùng đất ngoài Châu Âu đã tô đậm thêm định kiến về một Châu Á khôn ngoan mà chậm phát triển khoa học, giỏi buôn bán mà không xây dựng được quan hệ thị trường, cần cù lao động mà thiếu tư duy kỹ thuật,
  3. thừa sách dạy con người phải sống như thế nào mà thiếu sách dạy con người phải làm như thế nào... Đến tận đầu thế kỷ XX, M.Vêbe, khi đề cao đạo đức Tin lành Châu Âu cũng hoài nghi sự thịnh vượng Á Đôngtheo hướng coi khu vực này không có nền tảng văn hóa để đi theo con đường TBCN. Ngày nay, đầu thế kỷ XXI, Châu Á đã khác nhiều so với 30 năm trước. Tuy thế, sự đổi khác này không làm Châu Á bớt đi vẻ bí ẩn của nó. Chủ nghĩa tư bản Châu Á thường xuyên vẫn bị phê phán là độc đoán và gia trưởng. Làn sóng chống toàn cầu hoá diễn ra rầm rộ ở khắp nơi, trong khi Châu Á vẫn khá bình lặng, dường như vừa chấp nhận, vừa không tán thành toàn cầu hoá. Chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc có vẻ giống chủ nghĩa tư bản Khổng giáo hơn là chủ nghĩa tư bản Khổng giáo ở Singapo, trong khi chủ nghĩa tư bản Khổng giáo ở Singapo lại giống CHXH hơn là CHXH ở Trung Quốc. Sở dĩ thuật ngữ triết học Châu Á được nhắc tới nhiều hơn trong các diễn đàn quốc tế khoảng mươi năm gần đây (cùng với khái niệm giá trị Châu Á trong so sánh với văn hóa phương Tây) là vì: Không thể cắt nghĩa đến tận gốc rễ những hiện tượng vừa nêu, nếu bỏ quên cái gọi là đặc thù văn hoá Châu Á. Mà đặc thù văn hóa Châu Á là gì, nếu không phải là bao gồm trong nó văn hóa Khổng giáo và văn hóa Phật giáo, bên cạnh và đan xen với các dạng tư tưởng văn hóa khác? Nói cách khác, nói đến đặc thù văn hóa Châu Á, người ta buộc phải nói đến triết học Châu Á, triết lý Châu Á - cái làm nên linh hồn của văn hóa Châu Á. Dù khó nhận dạng, nhưng triết lý Châu Á luôn hiện hình trong văn hóa Châu Á, càng cố quên đi, càng cố phủ nhận, nó càng lộ ra như là một cái gì đó rất đáng kể, một thuộc tính cố hữu. Sự trỗi dậy của khu vực Đông Á, bắt đầu từ những năm 80 (thế kỷ XX) và ngày càng đáng kể trong những năm gần đây, trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa... (trong đó, phải kể đến Trung Quốc như là một hiện tượng Châu Á đặc biệt), đã làm cho Châu Á trở thành một chủ đề vừa hấp dẫn, vừa khó kiến giải. Sự kiến giải về Châu Á hiện đại, hay dự báo về tương lai của nó... đều không tránh khỏi phải tìm hiểu cội nguồn triết học của khu vực này. Sự hiểu biết và ứng dụng triết học Ấn Độ cổ
  4. đại, cũng như triết học Nho giáo và Đạo giáo... ngày nay đã khác xưa nhiều, nghĩa là ngày nay, chỉ có trong nhà trường và trong giới nghiên cứu người ta mới có thể hiểu một cách cặn kẽ về triết học Nho - Phật - Lão nguyên thủy, tuy thế, văn hóa Nho giáo, văn hóa Phật giáo và văn hóa Đạo giáo thì lại vẫn rất phổ thông trong đời sống tinh thần xã hội. Chỉ cần một hành vi cúi chào, trên khắp thế giới người ta nhận ra nhau là có cùng một cội nguồn văn hóa Nho giáo. Ấy là chưa nói đến những cội nguồn triết học bản địa ở phạm vi hẹp hơn, chẳng hạn triết học bản địa Philippin, Malaysia, Việt Nam, Indonesia... Gọi là triết học thì có thể gây tranh cãi. Nhưng gọi đó là những tư tưởng triết học thì hoàn toàn hợp lý. Không dễ phủ nhận sự tồn tại khá bền vững của