VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN THỊ MINH HUYỀN

BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan:

Luận văn thạc sĩ đề tài “Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn thành phố Lai Châu, tỉnh

Lai Châu” là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô PGS.TS.

Nguyễn Thị Nga. Các số liệu và tài liệu tham khảo dùng trong luận văn đều

được trích dẫn rõ ràng, và trung thực, tên tác giả, tên công trình, thời gian, địa

điểm công bố tôi đều đã trích dẫn đầy đủ ở danh mục tài liệu tham khảo theo

đúng yêu cầu của Quy chế đào tạo.

Tác giả luận văn

Đoàn Thị Minh Huyền

2

LỜI CẢM ƠN

Học viên xin trân trọng gửi lời cảm ơn vô cùng sâu sắc tới cô PGS.TS.

Nguyễn Thị Nga đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn khoa học, giúp đỡ học viên

trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài Luận văn này.

Đồng thời, học viên cũng xin gửi lời chân thành cảm ơn đến Ban Giám

hiệu, các Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ và các giảng viên Học viện khoa học

xã hội đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt kiến thức trong quá trình học viên

theo học tại Học viện. Cảm ơn toàn thể cán bộ, nhân viên Học viện khoa học

xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho học viên trong thời gian học tập và

nghiên cứu nhằm hoàn thành chương trình Cao học.

Xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI

NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI

THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ....... 7

1.1. Lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ............................ 7

1.2. Lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp18

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

NÔNG NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU .............. 29

2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp ........................................................................................................................ 29

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp tại thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu ................................................. 51

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO

HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI

NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ LAI CHÂU,

TỈNH LAI CHÂU .................................................................................................... 66

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp qua thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai

Châu .......................................................................................................................... 66

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp qua thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu ....... 68

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu ...................... 71

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT Viết tắt Nguyên nghĩa

1 CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

2 CP : Chính phủ

3 GPMB : Giải phóng mặt bằng

4 NĐ-CP : Nghị định - Chính phủ

5 QĐ-UBND : Quyết định - Ủy ban nhân dân

6 QSDĐ : Quyền sử dụng đất

7 TĐC : Tái định cư

8 TT-BTNMT : Thông tư - Bộ Tài nguyên và Môi trường

9 SDĐ : Sử dụng đất

10 UBND : Ủy ban nhân dân

11 VT : Vị trí

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, là nguồn lực quan trọng để

phát triển đất nước, đồng thời là nơi sinh sống và tư liệu sản xuất chính của

con người. Tuy nhiên, một điều mang tính tất yếu hiện nay là việc sử dụng đất

đai vào các mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng

để thực hiện quá trình phát triển CNH - HĐH và mục tiêu phát triển đất nước,

đặc biệt là các dự án phát triển cơ sở hạ tầng đô thị, dự án sản xuất, kinh doanh

phát triển kinh tế được thực hiện đều làm giảm diện tích đất nông nghiệp.

Thu hồi đất nông nghiệp luôn là một vấn đề khó khăn, phức tạp vì khi

thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng của người đang sử dụng

đất dẫn đến người sử dụng đất bị chấm dứt quyền khai thác hoa lợi, lợi tức từ

đất mà họ đang được hưởng nhưng nguyên nhân không do họ gây ra; chúng

có thể tác động và ảnh hưởng lớn tới đời sống, việc làm và cả tâm lý, tình cảm

của người dân. Do vậy, là chủ sở hữu đại diện toàn bộ đất đai, lại là chủ thể

thống nhất quản lý toàn bộ đất đai, Nhà nước phải có trách nhiệm bù đắp

những tổn thất về lợi ích vật chất và tinh thần, giúp người dân ổn định đời

sống của mình. Một trong những trách nhiệm của Nhà nước là thực hiện bồi

thường thiệt hại, hỗ trợ cho người dân có đất bị thu hồi.

Nhận thức được những vấn đề trên đây, Đảng và Nhà nước ta đã ban

hành nhiều chủ trương, chính sách pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp nhằm giải quyết hài hòa giữa lợi ích của người

có đất bị thu hồi, Nhà nước và nhà đầu tư. Với sự thay đổi của pháp luật đất

đai trong thời gian qua, vấn đề bồi thường và hỗ trợ đã được thay đổi mang

chiều hướng tích cực hơn nhiều so với trước đây; theo đó, quyền lợi của

người có đất bị thu hồi cũng đã được quan tâm cải thiện.

1

Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện các quy định về bồi thường, hỗ

trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cũng vẫn còn thể hiện nhiều bất

cập, vướng mắc trong thời gian qua. Trong đó, Lai Châu với tỉnh được chia

tách và hình thành muộn hơn so với các tỉnh thành khác trong cả nước nên

công tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ để phục vụ cho công tác xây dựng và

phát triển diễn ra sôi động nhưng nhiều phức tạp, còn bộc lộ nhiều hạn chế.

Nhiều khiếu kiện diễn ra, nhiều dự án bị chậm tiến độ do không giải phóng

được mặt bằng, thu hồi đất không đúng thẩm quyền, xác định trường hợp thu

hồi đất không đúng,… Nhà nước giải quyết còn nhiều lúng túng trong việc áp

dụng các quy định về giá đất bồi thường; quy định về cơ chế thu hồi đất sử

dụng vào mục đích kinh tế; quy định về thời điểm xác định giá bồi thường, hỗ

trợ v.v... Thực trạng nêu trên nên tác giả lựa chọn đề tài: “Bồi thường, hỗ trợ

khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn

thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu” làm Luận văn Thạc sỹ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu

Thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và giải phóng mặt bằng là

những vấn đề vô cùng phức tạp khi triển khai trong thực tiễn, nhiều khiếu nại,

tố cáo và sự bất bình của người dân phát sinh từ chính vấn đề này trong nhiều

năm qua. Vì vậy, đây là vấn đề dành được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của

các nhà khoa học, là các đề tài được nhiều học viên tại các cơ sở đào tạo ở

cấp bậc đại học, sau đại học lựa chọn để thực hiện việc nghiên cứu. Trong

thời gian vừa qua đã có một số công trình, sách báo pháp lý nghiên cứu về

lĩnh vực này dưới góc độ lý luận và thực tiễn; nhất là các công trình nghiên

cứu khi trước thềm Luật Đất đai 2013 và sau khi Luật Đất đai 2013 ra đời.

Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của các tác giả: Ngô Thị Hoa,“Pháp

luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua thực tiễn tại thị xã Từ Sơn,

tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn Thạc sĩ luật học, Hà Nội, 2017; Ts. Doãn Hồng

2

Nhung (Chủ biên), “Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải phóng

mặt bằng ở Việt Nam”, sách chuyên khảo, NXB Tư pháp năm 2013; “Pháp

luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất - Thực trạng

và hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Thị Nga, trường Đại học Luật Hà

Nội, 2013; TS. Nguyễn Thị Nga, “Một số ý kiến trao đổi về vấn đề thu hồi

đất, bồi thường,hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Dự thảo

Luật Đất đai sửa đổi”, Hội thảo khoa học góp ý Luật Đất đai sửa đổi, Hà Nội,

ngày 12/4/2013; PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến, “Bình luận và góp ý đối với

các quy định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

trong Dự thảo Luật Đất đai sửa đổi”, Hội thảo khoa học góp ý Luật Đất đai

sửa đổi, Hà Nội, ngày 12/4/2013; PGS.TS. Nguyễn Thị Nga: "Thủ tục hành

chính trong lĩnh vực đất đai"; Tạp chí Luật học (Số đặc san 2014); PGS.TS.

Nguyễn Thị Nga: "Bàn về vấn đề giá đất theo Luật Đất đai 2013"; Tạp chí

Nhà nước và Pháp luật; tháng 5/2015; Phạm Thu Thủy, “Pháp luật về Bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ

Luật học (2014); Nguyễn Thị Tâm,“Pháp luật về thu hồi đất trong việc giải

quyết mối quan hệ giữa nhà nước – nhà đầu tư và người có đất bị thu hồi”,

Luận văn Thạc sĩ Luật học (2013);

Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đi sâu phân tích những vấn đề lý

luận và thực tiễn pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói

chung và đất nông nghiệp nói riêng như: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, sự ảnh

hưởng và tính tất yếu của bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; đồng

thời, nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, cơ cấu pháp luật điều chỉnh về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; đánh giá thực trạng và kiến nghị giải

pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói

chung và đất nông nghiệp nói riêng; nâng cao hiệu quả thực thi v.v.

Đây là những tài liệu vô cùng quý giá để người thực hiện đề đề tài lĩnh

3

hội, tiếp thu và làm giàu thêm những tiền đề lý luận, làm sâu sắc thêm những

khía cạnh pháp luật và các góc nhìn rộng hơn về thực tiễn thực thi pháp luật

về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất được thực hiện trên địa bàn

của một tỉnh miền núi phía Bắc là tỉnh Lai Châu.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn có mục đích làm rõ một số vấn đề lý luận chung và pháp luật

về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Đồng thời đánh

giá thực trạng pháp luật và thông qua thực tiễn thi hành để đề xuất giải pháp

hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp; nâng cao hiệu quả thi hành tại thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ

khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Trong đó phân tích khái niệm, đặc

điểm; cơ cấu pháp luật điều chỉnh cũng như các yếu tố chi phối tới pháp luật

về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

- Đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp; từ thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Lai Châu chỉ

ra những thành tựu, những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc trên cơ sở tìm hiểu

rõ nguyên nhân khách quan và chủ quan.

- Đề xuất ý kiến góp phần hoàn thiện công tác bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất trên địa bàn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng

Là các quy định của pháp luật đất đai hiện hành, bao gồm các các văn

bản Luật, các Nghị định, các Thông tư và đặc biệt là các văn bản của địa

phương – tỉnh Lai Châu quy định trực tiếp về vấn đề bồi thường khi Nhà nước

4

thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh, phát

triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng và việc vận dụng các quy

định này trong thực tiễn tại địa phương.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Với đề tài “Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

theo pháp luật đất đai từ thực tiễn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu”, trong

phạm vi quy định của một luận văn thạc sĩ luật học, tác giả chỉ tập trung

nghiên cứu các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng

dẫn thi hành. Đồng thời, Luận văn cũng nghiên cứu tìm hiểu các quy định

pháp luật của UBND tỉnh cũng các văn bản có liên quan đến việc bồi thường,

hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, đánh giá: Phân tích, tổng

hợp số liệu, dữ liệu thu thập được từ thực tiễn thi hành trên phạm vi thành phố

Lai Châu... để phân tích, đánh giá thực trạng công tác bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

- Phương pháp so sánh: sử dụng phương pháp này để đối chiếu, tìm ra

những điểm chưa thống nhất, chưa phù hợp trong pháp luật về bồi thường, hỗ

trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; những điểm bất cập còn tồn tại giữa

thực tiễn khi thi hành với các quy định của pháp luật.

- Phương pháp phân tính, diễn dịch, tổng hợp, quy nạp: sử dụng khi

nghiên cứu một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn thành phố Lai Châu.

6. Những kết quả nghiên cứu đạt được

Qua đề tài nghiên cứu, những khía cạnh chủ yếu của luận văn có ý

nghĩa lý luận và thực tiễn như sau:

Thứ nhất, luận giải những cơ sở lý luận tiền đề về bồi thường, hỗ trợ và

5

pháp luật điều chỉnh bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

nhằm đảm bảo nghiên cứu, đánh giá hệ thống pháp luật thực định về vấn đề

này một cách có cơ sở.

Thứ hai, đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường,

hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực trạng áp dụng mảng

pháp luật này trên địa thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu; đồng thời, Luận

văn cũng chỉ ra được những đặc điểm riêng có của thành phố Lai Châu khác

so với các địa phương khác, nhằm tìm ra được những đòi hỏi cần có trong vấn

đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Từ đó, chỉ ra những bất

cập, tồn tại và chỉ ra được nguyên nhân của những tồn tại đó trong các quy định

của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

Thứ ba, đề xuất những định hướng và các giải pháp cụ thể góp phần tiếp

tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp nói chung và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ

khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa thành phố Lai Châu nói riêng.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, thì

luận văn có bố cục gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp và pháp luật về bồi thường đất, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp.

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai Châu,

tỉnh Lai Châu.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực

thi pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại

thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu.

6

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ

NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI

THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP

1.1. Lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đất nông nghiệp

* Khái niệm đất nông nghiệp:

Theo FAO (tổ chức Nông lương của Liên Hiệp Quốc) thì phân chia đất

nông nghiệp thành các phần sau đây: Đất canh tác như đất trồng cây hàng

năm, chẳng hạn như ngũ cốc, bông, khoai tây, rau, dưa hấu, loại hình này

cũng bao gồm cả đất sử dụng được trong nông nghiệp nhưng tạm thời bỏ

hoang (đất hoang hóa, đất thoái hóa); đất vườn cây ăn trái và những vườn nho

hay cánh đồng nho (thông dụng ở châu Âu); Đất trồng cây lâu năm; Cánh

đồng, thửa ruộng và đồng cỏ tự nhiên cho chăn thả gia súc. Đất nông nghiệp

cấu thành chỉ là một phần của lãnh thổ của bất kỳ quốc gia, trong đó ngoài

cũng bao gồm các khu vực không thích hợp cho nông nghiệp, chẳng hạn như

rừng, núi, và các vùng nước nội địa. Đất nông nghiệp bao gồm 38% diện tích

đất của thế giới, với diện tích đất trồng đại diện cho ít hơn một phần ba đất

nông nghiệp (11% diện tích đất của thế giới).[1]

Khi nói đất nông nghiệp người ta nghĩ đến đất được sử dụng chủ yếu

vào sản xuất của ngành nông nghiệp, bởi vì trên thực tế có trường hợp đất đai

được sử dụng vào những mục đích khác nhau của các ngành. Trong trường

hợp đó, đất đai được sử dụng chủ yếu cho mục đích hoạt động sản xuất nông

nghiệp mới được coi là đất nông nghiệp nếu không là các loại đất khác (tuỳ

theo việc sử dụng vào mục đích nào là chính). Tuy nhiên, để sử dụng đầy đủ

hợp lý ruộng đất, trên thực tế người ta coi đất đai có thể tham gia vào hoạt

7

động sản xuất nông nghiệp mà không cần có sự đầu tư nào lớn cả là đất nông

nghiệp cho dù đất đó đã đưa vào sản xuất nông nghiệp hay chưa.

Theo Luật Đất đai năm 2003 tiêu chí sử dụng để phân loại đất, đất đai

được chia thành các nhóm: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và nhóm đất

chưa sử dụng. Căn cứ vào mục đích sử dụng đất, thì Luật Đất đai năm 2003

đưa ra khái niệm đất nông nghiệp rộng hơn là “nhóm đất nông nghiệp”

Luật Đất đai năm 2013 vẫn tiếp tục giải thích đất nông nghiệp dưới

dạng nhóm đất nhưng cụ thể hơn bao gồm: đất trồng cây hàng năm, đất trồng

cây lâu năm, đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng, đất

nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác theo quy định của

Chính phủ.

Hiểu rõ về khái niệm đất nông nghiệp là yêu cầu thực tế trong đời sống

sản xuất của người dân cũng như trong quản lý hoạch định chính sách của

Nhà nước. Nhất là trong việc quản lý đất đai, để có những quyết định đúng

đắn và hợp lý trong quản lý, đầu tư, giải quyết chế độ, chính sách phù hợp cho

người dân thì việc xác định đất nông nghiệp là rất quan trọng. Vì vậy, để tìm

hiểu đầy đủ pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp thì ta cần xác định rõ khái niêm đất nông nghiệp.

* Đặc điểm cơ bản của đất nông nghiệp:

Ở mỗi quốc gia, đất đai đều được sử dụng vào nhiều mục đích khác

nhau, riêng đất nông nghiệp có những đặc điểm cơ bản giống nhau, được biểu

hiện cụ thể:

Một là, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu.

Tài nguyên đất đai của quốc gia là đặc biệt quan trọng, là nguồn vốn to

lớn của đất nước. Đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp thì đất đai là tư liệu

sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Vì đất nông nghiệp vừa là tư liệu

lao động vừa là đối tượng lao động.

8

Hai là, đất nông nghiệp thường tập trung diện tích lớn ở các vùng nông

thôn ở các tỉnh đồng bằng (đối với đất nông nghiệp lúa nước, đất trồng cây

hàng năm và lâu năm, đất có mặt nước nuôi trồng thủy sản); ở trung du và

miền núi lại chủ yếu tập trung đất trồng cây lâu năm và đất trồng rừng, đất

nương rẫy, đất thăm dò và khai thác khoáng sản. Điều này khác hoàn toàn với

đất nông nghiệp ở đô thị, thường xen kẽ ở với các loại đất phi nông nghiệp là

đất ở, đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp, đất xây dựng trụ sở cơ quan,

đơn vị hành chính sự nghiệp. Đất nông nghiệp ở đô thị thường tập trung ở

một số loại đất như đất rau màu, đất trồng hoa, cây cảnh, đất khuôn viên cây

xanh để phục vụ chức năng của các đô thị như nhu cầu du lịch và hệ thống

cây xanh phòng hộ môi trường.

Ba là, cùng một chủ thể có thể sử dụng kết hợp nhiều loại đất nông

nghiệp khác nhau trong tổng thể các loại đất trong nhóm đất nông nghiệp.

Ví dụ như đất trồng cây lâu năm có kết hợp với nuôi trồng thủy sản;

hay việc chuyển đổi từ đất chuyên lúa sang nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với

trồng cây ăn quả. Do đặc điểm này mà xu hướng được Nhà nước khuyến

khích để các hộ gia đình, cá nhân tăng gia sản xuất, làm giàu trên đất nông

nghiệp đó là phát triển sản xuất theo mô hình của kinh tế trang trại để tập

trung đất đai, tập trung sức lao động, tập trụng nguồn vốn để phát triển sản

xuất, thâm canh tăng vụ, nâng cao năng suất sản xuất và xóa bỏ phương thức

sản xuất nhỏ lẻ, tiểu nông, gắn chặt với kiểu sản xuất tự cung, tự cấp.

Bốn là, đất nông nghiệp trong thời điểm hiện tại về cơ bản vẫn gắn với

sản xuất của kinh tế hộ mà chưa thực sự thúc đẩy và thu hút được nhiều đối

với các doanh nghiệp tập trung sản xuất vào lĩnh vực nông nghiệp.

Đất nông nghiệp được sử dụng trong kinh tế hộ nhỏ lẻ vẫn chiếm tỷ

trọng cao và bộc lộ những hạn chế, yếu kém như năng suất, chất lượng một số

nông sản thấp, chi phí cao, khả năng cạnh tranh thấp. Để tạo những bước tiến

9

mới cho nông nghiệp, thì Nhà nước có sự khuyến khích nông dân tập trung

đất nông nghiệp phá thế manh mún, phục vụ sản xuất nông nghiệp quy mô

lớn cùng với đó có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp

đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.

Năm là, đất nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm sút mạnh do tốc

độ đô thị hóa nhanh chóng khiến tất yếu phải chuyển dịch một lượng lớn đất

nông nghiệp sang thực hiện sự nghiệp này.

Nền nông nghiệp ở nước ta còn nghèo nàn và lạc hậu. Để khắc phục

nguy cơ tụt hậu thì phải thực hiện CNH - HĐH, xây dựng hệ thống hạ tầng xã

hội và hạ tầng kỹ thuật, muốn vậy điều tất yếu là phải thu hồi đất nông

nghiệp. Bởi vậy đã khiến cho đất nông nghiệp bị thu hẹp, gây ảnh hưởng vừa

tích cực vừa tiêu cực đến việc làm và sinh kế của người nông dân. Đó cũng là

lý do của nhiều nghiên cứu chuyên sâu về thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ

cho người mất đất nông nghiệp để họ ổn định lại cuộc sống.

Sáu là, đất nông nghiệp có chất lượng không đồng đều.

