VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRƯƠNG HỮU BẢN BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH TRÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRƯƠNG HỮU BẢN BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH TRÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trương Hữu Bản
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ............... 8
1.1 Các khái niệm ........................................................................................... 8
1.2 Lý luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
...................................................................................................................... 14
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp ............................................................................................ 25
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BỒI
THƯƠNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NỒNG NGHIỆP VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ
NỘI ................................................................................................................. 30
2.1 Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp ........................................................................................................... 30
2.2 Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội .................................. 50
2.3. Thực tiễn bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thực tiễn tại
huyện Thanh Trì ........................................................................................... 58
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ ĐẢM BẢO
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU
HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH TRÌ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................. 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp được đánh giá là một trong những ngành nghề mũi nhọn
truyền thống của Việt Nam với gần 70% dân số làm nghề nông. Theo thống
kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong 9 tháng đầu năm 2018
mặc dù phải đối mặt với 14 loại hình thiên tai gây thiệt hại về kinh tế hơn
2.356 tỷ đồng nhưng khu vực nông - lâm - thuỷ sản vẫn đạt mức tăng trưởng
cao nhất trong giai đoạn 2012 – 2018. Tổng kim ngạch xuất khẩu 9 tháng của
ngành nông nghiệp ước đạt 29,54 tỷ USD, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm
2017, bằng 73% kế hoạch năm và vượt 1,3% mục tiêu quý III đã đề ra [21,
tr1].
Trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, Nhà nước chủ trương
đẩy mạnh hoạt động nông nghiệp theo hướng tập trung, tăng cường áp dụng
các biện pháp kỹ thuật tiên tiến để nâng cao năng suất và hiệu quả khai thác
đất nông nghiệp hiện có. Đồng thời, để tạo điều kiện cho các ngành công
nghiệp phát triển, Nhà nước cũng có chính sách chuyển đổi một phần diện
tích đất nông nghiệp sang phục vụ các hoạt động công nghiệp, xây dựng cơ sở
hạ tầng kỹ thuật. Thực hiện chủ trương này, Nhà nước phải tiến hành thu hồi
đất nông nghiệp của người dân và bồi thường tương ứng với diện tích thu hồi.
Thực tế cho thấy hoạt động thu hồi đất là một trong những hoạt động có
tính nhạy cảm cao, dễ phát sinh tranh chấp, khiếu kiện vì ảnh hưởng trực tiếp
đến công việc, nguồn thu nhập và đời sống của người nông dân. Đơn cử tại
huyện Thanh Trì, thời gian vừa qua, vấn đề thu hồi và bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp trở thành một vấn đề nổi cộm cần nhanh chóng
giải quyết (đặc biệt liên quan đến các dự án khu đô thị Tây Nam Kim Giang
và dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 1A đoạn qua huyện Thanh Trì).
1
Thực trạng trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan
như: những hạn chế, bất cập trong hệ thống quy định pháp luật liên quan đến
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, thiếu kinh nghiệm cũng
như thiếu sự linh hoạt trong quá trình thu hồi, bồi thường đất nông nghiệp dẫn
đến sự bất hòa về lợi ích giữa các bên… Do đó, việc nghiên cứu thực trạng
pháp luật, thực tiễn thi hành để đề xuất biện pháp hoàn thiện, bổ sung cho
hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đang ngày càng trở nên quan
trọng và cấp thiết. Chính vì vậy, người viết đã lựa chọn đề tài “Bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật đất đai từ thực tiễn
huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội” để làm luận văn tốt nghiệp trình độ
thạc sĩ luật học.
Tuy nhiên, do vấn đề về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp là một vấn đề pháp lý phức tạp với nhiều quy định pháp luật liên quan
và là một hoạt động có tính nhạy cảm cao. Điều này đã khiến cho quá trình
nghiên cứu, tìm hiểu và bình luận, đánh giá về nội dung đề tài của người viết
gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, người viết rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của Quý thầy cô, Quý đồng nghiệp và những người quan tâm đến đề tài
này để luận văn được hoàn thiện hơn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là một vấn đề mang
tính lý luận và tính thời sự nóng bỏng nên đã thu hút nhiều sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu, nhà lập pháp cũng như các tổ chức, cá nhân hoạt động
liên quan đến lĩnh vực này. Do đó, tính đến thời điểm hiện nay, có rất nhiều
công trình nghiên cứu về vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp trên nhiều khía cạnh khác nhau. Có thể liệt kê một số công trình
nghiên cứu đáng chú ý như sau:
2
- Nhóm công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và kinh nghiệm của một số quốc gia
trên thế giới: Trong nhóm này, có thể đề cập đến bài viết “Vấn đề lý luận
xung quanh khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” của TS Nguyễn
Quang Tuyến trong Tạp chí Luật học, số 1/2009; Bài viết “Pháp luật về bồi
thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Singapore và Trung Quốc –
Những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về bồi thường, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất” của TS Nguyễn Quang Tuyến và THS.
Nguyễn Ngọc Minh trong Tạp chí Luật học, số 10/2010; ……
- Nhóm công trình nghiên cứu về hệ thống quy phạm pháp luật Việt
Nam điều chỉnh vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
có: Bài viết “Một số ý kiến trao đổi về vấn đề thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Dự thảo Luật đất đai sửa đổi”
của TS. Nguyễn Thị Nga trong Hội thảo khoa học góp ý Luật đất đai sửa đổi
tại thành phố Hà Nội vào ngày 12/04/2013; Luận án “Pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam” của TS. Phạm Thu Thủy
tại Đại học Luật Hà Nội năm 2014; Bài viết “Pháp luật về trình tự, thủ tục
thu hồi đất, bồi thường và giải phóng mặt bằng và những vướng mắc nảy sinh
trong quá trình áp dụng” của TS. Nguyễn Thị Nga trong Tạp chí Luật học số
11/2010, ….
- Nhóm công trình nghiên cứu về vấn đề tổ chức thực thi và hoàn
thiện quy định pháp luật liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp gồm: Bài viết “Giải bài toán lợi ích kinh tế giữa ba chủ thể:
Nhà nước, người có đất bị thu hồi và chủ đầu tư khi bị thu hồi đất” của Ths.
Đặng Đức Long trên Tạp chí Tài nguyên và Môi trường số 5/2009; Báo cáo
“Tình hình thu hồi đất của nông dân thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tháng 7/2007…
3
Luận văn Thạc sĩ về "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp qua thực tiễn tại Dự án khu đô thị Dương Nội, Quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội" của Nguyễn Thanh Thư, Học viện Khoa học xã hội
(năm 2015). Trong Luận văn đã đề cập và làm rõ hơn cơ sở lý luận về bồi
thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và sự tác động của nó
đến đời sống, sinh hoạt của người dân có đất bị thu hồi. Thông qua đó Luận
văn đã phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp ở Khu đô thị Dương Nội, Quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội. Từ đó nêu lên một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn Thạc sĩ về "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp và thực tiễn áp dụng tại Hà Nam" của Trần Thị Huyền
Lê, Đại học Quốc gia Hà Nội (năm 2015). Trong Luận văn đã làm rõ một số
vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ và hệ thống hóa các quy định pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Luận văn đã
đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành về bồi thường, hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Đưa ra định
hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và
nâng cao hiệu quả công tác thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất .
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu trong thời gian vừa qua đã tương đối
đầy đủ, đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất. Tác giả luận văn có sự tham khảo các kết quả nghiên cứu trong
các công trình này vào quá trình tìm hiểu các vấn đề của đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua hoạt động nghiên cứu các vấn đề lý luận và hệ thống quy
định pháp luật hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
4
nghiệp, người viết mong muốn tìm ra những điểm bất cập, hạn chế liên quan
đến vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đồng thời đề xuất những giải
pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội nói riêng, cho Việt Nam nói
chung.
Căn cứ mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chính gồm:
(i) Làm sâu sắc thêm một số vấn đề lý luận chung về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp;
(ii) Thực trạng quy định pháp luật hiện hành về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp;
(iii) Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp dưới góc nhìn tại huyện Thanh Trì, thành
phố Hà Nội;
(iv) Nhận định những vướng mắc, bất cập còn tồn tại trong hệ thống quy
phạm pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành quy định pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp;
(v) Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật và đề xuất các
giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu đối tượng là các quy định pháp luật Việt
Nam về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi
hành các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại
huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu, đánh giá và bình luận toàn bộ các nội
dung liên quan đến vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
5
Phạm vi nghiên cứu bao gồm nhưng không giới hạn bởi những khía cạnh sau:
vấn đề lý luận chung liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp, quy định pháp luật hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp và thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp…
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
Để đảm bảo mục đích nghiên cứu và hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu
của đề tài, luận văn sử dụng xuyên suốt phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
chính sách đất đai.
Bên cạnh đó, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế, lịch sử … để nâng cao hiệu
quả của hoạt động nghiên cứu, đánh giá và bình luận các khía cạnh của vấn đề
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
6
6. Ý nghĩa lý luận thực tiễn
Luận văn có giá trị như một tài liệu tham khảo có sự kết hợp giữa tính
pháp lý và tính thực tiễn, giúp cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức quan tâm có
cách nhìn sâu sắc hơn về vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp. Đặc biệt, thông qua hoạt động phân tích, đánh giá, bình luận các quy
định pháp luật cùng thực tiễn thi hành tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội,
luận văn đã đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật và
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp. Người viết cho rằng đây sẽ là một trong những đóng góp mang
ý nghĩa quan trọng của luận văn trong việc hỗ trợ các cơ quan có thẩm quyền
xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật cũng như áp dụng các giải
pháp hữu ích để nâng cao hiệu quả thi hành quy định về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố
Hà Nội
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và đảm bảo thực hiện pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện
Thanh Trì, thành phố Hà Nội
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP
1.1 Các khái niệm
1.1.1 Khái niệm đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là một loại đất có tính đặc trưng riêng biệt so với các
loại đất khác trong hệ thống đất đai. Theo quan niệm truyền thống của người
Việt Nam thì đất nông nghiệp thường được hiểu là đất trồng lúa, trồng cây
hoa màu như: ngô, khoai, sắn và những loại cây được coi là lương thực. Tuy
nhiên, trên thực tế, việc sử dụng đất nông nghiệp tương đối phong phú, không
chỉ đơn thuần là để trồng lúa, hoa màu mà còn dùng vào mục đích chăn nuôi
gia súc, nuôi trồng thủy sản hay để trồng cây lâu năm … [9, tr 303].
Từ điển Luật học của Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) có định
nghĩa về đất nông nghiệp như sau: “Đất nông nghiệp: Tổng thể các loại đất
được xác định là tư liệu sản xuất chủ yếu phục vụ cho việc trồng trọt và chăn
nuôi, nghiên cứu thí nghiệm về trồng trọt và chăn nuôi, bảo vệ môi trường
sinh thái, cung ứng sản phẩm cho ngành công nghiệp và dịch vụ” [10, tr427].
Áp dụng cách giải thích của Từ điển luật học, Luật đất đai năm 1987 –
Luật đất đai đầu tiên của Việt Nam – đã ghi nhận: “Đất nông nghiệp là đất
được xác định chủ yếu dùng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn
nuôi, kể cả nuôi trồng thủy sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về trồng trọt,
chăn nuôi” (Điều 23). Bên cạnh đất nông nghiệp, dựa trên mục đích sử dụng,
luật đất đai còn phân biệt thêm năm loại đất khác gồm: đất lâm nghiệp, đất
khu dân cư, đất chuyên dùng và đất chưa sử dụng. Kế thừa tinh thần của Luật
đất đai 1987, Luật đất đai 1993 tiếp tục công nhận cách định nghĩa về đất
nông nghiệp nêu trên. Có thể thấy, thời điểm này, đất nông nghiệp chỉ là một
8
trong sáu loại đất thuộc hệ thống đất đai quốc gia và có sự tách biệt rõ ràng
với đất lâm nghiệp. Điều này đã đem đến nhiều khó khăn cho người sử dụng
đất khi phải chuyển đổi mục đích sử dụng đất để có thể xây dựng mô hình
trang trại kết hợp trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng rừng. Bởi trong quá trình
khai thác đất và nâng cao hiệu quả sản xuất, căn cứ chủ trương của Đảng, các
hộ gia đình, cá nhân thường có xu hướng kết hợp nhiều loại đất theo mô hình
trang trại.
Để giải quyết những vấn đề còn vướng mắc nêu trên, Luật đất đai năm
2003 ra đời đã loại bỏ khái niệm “đất nông nghiệp” và thay thế bằng “nhóm
đất nông nghiệp”. Theo đó, đất nông nghiệp được mở rộng hơn với nhiều loại
đất khác nhau gồm: đất trồng cây hàng năm như đất trồng lúa, đất đồng cỏ
dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hàng năm khác; đất trồng cây lâu năm; đất
rừng sản xuất; đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất nuôi trồng thủy sản;
đất làm muối và đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ. Cách
thức quy định về nhóm đất nông nghiệp vẫn tiếp tục được ghi nhận tại Luật
đất đai 2013 – Luật đang có hiệu lực thi hành. Thực tế cho thấy, việc quy định
đất nông nghiệp theo phạm vi rộng như trên là hoàn toàn phù hợp và đã thực
sự mang lại hiệu quả cho hoạt động khai thác, sử dụng đất nông nghiệp, góp
phần phát triển nền kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại. Bên cạnh đó,
việc phân tách từng loại đất trong nhóm đất nông nghiệp cũng tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình xây dựng quyền và nghĩa vụ đặc thù đối với người sử
dụng từng loại đất cũng như chế độ được hưởng khi Nhà nước thu hồi đất.
Từ các nội dung nêu trên, “đất nông nghiệp” được hiểu là tổng thể các
loại đất có chung đặt tính sử dụng và phục vụ chủ yếu cho mục đích sản xuất
nông lâm – ngư nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi thủy sản,
nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối … với tư cách
là tư liệu sản xuất chính.
9
Với vai trò là một loại đất trong hệ thống đất đai quốc gia, đất nông
nghiệp cũng mang đầy đủ các đặc trưng cơ bản của đất như: là một sản
phẩm của tự nhiên, có tính cố định, có giá trị sử dụng lâu dài phụ thuộc vào
khả năng khai thác của người sử dụng đất … Tuy nhiên, ngoài những đặc
điểm chung nêu trên, đất nông nghiệp còn mang nhiều đặc điểm có tính đặc
thù như sau:
Thứ nhất, đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất quan trọng và không thể
thay thế trong hoạt động sản xuất nông nghiệp
Thực tế cho thấy, toàn bộ hoạt động sản xuất nông nghiệp (đặc biệt liên
quan đến trồng trọt) đều cần thực hiện trên một diện tích đất nông nghiệp có
độ màu mỡ phù hợp. Với vai trò là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng quan
trọng, đất đai là một môi trường sống không thể thiếu cho sự phát triển của
hoa màu, cây lương thực. Cho đến hiện nay, mặc dù khoa học đã có những
bước tiến vượt bậc nhưng vẫn không có bất cứ sản phẩm hoặc tư liệu nào có
thể thay thế vai trò của đất trong hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Thứ hai, hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào
chất lượng đất và cách thức khai thác, cải tạo đất của người sử dụng đất
Đất nông nghiệp là sản phẩm của tự nhiên và bị giới hạn trong một
khoảng không gian xác định, không thể tăng lên về số lượng. Tuy nhiên, sức
sản xuất của đất nông nghiệp lại vô hạn, tùy thuộc vào cách thức khai thác, sử
dụng và chăm sóc đất của người sử dụng đất. Trường hợp đất nông nghiệp
được bảo vệ, cải tạo tốt sẽ góp phần nâng cao năng suất của hoạt động nông
nghiệp và ngược lại, nếu đất nông nghiệp không được chăm sóc tốt, năng suất
cũng như chất lượng nông sản cũng sẽ giảm sút.
Có thể thấy, nếu như giá trị của đất sử dụng vào những mục đích khác
như đất xây dựng cơ sở hạ tầng, đất sản xuất kinh doanh công nghiệp…. phụ
thuộc vào vị trí của đất thì đối với đất nông nghiệp, giá trị của đất lại phụ
10
thuộc vào độ màu mỡ, phì nhiêu và sự chăm bón, cải tạo của người sử dụng
đất. Vì vậy, người sử dụng đất cần có những biện pháp chăm sóc, cải tạo đất
phù hợp để đảm bảo hiệu quả sử dụng đất và nâng cao năng suất khai thác
đất.
Thứ ba, đất nông nghiệp có thể chuyển đổi để phục vụ nhiều mục đích
khác nhau
Trong quá trình khai thác đất, phụ thuộc vào quy hoạch của nhà nước,
đất nông nghiệp có thể chuyển đổi để phục vụ các mục đích khác như chuyển
đổi từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp, chuyển đổi giữa các loại đất
trong nhóm đất nông nghiệp …. Bởi đất nông nghiệp mang đầy đủ đặc trưng
của các loại đất khác (chỉ chứa đựng thêm một số điểm riêng biệt của đất
nông nghiệp như độ phì nhiêu, màu mỡ …) nên đất nông nghiệp hoàn toàn có
thể chuyển sang các loại đất khác. Trong khi những loại đất khác lại khó có
khả năng chuyển đổi sang mục đích nông nghiệp do không có đặc trưng riêng
của đất nông nghiệp.
Tuy nhiên, khi đã chuyển đổi sang sử dụng cho các mục đích khác, việc
chuyển đổi lại để phục vụ cho mục đích nông nghiệp cũng sẽ tương đối khó vì
sau một thời gian sử dụng cho các mục đích khác, đất đã mất đi độ màu mỡ,
phì nhiêu vốn có. Khi đó, hoạt động sản xuất nông nghiệp trên những diện
tích đất này cũng sẽ không mang lại hiệu quả cao. Do vậy, trong quá trình
công nghiệp hóa – hiện đại hóa, các nhà làm luật cũng như các cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền quyết định chuyển đổi đất nông nghiệp cũng cần
có sự cân nhắc kỹ lưỡng trước khi thực hiện hoạt động chuyển đổi đất nông
nghiệp sang phục vụ các mục đích khác.
1.1.2 Khái niệm thu hồi đất nông nghiệp
Khái niệm “Thu hồi đất” được sử dụng tương đối phổ biến trong ngôn
ngữ pháp lý cũng như cuộc sống sinh hoạt đời thường. Trong khoa học pháp
11
lý hiện nay còn tồn tại nhiều cách định nghĩa về khái niệm “thu hồi đất” khác
nhau, trong đó điển hình là một số cách định nghĩa như sau:
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, khái niệm thu hồi đất được
hiểu là việc: “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất
của người vi phạm quy định về sử dụng đất để nhà nước giao cho người khác
sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp
thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để
sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng” [10, tr173]. Khái niệm đã phần nào thể hiện rõ bản chất của hoạt động
thu hồi đất nói chung là chấm dứt quyền sử dụng của người sử dụng đất bằng
một quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này đã
khẳng định quyền định đoạt của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu
đối với đất đai. Tuy nhiên, khái niệm vẫn chưa bao quát được toàn bộ các
trường hợp thu hồi đất do khái niệm còn sử dụng phương pháp liệt kê các
trường hợp bị thu hồi đất.