những tư tưởng triết học truyền thống trong các dân tộc, các nước tương tự. Thời kỷ lệ thuộc vào thực dân Châu Âu đã qua, song văn hóa Châu Âu còn lại ở các nước vốn là thuộc địa lại không hắn đã phổ biến và càng không chiếm ưu thế, trái lại, nhiều tư tưởng truyền thống tưởng như đã đi vào dĩ vãng, nhưng lại đang được tái sinh, hiện diện trong đời sống xã hội hiện đại. Thuật ngữ triết học Châu Á không loại trừ những nguồn cội này, nếu không muốn nói đây mới là những giá trị chiếm vị trí ưu tiên trong nội hàm thuật ngữ triết học Châu Á. Về điều này, trong các tài liệu ngoài triết học, người ta đã viết khá nhiều. Bởi vậy, từ chính góc độ triết học, chúng tôi muốn nhắc tới ý kiến mới đây của bà Ioanna Kucuradi, Chủ tịch Liên hiệp các Hội triết học thế giới (FISP) tại Đại hội Triết học thế giới lần thứ XXI, Istanbul, 10- 17/8/2003: "Những gì mà chúng ta thấy trong vài thập kỷ đã qua ở rất nhiều nước Châu Á và châu Phi là sự phản ứng đối với "văn hoá phương Tây", một sự phản ứng đã dẫn mỗi nhóm nước đi đến việc tìm kiếm "bản sắc văn hoá" của mình hay "những giá trị" của bản thân mình, và vì không thể nhận dạng cái mà họ muốn nhận dạng trong hoàn cảnh hiện tồn, họ đã nhìn lại quá khứ và cố gắng phát hiện, nhằm mục đích phục hồi cái mà họ cảm nhận, hay giả định là của bản thân họ, nghĩa là cái thế giới quan, cái quan niệm về con người và về điều gì có giá trị (những phán đoán giá trị) đã từng chiếm ưu thế ở mỗi nhóm nước này trước khi những nỗ lực công nghiệp hoá của họ bắt đầu, hay trước khi có sự tiếp xúc với "văn hoá phương Tây, cái mà giờ đây họ phản ứng”. Trong bối cảnh hiện nay, triết học không nên và không thể lảng tránh vấn đề bí ẩn
  5. Châu Á. Sống trong điều kiện xã hội thông tin và được toàn cầu hoá, dĩ nhiên, nhà triết học hiện đại không thể nằm ngoài đời sống xã hội, nhưng ai đó cũng có thể cố tình kinh viện nằm ngoài đời sống xã hội, điều đó không nên. Vấn đề là ở chỗ, anh có thể không tán thành cái gọi là bí ẩn Châu Á, song nếu vậy, thì anh phải luận giải cho quan điểm của mình. Bí ẩnChâu Á hay là đặc thù Châu Á? Đâu là ảo tưởng, đâu là sự thực? Đã quá lỗi thời nếu tiếp tục cái tư tưởng coi phương Tây là trung tâm dù là theo kiểu hiện đại nào đó, nhằm gạt ra ngoài lề tất cả những gì không theo khuôn thước Châu Âu hàn lâm. Nếu như đã có một thời khái niệm phương Đông chỉ là công cụ tư duy của các học giả theo quan điểm lấyChâu Âu làm trung tâm, thì hiện nay, cũng không nên để xảy ra tình trạng khái niệm ChâuÁ chỉ là công cụ tư duy của những người theo chủ nghĩa Đông tiến. Đương nhiên, một nhà triết học có thể chỉ nghiên cứu và giảng dạy những chuyên đề không liên quan gì đến văn hóa Châu Á, nhưng vấn đề Châu Á không dễ bị loại ra khỏi đời sống thường nhật của đa số các nhà triết học đang sống trên nhiều vùng của hành tinh chúng ta giai đoạn hiện nay. Bí ẩn Châu Á là vấn đề của triết học hiện đại. Bàn đến bí ẩn Châu Á và triết học Châu Á vào lúc này quả là cần thiết. Chậm hơn có thể là muộn. I Nói đến triết học Châu Á, thực chất là nói đến những gì? Chúng tôi xin được hình dung như sau: Những tư tưởng triết học có cội nguồn Châu Á hiện đang mang ý nghĩa định hướng hành vi của con