Đất nông nghiệp không đồng nhất về chất lượng do sự khác nhau giữa

các yếu tố dinh dưỡng vốn có của nó. Đó là kết quả một mặt là của quá trình

hình thành đất, mặt khác quan trọng hơn là quá trình canh tác của con người.

Độ màu mỡ của đất nông nghiệp nói lên khả năng cung cấp dinh dưỡng cho

cây trồng. Con người không những chỉ sử dụng độ màu mỡ tự nhiên của đất,

mà còn có khả năng làm tăng thêm độ màu mỡ của đất. Ngược lại, nếu sử

dụng không hợp lý thì làm giảm độ màu mỡ của tự nhiên. Thực tế này đã diễn

ra ở một số vùng miền núi và trung du nước ta. Ở những vùng này, trước đây

con người chỉ lợi dụng độ màu mỡ tự nhiên vốn có của đất đai để canh tác,

không chú ý bồi dưỡng, cải tạo nên đất bị bạc màu, một số diện tích trước đây

có độ màu mỡ cao nay đã kiệt quệ. Vì vậy trong quá trình sở dụng, khai thác

đất nông nghiệp cần thiết phải thường xuyên cải tạo và bồi dưỡng cho đất.

10

1.1.2. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

Với mục đích phục vụ quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế, xã hội vì

lợi quốc gia, công cộng thì Nhà nước phải thu hồi đất nông nghiệp. Và việc

thu hồi đất này là vì mục đích chung của cả đất nước mà không do lỗi của

người sử dụng đất; đồng thời, người sử dụng đất phải chịu những thiệt thòi,

ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp khi bị thu hồi đất. Do vậy, Nhà

nước phải thực hiện trách nhiệm bồi thường theo các quy định của pháp luật

đất đai.

“Bồi thường về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất

đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”[16, Khoản 12 Điều 3].

Khái niệm nêu trên chỉ xác định bồi thường về đất, trong khi việc thu hồi đất

còn gây những thiệt hại liên quan đến các tài sản khác gắn liền trên đất như

nhà cửa, công trình sinh hoạt, cây cối, hoa màu…

Căn cứ để xác định việc bồi thường: xác định những thiệt hại chủ yếu

từ việc thu hồi đất có thể thấy được như thiệt hại về đất, thiệt hại về cây trồng

và hoa màu trên đất... Song trên thực tế, chưa tính toán được các thiệt hại

khác do phải thu hoạch sớm, bán với giá rẻ hơn các loại vật nuôi trên mặt đất,

dưới nước mà chưa đến kỳ được thu hoạch.

Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về bồi thường như

sau: “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả cho người có

đất bị thu hồi và các chủ thể bị thiệt hại trong quá trình thu hồi đất những

thiệt hại về quyền sử dụng đất hoặc quyền sở hữu, sử dụng đối với công trình,

vật kiến trúc, cây trồng, vật nuôi và những thiệt hại khác do việc thu hồi đất

gây ra”[10]

* Đặc điểm của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

Thứ nhất, phản ánh chế độ sở hữu đất đai của quốc gia và bản chất, vai

trò của Nhà nước

11

Từ việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp có thể đánh

giá được nhà nước có làm tròn vai trò là “đại diện chủ sở hữu” về đất đai, có

thực sự vì lợi ích của nhân dân lao động hay không?

Thứ hai, bồi thường là trách nhiệm của Nhà nước

Đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý. Nhà

nước thể hiện vai trò quản lý ở nhiều khía cạnh trong đó có trách nhiệm bồi

thường khi thu hồi đất nông nghiệp.

Thứ ba, bồi thường xuất phát từ việc Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

để sử dụng vào mục đích quốc phòng - an ninh, lợi ích quốc gia, công cộng và

mục đích phát triển kinh tế - xã hội

Ngoài mục đích trên, người có đất nông nghiệp được sử dụng ổn định

và lâu dài. Trừ trường hợp chuyển giao quyền sử dụng đất nông nghiệp

(không qua thu hồi đất nông nghiệp) thì thực hiện qua các giao dịch mua bán,

tặng cho và chuyển nhượng thông thường.

Thứ tư, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp không chỉ

liên quan đến lợi ích của Nhà nước mà còn liên quan trực tiếp đến lợi ích của

người sử dụng đất nông nghiệp bị thu hồi và những đối tượng hưởng lợi khác.

Bồi thường luôn là vấn đề quan trọng trong quá trình thực hiện của mỗi

dự án.Vì nếu việc bồi thường diễn ra nhanh chóng, đúng pháp luật, đúng tiến

độ thì dự án sẽ được triển khai kịp thời, hiệu quả và ngược lại.

1.1.3. Khái niệm về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là việc Nhà nước trợ giúp

một phần nào đó cho người có đất bị thu hồi để ổn định đời sống, phát triển

sản xuất. Hỗ trợ là việc Nhà nước trợ giúp thêm để giải quyết những vấn đề

còn tồn tại sau khi đã thực hiện bồi thường về mặt tài sản. Vì khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp, ngoài việc mất đất, thiệt hại đối với người dân còn

hiện hữu là về giá trị quyền sử dụng đất, vật nuôi, cây trồng và các thiệt hại

12

vô hình khác như thiệt hại về mặt tinh thần, mất ổn định cuộc sống, phải học

nghề mới, mất đi tư liệu sản xuất gắn bó từ bao đời,…

Như vậy, có thể hiểu hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là

việc giúp đỡ người dân thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới,…

giúp đỡ một phần nào rủi ro mà họ phải gánh chịu; đồng thời giúp cho người

bị thu hồi đất nhanh chóng ổn định đời sống, sản xuất và kinh doanh.

* Đặc điểm của hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

Thứ nhất, bản chất của hỗ trợ là việc Nhà nước giải quyết các hệ quả

còn tồn tại xảy ra sau bồi thường trong quá trình thu hồi đất nông nghiệp

Hỗ trợ nhằm lấp đầy những khoảng trống chưa giải quyết được còn tồn tại

sau khi đã thực hiện bồi thường. Do, khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì

người dân bị thu hồi đất mất kế sinh nhai, đảo lộn cuộc sống bình yên, thất nghiệp.

Thứ hai, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mang tính chất

xã hội, nhân văn. Những chính sách mà Nhà nước đã xây dựng để thực hiện

công tác hỗ trợ hiện nay như: hỗ trợ khi di chuyển hay đào tạo, để ổn định

cuộc sống, để chuyển đổi nghề nghiệp,...

Thứ ba, với bản chất là nhà nước của dân, do dân và vì dân thì hỗ trợ là

chủ trương đúng đắn và phù hợp. Đây là một chính sách làm cho việc thực thi

bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được hoàn chỉnh và có hiệu

quả hơn.

1.1.4. Phân biệt bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

Từ đặc điểm của bồi thường và hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp nêu trên và qua nghiên cứu tìm hiểu, có thể thấy sự khác biệt như sau:

Một là, đối tượng của bồi thường là các thiệt hại thấy được từ việc thu

hồi đất của Nhà nước gây ra đối với những người bị thu hồi đất nông nghiệp.

Còn đối tượng của hỗ trợ là giải quyết các hệ quả mang tính xã hội, phát sinh

trực tiếp khi thực hiện thu hồi đất nông nghiệp.

13

Hai là, bồi thường là trách nhiệm của Nhà nước đối với những thiệt hại

từ việc thu hồi đất của mình gây nên. Nhưng hỗ trợ lại thể hiện trách nhiệm xã

hội, tính nhân văn của nhà nước mong muốn giúp người dân có đất nông

nghiệp bị thu hồi nhanh chóng ổn định cuộc sống.

Ba là, việc thực hiện bồi thường là xem xét toàn bộ thiệt hại từ vấn đề

thu hồi đất nông nghiệp của Nhà nước gây ra. Đối với việc thực hiện hỗ trợ

thì xem xét hoàn cảnh, mức độ khó khăn, sự thiếu thốn trong thực tế của

người dân từ đó đưa ra điều kiện hỗ trợ một phần hoặc toàn bộ.

1.1.5. Tính tất yếu khách quan của thu hồi đất nông nghiệp và những tác

động và ảnh hưởng của việc thu hồi đất nông nghiệp đối với đời sống của

người nông dân

1.1.5.1. Tính tất yếu khách quan của thu hồi đất nông nghiệp

Nhà nước đại diện chủ sở hữu, thống nhất quản lý đất đai nói chung và

đất nông nghiệp nói riêng bằng cách giao đất cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia

đình sử dụng ổn định lâu dài. Nhằm mục đích chung như quốc phòng, an

ninh; lợi ích quốc gia, công cộng, thì Nhà nước phải thu hồi đất của người sử

dụng đất. Do đó, thu hồi đất nói chung và thu hồi đất nông nghiệp nói riêng là

việc mang tính tất yếu, xuất phát từ những lý do:

Thứ nhất, với mục tiêu phấn đấu nước ta trở thành một nước công

nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần đẩy

mạnh CNH - HĐH đất nước, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng

bộ, hiện đại, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đi đôi với cải cách thể

chế chính trị v.v. Do vậy, việc chuyển một phần đất nông nghiệp sang sử

dụng vào mục đích khác là điều không tránh khỏi. Nhà nước cần thiết phải

thực hiện việc thu hồi đất nông nghiệp của người sử dụng đất để đưa một

phần đất nông nghiệp thích hợp sang sử dụng cho các yêu cầu CNH - HĐH

đất nước.

14

Thứ hai, yêu cầu đặt ra với Nhà nước là phải xây dựng hệ thống hạ tầng

kỹ thuật và hệ thống hạ tầng xã hội nhằm cải thiện, giúp nâng cao đời sống

của người dân; cùng với đó là sự tăng trưởng kinh tế, quá trình đô thị hóa

được thúc đẩy ngày càng cao. Điều này dẫn đến việc Nhà nước phải thu hồi

đất đang sử dụng (trong đó có khá nhiều diện tích đất nông nghiệp) để chuyển

sang mục đích khác. Tuy nhiên, vấn đề cần phải giải quyết đó là việc thu hồi

đất nông nghiệp phải được lập kế hoạch cụ thể chi tiết nhằm đảm bảo hài hòa

giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ với bảo đảm an ninh lương thực quốc

gia; giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định xã hội. Chính vì vậy, không thể phát

triển công nghiệp bằng mọi giá mà phải cẩn trọng, biết trân trọng đối với đất

nông nghiệp.

Thứ ba, do nhu cầu chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp vì vậy

việc thu hồi đất nông nghiệp còn nhằm mục đích sử dụng đất một cách hệ

thống và hiệu quả hơn. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp người dân sử dụng

để đất nông nghiệp bị hoang hóa, không khai thác hết được giá trị sử dụng của

đất nông nghiệp, cho thuê nhưng sử dụng không đúng mục đích hoặc do đất

nông nghiệp đó không còn đáp ứng được yêu cầu cho mục đích trồng trọt, ví

dụ đất có độ dốc cao, xói mòn, bạc màu, cằn cỗi,… Do đó, việc quy hoạch,

chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp cần phải được đặt ra để đảm

bảo cho việc sử dụng đất hiệu quả, cũng như quyền lợi của người sử dụng đất.

Việc thu hồi đất nông nghiệp cũng sẽ nhận được sự đồng tình, nhất trí

của người có đất nông nghiệp bị thu hồi nếu đúng thực sự đất đó được sử

dụng cho mục đích đô thị hóa đất nước và cùng với đó Nhà nước thực hiện

các chính sách bồi thường, hỗ trợ cách thỏa đáng, hơn thế nữa là bố trí việc

làm cho người dân gắn với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lí.

1.1.5.2. Ảnh hưởng của việc thu hồi đất đối với đời sống của người nông dân

Về mặt pháp lý thu hồi đất nông nghiệp cũng giống như việc thu hồi

15

các loại đất khác vì việc này sẽ làm chấm dứt quyền sử dụng đất của cá nhân,

hộ gia đình, tổ chức. Như đã phân tích về đặc điểm của đất nông nghiệp là tư

liệu sản xuất đặc biệt và chủ yếu, thì hệ quả của việc thu hồi đất nông nghiệp

là rất lớn và nhất là những ảnh hưởng tới đời sống của người nông dân.

Thứ nhất, ảnh hưởng tới thu nhập, việc làm của người nông dân

Người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi sẽ chịu thiệt hại về việc mất đi

quyền sử dụng đất cũng như các kết quả đầu tư trên đất từ trước đó do không

được hưởng lợi tức phát sinh từ đất, từ khai thác hoa màu,... So với các loại

đất khác, thiệt hại khi thu hồi đất nông nghiệp về công trình hạ tầng, công

trình kiến trúc không lớn như đất ở, các loại đất phi nông nghiệp khác; tuy

nhiên, đất nông nghiệp với vai trò là tư liệu sản xuất chính trong nông nghiệp,

những thiệt hai về cây cối, hoa màu, nông sản, lợi tức trong tương lai rất lớn.

Hơn nữa, để sử dụng hiệu quả đất nông nghiệp, người sử dụng phải đầu

tư thêm vào đất, làm tăng thêm màu mỡ cũng như giá trị dinh dưỡng của đất

nông nghiệp để giúp phù hợp với các từng loại hình sản xuất nông nghiệp

khác nhau. Có thể nói, các chi phí đầu tư vào đất và người sử dụng đất nông

nghiệp bỏ ra như phí san lấp mặt bằng, phí tôn tạo đất được giao,… là không

hề nhỏ. Khi thu hồi đất nông nghiệp cần phải có sự xem xét chính xác các

khoản chi phí đầu tư này dựa trên việc xác minh các hồ sơ, chứng cớ chứng

minh việc đầu tư là có thật hay không để thực hiện bồi thường đúng quy định.

So với việc thu hồi các loại đất khác, thu hồi đất nông nghiệp không chỉ

gây thiệt hại trước mắt mà còn có ảnh hưởng lâu dài do khó có sự thay đổi,

chuyển đổi việc làm cho người nông dân và nếu không có nguồn thay thế thì

thu nhập bị giảm rất lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng, hộ sẽ bị nghèo đói.

Thứ hai, ảnh hưởng tới cảm xúc, tình cảm của người dân khi phân chia

lợi ích không công bằng

Việc thu hồi đất nông nghiệp có ảnh hưởng lớn đến đời sống, tâm lý

16

của người nông dân, đa số người dân đều mong muốn được hỗ trợ để sớm ổn

định sản xuất và đời sống. Việc hỗ trợ lại chủ yếu được thực hiện dưới hình

thức hỗ trợ bằng tiền.

Thứ ba, ảnh hưởng tới sinh hoạt, cuộc sống hàng ngày của người nông

dân, tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với thế hệ tương lai

Với tâm lý, thói quen tiêu sài của người dân khi bỗng chốc nhận được

một khoản tiền tương đối lớn, một bộ phận không nhỏ sử dụng cho các nhu

cầu sinh hoạt, tiêu dùng, không có cách sử dụng hợp lý cho việc học nghề,

chuyển đổi việc làm. Khi số tiền đền bù đã hết, họ sẽ không còn nguồn thu

nhập nào mang tính ổn định. Do đó, chưa thực sự đảm bảo được về vấn đề

phát triển ổn định, bền vững đối với đời sống vật chất và tinh thần của hộ bị

thu hồi đất.

Đáng lo ngại là số người trẻ tuổi thất nghiệp chiếm tỷ lệ không nhỏ, mà

đa phần việc thu hồi đất nông nghiệp lại chỉ tác động mạnh tới việc làm của

những người trên 35 tuổi, có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp không cao do

hạn chế về mặt trình độ, khó tiếp thu kiến thức mới.

Mặt khác, với khoản bồi thường, hỗ trợ đối với hộ gia đình làm nông

nghiệp đã thay đổi điều kiện sống tốt hơn cho con em họ trong một khoảng

thời gian nhất định. Nhưng gia đình có điều kiện thì chí tiến thủ của những

đứa trẻ bị giảm sút đi rất nhiều và lối sống chơi bời, bỏ học khi chưa hết phổ

thông. Như vậy, có thể trong tương lai gần sẽ hình thành một lớp người có

trình độ văn hóa hạn chế, không thích lao động do tư tưởng thích hưởng thụ.

Qua phân tích trên cho thấy, nguy cơ cao tiềm ẩn đó là tái nghèo, ảnh

hưởng tới lực lượng lao động kế cận của các hộ gia đình bị thu hồi đất.

1.1.6. Ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp

Như trên đã phân tích, hệ quả tất yếu của các quyết định thu hồi đất đều

17

tác động sâu rộng tới mọi mặt đối với người có đất bị thu hồi, quyền và lợi ích

hợp pháp của người sử dụng đất trực tiếp bị xâm hại. Với quan niệm “an cư

lạc nghiệp” của người Việt Nam thì việc bị mất đất đai đối với người có đất

nông nghiệp bị thu hồi thực sự là một “cú sốc” rất lớn. Vì vậy, thực hiện tốt

việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và đất nông

nghiệp nói riêng là rất quan trọng vì sẽ giúp cho người dân mau ổn định cuộc

sống để tập trung sản xuất, cải thiện và nâng cao mức sống. Hơn nữa, việc

thực hiện bồi thường, hỗ trợ còn làm củng cố thêm niềm tin của người dân

vào chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

được thực hiện hiệu quả sẽ tạo điều kiện để việc giải phóng mặt bằng đúng

tiến độ cho doanh nghiệp sớm triển khai các dự án đầu tư, từ đó giúp thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, đó cũng là điều kiện để thực hiện tiến bộ và

công bằng xã hội, đẩy mạnh công cuộc “xóa đói, giảm nghèo” do duy trì được

tốc độ tăng trưởng cao và bền vững.

1.2. Lý luận pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp

1.2.1. Khái niệm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp

Pháp luật là hệ thống các nguyên tắc, các quy phạm điều chỉnh các

quan hệ pháp luật. Theo đó, mọi các quan hệ nảy sinh trong đời sống xã hội ở

các mức độ khác nhau đều được điều chỉnh bằng pháp luật, đặc biệt là nước ta

với định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Pháp luật

không phải là công cụ duy nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội song với tính

quyền lực, quyền uy, hiệu lực bắt buộc và khả năng thi hành bằng sức mạnh

của Nhà nước và cơ chế thực thi cụ thể và hiệu quả nên pháp luật trở thành

công cụ hữu hiệu nhất điều chỉnh các quan hệ xã hội.

18

Trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường là vấn đề phức tạp, nhiều khiếu

nại, khiếu kiện phát sinh từ lĩnh vực này bởi chúng trực tiếp tác động tới

nguồn sống, việc làm, sinh kế và sự ổn định mọi mặt của đời sống gia đình.

Bởi vậy, phát luật điều chỉnh vấn đề bồi thường là vô cùng cần thiết nhằm tạo

ra hành lang pháp lý hướng mọi chủ thể thực thi một cách có trật tự trên cơ sở

hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư.

Đặc điểm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp:

- Do chế độ sở hữu toàn dân về đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở

hữu và Nhà nước có quyền phân bổ, điều chỉnh đất đai cho các mục tiêu kinh

tế, xã hội, tránh sự lạm quyền, tùy tiện trong thu hồi và bồi thường đất bị thu

hồi. Vì thế, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp có

chịu sự tác động và chi phối.

- Cơ sở để bồi thường trong pháp luật hiện hành về thu hồi đất nông

nghiệp của hộ gia đình, cá nhân dựa trên những thiệt hại về vật chất mà người

nông dân phải gánh chịu khi Nhà nước thu hồi đất.

- Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

được hoàn thiện theo hướng đảm bảo tốt nhất lợi ích ba bên(Nhà nước, doanh

nghiệp và người bị thu hồi đất nông nghiệp). Đặc biệt quan tâm đến người

dân có đất nông nghiệp bị thu hồi. Ở mỗi địa phương khác nhau, khi thực

thiện bồi thường đối với hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp, bên

cạnh việc tuân thủ pháp luật chung cần thiết phải chú trọng đến đặc điểm và

yếu tố vùng miền, địa phương để có những định hướng và giải pháp cho phù

hợp, linh hoạt và hiệu quả.