Hay căn cứ quy định tại khoản 5 điều 4 Luật đất đai năm 2003: “Thu hồi
đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất
đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy
định của Luật này”. Khái niệm đã phản ánh đúng về chủ thể có thẩm quyền
thu hồi đất là Nhà nước (thông qua quyết định hành chính của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền). Tuy nhiên, khái niệm đang hạn chế phạm vi đối
tượng có thể bị Nhà nước thu hồi đất trong đó phải kể đến hộ gia đình, cá
nhân sử dụng đất – chủ thể sử dụng đất bị thu hồi đất phổ biến nhất hiện nay.
Khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong cách định nghĩa của Luật đất đai
2003, Luật đất đai năm 2013 đã ghi nhận:“Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà
nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao
12
quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật
về đất đai” (Khoản 11 Điều 3).
Từ khái niệm “thu hồi đất” nói chung, có thể hiểu khái niệm “thu hồi
đất nông nghiệp là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại đất
nông nghiệp và quyền sử dụng đất nông nghiệp đã giao cho các chủ thể sử
dụng đất theo quy định pháp luật đất đai” [24, tr29]. Như đã phân tích, vấn
đề thu hồi đất nông nghiệp là một vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến
cuộc sống của người nông dân (mất tư liệu sản xuất, mất công việc). Do đó,
thu hồi đất nông nghiệp vì bất cứ lý do nào, Nhà nước cũng cần đặc biệt chú
trọng đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ cho người nông dân sớm ổn định cuộc
sống và tìm kiếm được định hướng mới.
1.1.3 Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Việt Nam là một quốc gia áp dụng chế độ sở hữu toàn dân về đất đai do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Tùy thuộc vào chính
sách, kế hoạch phân bổ đất cho từng thời kỳ, Nhà nước có quyền trao quyền
sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này thông qua việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn
liền với đất cho người sử dụng đất.
Mặc dù không có quyền sở hữu đối với đất đai nhưng người sử dụng đất
sẽ được công nhận quyền sử dụng đất với ý nghĩa là một quyền tài sản. Theo
đó, người sử dụng đất được quyền “định đoạt” quyền sử dụng đất hợp pháp
của mình thông qua các hình thức như chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê,
cầm cố, thế chấp quyền sử dụng đất …
Với tư cách đại diện chủ sở hữu, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nhà nước có quyền thu hồi đất đã cấp cho người nông dân
vì mục đích phát triển kinh tế, xã hội, vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Tuy nhiên,
xét trong mối quan hệ giữa các quy định pháp luật hiện hành, khi Nhà nước
13
thu hồi đất nông nghiệp (đồng nghĩa với thu hồi quyền sử dụng đất – một
quyền tài sản của người dân), Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường cho
người dân bị thu hồi đất một giá trị tương ứng với giá trị quyền sử dụng đất đã
thu hồi. Khoản 12 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 đã định nghĩa: “Bồi thường
về đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất
thu hồi cho người sử dụng đất”.
Tóm lại, có thể hiểu một cách đầy đủ về khái niệm bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất như sau:
“Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng,
phát triển kinh tế, phải bù đắp những tổn hại về đất và tài sản trên đất do
hành vi thu hồi đất gây ra cho người sử dụng đất tuân theo những quy định
của pháp luật đất đai” [24, tr37].
Đất nông nghiệp là một trong những loại đất cơ bản của hệ thống đất đai
nên áp dụng tương tự cách hiểu trên:
“Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là việc Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế, phải bù đắp những tổn hại về
đất và tài sản trên đất do hành vi thu hồi đất nông nghiệp gây ra cho người
sử dụng đất tuân theo những quy định của pháp luật đất đai” [28, tr37].
1.2 Lý luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp
1.2.1 Sự cần thiết của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp
Trong tiến trình phát triển của Việt Nam hiện nay, việc thu hồi một phần
đất nông nghiệp để phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, vì mục đích
quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích dân tộc và cộng đồng là một trong
14
những xu thế tất yếu, cần thiết. Với công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, nhu cầu về quỹ đất để thực hiện các hoạt động công nghiệp, xây
dựng cơ sở hạ tầng và phát triển đô thị ngày càng cao. Theo số liệu khảo sát
về diện tích của các loại đất ở Việt Nam hiện nay, đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ
cao hơn hẳn so với các loại đất khác. Bởi đến thời điểm hiện tại, nông nghiệp
vẫn là một ngành nghề chủ lực của Việt Nam và đa số người dân của Việt
Nam đang sống dựa trên thu nhập từ nông nghiệp. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu
về đất cho các hoạt động công nghiệp hóa, vì lợi ích quốc gia, đất nông
nghiệp là đối tượng được hướng tới hàng đầu. Ngoài ra, cùng với sự tiến bộ
khoa học – công nghệ, thời gian qua, Việt Nam đã áp dụng nhiều biện pháp
kỹ thuật tiên tiến vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, nâng cao sản lượng và
chất lượng nông phẩm trên một diện tích đất nông nghiệp. Trong tương lai,
hoạt động nông nghiệp của Việt Nam sẽ phát triển theo hướng tập trung, tăng
cường khai thác theo chiều sâu thay vì khai thác theo chiều rộng như trước
đây. Do đó, việc thu hẹp diện tích đất nông nghiệp để chuyển sang các mục
đích khác sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất theo chiều sâu trong khi
vẫn đảm bảo yếu tố an toàn lương thực cho người dân.
Mặc dù thu hồi đất nông nghiệp là một xu thế tất yếu, tuy nhiên, thu hồi
đất nông nghiệp cũng là một vấn đề nhạy cảm và rất dễ phát sinh tranh chấp.
Như đã phân tích tại mục 1.1.1 của Luận văn, đất nông nghiệp là tư liệu sản
xuất quan trọng, không thể thay thế của người nông dân và là một loại đất có
độ màu mỡ cao, nếu chuyển đổi sang mục đích khác sẽ khó khăn trong vấn đề
chuyển đổi lại thành đất nông nghiệp. Do đó, thu hồi đất nông nghiệp cũng
chính là thu hồi tư liệu sản xuất của người nông dân, ảnh hưởng nghiêm trọng
tới thu nhập và dẫn tới một lượng lớn người nông dân bị mất việc làm. Vấn đề
chuyển đổi nghề nghiệp sau khi bị thu hồi đất cũng là một vấn đề cần được
quan tâm. Bởi hầu hết nông dân đều có trình độ hiểu biết không cao nên việc
15
chuyển đổi nghề là vấn đề tương đối khó khăn trong bối cảnh cạnh tranh trên
thị trường việc làm tăng cao.
Hiện trạng thu hồi và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
ở Việt Nam trong thời gian vừa qua đã là một chứng cứ chứng minh rõ nét
cho quan điểm trên. Hàng loạt vụ khiếu kiện hành chính của người dân liên
quan đến hoạt động thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
đã diễn ra trên phạm vi cả nước. Thậm chí có nhiều vụ việc được đẩy lên
thành “điểm nóng” với những cuộc biểu tình đông người tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền hoặc ngay tại nơi có đất bị thu hồi. Chính điều này đã
khiến các nhà lập pháp và cơ quan thực thi pháp luật cần nghiêm túc xem xét
lại và có những điều chỉnh quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất cho phù hợp.
Từ những phân tích nêu trên, có thể thấy việc điều chỉnh vấn đề thu hồi
và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp bằng pháp luật là một
yêu cầu tất yếu. Khi pháp luật có những quy định cụ thể về vấn đề thu hồi, bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp (như các trường hợp thu hồi
đất nông nghiệp, thẩm quyền thu hồi, trình tự, thủ tục thu hồi và chế độ bồi
thường, hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất), bản thân các cơ quan thực thi
pháp luật sẽ có căn cứ pháp lý rõ ràng để triển khai hoạt động thu hồi, bồi
thường cho người dân. Đồng thời, người dân có đất thuộc diện bị thu hồi cũng
có cơ sở thực hiện quyền giám sát, đấu tranh với những hiện tượng tham
nhũng, tiêu cực để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của mình, góp phần bảo đảm
kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
1.2.2 Các nguyên tắc của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp
Trong bất cứ lĩnh vực nào, pháp luật luôn được xem là một trong những
phương thức hiệu quả để thực hiện chức năng quản lý nhà nước và lĩnh vực
16
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cũng không phải là một
trường hợp ngoại lệ. Theo cách hiểu cơ bản nhất, pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của người dân nhằm giải quyết
hài hòa lợi ích ba bên (Nhà nước, chủ đầu tư và người có đất bị thu hồi). Với
mục đích nâng cao tính minh bạch của các quy định pháp luật, nâng cao hiệu
quả của hoạt động thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
và đảm bảo tối đa quyền lợi của người dân, các quy phạm pháp luật điều
chỉnh vấn đề thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp luôn
được xây dựng dựa trên hệ thống các nguyên tắc bắt buộc, mang tính định
hướng. Một số nguyên tắc cơ bản gồm:
Thứ nhất, người bị thu hồi đất có đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật sẽ được bồi thường
Căn cứ quy định của Bộ luật dân sự, quyền sử dụng đất cũng là một
quyền tài sản nên khi Nhà nước thu hồi đất (đồng nghĩa thu hồi quyền tài sản)
của người dân, Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường cho người dân một
giá trị tương ứng. Quy định này đã thể hiện sự công bằng giữa các chủ thể
trong quan hệ thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp dựa
trên sự trao đổi về lợi ích.
Cùng với đó, nguyên tắc này cũng là sự đảm bảo của Nhà nước đối với
người sử dụng đất nông nghiệp thuộc diện bị thu hồi. Chỉ cần người sử dụng
đất đáp ứng đủ các điều kiện của pháp luật sẽ được hưởng các chế độ bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất. Hiện nay, điều kiện để được bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp chủ yếu tập trung vào yếu tố nguồn gốc sử
dụng đất với các trường hợp như được giao đất, công nhận quyền sử dụng đất,
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và có giấy tờ hợp pháp chứng minh
17
hay sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất do Nhà nước cấp
nhưng đã sử dụng ổn định, lâu dài và không có tranh chấp.
Thứ hai, việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng
mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có đất để bồi thường thì
được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi
Nội dung nguyên tắc quy định, khi bị thu hồi đất nông nghiệp, người
sử dụng đất được hưởng một trong hai chế độ sau: (i) Giao đất có cùng
mục đích sử dụng với loại đất thu hồi (đây được xem là chế độ ưu tiên); (ii)
Trường hợp không có đất cùng mục đích sử dụng để bồi thường, Nhà nước
sẽ bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi (giá đất cụ
thể tùy thuộc vào từng thời điểm và do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban
hành). Nguyên tắc này thể hiện tính linh hoạt trong hoạt động bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, tạo cơ chế rộng mở để cơ quan nhà
nước có thẩm quyền được lựa chọn phương án bồi thường cho phù hợp với
tình hình thực tế của từng địa phương.
Theo đó, việc bồi thường bằng đất nông nghiệp sẽ tạo điều kiện cho
người dân có tư liệu để tiếp tục hoạt động nông nghiệp, không phải chuyển
đổi nghề nghiệp và nơi sinh sống. Do đó, bồi thường bằng đất có cùng mục
đích luôn là phương án được ưu tiên áp dụng trong các trường hợp bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất.
Tuy nhiên, đặt vào tình hình thực tiễn, việc bồi thường bằng đất nông
nghiệp có tính khả thi tương đối thấp do quỹ đất nông nghiệp của nước ta hiện
nay còn rất hạn hẹp. Thực tế cho thấy, phần lớn quỹ đất nông nghiệp đã được
phân chia hết cho người dân sử dụng với thời hạn tương đối dài (thậm chí khi
hết thời hạn được giao, nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất, người sử dụng
đất có quyền đề nghị gia hạn).
18
Trong khi đó, theo yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, quỹ đất nông nghiệp lại đang đặt trong xu hướng thu hẹp lại để
chuyển đổi sang phục vụ các hoạt động phát triển kinh tế cộng đồng, xây
dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Vì vậy, thực tế có rất ít trường hợp người sử
dụng đất được bồi thường lại bằng một diện tích đất nông nghiệp tương ứng
với diện tích đất nông nghiệp bị Nhà nước thu hồi đất.
Thay vào đó, phần lớn người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi sẽ được
bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban
hành tại thời điểm thu hồi. Quy định này được đánh giá là một bước tiến đáng
ghi nhận của pháp luật vì phương án mang tính chất nhanh gọn, tăng cường
tính công bằng và giá bồi thường đất nông nghiệp cũng đã tiến gần hơn với
mức giá thị trường của đất nông nghiệp. Do đó, về cơ bản, quyền lợi của
người sử dụng đất có đất nông nghiệp bị Nhà nước thu hồi cũng được nâng
cao hơn so với thời điểm trước nhiều lần.
Thứ ba, việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân
chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định của
pháp luật
Đây được đánh giá là một nguyên tắc mang tính tổng hợp bao hàm sáu
nguyên tắc nhỏ: dân chủ, khách quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng
quy định pháp luật. Nguyên tắc yêu cầu hoạt động bồi thường phải tuân thủ
các quy định pháp luật hiện hành, đảm bảo sự công bằng về quyền lợi giữa
những người dân có đất bị thu hồi. Việc bồi thường phải được thực hiện công
khai, kịp thời để tạo lòng tin và tâm lý yên tâm cho người dân có đất bị thu
hồi.
Đồng thời, việc bồi thường phải đề cao tính dân chủ, theo đó, người có
đất bị thu hồi phải được quyền tham gia đóng góp ý kiến, được giám sát hoạt
động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền khiếu nại, tố
19
cáo đối với những hành vi vi phạm trong quá trình bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất. Chỉ khi tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc nêu trên, hoạt động bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mới được minh bạch, đạt được
hiệu quả cao và triệt tiêu mầm mống của tranh chấp, khiếu khiện của người
dân.
Thứ tư, trường hợp người sử dụng đất thuộc diện được bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai với
Nhà nước theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi khoản tiền phải thực
hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả
ngân sách Nhà nước
Đây là một nguyên tắc chung của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi các loại đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng. Căn cứ quy định
pháp luật hiện hành, khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai
bao gồm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp cho Nhà nước nhưng đến
thời điểm thu hồi đất vẫn chưa nộp. Thực tiễn triển khai cho thấy, dù đã có
các quy định về việc xử lý vi phạm trong trường hợp chậm hoặc không thực
hiện nghĩa vụ tài chính cũng như các cơ quan nhà nước thường xuyên đôn đốc
nhắc nhở về trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước nhưng
hiện tượng chậm hoặc không thực hiện các nghĩa vụ tài chính vẫn diễn ra
tương đối phổ biến. Việc thực hiện nghĩa vụ tài chính là một trong những
nghĩa vụ quan trọng hàng đầu của người sử dụng đất, là căn cứ thể hiện quyền
sử dụng đối với đất. Do đó, để đảm bảo tính công bằng giữa những người sử
dụng đất, khi chấm dứt quyền sử dụng đất thông qua việc bị Nhà nước thu
hồi, người sử dụng đất có trách nhiệm hoàn thành toàn bộ nghĩa vụ còn tồn
đọng. Thay vì người sử dụng đất phải nộp một khoản tiền nghĩa vụ tài chính
còn tồn đọng để được nhận khoản tiền bồi thường, Nhà nước sẽ trực tiếp khấu
trừ trên khoản tiền bồi thường mà người sử dụng đất dự kiến được nhận.
20
Theo đó, điểm b khoản 1 Điều 30 Luật đất đai 2013 quy định: “Trường
hợp số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính đến thời điểm có quyết định thu
hồi đất lớn hơn số tiền được bồi thường, hỗ trợ thì hộ gia đình, cá nhân tiếp
tục được ghi nợ số tiền chênh lệch đó; nếu hộ gia đình, cá nhân được bố trí
tái định cư thì sau khi trừ số tiền bồi thường, hỗ trợ vào số tiền để được giao
đất ở, mua nhà ở tại nơi tái định cư mà số tiền còn lại nhỏ hơn số tiền chưa
thực hiện nghĩa vụ tài chính thì hộ gia đình, cá nhân tiếp tục được ghi nợ số
tiền chênh lệch đó”. Đồng thời, pháp luật cũng nhấn mạnh tiền bồi thường để
trừ vào số tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính chỉ gồm tiền được bồi
thường về đất, tiền được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại (nếu có).
Không được trừ các khoản tiền bồi thường do ngừng sản xuất kinh doanh, bồi
thường thiệt hại về tài sản, bồi thường chi phí di chuyển và các khoản tiền
được hỗ trợ khác vào khoản tiền chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai.
Mục đích của quy định này là đảm bảo các chế độ hỗ trợ phát huy tối đa vai
trò của mình trong việc ổn định đời sống của người dân có đất bị thu hồi.
Thứ năm, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất nông nghiệp bị thu hồi
được bồi thường
Nguyên tắc này đã thể hiện tính đúng đắn của pháp luật, của Đảng và
Nhà nước. Bởi người sử dụng đất đã dùng khả năng tài chính và công sức của
bản thân để đầu tư tạo dựng tài sản trên đất như cây trồng, chuồng trại, gia
súc, gia cầm nên Nhà nước có trách nhiệm bồi thường khi việc thu hồi đất
nông nghiệp dẫn tới thiệt hại về những tài sản trên. Điều này đảm bảo quyền
được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất của người sử dụng đất
theo quy định tại khoản 2 Điều 166 Luật đất đai 2013, đồng thời đảm bảo
nguyên tắc “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh
doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa” quy định tại khoản
3 Điều 51 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
21
Tuy nhiên, để đảm bảo bồi thường đúng, đủ và hợp lý, pháp luật yêu cầu
tài sản gắn liền với đất bị thu hồi thuộc diện được bồi thường phải là tài sản
được hình thành một cách hợp pháp. Tính hợp pháp được thể hiện qua các
yếu tố như phù hợp quy hoạch, được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, phù hợp với mục đích sử dụng đất, … Trường hợp không đáp
ứng tính hợp pháp, tài sản gắn liền với đất bị thu hồi sẽ không được Nhà nước
bồi thường.
1.2.3 Cơ cấu của nội dung pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp
Như đã phân tích, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp là một hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các khía cạnh
của hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của người sử
dụng đất. Trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, phụ thuộc vào chính
sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, hệ thống pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cũng có sự biến đổi tương ứng. Tuy nhiên,
dù có sự biến đổi cho phù hợp từng thời kỳ nhưng những vấn đề trọng yếu,
cốt lõi liên quan đến hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp vẫn luôn luôn được pháp luật chú trọng đề cập.
