
Biện pháp kỹ thuật góp phần nâng cao tỷ lệ sống
khi ương cá
Theo kết quả nghiên cứu về hiện trạng kỹ thuật ương
cá tra giống ở huyện Phú Tân, Châu Phú và thị xã
Tân Châu, cá tra bột sau khi ương đến 30 ngày, chỉ
đạt tỷ lệ sống là 18,2%. Ương đến 60 ngày, tỷ lệ sống
là 13,1%. Kết quả này cho thấy, cá tra bột có tỷ lệ
hao hụt rất cao trong giai đoạn 30 ngày sau khi thả
giống vào ao ương. Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng
đến tỷ lệ sống của cá bột như: Cá bột kém chất
lượng; vận chuyển và thả cá bột không đúng theo yêu
cầu kỹ thuật; cá con bị tiêu diệt bởi các loài địch hại
(cá dữ, nòng nọc ...) hoặc do thiếu nguồn thức ăn tự
nhiên cho cá ...

Trong các nguyên nhân trên, chất lượng cá bột là yếu
tố đầu vào quan trọng nhất ảnh hưởng đến năng suất
và chất lượng của đàn cá giống trong quá trình ương.
Tuy nhiên, việc thiếu nguồn thức ăn tự nhiên cũng là
một nguyên nhân có ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ sống
của cá. Khi nói về vai trò của thức ăn tự nhiên, tiến sĩ
Phạm Minh Thành và tiến sĩ Nguyễn Văn Kiểm -
Khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ đã có chung
lời nhận xét: " Cá bột sau khi tiêu hết noãn hoàn, thức
ăn duy nhất được cá ưa thích là động vật phiêu sinh.
Sự thiếu hụt thức ăn tự nhiên là nguyên nhân chính
làm cho cá có tỷ lệ sống sót thấp ở cả môi trường tự
nhiên và nhân tạo"
Để khắc phục việc thiếu nguồn thức ăn tự nhiên trong
ao ương nuôi cá giống, người nuôi có thể dễ dàng
thực hiện gây nuôi thức ăn tự nhiên trong ao ương
trước khi thả cá. Thức ăn tự nhiên bao gồm: Tảo và

các loài động vật có kích thước rất nhỏ bé (còn gọi là
động vật phiêu sinh hay động vật phù du) sống trong
môi trường nước. Một trong những loài động vật phù
du là nguồn thức ăn tự nhiên quan trọng và thích hợp
cho cá bột là trứng nước (hay còn gọi là Moina).
Trứng nước là thức ăn quan trọng cho cá bột vì trong
cơ thể của trứng nước có chứa một số loại acid amin
và các loại men tiêu hóa (còn gọi là Enzyme) như:
Proteinases, Peptidases, Amylases. Các loại men tiêu
hóa này có tác dụng hỗ trợ rất tốt cho hoạt động tiêu
hóa của cá bột. Một số loại acid amin có trong cơ thể
của trứng nước là những acid amin rất cần cho sự
sinh trưởng của cá bột nhưng cơ thể cá không thể tự
tổng hợp được. Trứng nước còn được cho là thức ăn
thích hợp cho cá bột vì chúng có kích thước cơ thể
phù hợp với cỡ miệng của hầu hết các loài cá bột nên

cá bột dễ dàng bắt mồi sau khi sử dụng hết noãn hoàn
tích trữ ở bên trong cơ thể.
Theo kết quả khảo sát thực tế về hiện trạng kỹ thuật
ương cá tra giống, có 23,8% số hộ ương cá tra không
gây nuôi thức ăn tự nhiên trong ao trước khi thả cá
bột mà chỉ sử dụng trứng nước vớt ở tự nhiên để làm
thức ăn cho cá. Trứng nước vớt ngoài tự nhiên có thể
có chứa nhiều mầm bệnh và các loài địch hại cho cá
như: Bọ gạo, bắp cày ... nên nếu vô tình đưa chúng
cùng với trứng nước vào ao thì chúng sẽ gây bệnh và
sát hại rất nhiều cá bột và cá hương và đây là nguyên
nhân ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá.
Trong thực tế, cũng có những hộ ương cá tra mua
trứng nước đã chết và trữ lạnh để sử dụng dần trong
quá trình ương cá. Nếu sử dụng trứng nước chết để
làm thức ăn cho cá thì thành phần dinh dưỡng của

trứng nước có thể bị suy giảm, đồng thời trứng nước
chết sẽ không còn là nguồn thức ăn hấp dẫn đối với
cá bột. Mặt khác, nếu cá không sử dụng kịp thời thì
lượng trứng nước này sẽ bị phân hủy và có thể gây ô
nhiễm môi trường nước.
Do đó, chủ động gây nuôi thức ăn tự nhiên trong ao
ương là một biện pháp kỹ thuật nhằm hạn chế tỷ lệ
hao hụt, góp phần nâng cao tỷ lệ sống trong quá trình
ương cá. Kỹ thuật gây nuôi thức ăn tự nhiên trong ao
ương trước khi thả cá được thực hiện như sau:
Tát cạn ao, vét bùn, bón vôi (10-15 kg/100m2) và diệt
hết cá tạp, rắn, cua, ếch, nòng nọc ... trong ao. Nên
phơi khô đáy ao từ 1-2 ngày (nếu ở vùng đất có phèn
thì không nên phơi vì có thể làm xì phèn đáy ao). Sau
đó, cấp nước vào ao với mực nước sâu khoảng 0,5
mét (phải bịt lưới ở đầu ống cấp nước để ngăn các
loài địch hại vào ao). Để trứng nước phát triển nhanh