1.2.2. Pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

“Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trợ giúp cho người

có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển”[16, Khoản 14,

Điều 3]

19

Có thể hiểu, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là việc giúp

đỡ người dân bi ̣thu hồi đất nông nghiệp ổn định đời sống, sản xuất và phát

triển thông qua một số hoạt động như giúp người dân học và tiếp cận với nghề

mới, bố trí, tìm kiếm việc làm phù hợp cho từng đối tượng khác nhau....

Đặc điểm pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp:

- Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là tổng hợp

các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình Nhà

nước tiến hành hỗ trợ cho người dân khi thu hồi đất nông nghiệp.

- Pháp luật về hỗ trợ hiện hành căn cứ từ những thiệt hại phi vật chất từ

việc thu hồi đất trong tương lai mà các hộ gia đình, cá nhân phải đối mặt và

cũng xuất phát từ những yêu cầu cần phải ổn định đời sống, kinh tế của người

bị thu hồi đất nông nghiệp.

Theo lý luận pháp luật nói chung, thì pháp luật về bồi thường, hỗ trợ

khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là tổng hợp các quy phạm pháp luật do

Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình

bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá

nhân. Đây là một nội dụng quan trọng trong pháp luật đất đai, và có ý nghĩa

quan trọng trong thực tế về thu hồi đất ở nước ta hiện nay.

Trên đây là những vấn đề mang tính lý luận của pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để có thể đi sâu, đanh giá

những quy định trên.

1.2.2. Cơ cấu pháp luật điều chỉnh về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp

Thứ nhất, nhóm quy phạm quy định về nguyên tắc và điều kiện bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân

Nguyên tắc là phương hướng chủ đạo, là những định hướng để các chủ

thể tham gia bất kỳ một quan hệ nào đó phải tuân theo. Nguyên tắc bồi

20

thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là phương hướng chủ đạo để các

cơ quan có thẩm quyền thực hiện công tác thu hồi đất, bồi thường và giải

phóng mặt bằng, cũng như các chủ thể có đất bị thu hồi, cùng các chủ thể đầu

tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất phải thực hiện, tuân thủ; tôn trọng

các nguyên tắc đã đặt ra và không được làm trái, làm khác. Thu hồi đất là

lĩnh vực nhạy cảm, có tác động tới đời sống của người dân, nếu không nhận

được sự đồng thuận của người dân thì sẽ dẫn tới sự bất ổn định về chính trị,

xã hội; vì vậy, nguyên tắc được đặt ra buộc quá trình tổ chức thực thi trong

công tác thu hồi đất nói chung và bồi thừơng, hỗ trợ khi thu hồi đất nông

nghiệp nói riêng trước hết đòi hỏi từ phía Nhà nước phải quan tâm, chú trọng

tới quyền và lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi, giúp họ phải tạo lập

ổn định được cuộc sống, việc làm và tâm lý yên tâm sau thu hồi đất. Mặt

khác, việc tổ chức bồi thường, tái định cư phải được tiến hành nhanh chóng,

kịp thời, dân chủ, công khai để đảm bảo tính khách quan, để dân tham gia

kiểm tra công việc của Nhà nước.

Chủ thể sử dụng đất có nguồn gốc vô cùng phong phú và đa dạng; về

nguyên tắc, khi Nhà nước thu hồi đất của những người đang sử dụng đất cho

các mục đích của Nhà nước mà gây thiệt hại về vật chất cho người sử dụng

đất thì trách nhiệm của Nhà nước phải bồi thường, hỗ trợ. Tuy nhiên, cơ sở để

hình thành quyền sử dụng đất đối với người có đất bị thu hồi là hết sức đa

dạng, phong phú. Có chủ thể được Nhà nước giao, cho thuê, có chủ thể được

Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất; có chủ thể sử dụng đất nông nghiệp,

có chủ thể sử dụng đất phi nông nghiệp; có chủ thể sử dụng chỉ thuần túy là

đất, có chủ thể sử dụng bao gồm cả tài sản gắn liền với đất; có chủ thể sử

dụng đất hợp pháp, hợp lệ, có chủ thể sử dụng đất bất hợp pháp. Vì vâỵ, khi

thu hồi đất, không phải ai cũng được bồi thường, hỗ trợ theo kiểu cào bằng

“cứ bị Nhà nước thu hồi là được bồi thường” mà việc xem xét để được bồi

21

thường, hỗ trợ hay không, ở mức nào thì sự cần thiết phải quy định các điều

kiện cụ thể để trên cơ sở đó, cơ quan có thẩm quyền xét và phê duyệt phương

án bồi thường, hỗ trợ phù hợp, công bằng, khách quan và chính xác. Điều

kiện đặt ra khi bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cũng

nhằm xóa bỏ tình trạng gian lận khi thực hiện thu hồi đất, bồi thường và giải

phóng mặt bằng.

Thứ hai, nhóm quy phạm quy định về nội dung bồi thường, hỗ trợ đối

với hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

Nội dung bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề quan

tâm bậc nhất của người có đất bị thu hồi trong toàn bộ chế định có liên quan

tới thu hồi đất và giải phóng mặt bằng, bởi nội dung này thể hiện trực tiếp

nhất, cho người có đất bị thu hồi biết họ sẽ được Nhà nước bù đắp về những

thiệt hại vật chất bằng phương thức nào, mức bù đắp về vật chất và tinh thần

đó có giúp họ tái lập được cuộc sống mới ổn định và hợp lý hay không, có

thực sự hài hòa lợi ích và hướng tới bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của

người bị thu hồi đất không. Theo đó, nội dung bồi thường, hỗ trợ sẽ thể hiện

phương thức bồi thường nào được áp dụng: bằng đất hay bằng tiền, chính

sách hỗ trợ nào được thực thi, có hay không sự “tự nguyện” hỗ trợ của nhà

đầu tư cùng với nhà nước đối với người có đất bị thu hồi. Và quan trọng hơn,

mức bồi thường, hỗ trợ cụ thể là bao nhiêu; Phương thức chi trả bồi thường,

hỗ trợ thực hiện cụ thể ra sao; Có hay không quyền được lựa chọn của người

có đất bị thu hồi đối các phương thức bồi thường, hỗ trợ của Nhà nước đặt

ra... Tất cả các nội dung này đều được thể hiện rõ phương án bồi thường, hỗ

trợ, tái định cư được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

Thứ ba, nhóm quy phạm quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ

trợ đối với hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất nông nghiệp

Đây là nhóm quy phạm hướng tới việc hướng dẫn các cơ quan thực thi

22

pháp luật về bồi thường và giải phóng mặt bằng cũng như các chủ thể có đất

bị thu hồi phải tuân thủ các bước và quy trình mà pháp luật quy định để đảm

bảo các quy định được thực hiện đúng và đầy đủ, hướng tới công tác bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư được thực hiện trong một trật tự ổn định, hợp pháp

nhằm tăng cường tính pháp chế trong lĩnh vực này.

Trong nhóm quy phạm này quy định về: Lập, bổ sung, thẩm định, thực

hiện phương án bồi thường, cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức,

cá nhân trong việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

Thứ tư, nhóm quy phạm quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải

quyết tranh chấp liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp.

Khiếu nại, tố cáo về quyết định hành chính, hành vi hành vi hành chính

của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho

mình khi người khiếu nại cho rằng, quyết định và hành vi đó là trái pháp luật,

xâm phạm tới quyền lợi hợp pháp của họ. Theo quy định trong Hiến pháp

năm 2013 thì đây là quyền cơ bản của công dân.

Thu hồi đất có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của

người có đất bị thu hồi nên quyền khiếu nại, tố cáo để thể hiện sự không đồng

tình, bất bình trước các quyết định của Nhà nước được tận dụng tối đa nhằm

yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi hoặc hủy bỏ các quyết định

trước đó để thay thế bằng một quyết định khác trên cơ sở yêu cầu, đề nghị của

họ. Vì vậy, đây là quyền được đại đa số người có đất bị thu hồi tận dụng tối

đa quyền này để nhằm bảo vệ cho mình khi Nhà nước thu hồi đất. Thực tế cho

thấy, dù khiếu nại, tố cáo của người có đất bị thu hồi đúng hay không, có cơ

sở hay không có cơ sở thì khiếu nại, tố cáo của người bị thu hồi đất đều phải

được xem xét trả lời hoặc giải quyết. Nếu xem nhẹ thì trong nhiều trường hợp vụ

việc sẽ làm sâu hơn về sự mâu thuẫn, bất đồng, theo đó, gây nên sự bất ổn về xã

23

hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

1.2.3. Các yếu tố tác động, chi phối tới pháp luật về bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp

Thứ nhất, quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng và hoàn thiện

chính sách, pháp luật đất đai nói chung và chính sách, pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nói riêng.

Về mặt lý luận, pháp luật là sự thể chế hoá những quan điểm, đường

lối, chủ trương của Đảng; là sự định hướng về mặt chính trị cho hoạt động lập

pháp ở nước ta. Các hoạt động xây dựng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp phải dự trên các quan điểm, đường lối, chủ

trương của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước về chính sách, pháp luật

đất đai.

Như vậy, quan điểm, đường lối của Đảng có tác động trực tiếp đến quá

trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nói riêng.[21]

Thứ hai, nội dung các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp chịu sự tác động của chế độ sở hữu toàn

dân về đất đai thể hiện ở một số khía cạnh:

Một là, Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất có bồi thường, hỗ trợ cho

người bị thu hồi đất trong trường hợp cần thiết khi Nhà nước cần sử dụng đất

vì mục đích quốc phòng, an ninh; lợi ích quốc gia,… Còn như các nước có

chế độ sở hữu tư nhân về đất đai thì Nhà nước phải đi mua đất từ chủ đất.

Hai là, căn cứ vào khung giá đất do Nhà nước xác định tại thời điểm

thu hồi đất để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất

nông nghiệp.

Ba là, những người sử dụng đất nông nghiệp chỉ được bồi thường, hỗ

trợ khi đáp ứng đủ các điều kiện của pháp luật đã quy định.

24

Bốn là, các cơ quan được pháp luật quy định mới có đủ thẩm quyền để

thực hiện việc thu hồi đất nông nghiệp.

Thứ ba, cơ chế quản lý kinh tế: Trong thời kỳ bao cấp, đất đai không

được coi là một loại tài sản do đó, pháp luật nghiêm cấm mua bán, chuyển

nhượng đất đai. Trong thời kỳ này, giá trị của đất đai còn thấp nên vấn đề bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất chưa gặp những khó khăn, phức tạp, người

dân chỉ được hưởng bồi thường theo giá do Nhà nước ấn định và hệ thống

pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất còn đơn giản.

Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước quản lý kinh tế theo cơ chế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất đai là một trong những tài sản mang

lại giá trị kinh tế cao cho người sử dụng; vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp được đại bộ phận nhân dân quan tâm; sự phát triển kinh

tế dẫn đến nhiều dự án cần thu hồi đất nông nghiệp. Do đó, hệ thống pháp luật

về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ngày càng đầy đủ và

toàn diện. Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay đòi hỏi pháp luật phải xác định giá

để bồi thường cho người có đất nông nghiệp bị thu hồi theo giá thị trường.

Thứ tư, quá trình hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế là một quá trình quá trình liên kết, gắn kết vì mục tiêu

phát triển quốc gia nhằm đạt được một mục tiêu hoặc lợi ích chung nào đó. Sự

phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và kinh tế thị trường đòi hỏi các

quốc gia phải mở rộng thị trường, hình thành thị trường khu vực và quốc tế

nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế đang trở thành xu

thế chủ đạo trong sự phát triển, tác động mạnh mẽ đến đời sống của từng quốc

gia và quan hệ quốc tế.

Hiện nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn hàng đầu trong quy định chính

sách của hầu hết các quốc gia. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc

tế mạnh mẽ, quá trình hội nhập này ảnh hưởng không nhỏ đến kinh tế, chính

25

trị, văn hóa, xã hội trong nước. Lĩnh vực pháp luật cũng chịu ảnh hưởng sâu

sắc từ quá trình hội nhập quốc tế, có những quy phạm pháp luật của luật pháp

quốc tế được nội địa hóa hoặc các quy phạm pháp luật của Việt Nam được

sửa đổi, bổ sung để phù hợp với luật pháp quốc tế. Đặc biệt là về lĩnh vực liên

quan đến việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

- Thông qua hội nhập quốc tế, nước ta tiếp cận những kinh nghiệm về

quản lý đất đai và bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp của các nước trên

thế giới trong quá trình xây dựng và ban hành các quy phạm pháp luật về bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của Luật Đất đai năm 2013.

- Hội nhập quốc tế gắn liền với quá trình gia nhập các tổ chức quốc tế,

tức là chấp nhận các luật lệ và chuẩn mực quốc tế chung. Do đó, hệ thống

pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất phải phù hợp với các Điều

ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc tham gia.

- Hội nhập quốc tế còn diễn ra trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo pháp

luật. Thông qua hoạt động này, đội ngũ cán bộ, công chức của Việt Nam được

tiếp thu, học hỏi những kỹ thuật lập pháp hiện đại, quan điểm, tư tưởng tiên

tiến về pháp luật nói chung và pháp luật đất đai nói riêng.

Có thể nói, hội nhập quốc tế đặt ra cho pháp luật về bồi thường khi nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp những mục tiêu mới, những định hướng tiến bộ

và những giới hạn để hạn chế sự lạm quyền của một bộ phận đội ngũ cán bộ,

công chức có thẩm quyền trong khi thực thi nhiệm vụ bồi thường khi thu hồi

đất nông nghiệp.

Thứ năm, quỹ đất phục vụ hoạt động bồi thường

Đất có giới hạn về diện tích, song nhu cầu cho tất cả các ngành, các

lĩnh vực và nhu cầu khác nhau của mỗi chủ thể sử dụng đất đều tăng. Vì vậy,

cứ mỗi chủ thể sử dụng đất mới được phát sinh thì chắc chắn ít nhất một hoặc

một số chủ thể sử dụng đất đang sử dụng sẽ bị chấm dứt (thu hồi). Vì vậy,

26

việc đưa ra phương thức bồi thường đất bằng đất là phương thức khó khả thi

trên thực tế, ngoại trừ thu hồi đất ở mà dẫn đến người có đất bị thu hồi

không còn chỗ ở nào khác thì bắt buộc trách nhiệm của nhà nước phải tạo

dựng chỗ ở mới cho người có đất bị thu hồi để họ không rơi vào cảnh “màn

trời, chiếu đất”. Còn lại, thu hồi các loại đất khác, đặc biệt là thu hồi đất nông

nghiệp thì phương thức bồi thường “đất bằng đất” dường như thiếu tính khả

thi trên thực tế bởi đất nông nghiệp được giao theo hiện trạng thực tế nên ở

địa phương có bao nhiêu quỹ đất nông nghiệp đều đã được giao ổn định cho

các hộ gia đình, cá nhân; nếu còn thì được chuyển sang quỹ đất dự phòng 5%

để xây dựng các công trình phúc lợi chung. Vì vậy, khi thu hồi đất nông

nghiệp, rất khó để Nhà nước có thể bố trí, bù đắp bằng quỹ đất nông nghiệp

khác cho người bị thu hồi đất mà thay thế vào đó là bồi thường bằng tiền và

thực hiện chính sách hỗ trợ thêm để họ ổn định cuộc sống và việc làm khác.

Vì vậy, khi giá đất nông nghiệp được xác định để bồi thường thấp, không đảm

bảo sinh kế lâu dài cho người dân mất tư liệu sản xuất thì họ bất bình và khiếu

nại về cách thức bồi thường, hỗ trợ cũng là điều dễ hiểu. Vì vậy, có thể nói,

quỹ đất phục vụ bồi thường sẽ tác động, ảnh hưởng tới bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất là rất lớn.

27

Kết luận Chương 1

1. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, nên

Nhà nước đại diện cho nhân dân quyết định việc thu hồi đất và thực hiện bồi

thường, hỗ trợ khi có các dự án nhằm mục đích an ninh quốc phòng, phát

triển kinh tế xã hội, mục đích công cộng,... Vì vậy, trong chương 1 luận văn

đã làm rõ các khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa về bồi thường, hỗ trợ, tính tất yếu

khách quan và ảnh hưởng của thu hồi đất nông nghiệp đến đời sống của người

dân bị thu hồi đất; đồng thời nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật như

cơ cấu điều chỉnh và các yếu tố tác động chi phối tới pháp luật về bồi thường,

hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

2. Xây dựng cơ sở pháp luật về đất đai nhằm phục vụ tốt hơn cho công

tác thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ là việc làm rất cần thiết và quan trọng. Vì

khi thu hồi đất nông nghiệp sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các bên liên quan,

đặc biệt là người sử dụng có đất nông nghiệp bị thu hồi. Do đó, Quốc hội đã

ban hành và liên tục sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai nhằm hoàn thiện pháp luật

để phù hợp với thực tiễn, với mục đích giải quyết hài hòa các mâu thuẫn, tạo

sự đồng thuận ba bên (Nhà nước, chủ đầu tư và người dân có đất nông nghiệp

bị thu hồi).

3. Các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng là quá trình hoạt động có mục

đích, giúp cho việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ bảo đảm khách quan, dân

chủ, công khai và kịp thời.

28

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP

LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

NÔNG NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

2.1. Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp

Những quy định về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nói

chung được quy định tại Mục 2, Mục 3 Chương 6 Luật đất đai năm 2013 từ

Điều 74 đến Điều 94. Những quy định này đã được cụ thể hóa trong các văn

bản dưới luật cụ thể là: Nghị định của Chính phủ số 47/2014/NĐ - CP ngày

15/5/2014 về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và Thông tư của Bộ tài nguyên

môi trường số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/06/2014 quy định chi tiết về bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Những văn bản này là cơ

sở pháp lý trong việc bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nói chung và

thu hồi đất nông nghiệp nói riêng.

2.1.1. Nguyên tắc và điều kiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp

Thứ nhất, theo khoản 1 Điều 74 Luật đất đai 2013: “người sử dụng đất

khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được bồi thường theo quy định

tại Điều 75 Luật đất đai 2013 thì được bồi thường”. Với các trường hợp

không được bồi thường về đất thì luật cũng xác định vấn đề bồi thường về chi

phí đầu tư vào đất còn lại. Tuy nhiên, không phải tất cả các chủ thể sử dụng

đất bị thu hồi vì mục đích quốc phòng an ninh; phát triển kinh tế – xã hội, vì

lợi ích quốc gia, công cộng đều được bồi thường mà họ còn phải đáp ứng một

vài điều kiện mà pháp luật quy định để được bồi thường.

Sự bù đắp những thiệt hại trực tiếp mà người sử dụng đất phải gánh

29

chịu do việc thu hồi đất gây ra được thể hiện bằng việc Nhà nước bồi thường,

hỗ trợ. Nếu đất nông nghiệp sạch không có để bồi thường cho người dân tiếp

tục sản xuất, thì Nhà nước còn có những chính sách hỗ trợ giúp họ phần nào

ổn định cuộc sống, bố trí việc làm mới và hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề.

Đây không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà còn là việc làm thể hiện trách nhiệm xã

hội, chính trị của Nhà nước.

Thứ hai, bồi thường bảo đảm đầy đủ các thiệt hại và phải theo giá đất

cụ thể do UBND tỉnh quyết định. “Việc bồi thường được thực hiện bằng việc

giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để

bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu

hồi do ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi

đất”[16, Khoản 2 Điều 74]. Điều này là cơ sở để bảo đảm lợi ích cho người

có đất bị thu hồi, để họ thấy việc bồi thường là thỏa đáng và tự nguyện trả lại

đất được giao. Nguyên tắc này tạo sự linh hoạt khi cho phép cơ quan thẩm

quyền cũng như người bị thu hồi đất nông nghiệp lựa chọn được phương án

bồi thường phù hợp và nhằm bảo đảm sự công bằng giữa tất cả người sử dụng

đất có đất bị thu hồi.