Căn cứ hoạt động nghiên cứu, phân tích hệ thống quy định pháp luật liên
quan đến hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, người viết đưa ra
cách phân nhóm quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động này như sau:
Thứ nhất, nhóm quy phạm pháp luật quy định về nguyên tắc và điều
kiện được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Để hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tuân thủ
đúng quy định pháp luật, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người dân có đất bị
thu hồi, pháp luật quy định một hệ thống các nguyên tắc cần tuân thủ khi thực
hiện hoạt động bồi thường. Các nguyên tắc giữ vai trò định hướng, tạo cơ sở
22
cho việc thực hiện và áp dụng các quy định chi tiết về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp.
Bên cạnh các quy định về nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất, nhóm quy phạm này còn quy định về điều kiện được bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp. Điều kiện được bồi thường xác định căn cứ mà
người sử dụng đất phải có để được Nhà nước bồi thường. Việc quy định rõ
ràng, cụ thể các điều kiện được bồi thường là cơ sở để các cơ quan có thẩm
quyền lập danh sách người sử dụng đất được bồi thường, đồng thời có căn cứ
để giải thích hoặc giải quyết khiếu nại của người dân trong trường hợp không
bồi thường hoặc chỉ bồi thường một phần trong tổng diện tích thu hồi của
người dân. Về phía người dân, pháp luật quy định cụ thể về điều kiện được
bồi thường cũng giúp người dân nhận biết được tính hợp pháp hoặc vi phạm
của hoạt động bồi thường và có cách cư xử phù hợp.
Thứ hai, nhóm quy phạm pháp luật quy định về nội dung bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Nhóm quy phạm này bao gồm những quy định về các vấn đề như: (i)
Phương thức bồi thường (bồi thường bằng việc giao đất có cùng mục đích sử
dụng hay bồi thường bằng tiền tương ứng với giá trị quyền sử dụng đất đã bị
thu hồi); (ii) Phạm vi bồi thường (bồi thường về đất hay bồi thường về tài sản
trên đất hay bồi thường cả đất và tài sản trên đất); (iii) Giá bồi thường đất
nông nghiệp trong trường hợp chọn phương thức bồi thường bằng tiền và thời
điểm xác định giá bồi thường … Có thể thấy, nhóm quy định này là nhóm quy
định quan trọng nhất đối với người có đất bị thu hồi vì quy định cụ thể quyền
lợi mà họ được hưởng khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Vì vậy, người
dân cần đặc biệt lưu ý về nội dung pháp luật này để đảm bảo được hưởng đầy
đủ quyền lợi khi bị Nhà nước thu hồi đất.
23
Thứ ba, nhóm quy phạm pháp luật quy định về trình tự, thủ tục bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được
quy định sơ lược tại Luật đất đai và chi tiết tại hệ thống các văn bản hướng
dẫn thi hành. Theo đó, Nhà nước có trách nhiệm quy định rõ từng bước triển
khai hoạt động bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp và quyền, nghĩa vụ của
các bên trong từng bước của hoạt động này. Bản chất của hoạt động bồi
thường khi thu hồi đất nông nghiệp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là
một thủ tục hành chính nên việc đảm bảo tính công khai, minh bạch, dân chủ
và cải cách kịp thời là đòi hỏi vô cùng cấp thiết. Bởi thực tế đã chứng minh,
những tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến thủ tục, trình tự thu hồi, bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp diễn ra tương đối phổ biến và
chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng số tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến hoạt
động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Thứ tư, nhóm quy phạm pháp luật quy định về giải quyết khiếu nại, tố
cáo, giải quyết tranh chấp liên quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp
Quyền khiếu nại, tố cáo cũng như yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo khi có chứng cứ cho rằng
quyền lợi của mình bị xâm phạm là một quyền dân sự của người dân có đất bị
thu hồi và được pháp luật thừa nhận. Trường hợp phát hiện quyền lợi của
mình liên quan đến hoạt động thu hồi, bồi thường đất nông nghiệp, người dân
có đất bị thu hồi hoàn toàn có quyền nộp đơn khởi kiện hoặc khiếu nại đến
các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải quyết. Quy định này có ý nghĩa quan
trọng không chỉ đối với người dân có đất bị thu hồi mà còn đối với Nhà nước.
Về phía người dân có đất bị thu hồi, việc quy định về giải quyết khiếu nại, tố
cáo, tranh chấp liên quan đến hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
24
nông nghiệp đã cung cấp cho người dân có đất bị thu hồi một phương pháp
hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi của mình. Về phía Nhà nước, với mục đích phát
hiện, phòng ngừa và ngăn chặn những sai phạm trong hoạt động thu hồi, bồi
thường khi thu hồi đất nông nghiệp đã tạo cơ chế để tự bảo vệ mình và kiểm
tra, giám sát tính tuân thủ pháp luật của các cơ quan thi hành pháp luật. Đồng
thời, quy phạm pháp luật về khiếu nại liên quan đến hoạt bồi thường khi Nhà
nước thi hồi đất nông nhiệp và quá trình thực thi trên thực tế cũng khiến Nhà
nước phải xem xét lại các quy định hiện hành, năng lực trình độ của cơ quan,
tổ chức cá nhân trực tiếp thực hiện thủ tục và có những điều chỉnh quy định
pháp luật cho phù hợp.
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp
Đặt trong bối cảnh riêng của Việt Nam, pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp chịu tác động qua lại của các yếu tố chính sau:
Thứ nhất, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp chịu sự tác động của đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Việt Nam là một trong các quốc gia theo chế độ đơn đảng, dưới sự lãnh
đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này đã được ghi nhận tại
Điều 4 Hiến pháp 2013 – văn bản có giá trị pháp lý cao nhất như sau: “Đảng
Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Với vai trò lãnh đạo của mình, Đảng ban hành các đường lối, chủ trương,
chính sách chiến lược chung cũng như từng lĩnh vực để tạo sự phát triển
25
thống nhất, đồng bộ cho đất nước. Để thể chế hóa định hướng của Đảng, với
những ưu thế vốn có (đặc biệt là có tính cưỡng chế thi hành), pháp luật luôn
được đánh giá là một trong những biện pháp tối ưu nhất. Theo đó, đặt trong
sự điều chỉnh chung của Đảng, pháp luật về hoạt động bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp luôn phải đảm bảo tính tuân thủ triệt để về
đường lối, chủ trương của Đảng liên quan đến nội dung này, nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật và đảm bảo tính cân bằng lợi ích giữa các chủ thể pháp
luật trong quan hệ bồi thường khi thu hồi đất cũng như góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp chịu sự chi phối của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai
Điều 53 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Đất đai, tài nguyên nước,
tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên
nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc
sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Cụ
thể hóa tinh thần của Hiến pháp, điều 4 Luật đất đai 2013 đã nhấn mạnh:
“Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống
nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo
quy định của Luật này”. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai đóng vai trò chi
phối đến toàn bộ hệ thống pháp luật về đất đai, trong đó bao gồm cả hệ thống
các quy phạm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Do Nhà nước được đại diện toàn dân quản lý đất đai nên trong quá trình quản
lý, vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc
gia, công cộng, Nhà nước được quyền thu hồi đất của người sử dụng đất.
Tuy nhiên, việc thu hồi đất nông nghiệp của người dân sẽ tạo ra những
ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân nên Nhà nước có trách
nhiệm “bồi thường” cho người sử dụng đất một giá trị tương ứng với giá trị
26
đất bị thu hồi để bù đắp những thiệt hại do việc thu hồi đất gây ra. Và để được
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, người sử dụng đất phải đáp ứng đầy đủ
các điều kiện pháp luật quy định. Trường hợp không đủ điều kiện, Nhà nước
sẽ xem xét hỗ trợ cho người sử dụng đất. Đây chính là điểm khác biệt cơ bản
giữa hai chế độ sở hữu đất đai (sở hữu toàn dân về đất đai và sở hữu tư nhân
về đất đai). Bởi nếu như đối với chế độ sở hữu tư nhân về đất đai, người dân
có quyền sở hữu đất đai như một tài sản cá nhân, Nhà nước thu hồi vì bất cứ
lý do nào đều có nghĩa vụ phải “mua lại” đất của người dân với giá thỏa
thuận giống các chủ thể khác trong xã hội.
Thứ ba, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu đất nông nghiệp
phụ thuộc vào quỹ đất phục vụ hoạt động bồi thường
Với mục đích hạn chế tối đa sự thay đổi về nghề nghiệp của người dân,
pháp luật đề cao phương pháp bồi thường bằng việc giao đất có cùng mục
đích sử dụng (tức đất nông nghiệp). Tuy nhiên, do đặc điểm của đất nói
chung và đất nông nghiệp nói riêng là bị giới hạn về diện tích nên quỹ đất
nông nghiệp để bồi thường cũng bị hạn chế (chủ yếu chỉ sử dụng được phần
đất chưa sử dụng thuộc quản lý của Nhà nước, còn đất nông nghiệp hiện có
hầu hết đã được phân bổ cho người sử dụng đất). Xuất phát từ thực trạng nêu
trên nên thực tế hiện nay, việc bồi thường được thực hiện dưới dạng bồi
thường bằng một khoản tiền tương đương với giá trị quyền sử dụng đất bị thu
hồi. Vấn đề đặt ra là cần hoàn thiện các quy định về cách thức xác định giá
bồi thường để đảm bảo cân bằng lợi ích giữa Nhà nước, chủ đầu tư và người
sử dụng đất, hạn chế tối đa những tranh chấp, khiếu kiện liên quan đến hoạt
động bồi thường, gây mất ổn định an ninh xã hội trong nước.
Thứ tư, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp chịu tác động của sự phát triển kinh tế - xã hội
27
Việt Nam đang trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo định
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong khi, Việt Nam đi lên từ một nước
nông nghiệp với hơn 70% dân số hoạt động và sinh sống bằng thu nhập từ
nghề nông. Do đó, yêu cầu phân bổ lại nguồn lực phát triển kinh tế theo
hướng chuyển đổi từ nông nghiệp sang các lĩnh vực khác là điều tất yếu. Tuy
nhiên, việc thu hồi đất nông nghiệp sẽ gây xáo trộn đời sống và việc làm của
người dân. Bởi thu hồi đất nông nghiệp đồng nghĩa với thu hồi tư liệu sản
xuất thiết yếu của nông dân, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của dân. Đặc
biệt trong trường hợp thu hồi toàn bộ đất nông nghiệp còn dẫn đến vấn đề
chuyển đổi nghề nghiệp cho người nông dân. Vì vậy, pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp phải đảm bảo giải quyết các vấn đề nêu
trên, tăng cường quyền lợi cho người nông dân – bên thường chịu nhiều thiệt
thòi hơn trong quan hệ thu hồi – bồi thường.
Tiểu kết chương
Qua quá trình nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận chung về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp và pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, người viết rút ra một số kết luận sau:
1. Tính đến thời điểm hiện tại, các khái niệm liên quan đến hoạt động bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất như “đất nông nghiệp”, “thu hồi đất nông
nghiệp”, “bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp” đã được thể
hiện tương đối cụ thể và tạo dựng được cách hiểu thống nhất trong quá trình
sử dụng.
2. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là một trong những
vấn đề nhạy cảm, dễ phát sinh nhiều tranh chấp, khiếu kiện của người có đất
bị thu hồi, luôn tiềm ẩn nguy cơ gây mất an ninh trật tự xã hội. Do đó, vấn đề
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cần được sự điều chỉnh của
28
pháp luật bằng những nguyên tắc phù hợp và những quy định cụ thể để tạo lập
tính thống nhất trong quá trình triển khai thực hiện.
3. Hiện nay, cơ cấu nội dung pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp bao gồm các nhóm quy định sau: (i) Nhóm quy định về
nguyên tắc và điều kiện được bồi thường; (ii) Nhóm quy định về nội dung bồi
thường; (iii) Nhóm quy định về trình tự, thủ tục bồi thường và (iv) Nhóm quy
định về khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo liên quan đến hoạt động bồi thường.
4. Cùng với sự phát triển của hệ thống pháp luật về đất đai, pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cũng có sự phát triển tương ứng với từng
thời kỳ theo xu hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Quá trình hoàn thiện được
lần lượt thể hiện qua sự nối tiếp của Luật đất đai: từ Luật đất đai năm 1987
đến Luật đất đai 1993 sửa đổi bổ sung năm 2001, Luật đất đai 2003 và hiện
nay là Luật đất đai năm 2013.
29
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BỒI THƯƠNG KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT NỒNG NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
TẠI HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1 Thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp
2.1.1 Quy định về điều kiện được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp
Theo quy định pháp luật hiện hành, để được hưởng chế độ bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, người sử dụng đất cần phải đáp ứng
các điều kiện nhất định do Nhà nước quy định. Việc đặt ra các điều kiện được
hưởng chế độ bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp là
hoàn toàn cần thiết. Qua quá trình xác định điều kiện được bồi thường, Nhà
nước có thể xác định được chính xác chủ thể có quyền sử dụng đất hợp pháp,
tránh bồi thường sai đối tượng, bồi thường thiếu dẫn đến hiện tượng mất công
bằng giữa những chủ sử dụng đất.
Do đất nông nghiệp là một loại đất đặc biệt, có giá trị không thể thay thế
trong hoạt động sản xuất nông nghiệp nên để đảm bảo đất nông nghiệp được
sử dụng đúng mục đích, Nhà nước chỉ giao quyền sử dụng đất nông nghiệp
cho một số chủ thể nhất định. Hiện nay, có ba nhóm chủ thể được sử dụng đất
nông nghiệp gồm: hộ gia đình, cá nhân; cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín
ngưỡng; tổ chức kinh tế thực hiện dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp, tổ chức
sự nghiệp công lập tự chủ tài chính. Tuy nhiên, phụ thuộc vào đặc điểm riêng
của mỗi chủ thể, chế độ giao quyền sử dụng đất cho mỗi chủ thể sử dụng đất
nông nghiệp cũng có sự khác biệt. Và để được bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp, các chủ thể sử dụng đất nông nghiệp phải đáp ứng các
chế độ sử dụng đất sau:
30
- Đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất: Hộ gia đình, cá nhân đang
sử dụng đất do Nhà nước giao đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho
cả thời gian thuê, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất nông nghiệp mà không phải hình thức thuê đất trả tiền thuê đất
hàng năm.
- Đối với cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng: Chế độ sử
dụng đất của chủ thể này không được thuộc diện được Nhà nước giao đất, cho
thuê đất mà chỉ có thể được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất hoặc
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp.
- Đối với tổ chức kinh tế thực hiện dự án đầu tư sản xuất nông nghiệp,
tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính: Các chủ thể này phải được Nhà
nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần
cho cả thời gian thuê, nhận thừa kế quyền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp, tiền nhận chuyển nhượng đã
trả không có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước.
Trong trường hợp đáp ứng đủ điều kiện về chủ thể và chế độ sử dụng đất
nông nghiệp như đã nêu trên, để được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp, người sử dụng đất còn phải chứng minh quyền sử dụng đất nông
nghiệp thông qua một trong các phương thức như sau:
Thứ nhất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất (sau đây
gọi chung là Giấy chứng nhận)
Tại khoản 16 Luật đất đai 2013, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất có giá trị như một chứng thư
pháp lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp theo trình tự, thủ tục luật
định. Thông qua đó, Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất,
31
quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất. Có thể
thấy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chính là loại giấy tờ có giá trị cao
nhất, cụ thể nhất và rõ ràng nhất để chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp
của một chủ thể trước Nhà nước. Đồng thời, Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất là căn cứ pháp lý xác lập quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất, trong
đó có quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Với những lý do nêu
trên, bản thân người viết nhận định: Việc căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất để xác định quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp là một quy định hoàn toàn hợp lý và có tính hiệu quả cao.
Thứ hai, các loại giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền cấp qua các thời kỳ để chứng minh đủ điều kiện
được cấp Giấy chứng nhận nhưng chưa được cấp
Theo quy định của pháp luật hiện hành, người sử dụng đất được xét bồi
thường nếu đang sử dụng đất nông nghiệp ổn định và có các giấy tờ hợp lệ về
quyền sử dụng đất nông nghiệp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền qua
các thời kỳ cấp để chứng minh quyền sở hữu hợp pháp. Các giấy tờ bao gồm
nhưng không giới hạn bởi những tài liệu như: Giấy tờ về quyền được sử dụng
đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong
quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng
hoà Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử
dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác
nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993; Giấy tờ hợp pháp về
thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất, các loại
giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp;
Giấy chứng nhận quyền được sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước
32
ngày 15 tháng 10 năm 1993; …. Theo đó, trường hợp không có Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nhưng người sử dụng đất cung cấp được một trong
các giấy tờ nêu trên, Nhà nước vẫn tiến hành các thủ tục để bồi thường cho
người sử dụng có đất bị thu hồi.
Quy định này là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với tình hình thực tiễn về
hoạt động cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân hiện nay.
Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp người sử dụng đất nông nghiệp ổn định,
lâu dài nhưng vì nhiều lý do (chủ quan lẫn khách quan) nên đến thời điểm bị
thu hồi đất, người sử dụng đất vẫn chưa hoàn thành thủ tục hoặc không được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện tượng này có thể xuất phát từ
chính ý thức của người sử dụng đất trong hoạt động thực hiện thủ tục hành
chính xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và/ hoặc do sự chậm trễ,
quan liêu của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, nhìn nhận một cách khách quan, nhiều
trường hợp chậm trễ xin Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thể xuất phát
từ chính các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Vì vậy, Nhà nước đã có quy định cụ thể về vấn đề bồi thường khi người
sử dụng đất có một trong các giấy tờ trên để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của
người sử dụng đất và phần nào thể hiện sự ưu việt của hệ thống quy định pháp
luật. Đặc biệt, nếu hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các
loại giấy tờ được đề cập trên đây mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác kèm
theo giấy tờ về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất được thỏa thuận giữa
các bên có liên quan, khi thu hồi đất nông nghiệp, Nhà nước cũng công nhận
và bồi thường cho người sử dụng đất.