người, là thế giới quan và phương pháp luận mà người ta cảm thấy là hữu hiệu đối với hoạt động ở khu vực này. Triết học Ấn Độ cổ đại, triết học Nho giáo, triết học Phật giáo, triết học Đạo giáo… là những cội nguồn chủ yếu nhất đang có vị trí như vậy trong việc giải thích các hiện tượng phương Đông. Trong số các triết học phương Đông cổ đại, phải thừa nhận rằng Nho giáo có vai trò và số phận thật đặc biệt. Tưởng như đã bị chôn vùi cùng với sự phê phán ở Trung Quốc thời Lỗ Tấn (những năm 20 thế kỷ XX), rồi sau đó thời "Phê Lâm, phê Khổng”, những năm 60 (thế kỷ XX), song Nho giáo chẳng những không chết mà còn được tái sinh trong hình dáng của Chủ nghĩa tư bản Khổng giáo. Sự lớn mạnh của các nước khối NICs Châu Á cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng của Trung Quốc lục địa
  6. đã làm cho nhiều học giả ngoài Châu Á tán thưởng khái niệm Confucian capitalism, giải thích sự hưng thịnh của Châu Á hiện đại bằng "sự phục sinh của truyền thống Khổng giáo. Nhưng vẫn có các học giả ở những vùng thấm đẫm văn hóa Nho giáo, như Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Hàn Quốc… lại nghi hoặc quan điểm này, người ta vẫn thấy Nho giáo có quá nhiều điểm không thể coi là tích cục trong thế giới hiện đại. Hơn thế nữa, nếu Nho giáo qủa là có tác dụng thúc đẩy các xã hội Nho giáo phát triển, thì tai sao "cơn ngủ đông" của Nho giáo ở Trung Quốc lục địa và ở Việt Nam lại quá dài? Dẫu sao, cũng không thể phủ nhận có nguyên nhân gì đó thuộc về Khổng giáo, Khổng giáo không phải là tất cả. Văn hóa Khổng giáo cũng không phải là tất cả, nhưng là cái không thể thiếu được trong sự phát triển của Châu Á hiện đại. Như đã nói ở trên, việc hiểu biết và ứng dụng triết học Nho - Phật - Lão... nguyên thủy vào đời sống xã hội, thể hiện trong từng hành vi của con người ngày nay đã khác xưa nhiều, cho nên cái có ý nghĩa xã hội quan trọng nhất đối với đời sống tinh thần xã hội hiện đại không nằm ở bản thân các nguyên lý kinh điển của triết học Châu Á. Sự khúc xạ của các nguyên lý kinh điển thành văn hóa thường nhật của con người, trên thực tế, mang ý nghĩa hiện thực sống động hơn. Cái mà người ta nói tới triết học Châu Á nằm ở văn hóa. Văn hóa Nho giáo, văn hóa Phật giáo, văn hóa Đạo giáo và các dạng văn hóa tư tưởng bản địa khác đang có ý nghĩa định hướng hoạt động của con người, là nội dung cơ bản của' thuật ngữ triết học Châu Á. Điều này, dĩ nhiên, không thoả mãn quan niệm chặt chẽ về khái niệm triết học. Tuy vậy, có thể tạm chấp nhận nếu ta chú ý đến lời nhắc nhở đầy nghi ngại về triết học là gì của M.Haiđơgơ: “triết học là gì ? Với câu hỏi này, chúng ta đan tới một đề tài cực rộng, một đề tài được coi là mênh mông. Vì là một đề tài rộng, nên nó còn chưa xác định nên chúng ta có thể tiếp cận tới nó từ những quan điểm khác nhau. Trong đó, sẽ thường xuyên chạm trán với một cái gì đó đúng đắn. Tuy vậy, trong các cuộc tranh cãi về đề tài cực rộng này, chừng nào mà các ký kiến khác nhau nhất còn bị cày xới một cách thiếu căn cứ thì chừng đó chúng ta vẫn còn bị đe dọa bởi một hiểm họa rằng, cuộc thào luận của chú ta vẫn thiếu một sự thống nhất cần thiết.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2