Tuy nhiên, thực tiễn triển khai việc thực thi nguyên tắc này gặp nhiều

khó khăn, vướng mắc như: việc bồi thường bằng đất nông nghiệp trong thực

tế chỉ được triển khai khi quỹ đất nông nghiệp của địa phương còn; giá đất

tính tại thời điểm thu hồi nhưng người bị thu hồi đất không nhận được tiền bồi

thường ngay ở thời điểm đó mà phải sau một thời gian nhất định, có khi từ 2

đến 3 năm kể từ ngày có quyết định thu hồi đất… Như vậy, đây là vấn đề cần

được quy định cụ thể hướng dẫn thi hành để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả khi

thực thi pháp luật.

Thứ ba, việc bồi thường phải bảo đảm dân chủ, công khai, kịp thời,

minh bạch và đúng theo quy định pháp luật. Trên thực tế đây là những yếu tố

30

hết sức cần thiết giúp cho việc thực hiện công tác bồi khi Nhà nước thu hồi

đất đạt hiệu quả cao, đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, người bị thu hồi

đất và chủ đầu tư. Nguyên tắc này được khẳng định ở cả hai Điều luật: “Việc

bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan,

công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật”[16, Khoản 3

Điều 75] và “Việc hỗ trợ phải bảo đảm khách quan, công bằng, kịp thời, công

khai và đúng quy định của pháp luật”[16, Điểm b Khoản 1 Điều 83]. Trong

các văn bản pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất thì

nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ, kịp thời và đúng quy định của

pháp luật đã được thể hiện xuyên suốt. Qua đó, những vấn đề liên quan đến

bồi thường, hỗ trợ được công bố rộng rãi trong nhân dân.

2.1.2. Nội dung về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

Trong công tác bồi thường đối với đất nông nghiệp bị thu hồi, có hai

nhóm tài sản chính yếu là đất nông nghiệp và tài sản gắn liền với đất bao

gồm: cây trồng, vật nuôi trên đất khi nhà nước thu hồi đất. Như vậy, căn cứ

vào thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, những quy định bồi thường về đất; chi

phí đầu tư vào đất còn lại; thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đã được Luật Đất đai năm 2013 tách biệt

thành những điều luật cụ thể:

2.1.2.1. Bồi thường về đất

Trên toàn bộ giá trị bồi thường phần giá trị này chiếm tỷ lệ tương đối

lớn. Vì thế, vấn đề này là phức tạp nhất, thường gặp phải nhiều tranh chấp,

khiếu nại khi Nhà nước thu hồi đất. Pháp luật quy định việc bồi thường về đất

khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp như sau:

Quy định hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp khi Nhà

nước thu hồi đất thì được bồi thường về đất:

(1) Diện tích đất nông nghiệp được bồi thường bao gồm diện tích trong

31

hạn mức theo quy định tại Điều 129, Điều 130 của Luật Đất đai năm 2013 và

diện tích đất do được nhận thừa kế;

(2) Không được bồi thường về đất nhưng được bồi thường chi phí đầu

tư vào đất còn lại đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức quy định tại

Điều 129 của Luật Đất đai 36 năm 2013;

(3) Đối với diện tích đất nông nghiệp do nhận chuyển quyền sử dụng

đất vượt hạn mức trước ngày Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành thì

việc bồi thường, hỗ trợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Nhà nước không bồi thường về đất trong các trường hợp:

(1) Đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, trừ trường hợp

đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản

xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối được giao đất

nông nghiệp trong hạn mức theo quy định của pháp luật;

(2) Đất được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm; đất thuê

trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê nhưng được miễn tiền thuê đất,

trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất thuê do thực hiện chính sách

đối với người có công với cách mạng;

(3) Nhà nước không bồi thường về đất khi đất nông nghiệp đó nằm

trong quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn;

(4) Đất nhận khoán để sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối;

(5) Đất 37 được Nhà nước giao để quản lý;

(6) Trường hợp không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định

của Luật Đất đai năm 2013, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của

Luật Đất đai năm 2013.

Phương thức thực hiện việc bồi thường về đất nông nghiệp bi ̣thu hồi:

bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; nếu không thì sẽ tính theo giá

32

đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm

quyết định thu hồi đất để bồi thường bằng tiền.

* Bồi thường đất bằng đất: Nguyên tắc ưu tiên “Việc bồi thường được

thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi,

nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ

thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm

quyết định thu hồi đất trên cơ sở bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng,

công khai, kịp thời và đúng quy định của pháp luật”[16, Khoản 2 Điều 74]

Trên thực tế đây chỉ là phương thức bồi thường mang tính chủ trương

và hình thức. Có thể nhận thấy rằng chiếm tỷ lê ̣lớn nhất trong các loại đất bị

thu hồi của người dân là đất nông nghiệp. Tuy nhiên, quỹ đất nông nghiệp

trống tại các địa phương rất hạn chế. Do vậy, phương thức này chỉ được áp

dụng đối với những tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng

đất hoặc thu tiền sử dụng đất bằng ngân sách nhà nước mà ít khi được áp

dụng đối với việc thu hồi đất nông nghiệp của cá nhân, hộ gia đình. Trong khi

đó đa số các trường hợp là “bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại

thời điểm có quyết định thu hồi”. Điều đó, đặt ra yêu cầu là nếu xác định ưu

tiên bồi thường bằng việc giao đất mới là phương thức áp dụng thống nhất

cho tất cả các trường hợp được bồi thường thì cần thiết lập quỹ đất sạch để cá

nhân, tổ chức, hộ gia đình có điều kiện thụ hưởng hoặc có sự lựa chọn giữa

việc nhận bồi thường bằng đất hay nhận bồi thường bằng tiền. Ngược lại, nếu

xác định phương thức này chỉ được áp dụng giới hạn đối với chủ thể có đất bị

thu hồi là tổ chức và không có khả năng áp dụng đối với cá nhân, hộ gia đình

thì nên phân loại đối tượng trong bồi thường để đảm bảo tính khả thi trong

việc quy định và thực hiện bồi thường đối với đất đai nói chung và đất nông

nghiệp nói riêng.

* Bồi thường đất bằng tiền: Đây được xem là giải pháp thay thế trong

33

trường hợp không còn quỹ đất nông nghiệp trống để bồi thường. Khi bồi

thường bằng tiền, giá bồi thường đối với đất trong thu hồi đất nhằm thực hiện

quy hoạch là giá đất do UBND cấp tỉnh xây dựng và trình Hội đồng nhân dân

cùng cấp thông qua bảng giá đất trước khi ban hành. Bảng giá đất công khai

vào ngày 01 tháng 01 của năm đầu kì, được xây dựng định kì 5 năm một lần.

Trong thời gian thực hiện bảng giá đất, khi Chính phủ điều chỉnh khung giá

đất hoặc giá đất phổ biến trên thị trường có biến động thì Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh điều chỉnh bảng giá đất cho phù hợp [16, Khoản 1 Điều 114]. Giá

này thường thấp hơn so với giá thực tế, được gọi là “giá nhà nước”. Sự chênh

lệch của hai loại giá này được khắc phục bằng các quy định của Chính phủ, cụ

thể tại khoản 1 Điều 14 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP quy định về điều chỉnh

bảng giá đất như sau: “a, Khi chính phủ điều chỉnh khung giá đất mà mức giá

đất điều chỉnh tăng từ 20% trở lên so với giá đất tối đa hoặc giảm từ 20% trở

lên so với giá đất tối thiểu trong bảng giá đất của loại đất tương tự. b, Khi giá

đất phổ biến trên thị trường tăng từ 20% trở lên so với giá đất tối đa và giảm

từ 20% trở xuống so với giá đất tối thiểu trong bảng giá đất trong khoảng

thời gian 180 ngày”. Điều này cho thấy, cũng đã có những quy định kịp thời

để đảm bảo giá trị bồi thường sát với giá trị thị trường thực tế trong điều kiện

bình thường. Tuy nhiên, hướng dẫn này vẫn còn gặp rất nhiều trở ngại trên

thực tế vì nhiều lý do. Không có căn cứ để xác định giá đất trên thị trường, vì

trong các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng như các giao dịch

khác, người dân thường có xu hướng khai giá đất thấp hơn so với giá thực tế

để chỉ phải đóng thuế thấp. Ngoài ta, công tác bồi thường có thể diễn ra trong

một thời gian dài ở các địa phương, trong nhiều năm liền, vì thế đã có sự thay

đổi khá lớn về giá đất cũng như việc xác định giá đất trên thực tế, gây ra

nhiều bất cập dẫn đến việc bồi thường không thỏa đáng, đây cũng là nguyên

nhân chính gây ra những khiếu nại về đất đai.

34

2.1.2.2. Bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại

Chi phí đầu tư vào đất còn lại là khoản chi phí đã được đầu tư vào đất

phù hợp với mục đích sử dụng đất nhưng chưa thu hồi hết tại thời điểm cơ

quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất.

Điều kiện xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại được quy định tại

Khoản 3, Điều 3, Nghị định 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ;

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là khi có hồ sơ, chứng từ chứng minh đã

đầu tư vào đất. Trường hợp chi phí đầu tư vào đất còn lại không có hồ sơ,

chứng từ chứng minh thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào tình hình thực

tế tại địa phương quy định việc xác định chi phí đầu tư vào đất còn lại.

Chi phí đầu tư vào đất còn lại được bồi thường trong các trường hợp:

Thứ nhất, bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân.

Quy định khi Nhà nước thu hồi đất thì hộ gia đình, cá nhân đang sử

dụng đất nông nghiệp được bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại

như sau: Diện tích đất nông nghiệp được bồi thường bao gồm diện tích trong

hạn mức theo quy định tại Điều 129, Điều 130 của Luật này và diện tích đất do

được nhận thừa kế.

Theo Điều 77 Luật Đất đai năm 2013 thì người sử dụng đất nông

nghiệp là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp trước ngày 01

tháng 7 năm 2004 nhưng không có hoặc không đủ điều kiện để được cấp Giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này thì được bồi

thường với thực tế diện tích đất đang sử dụng; mà diện tích được bồi thường

không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp.

Thứ hai, bồi thường về đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp của tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ

tài chính, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo

35

Tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính đang sử

dụng đất nông nghiệp được Nhà nước cho thuê trả tiền thuê đất hàng năm khi

Nhà nước thu hồi đất thì không được bồi thường về đất nhưng được bồi

thường chi phí đầu tư vào đất còn lại nếu chi phí này không có nguồn gốc từ

ngân sách nhà nước.[16, Khoản 2 Điều 78]

Thứ ba, các trường hợp không được bồi thường về đất nhưng được bồi

thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích

quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng

bao gồm: (1) Đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất, trừ trường

hợp đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân quy định

tại khoản 1 Điều 54 của Luật Đất đai năm 2013; (4) Đất nông nghiệp thuộc

quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn; (5) Đất nhận khoán để sản xuất

nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối.[16, Điều 76]

Ngoài ra, đối với hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp thì được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại trong các trường

hợp: Sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức quy định; người đang sử dụng

đất do nhận giao khoán (không bao gồm đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ,

đất rừng sản xuất là rừng tự nhiên); người sử dụng đất nông nghiệp thuộc quỹ

đất công ích của xã, phường, thị trấn. Đây cũng chính là những trường hợp

tuy không đủ điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp nhưng có sự sử dụng, đầu tư vào đất trong một thời gian dài đồng thời

cũng không có sự vi phạm những quy định của pháp luật về đất đai. Nếu như

bồi thường về đất về căn bản là sự giao dịch bù đắp về giá trị sử dụng của đất

bị thu hồi thì bồi thường về chi phí đầu tư vào đất còn lại là sự bù đắp cho quá

trình đầu tư, cải tạo và thay đổi đất. Vì vậy, điều kiện bồi thường về đất đòi

hỏi quy định chặt chẽ về giấy tờ sở hữu, việc thực hiện nghĩa vụ tài chính đối

với Nhà nước, hạn mức sử dụng đất thì cơ sở để được bồi thường chủ yếu xét

36

trên mức độ đầu tư vào đất. Người sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức,

được miễn tiền sử dụng đất, khi bị thu hồi đất Nhà nước không bồi thường về

đất cho họ là hoàn toàn hợp lý nhằm đảm bảo công bằng giữa những người sử

dụng đất nhưng không thể phủ nhận công sức, chi phí họ đã bỏ ra. Với đất

nông nghiệp, để có được diện tích đất nông nghiệp màu mỡ, dinh dưỡng phù

hợp với sản xuất nông nghiệp không phải là điều đơn giản, những quy định về

điều kiện được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại là sự ghi nhận của

Nhà nước, bù đắp cho những thiệt hại của người dân.

Để được bồi thường về chi phí đầu tư vào đất còn lại, ngoài việc chi phí

đầu tư vào đất không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, thì người sử dụng

đất phải có đầy đủ hồ sơ, chứng từ chứng minh về việc đã đầu tư vào đất, bao

gồm các giấy tờ sau: Văn bản, hợp đồng thuê, khoán san lấp mặt bằng, tôn tạo

đất đối với đất được Nhà nước giao hoặc cho thuê, cải tạo đất, chống xói mòn,

chống xâm thực, xây dựng, gia cố nền đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh;

Văn bản, thanh lý hợp đồng; hóa đơn, chứng từ thanh toán đối với từng khoản

chi phí đã đầu tư vào đất quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 76; Văn bản, hợp

đồng khác có liên quan đến việc đầu tư vào đất được xác lập tại thời điểm đầu tư.

2.1.2.3. Bồi thường thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp

Tại Khoản 1 Điều 88 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Khi Nhà nước

thu hồi đất mà chủ sở hữu tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thiệt hại về tài

sản thì được bồi thường”.Đây được xem là một điểm mới của Luật Đất đai

năm 2013 khi đã bắt đầu xác định và xem xét bồi thường về đất không chỉ với

tư cách là tài sản hợp pháp gắn liền với đất mà còn là tài nguyên và tư liệu sản

xuất. Đất nông nghiệp không chỉ có ý nghĩa là một loại tài sản mà nó còn là

tài nguyên thiên nhiên, là tư liệu sản xuất của người nông dân, khi không còn

đất để canh tác sản xuất, những thiệt hại xảy ra là không tránh khỏi. Ngoài

37

những bồi thường về đất, về chi phí đầu tư vào đất còn lại, khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp, thì người có đất bị thu hồi còn được bồi thường thiệt hại

về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh cụ thể như sau:

* Bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi

Thiệt hại đối với cây trồng khi Nhà nước thu hồi đất thì việc bồi thường

thực hiện theo quy định tại khoản 1, Điều 90 Luật Đất đai 2013 như sau:

- Mức bồi thường được tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch đối

với cây hàng năm và được tính theo năng suất của vụ cao nhất trong 03 năm

trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và giá trung bình tại thời

điểm thu hồi đất;

- Đối với cây lâu năm, mức bồi thường được tính bằng giá trị hiện có

của vườn cây theo giá ở địa phương tại thời điểm thu hồi đất mà không bao

gồm giá trị quyền sử dụng đất;

- Bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại thực tế do phải di chuyển,

phải trồng lại đối với cây trồng chưa thu hoạch nhưng có thể di chuyển đến

địa điểm khác;

- Bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của vườn cây đối với cây rừng

trồng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, cây rừng tự nhiên giao cho tổ

chức, hộ gia đình, cá nhân trồng, quản lý, chăm sóc, bảo vệ; tiền bồi thường

được phân chia cho người quản lý, chăm sóc, bảo vệ theo quy định của pháp

luật về bảo vệ và phát triển rừng.

Còn đối với cây trồng trên đất, thì việc bồi thường được chia theo hai

loại là cây hàng năm và cây lâu năm. Mức bồi thường của mỗi loại cây là

khác nhau. Do giá trị khác nhau: mức bồi thường đối với cây lâu năm được

tính bằng giá trị hiện có của vườn cây (không bao hàm giá trị quyền sử dụng

đất) theo giá ở địa phương tại thời điểm thu hồi đất và mức bồi thường đối với

cây hàng năm được tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch.

38

Khi thu hồi đất, nếu có thiệt hại xảy ra, Nhà nước sẽ không đền bù cho

tất cả các loại vật nuôi như trâu, bò, lợn, gà,... mà chỉ áp dụng đối với vật nuôi

là thủy sản nhưng tại thời điểm thu hồi đất đã đến thời kỳ thu hoạch thì không

phải bồi thường. Khoản 2, Điều 90 Luật Đất đai năm 2013 quy định: Đối với

vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi đất chưa đến kỳ thu hoạch thì

được bồi thường thiệt hại thực tế do phải thu hoạch sớm; nếu di chuyển được

thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại do di chuyển gây ra.

Từ những quy định trên ta thấy, chỉ trong trường hợp, thu hồi đất mà

xảy ra thiệt hại trực tiếp về tài sản cây trồng, vật nuôi hoặc làm phát sinh các

chi phí khác như phí vận chuyển, hao hụt, thiệt hại do phải thu hoạch sớm thì

mới được bồi thường. Quy định này chủ yếu mang tính tương đối, bởi lẽ rất

khó xác định được thế nào là phải thu hoạch sớm, sớm là bao lâu và người có

tài sản đó, vật nuôi là thủy sản phải di chuyển đi đâu, căn cứ định giá chính

xác thiệt hại để bồi thường. Điều này đòi hỏi sự đánh giá chính xác của chính

quyền các địa phương, để bảo đảm bù đắp phần nào những thiệt hại trong

chăn nuôi, trồng trọt cho người dân.

* Bồi thường về tài sản khác trên đất nông nghiệp

Khi Nhà nước tiến hành thu hồi các loại đất mà gây ra thiệt hại do

nguyên nhân khách quan hay chủ quan thì cũng phải có trách nhiệm bồi

thường cho người có quyền sử dụng đất hợp pháp, ngoài bồi thường về đất thì

còn phải bồi thường các tài sản khác trên đất nếu có như: nhà kính, chuồng

trại chăn nuôi,...

Nhà nước khi thu hồi đất sẽ không bồi thường các tài sản gắn liền với

đất trong các trường hợp sau:[16, Điều 92]

Một là, vi phạm pháp luật về đất đai bị thu hồi đất.

- Sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước giao, cho thuê,

công nhận quyền sử dụng đất và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi

39

sử dụng đất 51 không đúng mục đích mà tiếp tục vi phạm (điểm a, khoản 1

Điều 64 Luật Đất đai năm 2013);

- Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất (điểm b, khoản 1 Điều 64 Luật

Đất đai năm 2013);

- Đất không được chuyển nhượng, tặng cho theo quy định của Luật này

mà nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho (điểm đ, khoản 1 Điều 64 Luật Đất

đai năm 2013); Đất được Nhà nước giao để quản lý mà để bị lấn, chiếm (điểm

đ, khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai năm 2013);

- Đất không được chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật

này mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm (điểm e,

khoản 1 Điều 64 Luật Đất đai năm 2013);

- Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế (điểm b, khoản

1 Điều 65 Luật Đất đai năm 2013);

- Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn nhưng không được gia

hạn (điểm d, khoản 1 Điều 65 Luật Đất đai năm 2013).

Hai là, tài sản gắn liền với đất được tạo ra trước khi có quyết định thu

hồi đất nhưng tại thời điểm xây dựng công trình đó trái với mục đích sử dụng

đất đã được xác định trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Việc bồi thường chỉ xảy ra khi người sử dụng đất có quyền sử dụng đất

hợp pháp, có quyền lợi bị ảnh hưởng trực tiếp, rõ ràng nếu không đáp ứng đủ

điều kiện sẽ không được bồi thường. Các quy định nêu trên là sự chặt chẽ,

minh bạch trong quy định của pháp luật, tránh làm tổn thất ngân sách nhà

nước, vừa là bài học cho người dân trong việc chấp hành các quy định của

pháp luật về đất đai.