Thứ ba, người sử dụng đất nông nghiệp không có Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và/hoặc các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất
nhưng sử dụng đất ổn định, lâu dài, không có tranh chấp
33
Do lịch sử có nhiều biến động và xuất phát từ một nền nông nghiệp lúa
nước nên người dân vẫn chưa có thói quen lưu giữ các loại giấy tờ quan trọng
(trong đó bao gồm giấy tờ về quyền sử dụng đất). Hiện nay, có rất nhiều
trường hợp người sử dụng đất gặp khó khăn trong quá trình xin cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất vì không còn lưu giữ bất cứ loại giấy tờ nào
chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp của mình. Vì vậy, để tạo điều kiện
tối đa cho người sử dụng đất, dù không có các giấy tờ liên quan đến quyền sử
dụng đất nhưng Nhà nước vẫn công nhận và bồi thường cho người sử dụng
đất khi thu hồi đất nếu người sử dụng đất đáp ứng các điều kiện khác (như sử
dụng đất ổn định, lâu dài, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử
dụng đất đã được phê duyệt). Theo đó, các trường hợp được bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà người sử dụng đất không có giấy tờ về
quyền sử dụng đất gồm:
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ chứng
minh quyền sử dụng đất nhưng đã sử dụng trước ngày 01/07/2014, đang trực
tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn và có hộ khẩu thường trú tại địa phương. Người sử dụng đất
được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn
định, lâu dài, không có tranh chấp thì được bồi thường và không phải nộp tiền
sử dụng đất.
- Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất đã được sử dụng ổn định từ
trước ngày 01/07/2004, không vi phạm pháp luật về đất đai nhưng không có
các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất. Đồng thời, người sử dụng đất
được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp
với quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn, quy hoạch chi tiết xây dựng
34
đô thị, quy hoạch sử dụng đất, đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được bồi thường.
2.1.2 Quy định về bồi thường đất và bồi thường tài sản gắn liền với đất
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp vì mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích công cộng, lợi ích quốc gia, và vì mục đích phát triển kinh tế, người có
đất bị thu hồi sẽ được Nhà nước bồi thường để bù đắp một phần thiệt hại do
việc thu hồi đất gây ra. Theo quy định pháp luật hiện hành, tùy thuộc vào hiện
trạng đất và tài sản gắn liền đất, người sử dụng đất có thể được hưởng một
hoặc cả hai chế độ bồi thường gồm bồi thường đất và/ hoặc bồi thường tài sản
gắn liền với đất bị thu hồi. Bên cạnh đó, để đảm bảo người sử dụng đất có đất
bị thu hồi sớm ổn định cuộc sống và có đủ điều kiện tối thiểu phát triển công
việc mới, ngoài những khoản tiền bồi thường về đất, tài sản trên đất, Nhà
nước còn có chế độ hỗ trợ cho người sử dụng đất. Cụ thể như sau:
2.1.2.1 Quy định về bồi thường đất
Căn cứ quy định tại khoản 12 Điều 3 Luật đất đai năm 2013, khái niệm
bồi thường về đất được hiểu “là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng
đất đối với diện tích đất thu hồi cho người sử dụng đất”. Liên quan đến nội
dung bồi thường đất nói chung và đất nông nghiệp nói riêng, pháp luật đất đai
có sự phân chia thành các vấn đề cơ bản sau:
- Về diện tích đất được bồi thường:
Theo quy định pháp luật hiện hành, Nhà nước có sự phân định rõ ràng
giữa diện tích đất được bồi thường và diện tích đất chỉ được hỗ trợ về chi phí
đầu tư còn lại về đất. Theo đó:
Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp: Diện tích
đất nông nghiệp được bồi thường bao gồm diện tích đất do được nhận thừa kế
và diện tích trong hạn mức giao đất, hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất
35
nông nghiệp. Trường hợp sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức do nhận
chuyển quyền sử dụng đất trước ngày 1 tháng 07 năm 2014 mà đủ điều kiện
được bồi thường, hộ gia đình, cá nhân sẽ được bồi thường theo diện tích thực
tế thu hồi. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp và
đã sử dụng trước ngày 01 tháng 07 năm 2004 nhưng không có Giấy chứng
nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận, người sử dụng
đất được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng. Tuy nhiên,
diện tích đất được bồi thường không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp.
Đối với tổ chức kinh tế, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính,
cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo sử dụng đất nông nghiệp: Diện tích đất
nông nghiệp không thuộc diện Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất
hoặc giao đất có thu tiền sử dụng đất nhưng được miễn tiền sử dụng đất, cho
thuê đất trả tiền hàng năm hoặc thuê đất trả tiền một lần nhưng được miễn
tiền thuê đất hoặc, khi Nhà nước thu hồi, người sử dụng đất sẽ được bồi
thường.
Như vậy, đối với những diện tích nêu trên, người sử dụng đất sẽ được
hưởng chế độ bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Ngoài diện tích đất nêu
trên, người sử dụng đất sẽ chỉ được bồi thường hoặc xem xét hỗ trợ chi phí
đầu tư vào đất còn lại. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định
47/2014/NĐ-CP, chi phí đầu tư còn lại là các chi phí mà người sử dụng đất
đã đầu tư vào đất phù hợp với mục đích sử dụng đất nhưng đến thời điểm
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất còn chưa thu hồi
hết. Chi phí đầu tư vào đất còn lại gồm toàn bộ hoặc một phần của các
khoản chi phí sau: chi phí cải tạo làm tăng độ màu mỡ của đất, chống xói
mòn, thau chua rửa mặn, xâm thực đối với đất sử dụng vào mục đích sản
xuất nông nghiệp; chi phí san lấp mặt bằng; chi phí khác có liên quan đã
đầu tư vào đất phù hợp với mục đích sử dụng đất. Điều kiện để được bồi
36
thường chi phí đầu tư vào đất, người sử dụng đất phải có hồ sơ, chứng từ
chứng minh đã đầu tư vào đất, chi phí đầu tư vào đất được tính phải phù
hợp với giá thị trường tại thời điểm có quyết định thu hồi đất và không có
nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.
- Về phương thức bồi thường đất nông nghiệp:
Như đã đề cập đến trong nguyên tắc bồi thường đất, pháp luật quy định
hai phương thức bồi thường đất nông nghiệp gồm: bồi thường bằng đất có
chung mục đích sử dụng với đất bị thu hồi hoặc bồi thường bằng tiền. Về
nguyên tắc, bồi thường bằng đất có chung mục đích sử dụng luôn là phương
thức được ưu tiên áp dụng. Trường hợp địa phương không còn đất có chung
mục đích sử dụng để bồi thường, Nhà nước sẽ áp dụng phương thức bồi
thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh quyết định tại thời điểm ban hành quyết định thu hồi đất.
Mặc dù chủ trương của Nhà nước khi ưu tiên bồi thường bằng đất có
chung mục đích sử dụng là vì mục đích đảm bảo quyền lợi tối đa, hạn chế sự
xáo trộn trong đời sống người dân nhưng thực tế cho thấy: Tính hiệu quả của
phương thức bồi thường bằng đất có chung mục đích sử dụng vẫn tương đối
thấp và gần như không có tính khả thi. Bởi trong quá trình công nghiệp hóa –
hiện đại hóa, việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang phục vụ các mục đích
khác là một nhu cầu tất yếu. Theo đó, diện tích đất nông nghiệp sẽ càng ngày
càng bị thu hẹp trong khi hầu hết diện tích đất nông nghiệp hiện tại đã được
phân bổ cho nông dân – bộ phận chiếm hơn 70% dân số ở nước ta. Trong bối
cảnh hiện nay, người viết cho rằng nguyên tắc ưu tiên phương thức bồi
thường bằng đất có chung mục đích sử dụng đất không còn nguyên giá trị,
dường như không phát huy hiệu quả nên pháp luật cần có sự điều chỉnh lại về
nội dung này để tăng tính khả thi của nguyên tắc.
37
Chính vì vậy, hầu hết các dự án thu hồi đất nông nghiệp ở nước ta đều áp
dụng phương thức bồi thường bằng tiền thay vì bồi thường bằng đất có chung
mục đích sử dụng với đất bị thu hồi. Ưu điểm của phương thức này là nhanh
gọn, tạo điều kiện cho người dân tự chủ trong việc tìm kiếm định hướng thay
đổi khi Nhà nước thu hồi đất. Bên cạnh ưu điểm nêu trên, phương thức này
cũng còn tồn tại nhiều điểm bất cập đặc biệt liên quan đến giá đất bồi thường.
Mặc dù pháp luật về giá đất bồi thường liên tục được điều chỉnh theo hướng
nâng cao quyền lợi, đáp ứng đủ nhu cầu thiết yếu về đời sống của người dân
nhưng giá bồi thường hiện nay vẫn luôn là vấn đề nổi cộm nhất và gây nhiều
khiếu kiện trong nhân dân. Nguyên nhân dẫn đến bức xúc của người dân chủ
yếu xuất phát từ việc giá đất bồi thường tại thời điểm thu hồi đất là tương đối
thấp. Nhưng ngay sau khi Nhà nước quy hoạch để thực hiện dự án (như khu
đô thị, hạ tầng đô thị, khu công nghiệp…), người dân có nhu cầu sử dụng lại
phải mua lại từ chủ đầu tư với giá cao hơn gấp nhiều lần so với tiền Nhà nước
bồi thường. Do đó, Nhà nước cần phải có những chính sách phù hợp để thu
hẹp sự chênh lệch để đảm bảo sự công bằng cho người có đất bị thu hồi và tạo
điều kiện cho hoạt động thu hồi – bồi thường diễn ra thuận lợi hơn.
- Về giá đất bồi thường:
Giá đất bồi thường là giá đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công bố dựa
trên mục đích đang sử dụng của đất và các nguyên tắc chung của việc xác
định giá đất. Việc định giá đất phải đảm bảo tuân thủ tổng hợp các nguyên tắc
cơ bản như: theo mục đích sử dụng đất hợp pháp tại thời điểm định giá; cùng
một thời điểm, các thửa đất liền kề nhau có cùng mục đích sử dụng đất, khả
năng sinh lợi, thu nhập từ việc sử dụng đất tương tự như nhau thì có mức giá
như nhau; phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng
mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối
với những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng
38
đất; theo thời hạn sử dụng đất. Hiện nay, pháp luật cũng quy định về 4
phương pháp định giá đất để Ủy ban nhân dân tỉnh áp dụng gồm: phương
pháp chiết trừ, phương pháp so sánh trực tiếp, phương pháp thu nhập, phương
pháp thặng dư và phương pháp hệ số điều chỉnh giá đất. Trong đó, phương
pháp hệ số điều chỉnh giá đất là phương pháp sử dụng phổ biến nhất trong vấn
đề xác định giá đất bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Dựa vào những nguyên tắc và phương pháp định giá đất nêu trên kết hợp
với kết quả tổng hợp, phân tích thông tin về thửa đất, giá đất thị trường và
khung giá đất của Nhà nước, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành bảng giá đất cụ
thể làm căn cứ tính tiền bồi thường cho người dân có đất bị thu hồi trên địa
bàn tỉnh.
Có thể thấy, pháp luật đã xây dựng riêng một hệ thống quy phạm pháp
luật về phương thức, trình tự, thủ tục xác định giá đất cụ thể để làm căn cứ bồi
thường. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai, quy định pháp luật về giá bồi
thường cũng đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế. Việc xác định giá đất trên thực tế
còn chưa đảm bảo tính tuân thủ các nguyên tắc, chưa sát với giá thị trường,
xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất. Đặc biệt
nhấn mạnh việc giá đất hiện tại vẫn còn thấp hơn rất nhiều so với giá thị
trường của đất bị thu hồi.
2.1.2.1 Quy định về bồi thường tài sản trên đất bị thu hồi
Đất nông nghiệp được người sử dụng đất sử dụng để sản xuất, tạo ra
những sản phẩm nông nghiệp cho xã hội nên khi Nhà nước thu hồi đất, hầu
hết trên đất đều có tài sản. Các loại tài sản gắn liền với đất nông nghiệp có thể
kể đến gồm: cây trồng, vật nuôi và các công trình xây dựng trên đất như
chuồng trại chăn nuôi, nhà chứa …. Với nguyên tắc “tài sản của người dân
không bị quốc hữu hóa” nên khi thu hồi đất, Nhà nước cũng có chính sách bồi
39
thường đối với tài sản trên đất. Cụ thể việc bồi thường thiệt hại về tài sản
được thực hiện như sau:
- Bồi thường thiệt hại về công trình xây dựng trên đất khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp:
Đối với những công trình đủ tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của Bộ
quản lý chuyên ngành ban hành gắn liền với đất bị tháo dỡ một phần mà phần
còn lại không bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định pháp luật hoặc bị
tháo dỡ toàn bộ, người sử dụng đất được bồi thường thiệt hại.
Trường hợp bị phá dỡ một phần mà phần còn lại không còn sử dụng
được, người sử dụng đất được bồi thường cho toàn bộ công trình; nếu công
trình xây dựng bị phá dỡ một phần nhưng sử dụng được phần còn lại, người
sử dụng đất được bồi thường phần bị phá dỡ và chi phí để sửa chữa, hoàn
thiện phần còn lại theo tiêu chuẩn kỹ thuật.
Đối với công trình xây dựng không đủ tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định
của Bộ quản lý chuyên ngành ban hành, người sử dụng đất được hưởng mức
bồi thường cụ thể cho phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương do Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quy định.
- Bồi thường vật nuôi, cây trồng khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp:
Đối với cây trồng, hiện nay được phân loại thành ba loại cây trồng để
xác định mức bồi thường gồm: cây lâu năm, cây hàng năm, cây trồng chưa
thu hoạch nhưng có thể di chuyển đến địa điểm khác và cây rừng trồng bằng
nguồn vốn ngân sách nhà nước. Theo đó, đối với cây hàng năm, mức bồi
thường được tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch (tính theo năng suất
của vụ cao nhất trong 03 năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa
phương và giá trung bình tại thời điểm thu hồi đất). Đối với cây lâu năm,
mức bồi thường được tính bằng giá trị hiện có của vườn cây theo giá ở địa
40
phương tại thời điểm thu hồi đất mà không bao gồm giá trị quyền sử dụng đất.
Đối với cây trồng chưa thu hoạch nhưng có thể di chuyển đến địa điểm khác,
người sử dụng đất được bồi thường thiệt hại thực tế và chi phí di chuyển do
phải trồng lại, phải di chuyển. Đối với cây rừng trồng bằng nguồn vốn ngân
sách nhà nước, cây rừng tự nhiên giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trồng,
quản lý, chăm sóc thì bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế; tiền bồi thường
được phân chia cho những người quản lý, chăm sóc, bảo vệ.
Đối với vật nuôi, Nhà nước chỉ bồi thường thiệt hại đối với vật nuôi là
thủy sản mà tại thời điểm thu hồi đất chưa đến kỳ thu hoạch. Theo đó, do phải
thu hoạch sớm nên người sử dụng đất thuộc trường hợp này sẽ được bồi
thường thiệt hại thực tế. Trường hợp chưa bắt buộc thu hoạch sớm mà có thể
di chuyển được, người sử dụng đất được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt
hại do di chuyển gây ra; mức bồi thường cụ thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quy định.
2.1.2.3 Quy định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Với mục đích hỗ trợ người sử dụng đất sớm ổn định cuộc sống nên ngoài
các khoản tiền bồi thường, người sử dụng đất nông nghiệp còn được hưởng
các chế độ hỗ trợ. Nếu bồi thường là một chế định pháp lý độc lập và là hệ
quả tất yếu của việc thu hồi đất thì hỗ trợ được xem như một biện pháp bổ
sung và là sự “kéo dài” của quá trình bồi thường, nhằm bù đắp một cách trọn
vẹn hơn những thiệt hại do bị Nhà nước thu hồi đất gây ra. Biện pháp hỗ trợ
không chỉ nhằm khắc phục những thiệt hại thực tế “lượng hóa” được bằng
vật chất mà còn hướng tới bù đắp những thiệt hại vô hình như công ăn việc
làm, môi trường sống thay đổi hay những tổn thất tinh thần do việc thu hồi đất
gây ra [24, tr97].
Hiện nay, các chế độ hỗ trợ đối với người sử dụng đất nông nghiệp gồm:
- Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất khi Nhà nước thu hồi đất
41
Tùy thuộc vào diện tích đất bị thu hồi và hoàn cảnh sống của người sử
dụng đất sau khi bị thu hồi, Nhà nước sẽ có chế độ hỗ trợ ổn định đời sống và
sản xuất tương ứng. Xét về bản chất, chế độ hỗ trợ ổn định đời sống và sản
xuất là hai chế độ hỗ trợ khác nhau gồm chế độ hỗ trợ ổn định đời sống và chế
độ hỗ trợ ổn định sản xuất. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định mức hỗ trợ,
thời gian hỗ trợ, định kỳ chi trả tiền hỗ trợ cho phù hợp với thực tế tại địa
phương.
Về chế độ hỗ trợ ổn định đời sống: Người sử dụng đất được hỗ trợ trong
thời gian 6 tháng nếu không phải di chuyển chỗ ở và trong thời gian 12 tháng
nếu phải di chuyển chỗ ở nếu Nhà nước thu hồi từ 30% đến 70% diện tích đất
nông nghiệp đang sử dụng; Người sử dụng đất được hỗ trợ trong thời gian tối
đa là 24 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở đến những địa bàn có điều kiện kinh
tế - xã hội khó khăn hoặc có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn.
Người sử dụng đất được hỗ trợ trong thời gian 12 tháng nếu không phải
di chuyển chỗ ở và trong thời gian 24 tháng nếu phải di chuyển chỗ ở nếu bị
thu hồi trên 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng; trường hợp phải di
chuyển đến các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn hoặc có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thì thời gian hỗ trợ tối đa là 36 tháng.
Mức hỗ trợ được tính bằng tiền tương đương 30kg gạo/tháng/nhân khẩu theo
thời giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ của địa phương.
Về chế độ hỗ trợ ổn định sản xuất:
Hộ gia đình, cá nhân được bồi thường bằng đất nông nghiệp thì được hỗ
trợ ổn định sản xuất, bao gồm: Hỗ trợ giống cây trồng, giống vật nuôi cho sản
xuất nông nghiệp, các dịch vụ khuyến lâm, khuyến nông, dịch vụ bảo vệ thực
vật, thú y, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi.
Hộ gia đình, cá nhân được hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất theo hình
thức bằng tiền nếu đang sử dụng đất do nhận giao khoán đất sử dụng vào mục
42
đích nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản của các nông, lâm trường
quốc doanh.
- Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm đối với
trường hợp thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp
sản xuất nông nghiệp
Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp mà được bồi thường bằng tiền; hộ gia đình, cá nhân đang
sử dụng đất không phải là cán bộ, công nhân viên của nông, lâm trường quốc
doanh, của công ty nông, lâm nghiệp được chuyển đổi từ các nông, lâm
trường quốc doanh đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng
trợ cấp khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì được hỗ trợ đào tạo, chuyển
đổi nghề và tìm kiếm việc làm.
Theo đó, người sử dụng đất sẽ được hỗ trợ bằng tiền không quá 05 lần
giá đất nông nghiệp cùng loại trong bảng giá đất của địa phương đối với toàn
bộ diện tích đất nông nghiệp thu hồi. Tuy nhiên, diện tích được hỗ trợ không
vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp tại địa phương và mức hỗ trợ cụ thể
do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định căn cứ điều kiện thực tế của địa
phương.
- Hỗ trợ khác
Với mục đích đảm bảo chỗ ở, ổn định đời sống, sản xuất và sự công
bằng cho người có đất thu hồi, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định
biện pháp hỗ trợ khác căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương. Trường
hợp trực tiếp sản xuất nông nghiệp nhưng không đủ điều kiện được bồi
thường, hộ gia đình, cá nhân được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét hỗ trợ
cho phù hợp với thực tế của địa phương, trường hợp đặc biệt trình Thủ tướng
Chính phủ quyết định.
2.1.3 Trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
43
Trình tự, thủ tục bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp được
quy định tương đối cụ thể và rõ ràng trong hệ thống quy phạm pháp luật về
bồi thường đất. Căn cứ quy định tại Chương 6 Luật đất đai 2013 và các văn
bản hướng dẫn thi hành, trình tự, thủ tục thu hồi bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp được thực hiện thành 4 bước sau:
Bước 1: Thông báo thu hồi đất và triển khai kế hoạch thu hồi đất, điều
tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm
Đối với đất nông nghiệp, để đảm bảo quyền được cung cấp thông tin và
có sự chuẩn bị kịp thời, pháp luật quy định: Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền thu hồi đất phải thông báo thu hồi đất cho người có đất thu hồi biết
chậm nhất là 90 ngày trước khi có quyết định thu hồi đất. Ủy ban nhân dân tổ
chức phổ biến đến người dân trong khu vực có đất thu hồi và thông báo trên
phương tiện gửi đến từng người có đất bị thu hồi, họp thông tin đại chúng,
niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu
dân cư nơi có đất thu hồi.
Người sử dụng đất có trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ
bồi thường, giải phóng mặt bằng thực hiện hoạt động điều tra, khảo sát, đo
đạc xác định diện tích đất, thống kê nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất để lập
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi
có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ
chức vận động, thuyết phục trong trường hợp người sử dụng đất không tự giác
phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày được vận động, thuyết phục mà người
sử dụng đất tiếp tục không phối hợp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện
ban hành quyết định kiểm đếm bắt buộc. Trường hợp người có đất thu hồi
không tự nguyện chấp hành quyết định, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện
44
ban hành quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc và tổ
chức thực hiện cưỡng chế.
Bước 2: Lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ cho người có
đất bị thu hồi
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm
lập phương án bồi thường, hỗ trợ và phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư theo hình thức tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực
có đất thu hồi, đồng thời niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ
tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư
nơi có đất thu hồi.
Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại
diện Ủy ban nhân dân cấp xã, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cấp xã, đại diện những người có đất thu hồi.
Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm
tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản. Văn bản tổng hợp phải ghi rõ số
lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối
với phương án bồi thường, hỗ trợ. Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ
chức đối thoại đối với trường hợp còn có ý kiến không đồng ý về phương án
bồi thường, hỗ trợ; hoàn chỉnh phương án trình cơ quan có thẩm quyền. Cơ
quan có thẩm quyền thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định thu hồi đất.
Bước 3: Ban hành Quyết định thu hồi đất, Quyết định phê duyệt
phương án bồi thường và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ
45
Theo quy định pháp luật hiện hành, Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền
thu hồi đất ban hành quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày.
Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải
được phổ biến, niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa
điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi và gửi đến từng người
có đất thu hồi. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện bồi
thường, hỗ trợ, bố trí tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư đã được phê duyệt.
Bước 4: Cưỡng chế thực hiện Quyết định thu hồi đất (nếu cần thiết)
Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã nơi
có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có
trách nhiệm tổ chức vận động, thuyết phục để người có đất thu hồi thực hiện
nếu người có đất thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi
thường, giải phóng mặt bằng.
Nếu đã được vận động, thuyết phục mà người có đất bị thu hồi không
chấp hành việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng
mặt bằng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện được quyền ban hành quyết
định cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức thực hiện việc cưỡng chế.
Trước khi thực hiện hoạt động cưỡng chế, Ban thực hiện cưỡng chế tiến
hành vận động, thuyết phục, đối thoại một lần nữa với người bị cưỡng chế và
lập biên bản ghi nhận sự chấp hành (nếu người bị cưỡng chế chấp hành). Việc
bàn giao đất được thực hiện chậm nhất sau 30 ngày kể từ ngày lập biên bản.
Trường hợp vẫn không chấp hành quyết định cưỡng chế, Ban thực hiện
cưỡng chế có quyền buộc người bị cưỡng chế và những người có liên quan
phải ra khỏi khu đất cưỡng chế, tự chuyển tài sản ra khỏi khu đất cưỡng chế.
Nếu không thực hiện, Ban thực hiện cưỡng chế thực hiện thay toàn bộ các
46
công việc nêu trên. Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối nhận tài sản, Ban
thực hiện cưỡng chế sẽ lập biên bản, tổ chức thực hiện bảo quản tài sản theo
quy định của pháp luật và thông báo cho người có tài sản nhận lại tài sản.
Có thể thấy, quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất nông nghiệp vì mục
đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng đã được quy định tương đối chi tiết và cụ thể. Đặc biệt, so với quy định
pháp luật trước đây, quy định pháp luật hiện hành đã tăng cường sự tham gia
của người dân trong quá trình thu hồi, bồi thường đất, đảm bảo quyền lợi hợp
pháp của người dân. Theo đó, người dân có đất bị thu hồi được quyền nhận
biết thông tin về việc thu hồi đất, được trực tiếp tham gia hoạt động đo đạc,
kiểm đếm tài sản và có quyền góp ý, đối thoại với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về phương án bồi thường, hỗ trợ. Tuy nhiên, trên phương diện tổng
quát, sự tham gia của người dân vào quá trình thu hồi – bồi thường đất vẫn
còn bị hạn chế (chỉ tập trung tại buổi lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư). Đồng thời, pháp luật vẫn chưa quy định cơ chế tiếp thu
những đóng góp, ý kiến của người dân nên việc tham gia đóng góp ý kiến của
người dân vẫn chưa đạt được kết quả đúng như ý nghĩa, chỉ mang tính hình
thức. Vì vậy, pháp luật cần có sự điều chỉnh lại để phát huy tối đa quyền dân
chủ của người dân xuyên suốt hoạt động thu hồi – bồi thường đất nông nghiệp
nói riêng và các loại đất khác trong hệ thống đất đai nói chung.
Ngoài ra, một trong những điểm tiến bộ của Luật đất đai 2013 so với các
văn bản luật trước là có những quy định cụ thể hơn về hoạt động cưỡng chế
thực hiện quyết định kiểm đếm bắt buộc và cưỡng chế thực hiện quyết định
thu hồi đất. Hoạt động cưỡng chế chính là một biện pháp hữu hiệu thể hiện
quyền lực và vai trò đại diện chủ sở hữu của Nhà nước, đồng thời nâng cao
hiệu quả của hoạt động thu hồi đất.
47
Tuy nhiên, nếu lạm dụng quyền “cưỡng chế”, ý nghĩa của hoạt động
cưỡng chế sẽ biến đổi theo chiều hướng ngược lại. Bởi khiếu kiện của người
dân hầu hết đều xuất phát từ việc không đồng thuận với phương án bồi
thường, hỗ trợ của Nhà nước, đây chính là biểu hiện rõ nhất về nỗi niềm,
mong muốn của người dân và Nhà nước cần phải nắm bắt. Vì suy cho cùng,
Nhà nước chỉ là một tổ chức được nhân dân trao quyền quản lý và đại diện
cho quyền lợi của nhân dân. Do đó, việc lạm dụng quyền lực cưỡng chế nhà
nước để đàn áp người dân là vi phạm nghiêm trọng bản chất của Nhà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ. Hơn nữa, thực tế đã chứng
minh, khi càng bị đè nén, đàn áp, người dân càng có những phản ứng mạnh
mẽ hơn, gây nên nhiều “điểm nóng” trong cả nước và làm mất ổn định trật tự
xã hội. Vì vậy, Nhà nước cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định áp
dụng các biện pháp cưỡng chế đối với người dân trong quá trình thu hồi, bồi
thường đất nông nghiệp.
2.1.4 . Giải quyết khiếu kiện, tố cáo liên quan đến hoạt động bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Liên quan đến hoạt động khiếu kiện, tố cáo về hoạt động bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nói riêng và hoạt động trong lĩnh vực đất
đai nói chung, Điều 204 Luật đất đai 2013 có quy định: “Người sử dụng đất,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại,
khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai.
Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành
chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Trình tự,
thủ tục giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất
đai thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính”. Đồng thời,
điều 25 Luật đất đai 2013 quy định về quyền tố cáo của người dân như sau:
“Cá nhân có quyền tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai.
48
Việc giải quyết tố cáo vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai thực
hiện theo quy định của pháp luật về tố cáo”.
Có thể thấy, pháp luật đất đai đã công nhận quyền khiếu nại, tố cáo, khởi
kiện của người sử dụng đất là những quyền cơ bản của người dân. Quy định
này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013 cũng như chủ
trương của Đảng và Nhà nước về quyền của công dân. Theo đó, nếu người sử
dụng đất không đồng ý với những quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp, người sử dụng đất có quyền khiếu nại hoặc
khởi kiện. Trường hợp người sử dụng đất phát hiện những hành vi vi phạm
pháp luật của các cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, người sử dụng đất hoàn
toàn có quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do khiếu nại, khởi
kiện, tố cáo liên quan đến hoạt động thu hồi, bồi thường cũng là một loại
khiếu nại, khởi kiện, tố cáo được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật về khiếu
nại, khởi kiện, tố cáo. Vì vậy, để đảm bảo tính thống nhất và hạn chế tối đa sự
mâu thuẫn, chồng chéo về pháp luật, Luật đất đai hiện nay không hướng dẫn
chi tiết về các hoạt động này. Thay vào đó, Luật đất đai trích dẫn sang các văn
bản luật điều chỉnh tương ứng như Luật khiếu nại, Luật tố cáo, Luật tố tụng
hành chính.
Thực tế cho thấy, số lượng khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện liên quan đến
hoạt động thu hồi, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất (đặc biệt về giá bồi
thường) luôn chiếm đa số trong tổng số vụ việc khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện
trên các lĩnh vực. Điều này cho thấy, Nhà nước cần đặc biệt chú tâm hơn đến
việc đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người dân có đất bị thu hồi, nâng cao
tính hợp tình, hợp lý trong quá trình ban hành các quyết định về bồi thường,
49
hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để hướng tới mục tiêu cao nhất là người dân
được hưởng các chế độ tối đa.
Hiện nay, pháp luật quy định người sử dụng đất phải có trách nhiệm thực
hiện toàn bộ các nghĩa vụ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu trong
khi sử dụng quyền khiếu nại, khởi kiện, tố cáo. Chỉ khi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền phán quyết cơ quan nhà nước có vi phạm pháp luật như khiếu nại,
tố cáo của người sử dụng đất, người sử dụng đất mới được hoàn trả lại nghĩa
vụ đã thực hiện hoặc được bồi thường tương ứng với thiệt hại do hành vi vi
phạm gây ra. Xét trên phương diện của cơ quan quản lý nhà nước về đất đai,
quy định này sẽ thúc đẩy tinh thần chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh của
người sử dụng đất, đẩy nhanh quy trình thu hồi đất để thực hiện các dự án đã
phê duyệt. Tuy nhiên, nếu đứng trên phương diện của người sử dụng đất, quy
định này cũng gây hoang mang, vướng mắc của người sử dụng đất. Bởi khi
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận yêu cầu khiếu nại, khởi
kiện, tố cáo và trả lại đất đã thu hồi, người sử dụng đất cũng đã phải trải qua
một thời gian tương đối khó khăn cả về tinh thần lẫn vật chất. Do đó, Nhà
nước cần lưu tâm, điều chỉnh, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành về
khiếu nại, khởi kiện, tố cáo và giám sát hoạt động bồi dưỡng, hỗ trợ chuyển
đổi nghề nghiệp để đạt hiệu quả tốt nhất.
2.2 Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội
2.2.1 Tình hình thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội
Thanh Trì là huyện nằm ở phía Nam Thành phố, dân số trên 200.000
người với diện tích tự nhiên là 6.292,7 ha, gồm 15 xã và 01 thị trấn. Phía Nam
giáp huyện Thường Tín, phía Bắc giáp quận Hoàng Mai, phía Tây và Tây Bắc
giáp quận Thanh Xuân, phía Đông là sông Hồng, giáp với huyện Gia Lâm và
50
tỉnh Hưng Yên. Thanh Trì là một trong những đầu mối giao thông quan trọng
của Thủ đô, thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế - xã hội với các tỉnh [17, tr1].
Trong những năm gần đây, cùng với tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ của
nền kinh tế cả nước, tốc độ phát triển kinh tế trên địa bàn huyện Thanh Trì
cũng được đánh giá là rất khả quan, giai đoạn 2016 – 2018 bình quân đạt
8,8%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng tăng tỷ trọng ngành
thương mại – dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp [30, tr2].
Để thực hiện định hướng phát triển trên, thời gian qua, hàng loạt các dự
án thu hồi đất nông nghiệp đã được phê duyệt và triển khai trên thực tế. Theo
số liệu được trích dẫn tại Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội, an ninh quốc phòng năm 2018, nhiệm vụ trọng tâm năm 2019 của
Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì, tổng kế hoạch vốn xây dựng cơ bản năm
2018 là 901.150.000.000 đồng, phân bổ chi tiết cho 137 dự án (28 dự án đầu
tư khởi công mới, 29 dự án chuẩn bị đầu tư, 49 dự án bố trí vốn để quyết toán
công trình, 14 dự án đầu tư chuyển tiếp, 11 dự án cải tạo, sửa chữa thường
xuyên các trường học và 6 dự án duy tu sửa chữa đường). Trong quá trình thu
hồi đất để thực hiện dự án, Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì đã phê duyệt
2.085 phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của 34 dự án với tổng số tiền
bồi thường là 627.554.000.000 đồng và tổng diện tích đất thu hồi là 60,84 ha.
Tổ chức giao đất tái định cư, giao đất chuyển đổi nghề cho 254 trường hợp đủ
điều kiện [26, tr4]. Đến hết năm 2018, huyện Thanh Trì đã hoàn thành công
tác thu hồi, bồi thường, bàn giao và đưa vào sử dụng 41 dự án. Về cơ bản,
công tác thu hồi, bồi thường cho các hộ dân có đất bị thu hồi tại các dự án
được Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì cùng các bộ phận chuyên môn thực
hiện một cách nghiêm túc, tuân thủ quy định của pháp luật và hướng dẫn chi
tiết của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội.
51
Bên cạnh những con số thống kê tích cực nêu trên, thời gian qua, huyện
Thanh Trì vấp phải sự phản đối tương đối gay gắt từ phía nhân dân trong quá
trình thu hồi, bồi thường đối với một số dự án trọng điểm như: Dự án nâng
cấp, cải tạo quốc lộ 1A; Dự án đầu tư, nâng cấp tuyến đường Pháp Vân – Cầu
Giẽ theo hình thức BOT, Khu đô thị Tây Nam Kim Giang; Dự án nút giao
thông giữa tuyến đường số 1 thuộc dự án xây dựng đường bao quanh khu
tưởng niệm danh nhân Chu Văn An với tuyến đường 70. Hầu hết các dự án
đều gặp phải sự phản đối của người dân liên quan đến nội dung của phương
án bồi thường, hỗ trợ bởi cho rằng mức bồi thường, hỗ trợ còn quá thấp,
không đúng với quy định, chủ trương của thành phố và không đảm bảo sự ổn
định về đời sống của người dân sau khi bị thu hồi đất nông nghiệp.
Nổi cộm hiện nay là dự án khu đô thị mới Tây Nam Kim Giang I, dự án
được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội phê duyệt từ năm 2007, với diện
tích gần 360 nghìn m2 đất, liên quan đến 417 hộ dân tại địa bàn xã Tân Triều,
huyện Thanh Trì. Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì đã phê duyệt phương án
bồi thường đối với 360 hộ dân, nhưng chỉ có 236 hộ dân nhận tiền và bàn giao
mặt bằng (chủ yếu là các hộ dân có diện tích thu hồi dưới 30%) [31, tr2]. Còn
lại 124 hộ dân không nhận tiền và liên tục đề nghị được hỗ trợ chuyển đổi
nghề, tạo việc làm cho các hộ dân bị thu hồi từ 30% đất bằng hình thức giao
đất. Bởi theo quy định của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, người sử dụng
đất sẽ được hưởng chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm
bằng 60m2 đất ở nếu bị thu hồi hơn 30% diện tích đất nông nghiệp. Tuy
nhiên, khi lập phương án và thực hiện bồi thường, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tại huyện Thanh Trì đang áp dụng không đồng nhất về chế độ
giữa những người dân có đất bị thu hồi (có hộ dân được hưởng chế độ này
nhưng cũng có những hộ dân không được hưởng). Thậm chí, có một số hộ
dân không có đất bị thu hồi nhưng vẫn được bố trí tái định cư đã tạo nên làn
52
sóng bất bình trong nhân dân vì yếu tố công bằng, minh bạch bị xâm phạm.
Liên quan đến nội dung này, ông Bùi Huy Hoàng – Phó Giám đốc Trung tâm
phát triển quỹ đất huyện Thanh Trì cũng đã thừa nhận: “Trong tổng số 124 hộ
được phê duyệt đất tái định cư theo Quyết định số 1939 của Ủy ban nhân dân
huyện Thanh Trì, sau khi kiểm tra lại, có hai hộ là Triệu Khắc Quân và hộ
Nguyễn Văn Sơn là không đủ điều kiện được giao đất, do nhầm lẫn trong quá
trình phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ” [33, tr1]. Chính những sai
phạm nêu trên khiến hàng loạt người dân có đất bị thu hồi tập hợp biểu tình
và khiếu nại tập thể, dẫn đến những bất ổn trong tình hình xã hội tại địa bàn
huyện.
Ngoài ra, đối với một số dự án như dự án khu đô thị Tây Nam Kim
Giang I, dự án nâng cấp, cải tạo quốc lộ 1A …, Ủy ban nhân dân huyện
Thanh Trì cùng ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất còn có nhiều vi phạm
nghiêm trọng về thủ tục thực hiện thu hồi, bồi thường và giải quyết khiếu kiện
của người dân. Theo đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của huyện
Thanh Trì gần như bỏ ngỏ thủ tục đối thoại, thuyết phục trong quá trình thu
hồi và thực hiện quyết định cưỡng chế đối với những hộ dân không đồng
thuận [32,tr1]. Mặc dù nhận được nhiều đề nghị của người dân về việc làm rõ
một số nội dung trong phương án bồi thường, hỗ trợ nhưng Ủy ban nhân dân
huyện Thanh Trì vẫn trì hoãn mở cuộc đối thoại trực tiếp. Thay vào đó, Ủy
ban nhân dân huyện Thanh Trì đáp trả bằng các quyết định cưỡng chế thu hồi
khiến cho người dân vô cùng bức xúc.