2.1.3. Nội dung quy định về xác định giá đất tính bồi thường khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp

2.1.3.1. Nội dung quy định về nguyên tắc, phương pháp định giá đất

40

Theo Điều 113 và 114 Luật Đất đai năm 2013, những “loại” giá đất làm

cơ sở trực tiếp và gián tiếp để xác định giá đất tính bồi thường khi Nhà nước

THĐ là: khung giá đất, bảng giá đất và giá đất cụ thể. Giá đất rất quan trọng

vì nó là căn cứ để giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước,

người có đất bị thu hồi và chủ đầu tư khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

Chủ yếu các tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện diễn ra trên thực tế về bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất đều có nguyên nhân từ xác định giá đất để

tính bồi thường chưa thỏa đáng; sự không đồng ý với phương án bồi thường

của người bị thu hồi đất.

Giá đất của Nhà nước phải “phù hợp với giá đất phổ biến trên thị

trường”[16, Khoản 3 Điều 112]. Theo đó, việc định giá đất phải đảm bảo

được các nguyên tắc sau:

Thứ nhất, nguyên tắc định giá đất phải theo mục đích SDĐ hợp pháp

tại thời điểm định giá

Giá đất tính bồi thường phải được xác định theo “mục đích SDĐ hợp

pháp” của thửa đất, có thể không phải “mục đích SDĐ trên thực tế”. Mục

đích sử dụng đất được ghi nhận trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do

cơ quan có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất. Ví dụ, mục đích SDĐ trên

giấy là đất trồng cây lâu năm thì chỉ được bồi thường theo giá đất trồng cây

lâu năm mà thôi.

Thứ hai, theo thời hạn SDĐ

“Thời hạn giao đất, công nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp đối với

hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp theo quy định tại khoản

1, khoản 2, điểm b khoản 3, khoản 4 và khoản 5 Điều 129 của Luật này là 50

năm. Khi hết thời hạn, hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp

nếu có nhu cầu thì được tiếp tục sử dụng đất theo thời hạn quy định tại khoản

này.”[16, Khoản 1 Điều 126]

41

Thứ ba, phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có

cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá QSDĐ đối với

những nơi có đấu giá QSDĐ hoặc thu nhập từ việc SDĐ

Thứ tư, cùng một thời điểm, các thửa đất liền kề nhau có cùng mục đích

sử dụng, khả năng sinh lợi, thu nhập từ việc SDĐ tương tự như nhau thì có

mức giá như nhau.

2.1.3.2. Nội dung quy định về khung giá đất

Chính phủ ban hành khung giá đất định kỳ 05 năm một lần đối với từng

loại đất, theo từng vùng. Đây là điểm mới đã được của Luật đất đai năm 2013

so với Luật đất đai năm 2003.

“Chính phủ ban hành khung giá đất định kỳ 05 năm một lần đối với

từng loại đất, theo từng vùng. Trong thời gian thực hiện khung giá đất mà giá

đất phổ biến trên thị trường tăng từ 20% trở lên so với giá tối đa hoặc giảm

từ 20% trở lên so với giá tối thiểu trong khung giá đất thì Chính phủ điều

chỉnh khung giá đất cho phù hợp.”[16, Điều 113]

2.1.3.3. Nội dung quy định về bảng giá đất và giá đất cụ thể

Để giải quyết những bất cập trong việc xác định giá đất làm căn cứ để

tính bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Luật đất đai năm 2013 đã quy định

rõ hơn về bảng giá đất và giá đất cụ thể để việc áp dụng được linh hoạt hơn

trong các trường hợp khác nhau.

Thứ nhất, căn cứ nguyên tắc, phương pháp định giá đất và khung giá

đất, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp

thông qua bảng giá đất trước khi ban hành. Bảng giá đất được xây dựng định

kỳ 05 năm một lần và công bố công khai vào ngày 01 tháng 01 của năm đầu

kỳ. Trong thời gian thực hiện bảng giá đất, khi Chính phủ điều chỉnh khung

giá đất hoặc giá đất phổ biến trên thị trường có biến động thì Ủy ban nhân dân

cấp tỉnh điều chỉnh bảng giá đất cho phù hợp.

42

Thứ hai, bảng giá đất được sử dụng để làm căn cứ trong các trường hợp

sau đây:

“a) Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất ở

của hộ gia đình, cá nhân đối với phần diện tích trong hạn mức; cho phép

chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không

phải là đất ở sang đất ở đối với phần diện tích trong hạn mức giao đất ở cho

hộ gia đình, cá nhân; b) Tính thuế sử dụng đất; c) Tính phí và lệ phí trong

quản lý, sử dụng đất đai; d) Tính tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh

vực đất đai; đ) Tính tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong

quản lý và sử dụng đất đai; e) Tính giá trị quyền sử dụng đất để trả cho người

tự nguyện trả lại đất cho Nhà nước đối với trường hợp đất trả lại là đất Nhà

nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất có thu

tiền sử dụng đất, đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê.”

[16, Khoản 2 Điều 114]

Thứ ba, giá đất cụ thể được sử dụng để làm căn cứ trong các trường

hợp sau đây:

- Tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất của

hộ gia đình, cá nhân đối với phần diện tích đất ở vượt hạn mức; cho phép

chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp không

phải là đất ở sang đất ở đối với phần diện tích vượt hạn mức giao đất ở cho hộ

gia đình, cá nhân. Tính tiền thuê đất đối với đất nông nghiệp vượt hạn mức

giao đất, vượt hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ

gia đình, cá nhân;

- Tính tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.

2.1.4. Nội dung pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

Bên cạnh việc bồi thường đối với đất và tài sản thì nhằm giải quyết

những khó khăn của người dân bị thu hồi đất nông nghiệp gặp phải về sinh

43

hoạt, sản xuất, Nhà nước còn có những chính sách hỗ trợ thỏa đáng. Các

khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất: (1) Hỗ trợ ổn định đời sống và sản

xuất; (2) Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường

hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông

nghiệp[16, Điều 80]. Khi Nhà nước thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực

tiếp sản xuất nông nghiệp ngoài việc được bồi thường bằng tiền còn được hỗ

trợ chuyển đổi nghề, đào tạo nghề mới, tìm kiếm việc làm. Người được hỗ trợ

có nhu cầu được đào tạo nghề thì sẽ được tư vấn hỗ trợ tìm kiếm việc làm,

được nhận vào các cơ sở đào tạo nghề; vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển

sản xuất, kinh doanh.

2.1.4.1. Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất.

Để được nhà nước hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất thì các đối tượng

này phải thỏa mãn các điều kiện:

- Đối với tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài đang sử dụng đất thuộc đối tượng quy định của Luật đã đủ

điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đã được cấp

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn

liền với đất quy định tại các Điều 100, 101 và 102 của Luật Đất đai, trừ

trường hợp quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 19 Nghị định số 47/2014/NĐ-

CP ngày 15/5/2014.

- Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất vào mục đích nông

nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản do nhận giao khoán đất (không bao

gồm đất rừng đặc dụng, rừng phòng hộ) của các nông trường, lâm trường quy

định tại Điểm d Khoản 1 Điều 19 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày

15/5/2014 thì phải có hợp đồng giao khoán sử dụng đất.

Quy định pháp luật về hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất được quy

định tại điểm a khoản 2 Điều 83 Luật Đất đai năm 2013 và được cụ thể hóa

44

tại Điều 19, nghị định 47/2014/NĐ-CP và Điều 5 Thông tư số 37/2014/TT-

BTNMT; theo đó, tại Khoản 3 Điều 19 Nghị định 47/2014 có quy định sau:

“3. Việc hỗ trợ ổn định đời sống cho các đối tượng quy định tại các

Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều này thực hiện theo quy định sau:

a) Thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng thì

được hỗ trợ trong thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong

thời gian 12 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở; trường hợp phải di chuyển đến

các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế -

xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 24 tháng.

b) Diện tích đất thu hồi quy định tại Điểm a Khoản này được xác định

theo từng quyết định thu hồi đất của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền;

c) Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu quy định tại Điểm a và Điểm b

Khoản này được tính bằng tiền tương đương 30 kg gạo trong 01 tháng theo

thời giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ của địa phương.”

So với trước đây, các quy định về hỗ trợ để ổn định đời sống và sản

xuất đã được tăng lên đáng kể và có sự phân biệt về diện tích đất nông nghiệp

bị thu hồi. Có thể thấy rằng, diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi càng nhiều

thì đời sống sản xuất của hộ gia đình, cá nhân càng bị ảnh hưởng. Do đó, việc

chia ra 2 mức hộ trợ đối với hộ gia đình cá nhân bị thu hồi từ 30% - 70% và

trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang được sử dụng đã khắc phục sự bất

bình đẳng trong việc hưởng mức hỗ trợ. Bên cạnh đó, đối với người đang sử

dụng đất nông nghiệp từ 30% diện tích đất trở lên, thời gian hưởng hỗ trợ ổn

định đời sống theo quy định này cũng tăng lên gấp đôi. Ngoài ra, pháp luật

còn có quy định về mức chi trả cụ thể đối với hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi

đất. Mặc dù vậy, pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về phương thức

khoản hỗ trợ này. Chính vì thế dẫn đến việc áp dụng tùy tiện và không đồng

nhất giữa các địa phương. Có địa phương áp dụng việc chi trả một lần, như

45

vậy sẽ không mang lại hiệu quả trong công tác hỗ trợ và làm mất đi mục đích

ban đầu của việc hỗ trợ là ổn định đời sống và sản xuất.

2.1.4.2. Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường

hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông

nghiệp

Trước tình trạng, nông dân sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp trở lên

thất nghiệp đang ngày càng phổ biến. Do đó, nhà nước ngày càng quan tâm

đến chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm mới cho hộ gia

đình, cá nhân bị thu hồi đất.

Về đối tượng được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc,

Khoản 1 Điều 20 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định:

“Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp quy định tại các Điểm

a, b, c và d Khoản 1 Điều 19 của Nghị định này (trừ trường hợp hộ gia đình,

cá nhân là cán bộ, công nhân viên của nông trường quốc doanh, lâm trường

quốc doanh đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ

cấp) khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà được bồi thường bằng tiền thì

ngoài việc được bồi thường bằng tiền đối với diện tích đất nông nghiệp thu

hồi còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm”. Như vậy

đối tượng được hỗ trợ, đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cũng

chính là những đối tượng trực tiếp sản xuất nông nghiệp đã được hỗ trợ ổn

định đời sống và sản xuất nhưng do họ không được bồi thường về đất nông

nghiệp, theo cách diễn giải của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014

là “được bồi thường bằng tiền với diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi”,

không thể tiếp tục sản xuất nông nghiệp nên cần thiết phải có những hỗ trợ để

họ có thể tiếp tục lao động, tìm kiếm thu nhập nuôi sống gia đình. Thể hiện rõ

mục đích ý nghĩa của chính sách hỗ trợ kết hợp với việc chuyển đổi cơ cấu

ngành nghề, pháp luật cũng giới hạn trường hợp: Cán bộ, công chức, viên

46

chức (đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được

hưởng trợ cấp) không thuộc đối tượng quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 19

của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP nhưng đang sử dụng đất nông nghiệp do

nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp theo quy định của pháp luật, khi

Nhà nước thu hồi đất thì được bồi thường về đất nhưng không được hỗ trợ ổn

định đời sống và sản xuất, không được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm

kiếm việc làm (Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT, khoản 1 Điều 16)[2]. Điều

này là hoàn toàn phù hợp vì những đối tượng trên không sống phụ thuộc vào

việc sản xuất nông nghiệp, ngoài sản xuất nông nghiệp họ còn có những

khoản thu nhập khác để phục vụ cuộc sống đồng thời đây cũng không phải là

các đối tượng trong quy hoạch chuyển đổi cơ cấu ngành nghề của Nhà nước.

Với cơ chế linh hoạt của Nhà nước trong việc thay đổi phương thức bồi

thường, hỗ trợ để bảo đảm cho người dân cũng như các địa phương lựa chọn

phương thức có lợi nhất phù hợp với điều kiện tại địa phương, việc hỗ trợ đào

tạo nghề, chuyển đổi việc làm được quy định như sau:

Thứ nhất, mở rộng hơn quy định về hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và

tạo việc làm cho hộ gia đình cá nhân bị thu hồi đất.

Khoản 1 Điều 20 Nghị định 47/20014/NĐ- CP có quy định về mức độ

hỗ trợ đối với người bị thu hồi đất nông nghiệp như sau:

“a, Hỗ trợ bằng tiền không quá 05 lần giá đất nông nghiệp cùng loại

trong bảng giá đất của địa phương đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp

thu hồi; diện tích được hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp

tại địa phương;

b, Mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định căn cứ

điều kiện thực tế của địa phương.”

Như vậy, pháp luật hiện hành chỉ quy định một hình thức hỗ trợ duy

nhất là hỗ trợ bằng tiền. Mức tiền được quy định là “không quá 05 lần giá đất

47

nông nghiệp cùng loại”, ngoài ra, mức hỗ trợ cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp

tỉnh quy định. Quy định này, giúp cho các địa phương có thể thực hiện một

cách linh hoạt việc bồi thường tùy vào từng điều kiện. Tuy nhiên, quy định có

phạm vi quá rộng khi chỉ quy định mức hỗ trợ tối đa. Trong khi đó, Chính phủ

lại giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định mức hỗ trợ cụ thể nên thực tế

hướng dẫn ở các địa phương là rất khác nhau điều này dẫn đến một thực trạng

là mức hỗ trợ ở các dự án ở các tỉnh giáp ranh là rất khác nhau, dẫn đến việc

so bì, khiếu nại.

Thứ hai, chú trọng việc đào tạo nghề cho hộ gia đình, cá nhân bị thu

hồi đất.

Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tao việc làm cho nông dân không thể

không quan tâm đến việc đào tạo nghề mới cho họ. Khoản 2, 3 Điều 20 Nghị

định 47/2014/NĐ-CP có quy định: Chính phủ quyết định cơ chế, chính sách

giải quyết việc làm và đào tạo nghề cho người thu hồi đất nông nghiệp; trên

cơ sở đó Ủy ban nhân dân chỉ đạo việc lập và tổ chức thực hiện phương án

đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người trong độ tuổi lao

động tại địa phương.

Với quy định trước đây, mức hỗ trợ học nghế rất hạn chế. Không

những thế, không ít chính quyền địa phương và chủ dự án sử dụng đất thoái

thác trách nhiệm đào tạo nghề, chuyển đổi việc làm cho người nông dân bị

thu hồi đất. Trong quy định của pháp luật hiện hành, có quy định rõ thẩm

quyền trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện phương án đào tạo nghề,

chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho người nông dân bị thu hồi đất.

Ngoài ra, trong quy định còn xác định rõ: “Phương án đào tạo, chuyển đổi

nghề và tìm kiếm việc làm được lập và phê duyệt đồng thời với phương án bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư.” Đây là quy định hoàn toàn hợp lý để đảm bảo

cho việc hỗ trợ được đồng bộ và có hiệu quả thực sự trên thực tế, khi người

48

dân bị thu hồi đất không chỉ ổn định về nơi ở mà còn ổn định cả về mặt sản

xuất lao động khi chuyển đến nơi ở mới. Tuy nhiên, việc thực thi quy định

trên trên thực tế còn không nhiều. Ngoài ra, một trong những điểm đáng chú ý

của quy định của pháp luật về vấn đề trên đó là: “Phương án đào tạo, chuyển

đổi nghề nghiệp và tìm kiếm việc làm phải lấy ý kiến của người thu hồi đất.”

Điều này giúp cho phương án đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp có tính khả thi

cao hơn, tránh trường hợp có phương án nhưng người được hưởng lại không

biết hoặc không cảm thấy phù hợp. Việc lấy ý kiến của người bị thu hồi đất

nông nghiệp được thực hiện đồng thời với việc lập phương án hỗ trợ.

2.1.5. Nội dung pháp luật về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp

Hoạt động bồi thường, hỗ trợ được thực hiện theo một quy trình, trình

tự, thủ tục nhất định. Theo Luật Đất đai năm 2013 quy định trình tự, thủ tục

bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp bao gồm các bước sau:

- Bước 1: Lập phương án bồi thường, hỗ trợ. Sau khi dự án đầu tư được

xét duyệt hoặc chấp thuận, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường (tại Điều 61,

Điều 62), GPMB bao gồm tổ chức dịch vụ công về đất đai, Hội đồng bồi

thường, hỗ trợ có trách nhiệm lập và trình phương án về bồi thường, hỗ trợ

đối với từng tổ chức, cá nhân, hộ gia đình bị thu hồi đất; trên cơ sở tổng hợp

số liệu kiểm kê, xử lý các thông tin liên quan của từng trường hợp; áp giá tính

giá trị bồi thường về đất, tài sản trên đất.

- Bước 2: Thu thập ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ. Sau khi lập

phương án chi tiết, trách nhiệm của tổ chức có nhiệm vụ bồi thường phải phối

hợp với UBND cấp xã tổ chức lấy ý kiến của nhân dân, nhất là các đối tượng

bị thu hồi đất. Lấy ý kiến dưới hình thức: tổ chức họp trực tiếp, niêm yết công

khai tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có

đất thu hồi.

49

- Bước 3: Hoàn chỉnh, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ. Từ

việc lấy ý kiến của người dân có đất bị thu hồi, đại diện chính quyền, đoàn thể

ở cơ sở, tổ chức bồi thường tiếp thu, hoàn chỉnh phương án chi tiết bồi thường

trình cơ quan chuyên môn thẩm định và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

- Bước 4: Phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ. Cơ quan có thẩm

quyền có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện

thẩm định phương án bồi thường trước khi Ủy ban nhân dân cùng cấp phê

duyệt (Theo Điều 13 Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014).

- Bước 5: Công khai phương án bồi thường, hỗ trợ. Niêm yết công khai

quyết định phê duyệt phương án bồi thường tại trụ sở UBND cấp xã và địa

điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và gửi quyết định bồi

thường đến từng người có đất nông nghiệp bị thu hồi.

- Bước 6: Tổ chức chi trả bồi thường, hỗ trợ. Theo phương án bồi

thường đã được phê duyệt tổ chức thực hiện việc bồi thường. UBND cấp xã,

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi có đất nông nghiệp bị thu hồi

và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường trong trường hợp người có đất thu hồi

không bàn giao đất. Ban giả phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục

để người dân có đất bị thu hồi thực hiện giao đất.

- Bước 7: Bàn giao mặt bằng, cưỡng chế thu hồi đất. Người bị thu hồi

đất phải bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư sau khi nhận tiền bồi thường, hỗ

trợ. Trường hợp không bàn giao mặt bằng thì buộc phải dùng biện pháp

cưỡng chế thu hồi đất theo quy định tại Điều 71 Luật Đất đai 2013.

2.1.6. Quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết tranh chấp liên

quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

Quá trình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất khó tránh khỏi những tranh chấp, bất đồng về lợi ích của các bên, đặc biệt

là việc người sử dụng có đất bị thu hồi không đồng thuận với việc thu hồi và

50

phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư do nhà nước có thẩm quyền xác

định. Dẫn đến việc người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên

quan đến sử dụng đất, các cá nhân có đơn thư khiếu nại, tố cáo.

Để đảm bảo trật tự công bằng xã hội, Nhà nước luôn coi trọng, làm tốt

công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai và đã ban hành

các quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo nói

chung hay các lĩnh vực nói riêng. Trong đó, Luật Đất đai năm 2013 đã quy

định tại Điều 204, Điều 205 về việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu

kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy

định của pháp luật về tố tụng hành chính[16, Khoản 2 Điều 204]. Việc giải

quyết tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai thực hiện theo

quy định của pháp Luật về tố cáo[16, Điều 205].

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu

2.2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Lai

Châu, tỉnh Lai Châu và tổng quan về tình hình thu hồi đất của thành phố

Lai Châu, tỉnh Lai Châu

* Vị trí địa lý

Lai Châu là tỉnh miền núi biên giới phía Tây Bắc, cách Thủ đô Hà Nội

khoảng 400 km về phía Đông Nam; phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung

Quốc) và tỉnh Lào Cai; phía Nam giáp tỉnh Điện Biên; phía Đông giáp tỉnh

Lào Cai và tỉnh Yên Bái; phía Tây giáp tỉnh Điện Biên và tỉnh Sơn La. Trên

địa bàn tỉnh hiện có 06 trục đường quốc lộ đi qua là: QL4D, QL70, QL12,

QL32, QL100, QL279 với tổng chiều dài là 318,5 km; 4 tuyến giao thông tỉnh

lộ là: 127, 128, 129, 132 với tổng chiều dài là 217 km và hệ thống các đường

giao thông nông thôn tạo điều kiện thuận lợi cho đi lại và thông thương, phát

51

triển kinh tế, thu hút vốn đầu tư.[8]

Thành phố Lai Châu là trung tâm văn hóa - chính trị của tỉnh Lai Châu,

được thành lập ngày 27 tháng 12 năm 2013 theo Nghị định số 131/NĐ-CP

của Chính phủ, nằm ở phía đông tỉnh Lai Châu và là thành phố có dân số ít

nhất Việt Nam.[9]

* Địa hình, địa mạo

Lai Châu có địa hình rất phức tạp và chia cắt mạnh, có cấu trúc chủ yếu

là núi đất, xen kẽ là các dãy núi đá vôi có dạng địa chất castơ (tạo nên các

hang động và sông suối ngầm), chiếm phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh.

Ngoài ra, Lai Châu có những bán bình nguyên rộng lớn, dạng địa hình thung

lũng, sông, suối, thềm bãi bồi.

* Về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên [7] [8] [9]

Tính đến thời điểm 31/12/2019, tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Lai

Châu là 9.068,78 km2; đất sử dụng cho sản xuất nông nghiệp là 84.209,3 ha,

chiếm 9,28% diện tích tự nhiên của tỉnh. Trong đó, diện tích tự nhiên của

thành phố Lai Châu là 70,77km2 (đất nông nghiệp là 4.254 ha). Đất ở Lai

Châu chủ yếu là nhóm đất đỏ vàng và vàng nhạt phát triển trên đất cát, đất sét

và đá vôi, có kết cấu chặt chẽ.

Tài nguyên rừng: Năm 2019, trên địa bàn toàn tỉnh Lai Châu có

706.621,5 ha tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp, gồm: Đất có rừng

453.499,8 ha (rừng tự nhiên 435.128,3 ha, rừng trồng 18.371,5 ha); đất chưa

có rừng 253.121,7 ha; tỷ lệ che phủ rừng đạt 50,16%.

Tài nguyên nước: Lai Châu với vị trí đầu nguồn của sông Đà cung cấp

nguồn nước tưới tiêu, sinh hoạt cho tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình và một

phần cho Đồng bằng Bắc Bộ. Đặc biệt là nơi sinh thủy cung cấp nước cho các

công trình thủy điện lớn là thủy điện Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Huội

Quảng, Bản Chát và nhiều công trình thuỷ điện vừa và nhỏ khác.

52

Đặc thù là tỉnh có diện tích lớn, khí hậu Lai Châu được chia làm 2 mùa

rõ rệt: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4

năm sau, không bị ảnh hưởng của gió Lào khô hanh như các tỉnh giáp Lào,

không có mưa phùn gió bấc như vùng đồng bằng Bắc bộ, thổ nhưỡng phong

phú, đa dạng, là điều kiện thuận lợi để phát triển các sản phẩm nông, lâm

nghiệp chất lượng cao.

* Về dân số

Dân số toàn tỉnh đến hết năm 2019 là 463.911 người (dân số thành phố

Lai Châu là 42.973 người); 17,8% dân số sống ở đô thị và 82,2% dân số sống

ở nông thôn; gồm 20 dân tộc anh em cùng sinh sống; dân tộc thiểu số chiếm

trên 87%. Dân số trong độ tuổi lao động có 283.522 người, chiếm 61,2%,

trong đó, số lao động qua đào tạo chiếm 48,5% so với tổng số người lao động

của tỉnh.[8]

* Về ngành nghề sản xuất chủ yếu

Với điều kiện tự nhiên đặc biệt thổ nhưỡng, khí hậu; Lai Châu chủ yếu

phát triển về nghề trồng lúa nước và trồng cây lâu năm (cây chè, cao su). Đối

với cây chè, toàn tỉnh Lai Châu hiện có gần 3.410 ha, tập trung chủ yếu ở các

huyện Tân Uyên, Tam Đường và thành phố Lai Châu.

Vấn đề thu hồi đất nông nghiệp để phát triển thành phố, mở rộng thành

phố là cần thiết nhằm chuyển dịch nhanh và mạnh kinh tế, xã hội của tỉnh nói

chung và thành phố duy nhất của tỉnh nói riêng. Điều đó cũng cho thấy, việc

thu hồi đất nông nghiệp diễn ra là tất yếu, đi đôi với đó là trọng trách của tỉnh

nói chung và chính quyền thành phố Lai châu nói riêng phải giải quyết tốt vấn

đề bồi thường, hỗ trợ, giải quyết tốt vấn đề an dân là vấn đề không hề đơn

giản.

Thực hiện quá trình CNH - HĐH, tỉnh Lai Châu đã và đang tích cực

trong xây dựng cơ sở hạ tầng các khu, cụm công nghiệp, cải tạo hệ thống giao

53

thông, thủy lợi, hạ tầng các khu đô thị và nông thôn, khai thác quỹ đất tạo

nguồn vốn xây dựng cơ sở hạ tầng đã tạo ra sức ép lớn về thu hồi đất đai cho

tỉnh miền núi. Phải xác định vị trí xây dựng, bố trí các công trình đặc biệt đối

với tỉnh miền núi địa hình bị chia cắt độ dốc lớn.

Dân tộc thiểu số toàn tỉnh chiếm trên 87%, đặc biệt đất nông nghiệp lại

vô cùng quan trọng đối với sinh kế của họ, những người chủ yếu làm nghề

nông nghiệp, trình độ dân trí thấp, chưa nắm bắt hiểu rõ được pháp luật. Bên

cạnh đó, người dân tộc thiểu số có phong tục tập quán mô tả chi tiết mối liên

hệ giữa cộng đồng với môi trường tự nhiên, cách sử dụng đất để duy trì cuộc

sống và nhu cầu tinh thần. Nhiều phong tục tập quán chưa được thừa nhận

trong luật pháp mặc dù nó có sức ảnh hưởng rất lớn trong các cộng đồng dân

tộc thiểu số hoặc một số còn có sự mâu thuẫn với pháp luật. Điều này cũng

ảnh hưởng không nhỏ tới vấn đề thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ sẽ phức tạp,

kéo dài thời gian hơn khi họ chưa nắm bắt hiểu rõ được pháp luật cũng như

mục đích chính đáng của việc thu hồi đất nông nghiệp.

2.2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu

Để tổ chức thực thi tốt vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà

nước thu hồi đất nói chung và bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp nói riêng, trên cơ sở các quy định của Luật Đất đai 2013 và các

Nghị định hướng dẫn thi hành của Chính phủ, UBND tỉnh Lai Châu đã ban

hành các văn bản nhằm hướng dẫn cụ thể, trực tiếp việc thực hiện vấn đề này

một cách phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh và thành phố. Theo đó, một số

văn bản cụ thể, trực tiếp liên quan tới bồi thường, hỗ trợ đối với việc thu hồi đất

nông nghiệp phải được kể đến là:

1. Bảng giá đất nông nghiệp được Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu ban

hành, Quyết định số: 43/2014/QĐ-UBND ngày 19 /12/2014 về việc ban hành

54

giá đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu, kèm theo Quyết định này Bảng giá đất

trên địa bàn tỉnh Lai Châu và được áp dụng trong thời gian 05 năm (2015-

2019), kể từ ngày 01/01/2015.

2. Quyết định số 33/2014/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Lai

Châu về việc ban hành quy định một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư; trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa

bàn tỉnh Lai Châu.

Quyết định số 30/2017/QĐ-UBND của UBND tỉnh Lai Châu ngày

14/8/2017 ban hành đơn giá bồi thường về nhà, công trình xây dựng trên đất,

cây trồng, vật nuôi và các tài sản khác gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi

đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu.

Trên cơ sở các văn bản pháp luật trên, chính quyền thành phố đã triển

khai việc thu hồi đất, thực hiện bồi thường, tái định cư trong những năm qua

như sau:

2.2.2.1. Tình hình triển khai thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai Châu

Thành phố Lai Châu là một thành phố có sự đô thị hóa nhanh, nhiều

công trình dự án đã triển khai thực hiện giai đoạn 2015 – 2019 và cùng với đó

là Ủy ban nhân dân thành phố được giao chịu trách nhiệm thu hồi đất, bồi

thường, hỗ trợ về đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Cụ thể một số công

trình dự án:[22] [23] [24]

Dự án 1: Xây dựng trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn

tỉnh Lai Châu (năm 2015)

Tổng diện tích đất thu hồi để thực hiện dự án là 6,77 ha; tổng số hộ bị

thu hồi là 50 hộ và 01 tổ chức di chuyển tài sản. Trong đó, số hộ gia đình, cá

nhân có đất nông nghiệp bị thu hồi là 49 hộ; thu hồi đất ở và nhà của 01 hộ.

Dự án đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ với tổng kinh phí hơn 9,4 tỷ

55

đồng. Cơ quan thực hiện giải phóng mặt bằng đã phối hợp với chủ đầu tư và

UBND phường tổ chức chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ cho các hộ gia đình, cá

nhân; đã có 50/51 hộ gia, đình cá nhân, tổ chức nhận tiền bồi thường, hỗ trợ;

trong đó, có 48 hộ gia đình, cá nhân có đất nông nghiệp bị thu hồi đã nhận bồi

thường, hỗ trợ và bàn giao mặt bằng để thực hiện dự án. Chỉ duy nhất 01 hộ

có đất nông nghiệp (trồng cây lâu năm: trồng chè) bị thu hồi đến nay không

nhận bồi thường, hỗ trợ và trong quá trình thu hồi thì hộ không bàn giao mặt

bằng để thực hiện dự án. Sau nhiều lần giải quyết, trả lời, tổ chức vận động

tuyên truyền nhưng hộ gia đình vẫn không chấp hành Quyết định thu hồi đất

của UBND thành phố Lai Châu và phải thực hiện thu hồi đất bằng biện pháp

cưỡng chế.

Dự án 2: Hệ thống thoát nước ra suối nậm Con Gin (năm 2017)

Nằm trên địa bàn phường Đông Phong và xã San Thàng, do Ban Quản

lý dự án làm chủ đầu tư. Tổng diện tích đất thu hồi để thực hiện dự án là

31.409,2 m2; trong đó, diện tích đất nông nghiệp thu hồi là 13.403,5 m2 gồm

đất trồng cây hàng năm và đất trồng cây lâu lăm. Ủy ban nhân dân thành phố

đã phê duyệt phương án và thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ cho các hộ gia

đình, cá nhân có đất bị thu hồi.

Dự án 3: Nâng cấp cải tạo hệ thống xử lý rác thải sinh hoạt trên địa

bàn thành phố Lai Châu (năm 2017)

Chủ đầu tư là Ban Quản lý xây dựng Tỉnh. Ủy ban nhân dân Thành phố

phê duyệt phương án bồi thường về đất, tài sản và hoa màu; hỗ trợ chuyển đồi

nghề, ổn định đời sống sản xuất với tổng kinh phí là hơn 3,2 tỷ đồng; đã tổ

chức chi trả hơn 1,7 tỷ đồng. Tổng diện tích đất phải thu hồi là 25.112 m2;

trong đó diện tích đất nông nghiệp thu hồi là 22.107 m2 và đất khác là 3.005 m2.

Dự án 4: Tuyến kênh số 2 hệ thống thoát nước thành phố (năm 2017)

Dự án có tổng diện tích đất phải thu hồi là 18.981 m2 của 20 hộ gia

56

đình, cá nhân và 01 tổ chức; trong đó thu hồi đất nông nghiệp với diện tích là

13.255,6 m2; đất khác là 5.725,4 m2. Dự án này đã hoàn thành việc bồi

thường, hỗ trợ đầy đủ cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức với tổng kinh phí

là hơn 2,2 tỷ đồng.

Dự án 5: Trường Trung học cơ sở Đông Phong (năm 2017)

Dự án được triển khai trên địa bàn phường Đông Phong với tổng diện

tích đất phải thu hồi là 13.026 m2. Diện tích thu hồi đất nông nghiệp là 7.749

m2; đất ở là 359,4 m2; đất khác là 4.917,2 m2. Ủy ban nhân dân Thành phố đã

phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ với tổng kinh phí là gần 3,5 tỷ đồng;

đã tổ chức chi trả gần 3 tỷ đồng.

Dự án 6: Khu Lâm viên thành phố Lai Châu (năm 2018)

Tổng diện tích đất phải thu hồi là 20.340,4 m2, toàn bộ là đất nông

nghiệp (đất trồng vây lâu lăm) của 14 hộ gia đình, cá nhân thuộc địa bàn

phường Tân Phong. Kinh phí bồi thường, hỗ trợ cho các hộ gia đình, cá nhân

có đất nông nghiệp bị thu hồi là trên 3,5 tỷ đồng; đã chi trả hơn 3,1 tỷ đồng.

* Quy trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

các dự án trên địa bàn thành phố Lai Châu

Được quy định tại điều 25 (Quyết định số 33/2014/QĐ-UBND của

UBND tỉnh Lai Châu): “Trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư.”

Bước 1: Họp dân, phát tờ kê khai và thu thập các giấy tờ về đất đai

Bước 2: Kiểm tra tờ khai, điều tra, kiểm đếm đất đai, tài sản gắn liền

với đất.

Bước 3: Xác nhận các nội dung kê khai, kiểm kê đất đai, tài sản trên đất

bị thu hồi

Bước 4: Xử lý một số trường hợp về đất, tài sản trên đất khi kê khai,

kiểm kê và xác nhận

57

Bước 5: Lập, niêm yết lấy ý kiến về dự thảo phương án bồi thường, hỗ

trợ (sau đây gọi là phương án bồi thường).

Bước 6: Hoàn chỉnh, thẩm định và phê duyệt phương án bồi thường

Bước 7: Công khai phương án bồi thường; tổ chức chi trả tiền bồi

thường và bàn giao mặt bằng

Chủ đầu tư dự án chỉ được thực hiện dự án sau khi đã được cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền bàn giao đất sạch ngoài thực địa (có Biên bản bàn

giao). Trường hợp đặc biệt phải có ý kiến bằng văn bản của cơ quan có thẩm

quyền quyết định đầu tư dự án.

Về cơ bản công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng các dự án

đều được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục.

2.2.2.2. Những tác động tích cực trong việc bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất

nông nghiệp

Qua khái quát tự nhiên, kinh tế - xã hội và từ thực tiễn thực hiện một số

dự án nêu trên tại thành phố Lai Châu tỉnh Lai Châu cho thấy việc thực hiện

chính sách, pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đã

được tỉnh, thành phố quan tâm cụ thể như sau:

Thứ nhất, thành phố Lai Châu là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa

của tỉnh, hệ thống đường bộ được đầu tư xây dựng nâng cấp đồng bộ. Nơi đây

được chú trọng các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng xã hội, mà hầu hết

các dự án liên quan đến thu hồi đát nông nghiệp là chủ yếu. Vì vậy, chính

quyền các cấp của thành phố cũng như trong tỉnh đều quan tâm chú trọng đến

lãnh đạo công tác thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp nhằm nâng cao đời sống Nhân dân; mặt khác, giảm các tranh

chấp, khiếu kiện về đất đai đến mức thấp nhất.

Trong thời gian qua, UBND thành phố, UBND tỉnh cũng ban hành nghị

quyết, văn bản về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bồi thường khi Nhà

58

nước thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng: Quyết định số

33/2014/QĐ-UBND ngày 05/11/2014 của UBND Tỉnh Lai Châu về việc ban

hành Quy định một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; trình tự,

thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn Tỉnh Lai Châu;

Quyết định số 34/2014/QĐ-UBND ngày 05/11/2014 của UBND tỉnh Lai

Châu về việc ban hành Quy định về trình tự thực hiện thu hồi đất, giao đất,

cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu;…

Thứ hai, công tác thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp cơ bản đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, đúng

trình tự, thủ tục từ ban hành thông báo thu hồi đất; lập phương án bồi thường,

hỗ trợ; áp dụng giá đất làm căn cứ xác định bồi thường, hỗ trợ đúng theo quy

định đến việc công khai phương án hỗ trợ cho các hộ gia đình, cá nhân bị thu

hồi đất nông nghiệp.

Thứ ba, các chính sách hỗ trợ mà tỉnh ban hành đã thể hiện được sự

quan tâm hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất và các hỗ trợ khác cho những

người có đất nông nghiệp bị thu hồi. Nhìn chung, đa số người dân có đất nông

nghiệp bị thu hồi đều đồng ý bàn giao mặt bằng để thực hiện dự án và nhận

bồi thường, hỗ trợ theo phương án đã đưa ra.

2.2.2.3. Những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động bồi thường thu hồi đất

nông nghiệp

Tuy nhiên, từ thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về bồi thường,

hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở một số dự án trên địa bàn thành

phố Lai Châu có thể thấy còn tồn tại vấn đề sau:

Thứ nhất, về quy trình thủ tục: Quá trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ

phải thực hiện qua nhiều giai đoạn, thời gian, thủ tục quy định làm ảnh hưởng

không nhỏ đến tiến độ thu hồi đất và việc GPMB cho các dự án bị trậm trễ.

Nhìn chung các dự án đều bị chậm tiến độ tùy theo quy mô của dự án; quy mô

59

nhỏ có thể chậm tiến độ từ 2 – 6 tháng hoặc lớn hơn thì từ 1 – 2 năm. Ví dụ

dự án “Hệ thống thoát nước ra suối nậm Con Gin (năm 2017)” triển khai

ngày 07/04/2017 và hoàn thành theo kế hoạch là ngày 12/01/2018; nhưng

trong quá trình thu hồi đất người dân không nhất trí phương án bồi thường, hỗ

trợ phải phê duyện phương án (lần 2) dẫn đến chậm tiến độ so với kế hoạch

21 tháng. Dự án “Trường Trung học cơ sở Đông Phong (năm 2017)” chậm

tiến độ 23 tháng.

Thứ hai, việc bồi thường, hỗ trợ luôn gặp nhiều vướng mắc nhất trong

quá trình thực hiện: Giá bồi thường còn thấp, chưa sát với giá thị trường tại

thời điểm bồi thường và hầu hết các dự án đều có người dân thắc mắc về giá

bồi thường. Tại thời điểm thu hồi đất thì việc bồi thường áp giá theo khung

giá chung 5 năm/ lần (theo Luật Đất đai năm 2013). Đối với một dự án thì

việc bồi thường, hỗ trợ không thể hoàn thành trong một năm mà có thể kéo

dài trong năm khác. Do đó, có thể tạo nên sự chênh lệch giữa các dự án với

nhau và giữa giá được áp dụng để bồi thường, hỗ trợ và giá chuyển nhượng

trên thị trường.