Theo thông tin tiếp nhận được, hàng loạt các dự án thu hồi – bồi thường
diễn ra trên địa bàn huyện Thanh Trì đang chậm tiến độ nghiêm trọng so với
quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của người dân.
Ví dụ: Tính đến thời điểm hiện nay, Dự án khu đô thị Tây Nam Kim Giang I
đã kéo dài hơn 11 năm nhưng vẫn chưa hoàn thành công tác đền bù giải
53
phóng mặt bằng [35, tr1]. Hay Dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 1A, đoạn Văn
Điển – Ngọc Hồi được thành phố Hà Nội phê duyệt từ năm 2010 và dự kiến
hoàn thành vào năm 2013 nhưng đến thời điểm hiện nay (trải qua hơn 9 năm)
công tác giải phóng mặt bằng vẫn chưa hoàn thành [34, tr1].
Bên cạnh đó, dù đã được đẩy mạnh nhưng công tác tiếp nhận và giải
quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
của người dân vẫn còn nhiều chậm trễ, có sự thoái thác, đùn đẩy trách nhiệm.
Chính điều này đã khiến cho những khiếu nại tiếp tục kéo dài. Điển hình là
khiếu nại trong Dự án Khu đô thị mới Tây Nam Kim Giang I, tại buổi tiếp
công dân của đồng chí Nguyễn Đức Chung – Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành
phố Hà Nội, các công dân: Triệu Như Vượng, Nguyễn Đức Mỹ, Nguyễn
Quốc Đạt – đại diện cho hộ có đất thu hồi có khiếu nại về chế độ được hưởng
khi Nhà nước thu hồi trên 30% đất nông nghiệp. Ngày 05/11/2018, Ủy ban
nhân dân thành phố Hà Nội có văn bản chỉ đạo các cơ quan có chức năng
thanh tra và giải quyết khiếu nại của người dân, giải quyết tình trạng tập trung
đông người khiếu kiện, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự xã hội.
Đồng thời, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội yêu cầu giải quyết xong trước
Tết âm lịch 2019 [35, tr1]. Tuy nhiên đến thời điểm hiện nay, việc giải quyết
khiếu nại vẫn chưa có kết quả.
2.2.2 Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp tại huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội
Từ thực tiễn thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp tại huyện Thanh Trì như đã trình bày tại mục 2.2.1 Luận văn, có
thể nhận định: Hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
tại huyện Thanh Trì vẫn luôn song song tồn tại cả yếu tố tích cực và những
hạn chế cần nhanh chóng khắc phục. Cụ thể:
2.2.2.1 Ưu điểm
54
Hầu hết các dự án được triển khai theo đúng chủ trương của Đảng, Nhà
nước và Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, góp phần đẩy mạnh quá trình
chuyển đổi cơ cấu kinh tế tại huyện Thanh Trì nói riêng và của thành phố Hà
Nội nói chung. Việc bồi thường cũng đảm bảo tính dân chủ, công khai, minh
bạch và tuân thủ tương đối đầy đủ trình tự, thủ tục về thu hồi – bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất. Tất cả các văn bản liên quan đến hoạt động này như
thông báo thu hồi đất, quyết định thu hồi đất, danh sách người bị thu hồi đất,
phương án bồi, thường, hỗ trợ và tái định cư … đều được công bố công khai
và niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã nơi có đất thu hồi, địa điểm sinh
hoạt chung của cộng đồng và trên các phương tiện thông tin đại chúng để
người dân nắm bắt.
Người dân được phổ biến, giải thích và được quyền đóng góp ý kiến về
phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân cũng có được nhiều dấu hiệu tích
cực, góp phần giải quyết triệt để những thắc mắc, bất đồng của người dân.
Triển khai thực hiện nghiêm Chỉ thị số 07/CT-UBND ngày 24/04/2018 của
Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội về việc nâng cao chất lượng công tác tiếp
công dân, giải quyết kiến nghị phản ánh, khiếu nại, tố cáo của công dân, lãnh
đạo huyện thường xuyên tiếp, đối thoại với công dân; duy trì họp giao ban
công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, thực hiện các
quyết định, kết luận sau thanh tra đã có hiệu lực pháp luật để kịp thời chỉ đạo
giải quyết những vụ việc phức tạp, kéo dài [26, tr12].
2.2.2.2 Hạn chế, bất cập
Hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp tại địa bàn
huyện Thanh Trì thời gian qua đã bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập như
sau:
55
Thứ nhất, việc xác minh nguồn gốc đất để làm căn cứ xác định đủ điều
kiện hưởng chế độ bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là một trong
những việc làm tương đối khó khăn. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, vấn đề
lưu giữ giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất cũng bị hạn chế, nhiều trường
hợp người sử dụng đất không có bất cứ giấy tờ chứng minh nào. Đối với
những trường hợp này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải tốn nhiều
thời gian, công sức trong việc xác định nguồn gốc sử dụng đất. Điều này dẫn
đến sự chậm trễ và bồi thường thiếu đối tượng trong thời gian vừa qua.
Thứ hai, việc áp dụng các nguyên tắc, phương pháp định giá đất vẫn
chưa thực sự phù hợp, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người dân. Thực tế
cho thấy, giá đất bồi thường cho người dân thấp hơn rất nhiều lần so với giá
đất sau khi thực hiện các dự án, không đảm bảo sự hài hòa về lợi ích giữa ba
bên (Nhà nước, chủ đầu tư dự án và người dân). Đây chính là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo dài, khó giải quyết.
Thứ ba, các quy định về đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho người trực
tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi đất nông nghiệp có tính khả thi thấp và
chưa được chú trọng. Đối với đa số các dự án, cơ quan có thẩm quyền chỉ tập
trung giải quyết vấn đề bồi thường đất và bồi thường tài sản trên đất mà
dường như không quan tâm giải quyết vấn đề công ăn, việc làm cho người
dân sau khi bị thu hồi đất.
Thứ tư, quy định về việc tham vấn người dân trong việc lập, thẩm định
và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ còn chưa rõ ràng, cụ thể. Đây là
một trong những thiếu sót, bấp cập của hệ thống pháp luật về đất đai nói
chung. Luật đất đai năm 2013 không thể hiện rõ quan điểm về nguyên tắc
đồng thuận trong các vấn đề cần ý kiến tham vấn người dân (mức độ đồng
thuận và việc điều chỉnh trong trường hợp người dân không đồng thuận).
56
Điều này dẫn đến hoạt động tham vấn ý kiến của người dân trong quá trình
thu hồi – bồi thường chỉ mang tính hình thức, chưa thực sự phát huy hiệu quả.
Thứ năm, dù đã có sự quán triệt về quan điểm chỉ đạo nhưng hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến thu hồi – bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp vẫn chưa đạt được hiệu quả mong muốn, chưa đảm
bảo quyền lợi của người dân có đất bị thu hồi. Thời hạn giải quyết khiếu nại
kéo dài khiến người dân bức xúc và phải chuyển sang sử dụng biện pháp khởi
kiện tại Tòa án để đòi lại quyền lợi.
2.2.2.3 Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
Qua quá trình nghiên cứu, đánh giá quy định pháp luật hiện hành cũng
như quá trình áp dụng pháp luật vào các dự án thu hồi tại huyện Thanh Trì,
người viết rút ra một số nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập nêu tại
mục 2.2.2.3 Luận văn như sau:
Thứ nhất, mặc dù nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng hệ thống các quy
phạm pháp luật đất đai điều chỉnh hoạt động thu hồi – bồi thường còn thiếu sự
đồng bộ, chưa phù hợp với thực tiễn và chưa đảm bảo tối đa quyền lợi của
người dân có đất bị thu hồi. Nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động này chưa
được pháp luật quy định hoặc đã được quy định nhưng chưa cụ thể dẫn đến
việc áp dụng trên thực tế gặp nhiều khó khăn.
Thứ hai, đất đai ở nước ta nói chung và ở huyện Thanh Trì nói riêng rất
đa dạng, phức tạp do chính sách đất đai có sự biến đổi liên tục qua từng thời
kỳ lịch sử với các chế độ sở hữu và cơ chế quản lý khác nhau. Do đó, việc xác
định nguồn gốc sử dụng đất để quyết định áp dụng chế độ bồi thường, hỗ trợ
cũng gặp nhiều khó khăn. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng bỏ
sót đối tượng được bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất hoặc bồi thường, hỗ trợ
không đúng đối tượng được hưởng.
57
Thứ ba, việc xây dựng và thực hiện phương án bồi thường còn mang
tính áp đặt, chưa đảm bảo tính công khai, dân chủ. Giá bồi thường còn thấp so
với giá trị đất sau khi thực hiện dự án. Có thể thấy, giá bồi thường chính là
một trong những yếu tố chủ yếu dẫn đến khiếu kiện của người dân. Hơn nữa,
do có vị thế đắc địa nên giá đất của huyện Thanh Trì so với mặt bằng chung
đã tương đối cao nên mức độ gay gắt, phức tạp cũng sẽ gia tăng đáng kể.
Thứ tư, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và đối thoại với người
dân liên quan đến hoạt động thu hồi – bồi thường đất nông nghiệp còn nhiều
hạn chế. Do đó, người dân không nắm bắt được toàn bộ chủ trương, quy định
của Nhà nước và tình hình thực tiễn về hoạt động thu hồi – bồi thường. Đây là
nguyên nhân dẫn đến hiện tượng người dân bị lôi kéo, kích động và tổ chức
khiếu kiện đông người, vượt cấp, gây mất trật tự an toàn xã hội, tạo nên
những điểm nóng trong địa phương.
Thứ năm, người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi là tầng lớp còn nhiều
khó khăn về kinh tế, hạn chế về trình độ nhận thức nên không am hiểu quy
định pháp luật, dễ bị kích động, lôi kéo dù đã được bồi thường đúng quy định.
Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ thực hiện hoạt động thu hồi – bồi thường và giải
quyết khiếu kiện liên quan đến hoạt động này còn chưa để cao tinh thần trách
nhiệm, chưa thực sự am hiểu toàn bộ quy định pháp luật liên quan để giải
thích, khuyên răn người dân.
2.3. Thực tiễn bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thực
tiễn tại huyện Thanh Trì
2.3.1. Bồi thường đất nông nghiệp bị thu hồi tại huyện Thanh Trì
Dự án xây dựng Khu đô thị mới Hạ Ðình; dự án Xây dựng chợ Yên Xá;
dự án xây dựng Trường tiểu học Tân Triều; dự án Nhà ở giãn dân tại điểm
dân cư nông thôn Triều Khúc; dự án Indeco Complex và dự án hạ ngầm
đường điện 110 kV; dự án Khu đô thị Tây Nam Kim Giang I). Việc thu hồi
58
đất của UBND thành phố Hà Nội là chủ trương đúng đắn nhằm phát triển
kinh tế-xã hội, tuy nhiên, trong quá trình lập phương án bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư, các cơ quan chức năng của huyện Thanh Trì đã thực hiện đúng
quy định. Cụ thể: Theo quy định của UBND thành phố Hà Nội, đối với các hộ
dân khi bị thu hồi hơn 30% diện tích đất nông nghiệp thì sẽ được hưởng chính
sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm bằng 60 m2 đất ở. Trong
danh sách 124 hộ được cấp đất tái định cư theo Quyết định số 1939/QÐ-
UBND ngày 23-4-2014 của UBND huyện Thanh Trì khi bị thu hồi đất tại sáu
dự án nêu trên được bố trí tái định cư.
Căn cứ Quyết định số 4272/QÐ-UBND ngày 26-10-2007 của UBND
thành phố Hà Nội về việc thu hồi 357.910 m2 đất tại xã Tân Triều, huyện
Thanh Trì giao cho TTPTQÐ thành phố (nay là TTPTQÐ huyện Thanh Trì)
để tổ chức bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chuẩn bị mặt bằng thực hiện Dự
án xây dựng hạ tầng kỹ thuật toàn bộ diện tích Khu đô thị Tây Nam Kim
Giang I phục vụ xây dựng quỹ nhà tái định cư. Theo điều tra, kê khai, tổng số
418 hộ có đất thuộc chỉ giới giải phóng mặt bằng dự án. Trong đó: 20 hộ có
đất thổ cư; 394 hộ có đất nông nghiệp và bốn hộ có tài sản trên đất. Trong số
394 hộ có đất nông nghiệp trong dự án, có 309 hộ bị thu hồi toàn bộ đất nông
nghiệp và theo quy định, họ sẽ được nhận tái định cư mỗi hộ 60 m2.
2.3.2.Bồi thường về cây trồng, vật nuôi khi Nhà nước thu hồi đất
2. 3.2.1. Bồi thường về cây trồng
Theo khoản 1 Điều 90 Luật Đất đai 2013 khi Nhà nước thu hồi đất mà
gây thiệt hại đối với cây trồng thì việc bồi thường được tính như sau:
Trường hợp 1: Cây trồng hàng năm
- Mức bồi thường được tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu hoạch.
59
- Giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được tính theo năng suất của vụ
cao nhất trong 03 năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và giá
trung bình tại thời điểm thu hồi đất.
Trường hợp 2: Cây trồng lâu năm
- Mức bồi thường được tính bằng giá trị hiện có của vườn cây theo giá
ở địa phương tại thời điểm thu hồi đất mà không bao gồm giá trị quyền sử
dụng đất.
- Ngoài tiền bồi thường về đất (nếu đủ điều kiện) thì còn được bồi
thường về cây trồng lâu năm bị thiệt hại. Tại mỗi địa phương giá của vườn
cây lâu năm tại mỗi thời điểm là khác nhau.
Trường hợp 3: Cây trồng có thể di chuyển đến nơi khác
- Đối với cây trồng chưa thu hoạch nhưng có thể di chuyển đến địa
điểm khác thì được bồi thường chi phí di chuyển và thiệt hại thực tế do phải
di chuyển, phải trồng lại.
- Thông thường việc bồi thường với cây trồng có thể di chuyển đến nơi
khác áp dụng với các loại cây trồng lâu năm.
Trường hợp 4: Bồi thường về rừng
Đối với cây rừng trồng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, cây rừng
tự nhiên giao cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trồng, quản lý, chăm sóc, bảo
vệ thì bồi thường theo giá trị thiệt hại thực tế của vườn cây.
2.3.2.2. Bồi thường về vật nuôi
Khi Nhà nước thu hồi đất mà gây thiệt hại đối với vật nuôi là thủy sản
thì việc bồi thường được tính như sau:
- Đối với vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi đất đã đến thời
kỳ thu hoạch thì không được bồi thường (vì chủ sở hữu sẽ thu hoạch và bán
nên không có thiệt hại).
60
- Đối với vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi đất chưa đến thời
kỳ thu hoạch thì bồi thường như sau:
+ Nếu thu hoạch sớm thì được bồi thường thiệt hại thực tế do phải thu
hoạch sớm;
+ Nếu có thể di chuyển được thì được bồi thường chi phí di chuyển và
thiệt hại do di chuyển gây ra.
61
Tiểu kết chương
Qua quá trình nghiên cứu thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi hành tại huyện Thanh Trì, người
viết tổng kết lại một số nội dung cơ bản sau:
1. Kế thừa những tiến bộ của các văn bản luật đất đai trước đây, Luật đất
đai năm 2013 cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định
tương đối rõ ràng về các nội dung cơ bản liên quan đến thủ tục thu hồi – bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp gồm: (i) Điều kiện được bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; (ii) Quy định về chế độ bồi
thường về đất, bồi thường về tài sản và các chế độ hỗ trợ khác cho người có
đất nông nghiệp bị thu hồi; (iii) Trình tự, thủ tục thực hiện thu hồi – bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; (iv) Giải quyết khiếu kiện, tố
cáo liên quan đến hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp.
2. Đối chiếu các quy định pháp luật hiện hành vào hoạt động thu hồi, bồi
thường khi thu hồi đất nông nghiệp tại địa bàn huyện Thanh Trì, có thể thấy,
hoạt động thu hồi – bồi thường được thực hiện tương đối nghiêm chỉnh, tuân
thủ các quy định pháp luật hiện hành hướng tới sự chuyển đổi cơ cấu ngành
nghề phù hợp với sự chuyển đổi chung của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh
những ưu điểm, hoạt động bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp tại huyện
Thanh Trì còn tồn tại nhiều điểm bất cập. Thời gian vừa qua, trên địa bàn
huyện Thanh Trì xuất hiện nhiều “điểm nóng” do sự phản đối gay gắt của
người dân liên quan đến phương án bồi thường, hỗ trợ. Đây chính là hồi
chuông báo động đối với các nhà lãnh đạo huyện Thanh Trì trong việc chỉ đạo
công tác bồi thường đúng pháp luật.
62
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
NÔNG NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THANH TRÌ, THÀNH PHỐ
HÀ NỘI
3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn thi hành trên địa bàn huyện Thanh
Trì, thành phố Hà Nội
Căn cứ quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp và thực tiễn thi hành trên địa bàn huyện Thanh Trì, một số giải pháp
hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được đề xuất
như sau:
Thứ nhất, điều chỉnh một số nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp
- Khoản 2 Điều 74 Luật đất đai 2013 quy định: “Việc bồi thường được
thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất bị thu
hồi”. Quy định đã gián tiếp thể hiện sự ưu tiên đối với phương thức bồi
thường bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với đất bị thu hồi. Tuy
nhiên, như đã phân tích trong các nội dung có liên quan của Luận văn, việc
thực thi nguyên tắc này trên thực tế không đạt được hiệu quả, thậm chí có thể
đánh giá là có tính khả thi thấp. Hầu hết các địa phương đều sử dụng phương
thức bồi thường bằng tiền thay vì sử dụng phương thức bồi thường bằng đất.
Bởi nguyên nhân khách quan là đa số các địa phương không có quỹ đất dư để
bồi thường cho người dân. Bên cạnh đó, bản thân các cá nhân, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cũng ngại áp dụng phương thức này vì tính phức tạp cao
hơn. Vì vậy, để nguyên tắc mang tính thực tiễn và có khả năng thực thi trên
63
thực tế, pháp luật cần có sự điều chỉnh theo hướng: Ưu tiên áp dụng phương
thức bồi thường bằng đất có chung mục đích sử dụng đất đối với những địa
phương có quỹ đất sạch để bồi thường, đồng thời có sự phân loại về chủ thể
được nhận bồi thường về đất (ưu tiên những người dân có nhu cầu tiếp tục
sản xuất nông nghiệp). Hàng năm, nhà nước cần công bố công khai danh sách
các địa phương còn quỹ đất sạch và diện tích đất sạch còn lại cụ thể để người
dân được biết cũng như giám sát hoạt động bồi thường của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
- Khoản 2 điều 74 Luật đất đai 2013 quy định nguyên tắc: “Nếu không
có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của
loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết
định thu hồi đất”. Nguyên tắc nhấn mạnh về giá đất bồi thường là giá đất cụ
thể do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành và tại thời điểm ban hành quyết
định thu hồi đất cho người dân.