Các dự án trên địa bàn thành phố Lai Châu đều được áp dụng giá đất cụ

thể để tính tiền bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự

án là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật (Căn cứ Quyết định số

43/2014/QĐ-UBND ngày 19/12/2014 của UBND tỉnh Lai Châu về việc ban

hành giá đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu). Tuy nhiên, một số dự án kể trên như:

“Xây dựng trường THPT chuyên Lê Quý Đôn tỉnh Lai Châu”, “Khu lâm viên

thành phố Lai Châu”, “Trường trung học cơ sở Đông Phong” chủ yếu là thu

hồi đất trồng cây lâu năm (cây chè) với mức giá tương ứng VT1: 24.000

đồng/m2; nhưng người dân đều phản ánh không nhất trí với phương án bồi

thường, hỗ trợ; đơn giá bồi thường thấp. Vì vậy, gây bất bình trong người dân

có đất bị thu hồi, xảy đến một số trường hợp hộ gia đình không chịu bàn giao

60

mặt bằng và bắt buộc phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi đất.

Thứ ba, về nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật. Nhiều người dân

bị thu hồi đất nông nghiệp đã được chính quyền địa phường áp dụng đầy đủ

các chính sách, đã được vận động thuyết phục nhưng vẫn cố tình chống đối,

không chấp hành phương án đền bù thiệt hại, làm ảnh hưởng đến tiến độ

GPMB, thi công dự án cũng như thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ; dẫn

đến việc phải thực thi biện pháp cưỡng chế thu hồi đất.

Ví dụ: Dự án “Xây dựng trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý

Đôn tỉnh Lai Châu (năm 2015)”, trong quá trình thu hồi đất hộ gia đình Bà

Phạm Thị Nguyệt không chịu bàn giao mặt bằng cho Nhà nước để thực hiện

dự án do không nhất trí nhận tiền bồi thường, hỗ trợ mặc dù đã được UBND

phường Đông Phong kết hợp cùng UBMTTQ phường Đông Phong, Trung

tâm phát triển quỹ đất đến vận động, giải thích các chế độ chính sách, thuyết

phục hộ gia đình chấp hành Quyết định thu hồi đất, nhận tiền bồi thường, hỗ

trợ đã được phê duyệt theo quy định. Bà Nguyệt có một số đề nghị như tăng

giá bồi thường về đất, bù đất bờ lô,… và các đề nghị đều đã được UBND

thành phố chỉ đạo giải quyết và trả lời bằng văn bản. Qua nhiều lần giải quyết,

trả lời, tổ chức vận động tuyên truyền nhưng Bà Nguyệt vẫn không chấp

hành. UBND thành phố Lai Châu đã ban hành Quyết định cưỡng chế thu hồi

đất số 977/QĐ-UBND, tiếp tục vận động thuyết phục và tiến hành cưỡng chế

di dời toàn bộ cây cối, hoa màu về UBND phường để quản lý theo quy định.

Thứ tư, việc hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ đào tạo chuyển đồi nghề và

tìm kiếm việc làm cho người dân mới chỉ dừng lại ở việc quy đổi thành giá

tiền mà chưa thực sự quan tâm đến việc học nghề, chuyển đổi việc làm của

người bị thu hồi đất sau thu hồi.

Theo điều 17 (Quyết định số 33/2014/QĐ-UBND) về hỗ trợ đào tạo,

chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với trường hợp Nhà nước thu hồi

61

đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp trên

địa bàn thành phố Lai Châu như sau: đối với đất trồng cây lâu năm được hỗ

trợ bằng 3 lần giá đất cùng loại, cùng vị trí (VT1: 24.000 đồng/m2; VT2:

20.000 đồng/m2; VT3: 16.000 đồng/m2)

Qua thực tế một số dự án nêu trên, chủ yếu chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ

thành tiền chưa tổ chức thực hiện được phương án đào tạo, chuyển đổi nghề

và tìm kiếm việc làm cho người trong độ tuổi lao động tại địa phương. Ví dụ

dự án “Hệ thống thoát nước ra suối nậm Con Gin” kinh phí hỗ trợ chuyển đổi

nghề là 3,423,729 nghìn đồng; hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất là 195,120

nghìn đồng. Hay dự án “Khu lâm viên thành phố Lai Châu” tổng kinh phí hỗ

trợ chuyển đổi nghề và ổn định đời sống sản xuất là 2,176,508 nghìn đồng.

Những kinh phí hỗ trợ đó người dân có thực sự sử dụng cho việc học nghề,

chuyển đổi nghề hay chỉ dùng để sử dụng vào mục đích trước mắt như xây

nhà, mua sắm,...

Thứ năm, về công tác quản lý dữ liệu đất đai còn chưa chủ động, nhiều

trường hợp vẫn để người dân tự ý chuyển nhượng đất đai không theo quy

định, tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất để đòi bồi thường theo hiện trạng;

diện tích sử dụng đất của nhiều hộ thay đổi hiện trạng so với giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất, các hồ sơ địa chính không lưu trữ được hết biến động đất

đai, nguồn gốc đất, diện tích đất sử dụng qua các thời kỳ. Điều này, gây khó

khăn trong quá trình xác định nguồn gốc đất, loại đất, diện tích đất sử dụng

khi bị thu hồi đất.

2.2.2.4. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai Châu

i) Nguyên nhân chủ quan

Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai Châu

62

xuất phát từ một số nguyên nhân chủ quan chủ yếu sau:

Một là, Lai châu là một tỉnh miền núi biên giới, chiếm số đông là đồng

bào dân tộc thiểu số (trực tiếp sử dụng đất nông nghiệp) với trình độ và sự

hiểu biết pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, đội ngũ

cán bộ, công chức làm nhiệm vụ quản lý đất đai còn bộc lộ sự yếu kém về

năng lực, trình độ chuyên môn và ý thức phục vụ Nhân dân chưa cao.

Hai là, cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành; giữa các phòng, ban,

tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông

nghiệp chưa thực sự hiệu quả, thiếu sự đồng bộ và chặt chẽ. Vẫn chưa có cơ

chế phối hợp giữa các cơ quan để giải quyết tốt công việc của mình.

Ba là, các cấp chính quyền địa phương chưa thực sự vào cuộc, thậm chí

còn né tránh, thiếu cương quyết trong thực thi nhiệm vụ về bồi thường khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; không giải quyết dứt điểm, kịp thời dẫn

đến các trường hợp khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp kéo dài.

ii) Nguyên nhân khách quan

Một là, những chính sách, quy định pháp luật về đất đai nói chung và

về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nói riêng còn

thiếu sự đồng bộ, thống nhất và thường xuyên sửa đổi, bổ sung. Nhiều cơ

quan ở trung ương và địa phương đều ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi

hành các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Do

vậy, những mâu thuẫn, chồng chéo trong nội dung gây khó khăn trong quá

trình thực thi pháp luật là điều khó có thể tránh khỏi.

Hai là, trên thực tế, công tác tuyên truyền vận động đối với người bị thu

hồi đất là hết sức khó khăn. Một mặt, do trình độ hiểu biết của người dân còn

chưa cao, việc tiếp cận với pháp luật còn hạn chế; mặt khác, bị các đối tượng

xấu xúi giục, lôi kéo, kích động dẫn đến việc khiếu nại tố cáo vượt cấp. Điển

hình như ở dự án “Xây dựng trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn

63

tỉnh Lai Châu (năm 2015)”, liên quan đến 51 hộ ở phường Đông Phong gây

khó khăn trong việc giải phóng mặt bằng, làm chậm tiến độ thi công. Trong

đó, phải tổ chức cưỡng chế 2 hộ không chịu bàn giao đất gồm bà Phạm Thị

Nguyệt không nhận tiền bồi thường, hỗ trợ, không bàn giao mặt bằng để thực

hiện dự án; con gái bà Nguyệt là chị Phạm Thị Hương đã nhận tiền bồi

thường, hỗ trợ, đã nhận đất tái định cư xây nhà ở nhưng không bàn giao mặt

bằng. Đơn vị giải phóng mặt bằng đã mời gia đình bà Nguyệt 5 lần nhận tiền

bồi thường, hỗ trợ và các cơ quan có liên quan đã tổ chức vận động 3 lần,

nhưng bà Nguyệt vẫn không nhận tiền và có ý kiến đề nghị được hỗ trợ 1 suất

đất tái định cư, tăng giá bồi thường về đất, được hỗ trợ chuyển đổi nghề

nghiệp lên 5 lần. Tuy nhiên, tại thời điểm thu hồi đất “Dự án trường Trung

học phổ thông chuyên Lê Quý Đôn” hộ gia đình bà Phạm Thị Nguyệt không

bị thu hồi đất ở và nhà ở, không phải di chuyển chỗ ở, do vậy không đủ điều

kiện được cấp đất tái định cư và đất của gia đình bà Nguyệt bị thu hồi là đất

trồng cây lâu năm vị trí 1 và được áp giá đất cụ thể để tính bồi thường là

24.000 đồng/m2; việc áp dụng hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và tìm kiếm

việc làm bằng 3 lần giá đất cùng loại, cùng vị trí là đúng quy định hiện hành.

Qua nhiều lần giải quyết, trả lời, tổ chức vận động tuyên truyền nhưng

bà Nguyệt vẫn không chấp hành Quyết định thu hồi đất của Ủy ban Nhân dân

thành phố Lai Châu. Cuối tháng 4/2018, Ủy ban Nhân dân thành phố Lai

Châu đã ban hành Quyết định cưỡng chế thu hồi đất và Thành lập Ban cưỡng

chế thực hiện cưỡng chế thu hồi đất; đến tháng 9/2018, bàn giao diện tích đất

lại cho chủ đầu tư “Dự án xây dựng Trường Trung học phổ thông chuyên Lê

Quý Đôn” quản lý.

64

Kết luận Chương 2

1. Nội dung pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp gồm những vấn đề cụ thể như quy định nguyên tắc, điều kiện

thẩm quyền, giá đất xác định bồi thường, trình tự, thủ tục và giải quyết khiếu

nại, tố cáo, tranh chấp liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp. Những nội dung cơ bản trên được tác giả phân tích tại Tiểu

mục 2.1 Chương 2 Luận văn.

2. Thành phố Lai Châu là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh

Lai Châu; nhận được sự đầu tư đồng bộ của tỉnh về hệ thống cơ sở hạ tầng,

nhiều dự án xây mới cũng như cải tạo, nâng cấp đô thị đã được triển khai làm

cho thành phố từng bước thay đổi.

Có thể khẳng định thu hồi đất nông nghiệp là một vấn đề khá nóng,

nhiều khó khăn, phức tạp do không chỉ động chạm đến lợi ích của các bên

trong quan hệ thu hồi đất, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến kế sinh nhai, công

ăn việc làm, lợi tức trên đất của người có đất nông nghiệp bị thu hồi. Từ đó,

gây ra bức xúc, bất ổn chính trị - xã hội, thiệt hại về kinh tế khi người dân

không nhất trí với phương án bồi thường, hỗ trợ của Nhà nước đã đưa ra.

Được thành lập từ khi Luật đất đai năm 2013 được ban hành, UBND tỉnh và

UBND thành phố Lai Châu luôn chấp hành đúng chủ trương đường lối của

Đảng, nhà nước; thực hiện theo đúng các quy định của Luật cũng như các văn

bản hướng dẫn liên quan trong vấn đề bồi thường, hỗ trợ; góp phần vào việc

thúc đẩy sự phát triển của thành phố nói chung và toàn tỉnh nói riêng. Tuy

nhiên, việc thi hành pháp luật về bồi thường, hỗ trợ trên địa bàn thành phố Lai

Châu vẫn còn gặp nhiều hạn chế, vướng mắc. Muốn giải quyết được những

hạn chế đó cần có sự đồng thuận, nhất trí của các bên có liên quan trong vấn

đề thu hồi đất nông nghiệp.

65

CHƯƠNG 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ KHI NHÀ

NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ LAI CHÂU,

TỈNH LAI CHÂU

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp qua thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố

Lai Châu, tỉnh Lai Châu

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất phải được thực hiện trên cơ sở là kế thừa, tích lũy và phát huy những

thành tựu, kết quả đạt được, những mặt tích cực qua việc tổng kết thực tiễn

trong thi hành Luật Đất đai 2013 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành có liên

quan đến bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; đồng thời,

tìm ra được những vướng mắc, bất cập và thiếu sót, hạn chế để có những giải

pháp khắc phục, sửa chữa và kịp thời bổ sung nhằm bảo đảm sự thống nhất

giữa các luật có liên quan; trường hợp các luật khác có quy định về đất đai thì

phải thống nhất với Luật Đất đai.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu

hồi đất phải dựa trên nguyên tắc giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi

ích của doanh nghiệp và lợi ích của người bị thu hồi đất nông nghiệp.

Nhà nước có quyết định thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho mục đích

chung của quốc gia, dân tộc đưa đến kết quả khác nhau về lợi ích. Nên không

tránh khỏi mâu thuẫn lợi ích giữa ba bên:

- Diện tích đất Nhà nước thu hồi sẽ sử dụng để cho phục vụ cho đất

nước vì các mục đích khác nhau.

- Người dân bị thu hồi đất, mất đi tư liệu sản xuất chính, từ đó sẽ thất

66

nghiệp, không có điều kiện hoặc không có khả năng học nghề, cuộc sống trở

nên khó khăn.

- Doanh nghiệp, chủ đầu tư sau khi được Nhà nước giao đất sử dụng

vào mục đích cá nhân.

Có thể nhận thấy rõ là những ảnh hưởng tiêu cực, các thiệt hại đều

thuộc về người mất đất nông nghiệp, còn lợi ích hay tác động tích cực thường

là các chủ đầu tư, doanh nghiệp. Tuy đã thực hiện bồi thường, hỗ trợ cho

người dân bị mất đất nhưng vẫn không thể bù đắp được hết các thiệt hại đã

gây ra trong quá trình thu hồi đất do không được sự đồng thuận từ phía người

dân đang sử dụng đất nông nghiệp.

Đây chính là nguyên nhân của những khiếu kiện, khiếu nại kéo dài từ

cấp địa phương đến trung ương do người dân bị mất đất do không chấp thuận

giá đất bồi thường. Vì vậy, để hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì phải xây dựng trên nguyên tắc hài hòa

lợi ích ba bên.

Thứ ba, là định giá đất phải bảo đảm tính minh bạch, khách quan, phù

hợp với giá thị trường. Cần thực hiện rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định

chi tiết về xác định giá đất để tính bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp để giúp tháo gỡ những kiến nghị, khiếu nại của người dân;

những khó khăn, vướng mắc, trong tổ chức thi hành Luật đất đai năm 2013 và

các văn bản khác có liên quan.

Cần tổ chức nghiên cứu về việc xác định giá đất theo hướng phát triển

hiệu quả và bền vững. Tổ chức kiện toàn và phát huy vai trò của Tổ chức phát

triển quỹ đất và Quỹ Phát triển đất trong việc bồi thường, hỗ trợ, giải phóng

mặt bằng.

Thứ tư, hoàn thành dứt điểm việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất, song song với hiện đại hóa hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về đất đai, hồ

67

sơ địa chính, bản đồ địa chính.

Nhà nước trao quyền sử dụng đất hợp pháp cho cá nhân, tổ chức,…

được thuê, giao đất bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì chính là được

quyền cho thừa kế, tặng, chuyển nhượng hợp pháp. Việc cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất cần phải được thực hiện triển khai nhanh chóng, số liệu

thống kê rõ ràng về diện tích, đánh số trên lô đất; đồng thời hiện đại hóa

thông tin về cơ sở dữ liệu như vậy công tác quản lý đất đai sẽ thuận lợi hơn.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp qua thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Lai Châu,

tỉnh Lai Châu

Thứ nhất, hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi và bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

Trình tự thu hồi đất được quy định trong Quyết định số 33/2014/QĐ-

UBND hiện áp dụng chung cho tất cả các loại dự án, theo một trình tự thủ tục

thu hồi đất theo các mốc thời gian giống nhau, chưa có trình tự rút gọn đối với

các dự án đặc thù. Tuy nhiên, đối với những dự án lớn hoặc nhỏ sức ảnh

hưởng về số dân là khác nhau nên cần đẩy nhanh tiến độ dự án hoặc có mức

vốn khác nhau giữa các dự án nên cần tạo sự khác biệt để giúp giảm chi phí,

rút ngắn thời gian nhưng vẫn đảm bảo lợi ích của người dân bị thu hồi đất.

Với những dự án mà toàn thể người dân bị ảnh hưởng do thu hồi đất đều nhất

trí với dự thảo phương án bồi thường đã được niêm yết công khai thì có thể

rút ngắn thời gian chuyển sang giai đoạn tiếp theo chứ không nhất thiết phải

chờ đến khi hết thời gian công khai theo quy định (ít nhất 20 ngày).

Thứ hai, cần có cơ chế tạo điều kiện xác định giá đất bồi thường, hỗ trợ

khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chính của người dân, đặc biệt là dân

tộc thiểu số trên toàn tỉnh, khi thu hồi đất nông nghiệp, mức giá đất dùng làm

68

cơ sở để chi trả bồi thường, hỗ trợ thấp, sự chênh lệch giữa các địa phương,

chênh lệch giá đất do Nhà nước bồi thường và do doanh nghiệp thỏa thuận

đến việc người dân không đồng ý giao mặt bằng đất dẫn đến nhiều trường hợp

phải cưỡng chế. Do đó, việc định giá đất bồi thường, hỗ trợ phải dựa trên sự

tôn trọng các nguyên tắc khách quan của thị trường, quan tâm xây dựng các

quy định và điều chỉnh linh hoạt giá đất, bảo đảm phù hợp với giá đất phổ

biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng để phù hợp với địa

phương. Ví dụ khi bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng thì áp dụng theo

giá thị trường để đền bù cho người bị thu hồi đất sẽ tạo được sự đồng thuận

của người sử dụng đất.

Thứ ba, hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố

cáo về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

Pháp luật cần quy định quyền khiếu nại, tố cáo của người dân được

thực hiện ở tất cả các công đoạn của quá trình thu hồi đất, đồng thời cũng cần

quy định việc giải quyết khiếu nại ở giai đoạn nào thì phải được giải quyết dứt

điểm ngay ở giai đoạn đó theo đúng thời hạn luật định. Như vậy, vừa bảo đảm

quyền khiếu nại của công dân được tôn trọng, mặt khác cũng nâng cao ý thức

trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc tổ chức,

thực thi nhiệm vụ của mình, đồng thời đảm bảo tính công khai, minh bạch.

Trong các văn bản của tỉnh cần phải có thêm các nội dung quy định rõ

ràng hơn về vấn đề này để đảm bảo quá trình thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ

diễn ra nhanh chóng, hiệu quả, phù hợp với tình hình khiếu nại, tố cáo về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Thứ tư, hoàn thiện các quy định pháp luật về hỗ trợ và giải quyết việc

làm cho người nông dân khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp

Trong quy định của pháp luật hiện hành mới chỉ quan tâm đến tìm kiếm

việc làm, đào tạo nghề cho các đối tượng trong độ tuổi lao động. Như quy

69

định tại khoản 2, điều 17 trong Quyết định số 33/2014/QĐ-UBND: “2.

Phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm. Căn cứ cơ chế,

chính sách giải quyết việc làm đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định, Sở

Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Ủy ban Nhân dân cấp huyện

lập và tổ chức thực hiện phương án đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc

làm cho người trong độ tuổi lao động tại địa phương, trình Ủy ban Nhân dân

tỉnh quy định mức hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm cho

phù hợp với từng loại hộ gia đình cá nhân có đất thu hồi.”. Trên thực tế, các

đối tượng làm nghề nông khi hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật thì

họ không có một khoản hỗ trợ nào, không lương hưu, không trợ cấp, không

tài sản tích lũy nên họ vẫn tiếp tục tham gia lao động. Dù hết độ tuổi lao động

nhưng nếu còn đất nông nghiệp họ vẫn có khả năng, sức khỏe để thực hiện

những hoạt động nông nghiệp nhất định, giúp nuôi sống bản thân và gia đình.

Hầu hết các dự án của thành phố các khoản hỗ trợ đều chỉ được quy đổi

thành tiền, việc làm tạo ra thu nhập đối với họ chỉ là con số không. Chính vì

vậy, cần có sự quan tâm, hỗ trợ để những người dân sau khi bị thu hồi đất

nông nghiệp có thể dưỡng lão, an tâm với cuộc sống mới. Nên xem xét những

chính sách hỗ trợ nhằm giảm thiểu gánh nặng an sinh xã hội như chuyển đồi

nghề, tìm kiếm việc làm phù hợp và định hướng nghề nghiệp cho những

người trong và ngoài độ tuổi lao động tại địa phương.

Vì vậy hoàn thiện các quy định pháp luật về hỗ trợ và giải quyết việc

làm một giải pháp rất quan trọng giúp người bị thu hồi đất nhanh chóng ổn

định và duy trì cuộc sống, góp phần bình ổn xã hội. Trước khi tổ chức dạy

nghề cho họ, các cơ quan có thẩm quyền trên địa bàn cần nghiên cứu kỹ, nắm

bắt rõ nhu cầu của thị trường lao động trên địa bàn để có những định hướng

cụ thể và chính xác trong công tác đào tạo nghề, tránh tình trạng đào tạo xong

không sử dụng được hoặc thị trường không có nhu cầu sử dụng.

70

Thứ năm, hoàn thiện công tác quản lý dữ liệu đất đai

Qua phân tích một số dự án trên địa bàn thành phố Lai Châu, vấn đề

còn gặp phải là người dân tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất để đòi bồi

thường theo hiện trạng, đặt ra yêu cầu thực tiễn là phải nhanh chóng hoàn

thành việc cập nhật thông tin đất đai bằng dữ liệu điện tử. Thông qua việc số

hóa đất đai này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước cũng như địa phương

trong quá trình xác định đối tượng bồi thường, hỗ trợ và bảo đảm quyền lợi

cho người bị thu hồi đất theo quy định của pháp luật.

Cuối cùng, bên cạnh các quy định chung của pháp luật trong việc bảm

đảm chi trả bồi thường, hỗ trợ cho người dân có đất bị thu hồi, các địa phương

nói chung và thành phố Lai Châu nói riêng cần vận dụng linh hoạt các chính

sách hỗ trợ riêng của tỉnh, kêu gọi sự hỗ trợ của các chủ đầu tư, các doanh

nghiệp trong công tác GPMB cũng như tạo công ăn việc làm cho người dân

trên địa bàn. Mỗi địa phương trên toàn tỉnh có thể lập quỹ hỗ trợ riêng hoặc

ban hành quy chế nhằm ưu tiên đấu thầu cho những đơn vị kinh doanh đã tạo

được công ăn việc làm cho người bị thu hồi đất nông nghiệp, sử dụng lao

động tại chỗ và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.

3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi

Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Lai Châu, tỉnh

Lai Châu

Thứ nhất, các cấp chính quyền địa phương trong toàn tỉnh Lai Châu cần

đẩy mạnh việc công khai hóa, minh bạch hóa quá trình thực thi pháp luật về

bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

Việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ đối với đất nông nghiệp diễn ra không

công khai, rõ ràng, minh bạch dẫn đến việc trong quá trình thu hồi đất người

dân vẫn còn có thái độ bất bình, không đồng ý đối với phương án bồi thường,

hỗ trợ đã đưa ra. Từ đó việc cán bộ thực thi việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

71

nước thu hồi đất nông nghiệp đã gây nên những nghi ngờ trong nhân dân về

sự không công tâm trong công tác thực hiện. Vì vậy, trình tự cưỡng chế thu

hồi đất phải đảm bảo quyền lợi của người có đất thu hồi; đảm bảo công khai,

minh bạch và dân chủ; thực hiện đầy đủ trách nhiệm đối thoại, tăng cường sự

tham gia trực tiếp của nhân dân và giải trình của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền khi người dân chưa đồng thuận trong việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp. Đồng thời, thực hiện nghiêm việc lấy ý kiến và

công khai phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nhằm phát

huy dân chủ, công khai minh bạch, tăng cường sự giám sát của các cơ quan,

tổ chức và quần chúng nhân dân trong việc bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất

nông nghiệp, cũng như các vấn đề phát sinh trong quá trình thu hồi đất.

Thứ hai, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Thực hiện rà soát kỹ về hiện trạng sử dụng đất tránh tình trạng người

dân tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng, tiến hành đo đạc diện tích đất đai đồng

bộ; nghiêm túc thực hiện cải cách thủ tục hành chính về việc cấp giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất để giảm thời gian chờ đợi của người dân. Tiếp tục

đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu

điện tử để phục vụ cho việc quản lý thuận tiện, thống nhất với hồ sơ địa chính

tại thành phố Lai Châu nói riêng và trong toàn tỉnh Lai Châu nói chung.

Thứ ba, tỉnh Lai Châu nói chung và UBND thành phố Lai Châu nói

riêng cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đất đai nói

chung cũng như pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp cho người dân.

Không thể phủ nhận rằng có không ít khiếu nại vô lý, thiếu căn cứ, đặc

biệt do người dân không nắm được pháp luật lại bị các phần tử xấu lôi kéo,

xúi giục không chấp hành quyết định thu hồi đất của chính quyền, đi khiếu nại

vượt cấp, gây bất an dư luận. Tại nhiều dự án, một số người dân đã ngăn cản

72

cán bộ đến đo đạc, kiểm đếm vì không hiểu biết quy trình tiến hành GPMB,

nhận tiền hỗ trợ GPMB nhưng vẫn không chịu bàn giao mặt bằng cho chủ đầu

tư, dẫn đến phải thực hiện cưỡng chế thu hồi đất.

Để khắc phục tình trạng này, đặc biệt Lai Châu là tỉnh miền núi với dân

tộc thiểu số chiếm đa số, trình độ dân trí của họ còn thấp và chủ yếu sinh sống

bằng nghề nông nên trước tiên phải thay đổi nhận thức của họ thông qua công

tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp Luật về đất đai nói chung, về thu

hồi, bồi thường, hỗ trợ đất nông nghiệp nói riêng. Hệ thống pháp luật về đất

đai khá đa dạng và phức tạp, phần lớn các quy định liên quan đến công tác bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được nằm rải rác tại

nhiều văn bản từ Trung ương đến địa phương, để người dân có thể nắm bắt

được quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ pháp luật đất đai thì công tác

tuyên truyền đòi hỏi sự khéo léo, đa dạng hóa về mặt hình thức, linh hoạt về

nội dung phù hợp với từng đối tượng tiếp nhận. Đặc biệt, trước khi tiến hành

thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và giải phóng mặt bằng chủ đầu tư cần phối

hợp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện tuyên truyền, vận

động giúp người dân nhận thức, ủng hộ các chủ trương thu hồi đất của Nhà

nước, từ đó dễ dàng đồng ý, chấp nhận các phương án bồi thường, hỗ trợ khi

có đất nông nghiệp bị thu hồi.

Mặt khác phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của UBND cấp trên, Mặt

trận tổ quốc và các đoàn thể đối với quá trình thực hiện việc tuyên truyền, phổ

biến và giáo dục pháp Luật Đất đai nói chung cũng như pháp luật về bồi

thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của UBND các cấp để phát

hiện, chấn chỉnh kịp thời những yếu kém, sai phạm và xử lý nghiêm cơ quan,

đơn vị không thực hiện hoặc thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật

một cách qua loa hình thức.

73

Kết luận Chương 3

Thông qua các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi hành các quy định này tại thành

phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu đã cho thấy được việc hoàn thiện hệ thống pháp

luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp phải căn cứ

vào chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về đất đai, gắn

với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về đất đai.

Để thực hiện tốt những quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ

khi Nhà nước thu hồi đất và bảo đảm quyền lợi của người dân thì Nhà nước

và người làm công tác xây dựng pháp luật phải hoàn thiện pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Đây là một nhiệm vụ

hết sức khó khăn và phức tạp, đòi hỏi phải có một quá trình. Bên cạnh việc

nâng cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp thì việc bồi dưỡng trình độ

chuyên môn cho đội ngũ cán bộ của các cơ quan thực thi pháp luật cũng là

điều rất cần thiết. Vì vậy, pháp luật phải quy định rõ ràng, cụ thể chức năng,

nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm phối hợp giữa các cơ quan, khi thực hiện

nhiệm vụ của mình.

Tại Chương này, trên cơ sở những vấn đề lý luận chung về bồi thường,

hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi hành pháp luật

về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai

Châu, tỉnh Lau Châu, tác giả đã đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện hệ

thống pháp luật Việt Nam về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp nói chung và các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực thi pháp

luật của Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất nông nghiệp tại thành

phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Các định hướng và giải pháp đưa ra đảm bảo

tính khả thi, phù hợp với tình hình thực tế trên địa bàn thành phố.

74

KẾT LUẬN

Trong quá trình phát triển đất nước và xu hướng hội nhập kinh tế quốc

tế, thì bản thân việc thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng để

phục vụ cho lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng là cần thiết đối với quốc gia

nhưng lại tác động rất lớn đến người bị thu hồi đất. Vì thế, phải có những

chính sách và quy định pháp luật cụ thể về bồi thường, hỗ trợ cho những thiệt

hại khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp gây ra những thiệt hại cho người sử

dụng đất. Nhà nước cũng cần phải điều tiết, giải quyết hài hòa lợi ích giữa

người bị thu hồi đất, Nhà nước và chủ đầu tư (doanh nghiệp). Từ đó, sẽ tạo

động lực cho sự phát triển của xã hội nếu giải quyết tốt lợi ích kinh tế giữa ba

chủ thể này; và ngược lại, nếu không làm tốt sẽ là nguyên nhân của những đối

kháng và mâu thuẫn xã hội.

Với mục đích nghiên cứu ban đầu, Chương 1 của luận văn đã tập trung

làm rõ những vấn đề lý luận chung và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, Chương 2 của luận văn tìm hiểu nội

dung pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.

Bên cạnh đó, luận văn cũng đã đi sâu phân tích thực trạng những quy định của

pháp luật hiện hành về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo pháp

luật đất đai trên địa bàn thành phố Lai Châu; thực tiễn thi hành pháp luật về

bồi thường, hỗ trợ đối với người dân bị thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố

Lai Châu, tỉnh Lai Châu (từ năm 2015 đến năm 2019); chỉ rõ những tích cực,

khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong trong việc thực thi pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai Châu.

Từ những phân tích, đánh giá qua việc thi hành các quy định của pháp

luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn

75

tại thành phố Lai Châu, Chương 3 đã nêu ra quan điểm và đưa ra những định

hướng, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi

thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại thành phố Lai Châu,

tỉnh Lai Châu.

Qua nghiên cứu đề tài: “Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn thành phố Lai Châu, tỉnh Lai

Châu”, tác giả xin phép đưa ra một số kết luận sau:

1. Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích quốc

phòng, an ninh; lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và sử dụng vào mục đích

phát triển kinh tế chung của đất nước không do lỗi của người sử dụng đất gây

ra mà xuất phát từ nhu cầu thực tế khách quan của xã hội.

2. Những hậu quả năng nề đã gây ra cho người sử dụng đất khi Nhà

nước thu hồi đất nông nghiệp là một điều không thể phủ nhận. Do đó, để khắc

phục hậu quả, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử

dụng đất nông nghiệp, thì trong những quy định của pháp luật về bồi thường,

hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam không chỉ đề cập

đến việc bồi thường về diện tích đất thực tế bị thu hồi, về thiệt hại tài sản gắn

liền với đất bị thu hồi; ngoài ra còn có các quy định về hỗ trợ hỗ trợ việc đào

tạo, chuyển đổi nghề nghiệp, hỗ trợ đời sống gặp khó khăn cho người trực

tiếp sản xuất nông nghiệp bị mất đất sản xuất.

3. Để tạo hành lang pháp lý cho công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà

nước thu hồi đất (trong đó có bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp), Quốc hội cũng đã cho ra đời Luật đất đai năm 1993, 2003 và

mới nhất tại thời điểm hiện tại đang áp dụng là Luật đất đai năm 2013 cùng

nhiều văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành việc bồi thường, hỗ trợ.

76

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia), Đất nông nghiệp,

https://vi.wikipedia.org/wiki/Đất_nông_nghiệp.

2. Báo cáo thuyết minh tổng hợp, “Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất

đến năm 2020, lập kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016 - 2020) tỉnh Lai Châu”,

Lai Châu.

3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Thông tư số 37/2014/TT-

BTNMT ngày 30/06/2014 quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội.

4. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy

định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai, Hà Nội.

5. Chính phủ (2014), Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy

định về giá đất, Hà Nội.

6. Chính phủ (2014), Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy

định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Hà Nội.

7. Cổng thông tin điện tử tỉnh Lai Châu, “Thành phố Lai Châu”,

http://laichau.gov.vn/danh-muc/tong-quan-lai-chau/cac-huyen-xa-thuoc-

tinh/thanh-pho-lai-chau.html, Thứ 3, 10/11/2020; 16:07

8. Điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của tỉnh Lai Châu,

http://laichau.gov.vn/gioi-thieu/dieu-kien-kinh-te-xa-hoi/dan-so-va-nguon-

lao-dong-loi-the-ve-tu-nhien-loi-the-ve-vi-t.html. Thứ 5, 28/05/2020; 15:42

9. Điều kiện tự nhiên xã hội, Trang thông tin điện tử Thành phố Lai

Châu, http://thanhpho.laichau.gov.vn/gioi-thieu/dieu-kien-tu-nhien-xa-hoi-

28.html. Chủ nhật, 01/06/2014; 00:48

10. Hoàng Thị Lan (2019), “Bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi

đất nông nghiệp theo pháp Luật đất đai từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Luận

77

văn thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

11. Trần Thị Huyền Lê (2015), “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi

nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn áp dụng tại Hà Nam”, Luận

văn thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

12. Nguyễn Thị Nga (2013), “Một số ý kiến trao đổi về vấn đề thu hồi

đất, bồi thường,hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Dự thảo

Luật Đất đai sửa đổi”, Hội thảo khoa học góp ý Luật Đất đai sửa đổi, Hà Nội.

13. Nguyễn Thị Nga (2013), “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định

cư khi Nhà nước thu hồi đất - Thực trạng và hướng hoàn thiện”, đề tài khoa

học cấp trường, trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

14. Trần Nhật Quân (2018), “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

nông nghiệp theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định”, Luận văn

thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

15. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.

16. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, Hà Nội.

17. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

18. Đinh Hùng Sơn (2016), “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất nông nghiệp - Thực tiễn thi hành tại địa bàn huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn

La”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Đại học Mở Hà Nội, Hà Nội.

19. Thông tấn xã Việt Nam, “Lai Châu: Thu đất làm Trường THPT

chuyên Lê Quý Đôn đúng quy định”, https://www.vietnamplus.vn/lai-chau-

thu-dat-lam-truong-thpt-chuyen-le-quy-don-dung-quy-dinh/536583.vnp.

24/11/2018; 07:57

20. Nguyễn Duy Thơ (2017), “Pháp luật về bồi thường khi nhà nước

thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn quận Dương Kinh, thành phố Hải

Phòng”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Đại học Mở Hà Nội, Hà Nội.

21. Phạm Thu Thủy (2014), “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu

78

hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học

Luật Hà Nội, Hà Nội.

22. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Lai Châu (2019), “Tổng hợp

kết quả thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng năm 2018 và 6 tháng đầu

năm 2019”, thành phố Lai Châu, Lai Châu.

23. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Lai Châu (2019), “Tổng

hợp kết quả hỗ trợ, tái định cư và giải quyết việc làm”, thành phố Lai Châu,

Lai Châu.

24. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Lai Châu (2019), “Biểu

tổng hợp tiến độ các dự án thu hồi đất năm 2018 và 6 tháng đầu năm 2019”,

thành phố Lai Châu, Lai Châu.

25. TS. Nguyễn Quang Tuyến (2008), Vấn đề thu hồi đất và bồi thường

khi thu hồi đất trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi, bổ sung), Tạp chí Luật

học, (số 12).

26. TS. Nguyễn Quang Tuyến (2008), Bình luận các quy định về thu

hồi đất và bồi thường khi thu hồi đất trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi),

Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (số 12).

27. PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến (2009), Vấn đề lý luận xung quanh

khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, Tạp chí Luật học, số 1/2009.

28. Nguyễn Quang Tuyến, Nguyễn Minh Ngọc (2010), "Pháp luật về

bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở Singapore và Trung Quốc

– Những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về bồi thường, tái

định cư khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, (số 10).

29. PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến (2012), Công khai, minh bạch để

bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (số 2).

30. PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến (2013), Kinh nghiệm của một số

nước về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, Bản tin Thông tin Khoa học

79

Lập pháp (số 01).

31. Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (2014), Quyết định số 33/2014/QĐ-

UBND ngày 05/11/2014 về việc ban hành Quy định một số nội dung về bồi

thường, hỗ trợ và tái định cư; trình tự, thủ tục thực hiện bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư trên địa bàn Tỉnh Lai Châu, Lai Châu.

32. Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (2014), Quyết định số 34/2014/QĐ-

UBND ngày 05/11/2014 về việc ban hành Quy định về trình tự thực hiện thu

hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất trên địa bàn tỉnh Lai

Châu, Lai Châu.

33. Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (2014), Quyết định số 43/2014/QĐ-

UBND ngày 19 tháng 12 năm 2014 về việc ban hành giá đất trên địa bàn tỉnh

Lai Châu, Lai Châu.

34. Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (2016), Quyết định số 21/2016/QĐ-

UBND ngày 22 tháng 7 năm 2016 về việc ban hành bổ sung giá đất trong

bảng giá đất của các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Lai Châu ban hành

kèm theo Quyết định số 43/2014/QĐ-UBND ngày 19/12/2014 của UBND tỉnh

Lai Châu, Lai Châu.

35. Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (2016), Quyết định số 46/2016/QĐ-

UBND ngày 21 tháng 11 năm 2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định

ban hành kèm theo quyết định số 33/2014/QĐ-UBND, Quyết định số

35/2014/QĐ-UBND; bãi bỏ một số điều của quy định kèm theo quyết định số

34/2014/QĐ-UBND, số 35/2014/QĐ-UBND; bãi bỏ quyết định số

30/2013/QĐ-UBND của ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu, Lai Châu.

36. Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (2017), Quyết định số 30/2017/QĐ-

UBND ngày 14/8/2017 ban hành đơn giá bồi thường về nhà, công trình xây

dựng trên đất, cây trồng, vật nuôi và các tài sản khác gắn liền với đất khi Nhà

nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Lai Châu, Lai Châu.

80

37. Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu (2018), Quyết định số 31/2018/QĐ-

UBND ngày 24 tháng 09 năm 2018 điều chỉnh, bổ sung giá đất trong bảng

giá đất trên địa bàn tỉnh lai châu ban hành kèm theo quyết định số

43/2014/QĐ-UBND ngày 19/12/2014 của UBND tỉnh Lai Châu, Lai Châu.

38. https://luatduonggia.vn/dat-nong-nghiep-la-gi-phan-loai-cac-loai-

dat-nong-nghiep/. 13/10/2020

39. https://azlaw.vn/boi-thuong-thu-hoi-dat-dai-theo-quy-dinh-phap-

luat.htm. 19/08/2019

40. http://www.tapchicongthuong.vn/bai-viet/phap-luat-ve-ho-tro-khi-

nha-nuoc-thu-hoi-dat-thuc-trang-va-mot-so-khuyen-nghi-26704.htm.

20/03/2017; 14:03

41. https://tapchitoaan.vn/bai-viet/xay-dung-phat-luat/luat-dat-dai-va-

hoan-thien-phap-luat-dat-dai-o-viet-nam-hien-nay.

81