Đối với cách thức xác định giá đất bồi thường, dù đã sửa đổi, điều chỉnh
nhiều lần theo hướng nâng cao giá bồi thường cho người dân nhưng nhìn
chung giá đất bồi thường do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành vẫn còn rất
thấp. Giá đất phải phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có
cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng
đất đối với những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử
dụng đất và phù hợp với các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương.
Có thể thấy, các yếu tố làm căn cứ xây dựng bảng giá đất đều mang tính
định tính thay vì tính định lượng nên việc quyết định giá đất phụ thuộc chủ
yếu vào ý chí chủ quan của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và thường
có xu hướng thấp hơn nhiều lần so với giá đất trên thị trường. Đồng thời, việc
căn cứ vào giá phổ biến của các giao dịch về chuyển nhượng, trúng đấu giá
64
quyền sử dụng đất cũng là yếu tố “ảo” bởi khi thực hiện những thủ tục này,
người dân thường có xu hướng khai thấp hơn giá thực tế của giao dịch.
Hơn nữa, vấn đề tham khảo ý kiến cộng đồng, người dân có đất bị thu
hồi, cơ quan định giá chuyên nghiệp, các chuyên gia về định giá đất cũng
chưa được đề cao. Đặc biệt, việc Ủy ban nhân dân vừa là cơ quan có thẩm
quyền thu hồi đất vừa là cơ quan xây dựng khung giá đất làm căn cứ tính tiền
bồi thường cho người dân bị thu hồi đất là một điều không hợp lý, tạo nên
tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi” và gây thiếu công bằng trong thực thi
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất [31, tr3]. Do vậy, người viết
đồng tình với quan điểm: Nhà nước nên chuyển giao quyền xây dựng bảng
giá đất cụ thể để làm căn cứ tính tiền bồi thường đất cho một tổ chức định giá
chuyên nghiệp, có sự độc lập về chuyên môn, tài chính. Chỉ khi thực hiện
được phương án này, giá đất bồi thường mới có thể phản ánh đúng giá đất thị
trường, nâng cao quyền lợi hợp pháp của người dân. Mặc dù hiện tại, pháp
luật đã quy định quyền và nghĩa vụ cho các tổ chức tư vấn giá đất nhưng các
quy định vẫn còn tương đối chung chung, chưa có vai trò hỗ trợ các tổ chức
hoạt động và phát huy tối đa hiệu quả hoạt động của mình.
Đối với nguyên tắc về thời điểm xác định giá đất bồi thường, việc xác
định thời điểm tính giá bồi thường là thời điểm có quyết định thu hồi đất là
chưa hợp lý, chưa đảm bảo quyền lợi cho người dân có đất bị thu hồi. Bởi
thực tiễn cho thấy, thời gian để hoàn thành thủ tục thu hồi – bồi thường cho
người dân thường kéo dài, thậm chí đối với một số dự án, thời gian hoàn
thành thu hồi đất để bàn giao cho chủ đầu tư lên đến 3 – 5 năm. Theo đó, giá
đất tại thời điểm người dân nhận được tiền bồi thường đã khác với giá đất tại
thời điểm có quyết định thu hồi đất và thường có xu hướng cao hơn. Hơn nữa,
việc thu hồi đất nông nghiệp để chuyển sang mục đích phi nông nghiệp (đặc
biệt là xây dựng các khu đô thị, nhà ở thương mại) cũng là nguyên nhân dẫn
65
đến sự khác biệt về giá đất bồi thường và giá đất sau khi triển khai dự án. Sự
chênh lệch này dẫn đến gia tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các chủ thể
trong xã hội. Bởi người nông dân vốn đã là chủ thể chịu nhiều sự thua thiệt
trong kinh tế, nay còn mất tư liệu sản xuất, đứng trước nguy cơ chuyển đổi
nghề nghiệp và sự biến động trong cuộc sống. Trong khi với tiềm lực kinh tế
mạnh, các chủ đầu tư lại càng được củng cố thêm vì lợi nhuận thu được từ
hoạt động kinh doanh dự án sau thu hồi đất. Do đó, Nhà nước cần quy định cụ
thể hơn về thời điểm xác định giá đất bồi thường. Người viết cho rằng, thời
điểm xác định giá đất bồi thường ban đầu vẫn được ấn định là thời điểm ban
hành quyết định thu hồi đất nhưng phải bổ sung thêm yếu tố xác định lợi
nhuận thu được từ thực hiện dự án. Tuy nhiên, trường hợp thời gian thực hiện
thủ tục thu hồi – bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp quá dài
(ấn định một thời gian cụ thể), Nhà nước cần có sự điều chỉnh lại về giá đất
bồi thường cho phù hợp với thời điểm người dân nhận được tiền bồi thường.
Để đảm bảo tính công bằng giữa ba bên (người có đất bị thu hồi, Nhà
nước và chủ đầu tư), việc điều chỉnh giá đất bồi thường cũng cần có sự xem
xét, đánh giá trên các khía cạnh sau:
(i) Trường hợp việc kéo dài thời gian chi trả tiền bồi thường do sự chây
ỳ của người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi mà không xuất phát từ phía các
cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay chủ đầu tư, Nhà nước không
cần phải điều chỉnh lại giá bồi thường;
(ii) Trường hợp việc kéo dài thời gian chi trả tiền bồi thường xuất phát từ
những sai phạm của chủ đầu tư hoặc của các cá nhân, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền trong hoạt động thu hồi – bồi thường, Nhà nước cần điều chỉnh
lại giá đất bồi thường và chủ đầu tư hoặc Nhà nước có trách nhiệm bù đắp
khoản tiền chênh lệch này cho người dân.
66
Thứ hai, điều chỉnh một số quy định về nội dung bồi thường, hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là một loại đất đặc thù, giữ vai trò là tư liệu sản xuất
không thể thiếu của hoạt động sản xuất nông nghiệp nên việc thu hồi đất nông
nghiệp sẽ gây nên những xáo trộn lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống
của người dân. Với tầm quan trọng đó, pháp luật đã có nhiều quy định riêng
về chế độ bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp nhằm mục
đích đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên, hạn chế tối đa những tác động tiêu
cực của việc thu hồi đối với đời sống của người dân. Tuy nhiên, như đã trình
bày xuyên suốt Luận văn, phương thức bồi thường và giá bồi thường đối với
người dân có đất bị thu hồi còn chưa thực sự hợp lý, chưa đảm bảo quyền lợi
của người dân.
Bên cạnh đó, các chế độ hỗ trợ người dân ổn định cuộc sống và hoạt
động sản xuất cũng chưa được chú trọng. Bởi hiện nay, các chế độ hỗ trợ chủ
yếu được quy đổi bằng tiền và/ hoặc bằng hiện vật (gạo) mà chưa thể hiện
đúng bản chất và mục đích cuối cùng của hoạt động này. Đặc biệt là chế độ
hỗ trợ tạo việc làm cho người dân bị thu hồi toàn bộ đất nông nghiệp và
không được giao đất có cùng mục đích sử dụng nên không còn đất đai để tiếp
tục sản xuất, buộc phải chuyển đổi nghề nghiệp. Trong khi người nông dân
thường là đối tượng có nhận thức xã hội, trình độ học vấn thấp nên khi tìm
kiếm công việc mới, họ sẽ gặp nhiều khó khăn vì phải cạnh tranh với các đối
tượng lao động khác. Công việc không ổn định cũng sẽ là một trong những
nguyên nhân chính dẫn tới hiện tượng xã hội tiêu cực, làm phát sinh và gia
tăng các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến ổn định an ninh xã hội tại địa phương.
Vì vậy, theo quan điểm của người viết, thay vì hỗ trợ bằng tiền hoặc hiện
vật, Nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp thiết thực
hơn như mở các lớp dạy nghề cho người dân đang trong độ tuổi lao động bị
67
thu hồi đất; tìm kiếm và giới thiệu việc làm cho người dân; giáo dục định
hướng nghề nghiệp cho người dân…. Đồng thời, có thể cân nhắc hình thành
Quỹ hỗ trợ người dân có đất bị thu hồi trong giai đoạn chuyển đổi nghề
nghiệp để chi trả cho các hoạt động nêu trên. Nguồn tài chính dành cho Quỹ
có thể trích từ một phần ngân sách Nhà nước và sự đóng góp của chủ đầu tư.
Ngoài ra, trong một số trường hợp thu hồi đất để thực hiện các dự sản xuất –
kinh doanh, Nhà nước có thể yêu cầu các chủ đầu tư có trách nhiệm giải quyết
một phần việc làm cho người dân có đất bị thu hồi đang trong độ tuổi lao
động.
Thứ ba, bổ sung các quy định tăng cường sự tham gia của người dân
có đất bị thu hồi trong trình tự, thủ tục thu hồi - bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp
Quy định pháp luật hiện hành còn chưa thực sự đề cao quyền tham gia
đóng góp ý kiến của người dân có đất bị thu hồi trong toàn bộ quá trình thu
hồi – bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Hiện nay, trong quá
trình triển khai thu hồi đất và lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư,
pháp luật yêu cầu tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có
trách nhiệm lập phương án bồi thường và phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến của người dân về phương án bồi
thường theo hình thức họp trực tiếp đồng thời niêm yết công khai phương án
tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư.
Người dân có đất bị thu hồi được quyền nêu ý kiến của mình đối với phương
án bồi thường (theo hướng đồng ý hoặc không đồng ý hoặc cần sửa đổi, bổ
sung một phần trong phương án bồi thường).
Sau khi tổng kết ý kiến, đối với những ý kiến không đồng ý về phương
án bồi thường, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có
trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi tổ chức
68
đối thoại để hoàn chỉnh phương án trình cơ quan có thẩm quyền. Theo đó, chỉ
có duy nhất nội dung đối thoại này được quy định cụ thể trong luật, nhưng
quy định cũng còn tương đối chung chung, mang tính định hướng. Bởi pháp
luật không quy định cụ thể về phương thức tiếp thu ý kiến của người dân và
vấn đề xử lý vi phạm trong quá trình xin ý kiến người dân.
Vì vậy, để đảm bảo hài hòa lợi ích của các bên, hạn chế tính áp đặt của
Nhà nước trong quá trình thực hiện thu hồi – bồi thường, Nhà nước cần bổ
sung thêm các quy định theo hướng tăng cường sự tham gia góp ý, giám sát
hoạt động thu hồi – bồi thường của các cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Theo đó, người dân có đất bị thu hồi có quyền tham gia góp ý từ giai
đoạn thông báo thu hồi đất cho đến khi hoàn thành thủ tục bồi thường cho
người dân và bàn giao đất cho chủ đầu tư thực hiện dự án. Việc tăng cường sự
tham gia của người dân vào quá trình thu hồi – bồi thường ngay từ những giai
đoạn đầu tiên cũng giúp nâng cao sự đồng thuận của người dân, hạn chế tình
trạng khiếu kiện, tố cáo kéo dài và phức tạp.
Bên cạnh đó, để đảm bảo tính thiết thực của việc tiếp thu ý kiến, Nhà
nước cũng cần có những quy định cụ thể hơn về quy trình đánh giá, tiếp thu ý
kiến, trách nhiệm tiếp thu ý kiến đóng góp của người dân và mức xử phạt vi
phạm pháp luật trong trường hợp cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
không tiếp thu ý kiến của người dân.
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Thanh Trì, thành
phố Hà Nội
Để đảm bảo thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp từ thực tiễn huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, người viết nhận
định cần thực hiện tổng hợp các giải pháp sau:
69
Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp cho người dân, cán bộ
trực tiếp thực hiện hoạt động thu hồi – bồi thường
Hệ thống quy phạm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp được đánh giá là tương đối phức tạp, lại thường xuyên có sự thay
đổi và điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế nên việc tự cập nhật để có
sự am hiểu toàn bộ các quy định pháp luật về vấn đề này không phải dễ dàng.
Việc không am hiểu pháp luật chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến
sự không thống nhất về cách thức áp dụng quy định pháp luật, khiếu kiện kéo
dài của người dân trong thời gian qua. Do đó, hoạt động tuyên truyền, phổ
biến và giáo dục pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp cho người dân, các cán bộ trực tiếp thực hiện hoạt động thu hồi – bồi
thường trở nên vô cùng cần thiết, góp phần nâng cao nhận thức của người dân
về hoạt động này để nghiêm chỉnh thực hiện và có khả năng giám sát quá
trình thực hiện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Theo đó, việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật phải được thực hiện một
cách thường xuyên bởi các cá nhân, cơ quan, tổ chức có sự am hiểu sâu sắc
đối với các quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp. Hình thức tuyên truyền, giáo dục cần được đa dạng hóa hơn, phong
phú hơn, có thể kết hợp giữa nhiều hình thức như: tổ chức các buổi hội thảo
về vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, tổ chức buổi
tuyên truyền trực tiếp kết hợp với các hoạt động văn hóa văn nghệ, tuyên
truyền thông qua các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền hình ….
Nhà nước cần có chính sách tăng cường các buổi tập huấn, phổ biến các
quy định pháp luật mới, những chính sách mới hoặc tổ chức các khóa đào tạo
ngắn hạn liên quan đến hoạt động thu hồi – bồi thường đất nông nghiệp nói
riêng và hoạt động thu hồi – bồi thường nói chung cho các cán bộ trực tiếp
70
thực hiện. Thông qua hoạt động này, trình độ chuyên môn, kiến thức pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của cán bộ làm công
tác bồi thường, hỗ trợ tại địa phương cũng được nâng cao, giúp cho hoạt động
bồi thường, hỗ trợ được đảm bảo đúng quy định ngay từ bước đầu.
Thứ hai, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi
phạm trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp
Để tăng cường hiệu quả hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp, Nhà nước cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát
và xử lý kịp thời các vi phạm xuyên suốt quá trình thực hiện thu hồi – bồi
thường từ khi xây dựng kế hoạch thu hồi –bồi thường, thông báo thu hồi đất
đến ban hành quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi
thường cho đến khi chi trả tiền bồi thường và giải quyết các khiếu nại, tố cáo
phát sinh.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát phải được thực hiện thường
xuyên, mang tính định kỳ và được quy định cụ thể trong các văn bản luật. Bên
cạnh đó, pháp luật cũng cần quy định về các đợt kiểm tra, giám sát đột xuất để
đảm bảo xử lý kịp thời những sai phạm trên thực tế, nâng cao tinh thần trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Hơn nữa, thông qua quá trình kiểm tra, giám sát để phát hiện những thiếu sót,
bất cập còn tồn tại trong thực tiễn và tìm ra biện pháp khắc phục phù hợp.
Thứ ba, đẩy nhanh quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo của người
dân liên quan đến hoạt động thu hồi – bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp
Thực tiễn cho thấy, khiếu nại, tố cáo của người dân có đất bị thu hồi là
một trong những nguyên nhân chính dẫn tới việc kéo dài thời gian hoàn thành
thu hồi và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Khiếu nại, tố
71
cáo chính là biểu hiện rõ nét nhất sự phản đối, bức xúc của người dân đối với
một, một số hoặc toàn bộ các vấn đề liên quan đến hoạt động thu hồi – bồi
thường. Thực tiễn hoạt động khiếu nại, tố cáo của người dân tại huyện Thanh
Trì thời gian vừa qua đã là những minh chứng rõ nét cho hiện tượng này. Vì
vậy, việc giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo của người dân cũng chính
là một biện pháp hữu hiệu, giúp đẩy mạnh hiệu quả thực thi pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Theo quan điểm của người viết, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo liên
quan đến hoạt động thu hồi – bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp cần đặc biệt chú trọng đến yếu tố “hòa giải” và “đối thoại”. Thông
qua hoạt động “hòa giải” và “đối thoại”, các bên được trực tiếp bày tỏ quan
điểm, ý kiến của bản thân đối với việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại đồng
thời có thể trao đổi, thỏa thuận với nhau trên cơ sở tôn trọng và cả hai cùng có
lợi.
Cùng với đó, việc kiểm tra và xử lý vi phạm trong quá trình giải quyết
khiếu nại, tố cáo cũng đặc biệt được đề cao để đảm bảo tính thực thi của các
quy định pháp luật. Việc thanh tra và xử lý vi phạm phải được thực hiện đối
với cả hai bên:
(i) Về phía cơ quan có thẩm quyền, cán bộ nhà nước, kiên quyết xử lý
những đối tượng lạm dụng quyền hạn, gây khó khăn cho người sử dụng đất có
ý kiến khiếu nại;
(ii) Về phía người dân, do nhận thức pháp luật không đồng bộ nên dễ bị
dụ dỗ, lôi kéo vào những cuộc biểu tình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tình hình trật tự an toàn tại địa phương nên pháp luật cần có những chính sách
phù hợp để hạn chế tình trạng khiếu kiện, tố cáo kéo dài.
72
Thứ tư, đẩy mạnh việc công khai hóa, minh bạch hóa thông tin trong
quá trình thực thi pháp luật về thu hồi – bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất nông nghiệp
Vấn đề công khai hóa, minh bạch hóa thông tin trong quá trình thực thi
pháp luật về thu hồi – bồi thường đất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi là
một vấn đề quan trọng nhưng chưa được đảm bảo tuân thủ đầy đủ. Việc cơ
quan nhà nước không công khai, minh bạch thông tin hoặc công khai thông
tin nhưng chưa đầy đủ, rõ ràng gây nên sự không đồng nhất giữa người dân và
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đây là một trong những nguyên nhân
dẫn đến những bạo động trong dân chúng, làm phát sinh những tham nhũng,
tiêu cực trong hoạt động bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Theo đó, người viết đồng tình với quan điểm cho rằng cần phải công
khai, minh bạch những yếu tố sau [24, tr 151-152]:
(i) Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đặc biệt là kế hoạch sử dụng đất chi
tiết hàng năm thông qua hoạt động niêm yết công khai, rộng rãi để người dân
được biết;
(ii) Việc sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
tùy từng thời điểm;
(iii) Thông tin liên quan đến hoạt động thu hồi đất, bao gồm: diện tích bị
thu hồi, phạm vi thu hồi, mục đích của việc thu hồi, danh sách đối tượng
thuộc diện thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển; công khai các dự án đầu
tư, chủ đầu tư thực hiện trong phạm vi đất thu hồi; tiến độ thực hiện dự án;
(iv) Dự thảo về phương án bồi thường, hỗ trợ để người dân bị thu hồi đất
được biết và tham gia đóng góp ý kiến;
(v) Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để người dân biết được quyền lợi của mình khi bị Nhà
nước thu hồi đất;
73
(vi) Các quy trình, thủ tục liên quan đến hoạt động thu hồi – bồi thường
mà các cơ quan, các cán bộ có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở các quy định
của luật, từ bước thông báo chủ trương thu hồi đất đến quá trình tổ chức thực
hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng và quy trình, thủ tục giải quyết các
khiếu nại, tố cáo và cưỡng chế thu hồi. Đồng thời, công bố công khai kết quả
giải quyết khiếu nại, tố cáo của người dân liên quan đến việc bồi thường, hỗ
trợ để người dân được biết.
Có thể thấy, nếu thực hiện tốt vấn đề công khai, minh bạch các thông tin
về bồi thường đất nông nghiệp, quyền lợi của các bên có liên quan đến hoạt
động thu hồi – bồi thường đất nông nghiệp nói riêng và đất đai nói chung sẽ
được đảm bảo tốt nhất. Bên cạnh đó, hoạt động này cũng sẽ góp phần làm
giảm thiểu những tranh chấp và khiếu kiện về bồi thường đấ nông nghiệp;
đồng thời giúp ngăn ngừa tệ nạn tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Thứ năm, bản thân người dân có đất bị thu hồi và các cán bộ trực tiếp
thực hiện nhiệm vụ liên quan đến hoạt động thu hồi – bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp cần nâng cao ý thức tự trau dồi kiến thức
pháp luật về vấn đề này.
Bản thân người dân có đất bị thu hồi và các cán bộ trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ cần phải chủ động tìm hiểu và trau dồi kiến thức pháp luật liên quan
đến hoạt động thu hồi – bồi thường đất nông nghiệp. Chỉ khi chủ động tìm
kiếm thông tin, kiến thức pháp luật của những đối tượng này mới có thể nâng
cao, có thể phát hiện và đề xuất xử lý nhiều trường hợp vi phạm pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp. Mặc dù, hiện nay các hình
thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật được diễn ra tương đối phổ biến và
được chú trọng hơn nhưng sẽ không đảm bảo giá trị nếu bản thân người có đất
74
bị thu hồi và các cá nhân trực tiếp thực hiện nhiệm vụ này không có ý thực tự
trau dồi kiến thức pháp luật.
3.2.1. Công tác quản lý nhà nước về đất đai
Thứ nhất, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý,
sử dụng đất đai và việc thực hiện các văn bản đó. Đất đai luôn là lĩnh vực
nhạy cảm và phức tạp đối với các nước trên thế giới và nước ta cũng vậy. Một
điểm đặc thù của Nhà nước ta đó là đất đai thuộc chế độ sở hữu toàn dân do
vậy để quản lý đất đai thì các văn bản quy phạm pháp luật ở lĩnh vực này cần
phải có tính ổn định và phù hợp với thực tế đất nước. Trong thế kỷ XX, do
đặc thù của đất nước với những biến động lớn về lịch sử, kinh tế, xã hội dẫn
đến các chính sách pháp luật về đất đai luôn luôn được thay đổi cho phù hợp
với từng giai đoạn lịch sử. Sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI
năm 1986 đề ra nghị quyết về đổi mới đất nước, để phù hợp với thực tế, nước
ta đã 04 lần ban hành Luật Đất đai (vào các năm 1987, 1993, 2003, 2013) với
03 lần sửa đổi, bổ sung (vào năm 1998, 2001 và 2009) cùng hàng trăm văn
bản hướng dẫn thi hành. Qua những lần thay đổi nảy, chính sách pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp không
ngừng được bổ sung, hoàn thiện hơn giúp cho việc triển khai cac dự án để
phát triển kinh tế xã hội ngày càng nhanh chóng và thuận lợi hơn. Tuy nhiên,
trong thực tế, do các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai
còn chưa thống nhất, có sự chồng chéo và tính ổn định không cao gây nhiều
khó khăn cho công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất.
Ngoài việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thì việc áp dụng
các văn bản đó vào thực tiễn cũng vô cùng quan trọng. Bộ Tài nguyên – Môi
trường khi báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội năm 2013 đã nhận định
về tình trạng chậm bồi thường, giải phóng mặt bằng ở các địa phương là do
75
chính sách thường xuyên thay đổi và do các cơ quan có thẩm quyền không
thực hiện đúng quy định của pháp luật [2, tr10]. Như vậy có thể thấy ở các
cấp cơ sở việc tuyên truyền phổ biến pháp luật chưa sâu rộng dẫn đến một bộ
phận người dân và cả các cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai đều nhận
thức chưa đúng, chưa đủ cùng với đó là việc thiếu công khai, minh bạch, thiếu
dân chủ ở địa phương là nguyên nhân chính dẫn đến việc thực thi pháp luật
còn yếu kém, làm giảm lòng tin của nhân dân và của nhà đầu tư, ảnh hưởng
trực tiếp đến công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất.
Thứ hai, công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Đây được coi là giải
pháp tổng thể cho việc định hướng nền kinh tế trong tương lai, vì thông qua việc
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để Nhà nước có thể can thiệp vào các mối quan
hệ về đất đai. Việc can thiệp này sẽ giúp cho Nhà nước dễ dàng hơn trong việc
quản lý, sử dụng đất đai, Nhà nước vừa có thể khắc phục những hạn chế do lịch
sử để lại vừa nhanh chóng giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội đặt ra.
Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã ảnh hưởng đến chính
sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi ở các mặt như:
Nó là một trong những căn cứ quan trọng để thực hiện việc cho thuê, giao và
chuyển mục đích sử dụng đất bởi theo quy định của Luật đất đai 2013 thì chỉ
được thực hiện việc cho thuê đất, giao đất khi có quyết định thu hồi đất của
người đang sử dụng đất; việc quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cũng tác động
trực tiếp đến giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất, qua đó ảnh hưởng đến
giá bồi thường đất khi bị thu hồi.
Thứ ba, công tác đăng ký đất đai và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Cũng như quy định của các nước trên thế giới, thì ở Việt Nam đất
đai cũng là một trong các tài sản phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu.
76
Khi đăng ký đất đai thì người sử dụng mới được Nhà nước cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này được coi là
chứng thư pháp lý khẳng định quyển sử dụng đất của người dân và là căn cứ
chính xác, an toàn cho việc thu hồi, chấp thuận và từ chối các quyền về đất.
Trong việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi thì
GCNQSDĐ là căn cứ để xác định loại đất, diện tích đất được tính bồi thường
và đối tượng được bồi thường. Tuy nhiên, hiện nay công tác đăng ký đất đai
nói chung và công tác đăng ký biến động về sử dụng đất ở nước ta còn yếu
kém, việc cấp GCNQSDĐ vẫn chưa hoàn tất, do vậy ảnh hưởng lớn đến việc
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, làm chậm quá
trình giải phóng mặt bằng và nảy sinh nhiều vụ khiếu kiện, tranh chấp đất đai.
3.2.2. Giá đất và định giá đất
Giá đất là một trong những nhân tố ảnh hưởng mạnh đến bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói chung và đất nông nghiệp
nói riêng. Bởi giá đất liên quan trực tiếp đến giá bồi thường cho người bị thu
hồi đất. Như ta đã biết, giá đất chính là số tiền được tính trên một đơn vị diện
tích đất, vậy giá đất được hình thành trong các trường hợp nào?
Theo quy định của pháp luật nước ta hiện nay thì giá đất được hình
thành từ hai nguồn: Thứ nhất là do Nhà nước quy định hay có thể nói là do
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định dựa trên việc căn
cứ vào nguyên tắc, phương pháp xác định giá đất và khung giá đất của Chính
phủ quy định; Thứ hai là giá đất được hình thành từ các giao dịch về quyền sử
dụng đất.
Trong công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất để xác định được mức giá đền bù cho người dân thì trước tiên các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền phải xác định được giá đất một cách chính xác, hợp
lý. Mà muốn làm được điều này thì cần phải hiểu biết về định giá đất. Định
77
giá đất chính là sự ước tính về giá trị của đất bằng hình thái tiền tệ cho một
mục đích sử dụng đã được xác định, tại một thời điểm xác định. Tuy nhiên,
định giá đất chỉ có thể ước tính về mặt giá trị chứ không thể tính đủ, tính đúng
như việc định giá các tài sản thông thường khác. Ở nước ta, việc định giá đất
nói chung và đất nông nghiệp nói riêng để bồi thường khi thu hồi đất được
căn cứ vào mức giá phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường hoặc thu
nhập từ việc sử dụng đất (Điều 112, Luật Đất đai 2013), nhưng Luật lại không
giải thích cụ thể như thế nào là “phù hợp”, chính vì vậy trong thực tế các vụ
khiếu nại liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất chủ yếu đều là
khiếu nại việc bồi thường giá đất nông nghiệp quá thấp so với giá đất ở thị
trường chuyển nhượng, trong khi giá đất tái định cư thì lại quá cao so với giá
bồi thường đất bị thu hồi.
Do vậy, việc định giá đất là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp
đến công tác giải phòng mặt bằng, nếu giá đất quá thấp không được sự đồng
tình của người sử dụng đất sẽ dẫn đến việc GPMB chậm, kéo theo đó là chậm
tiến độ triển khai dự án, có thể làm lỡ cơ hội đầu tư.
Tiểu kết chương
Từ những phân tích và đề xuất phương hướng hoàn thiện quy định pháp
luật, các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn huyện Thanh Trì, người viết rút ra một số
kết luận sau:
1. Việc hoàn thiện quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp là vô cùng cần thiết. Bởi thực trạng quy định pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp vẫn còn tồn tại nhiều bất
cập.
2. Việc hoàn thiện quy định pháp luật và đề xuất giải pháp đảm bảo thực
hiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp phải đảm
78
bảo phù hợp với chủ trương của Nhà nước, đảm bảo quyền lợi của các bên,
của cộng đồng, xã hội, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam.
3. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất từ thực tiễn thi hành tại huyện Thanh Trì tập trung vào các quy
định còn chưa phù hợp đặc biệt là các quy định về giá bồi thường, các chế độ
hỗ trợ cho người dân, trình tự, thủ tục thu hồi đất và bồi thường đất nông
nghiệp,….
4. Giải pháp đảm bảo việc thực hiện quy định pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp từ thực tiễn thi hành tại huyện Thanh
Trì xoay quanh các giải pháp nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cá
nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực hiện thu hồi – bồi
thường đất, nâng cao hiểu biết của người dân về hoạt động thu hồi – bồi
thường và tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật.
79
KẾT LUẬN
Trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, vấn đề chuyển
đổi cơ cấu kinh tế từ một nước thuần nông sang một nước công nghiệp hiện
đại là một yêu cầu cần thiết. Điều này dẫn đến nhu cầu chuyển đổi một phần
diện tích đất nông nghiệp hiện có sang các mục đích khác đặc biệt vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển kinh tế đất nước. Và khi đó, vấn đề thu hồi
– bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của người dân được đề
cao. Thời gian qua, với sự biến đổi của hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt
động thu hồi – bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, hoạt động
thu hồi – bồi thường đã dần đi vào quy củ với mục đích đảm bảo hài hòa lợi
ích của các bên.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, hoạt động thu hồi – bồi thường
cũng còn tồn tại nhiều điểm hạn chế cần kịp thời điều chỉnh. Qua quá trình
tìm hiểu thực tế hoạt động thu hồi – bồi thường khi thu hồi đất nông nghiệp
tại địa bàn huyện Thanh Trì, những vấn đề còn vướng mắc và gây nhiều bức
xúc cho người dân trong thời gian qua là giá bồi thường đất nông nghiệp còn
quá thấp so với giá trị của đất sau khi thực hiện các dự án, tính công khai
trong hoạt động này còn thấp, sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân đối
với các vấn đề trong bồi thường còn chưa được chú trọng và việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của người dân còn chậm trễ …. Điều này đã dẫn đến hàng
loạt các cuộc biểu tình của người dân tại trụ sở các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hoặc tại nơi dự án thực hiện để đòi quyền lợi, gây mất trật tự an toàn xã
hội trên địa bàn.
Vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần phải có các biện pháp hoàn thiện
quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đồng
thời có giải pháp đảm bảo hiệu quả thực thi các quy định pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên thực tế. Do đó, trong quá
80
trình phân tích, bình luận các quy định pháp luật hiện hành về hoạt động thu
hồi – bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp, chỉ ra những ưu
điểm, hạn chế trong quá trình thực thi các quy định pháp luật tại huyện Thanh
Trì, thành phố Hà Nội, người viết cũng đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy
định pháp luật và đảm bảo hiệu quả thực thi trên thực tiễn. Thông qua đó,
người viết mong muốn có thể đóng góp một phần công sức vào quá trình hoàn
thiện quy định pháp luật, nâng cao hiệu quả thực thi hướng tới đảm bảo tối đa
quyền lợi của người dân có đất bị thu hồi – bộ phận yếu thế nhất trong quan
hệ pháp luật về thu hồi – bồi thường đất nông nghiệp.
81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Bộ Tài chính (2017), Thông tư số 80/2017/TT-BTC hướng dẫn việc xác
định giá trị quyền sử dụng đất, tiền thuê đất, tài sản gắn liền với đất được
hoàn trả khi nhà nước thu hồi đất và việc quản lý, sử dụng số tiền bồi
thường tài sản do nhà nước giao quản lý sử dụng, số tiền hỗ trợ khi nhà
nước thu hồi đất nhưng không được bồi thường về đất, ban hành ngày
02/08/2017, Hà Nội;
2. Bộ Tài nguyên – Môi trường (2014), Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT
quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất ban hành ngày 30/06/2017, Hà Nội;
3. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật đất đai, ban hành ngày 15/05/2014, Hà Nội;
4. Chính phủ (2014), Nghị định số 44/2014/NĐ-CP quy định về giá đất,
ban hành ngày 15/05/2014, Hà Nội;
5. Chính phủ (2014), Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, ban hành ngày
15/05/2014, Hà Nội;
6. Chính phủ (2014), Nghị định số 104/2014/NĐ-CP quy định về khung giá
đất, ban hành ngày 14/11/2014, Hà Nội;
7. Chính phủ (2017), Nghị định số 01/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số
Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai, ban hành ngày
06/01/2017, Hà Nội;
8. Trần Văn Duy, “Tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về bồi thường
khi thu hồi đất nông nghiệp”, Luật sư Việt Nam – Liên đoàn Luật sư
Việt Nam số 11/2016;
82
9. Đại học Luật Hà Nội (2016), “Giáo trình Luật đất đai”, tái bản lần thứ
13, Nxb. Công an nhân dân;
10. Đại học Luật Hà Nội (1999), “Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học về
Luật Đất đai, Luật Lao động, Tư pháp quốc tế”, NXB Công an nhân
dân, Hà Nội;
11. Hoài Lam, Bài viết “Tăng trưởng ngành nông nghiệp là điểm sáng của
kinh tế Việt Nam” đăng trên Báo điện tử của Đài tiếng nói Việt Nam tại
https://vov.vn/kinh-te/tang-truong-nganh-nong-nghiep-la-diem-sang-cua-
kinh-te-viet-nam-820467.vov, cập nhật đến ngày 2/10/2018;
12. Nguyễn Thị Nga, “Bàn về vấn đề giá đất theo Luật đất đai 2013”, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, tháng 5/2015;
13. Hoàng Thị Thu Phương, “Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp tại tỉnh Quảng Bình”, Dân chủ và Pháp luật – Bộ Tư pháp số
10/2017;
14. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ban hành ngày 28/11/2013, Hà Nội;
15. Quốc hội (2013), Luật đất đai số 45/2013/QH13, ban hành ngày
28/11/2013, Hà Nội;
16. Quốc hội (2003), Luật đất đai số 13/2003/QH11, ban hành ngày
26/11/2003, Hà Nội;
17. Quốc hội (1993), Luật đất đai số 24-L/CTN, ban hành ngày 14/07/1993,
Hà Nội;
18. Quốc hội (1987), Luật đất đai số 3-LCT/HĐNN8, ban hành ngày
29/12/1987, Hà Nội;
19. Quốc hội (2015), Luật tố tụng hành chính số 93/2015/QH13, ban hành
ngày 25/11/2013, Hà Nội;
83
20. Quốc hội (2011), Luật khiếu nại số 02/2011/QH13, ban hành ngày
11/11/2011, Hà Nội;
21. Quốc hội (2018), Luật tố cáo số 25/2018/QH14, ban hành ngày
12/06/2018, Hà Nội;
22. Dương Đức Sinh, “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp và thực tiễn thi hành tại thị xã từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh”, Luận
văn thạc sĩ – Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2017;
23. Thanh Trì, “Giới thiệu chung về huyện Thanh Trì” trên trang
https://thanhtri.hanoi.gov.vn/gioi-thieu;
24. Phạm Thu Thủy, “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học – Trường Đại học
Luật Hà Nội, năm 2014.
25. Nguyễn Quang Tuyến, “Vấn đề lý luận xung quanh khái niệm bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất”, Tạp chí Luật học, số 1/2009.
26. Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì, “Báo cáo kết qủa thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng năm 2018, nhiệm vụ
trọng tâm năm 2019”;
27. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2017), Quyết định số 10/2017/QĐ-
UBND ban hành quy định các nội dung thuộc thẩm quyền của Ủy ban
nhân dân thành phố hà nội về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà NộI; ban hành ngày
29/03/2017, Hà Nội;
28. Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi trường
(2006), “Từ điển luật học”, NXB Từ điển Bách khoa và NXB Tư pháp
Hà Nội;
84
TÀI LIỆU TRÊN INTENRT
29. https://vov.vn/kinh-te/tang-truong-nganh-nong-nghiep-la-diem-sang-cua-
kinh-te-viet-nam-820467.vov
30. https://thanhtri.hanoi.gov.vn/gioi-thieu
31. http://kinhtedothi.vn/huyen-thanh-tri-tiep-tuc-thu-hoi-dat-thuc-hien-du-
an-tay-nam-kim-giang-324773.html
32. https://baovemoitruong.org.vn/thanh-tri-ha-noi-uan-khuc-trong-viec-thu-
hoi-dat-nong-nghiep-tai-xa-tan-trieu/
33. http://www.nhandan.com.vn/bandoc/item/39031502-bat-cap-trong-den-
bu-tai-dinh-cu-tai-mot-so-du-an-o-huyen-thanh-tri.html
34. https://baomoi.com/vuong-mac-tai-hai-du-an-lon-tren-dia-ban-thanh-
tri/c/29026491.epi
35. https://baomoi.com/du-an-tay-nam-kim-giang-i-bai-4-khong-co-dat-bi-
thu-hoi-van-duoc-tai-dinh-cu/c/29819040.epi
85