Các mô hình bảo hiến trên thế giới và khả năng lựa chọn của Việt Nam
chế bảo hiến hiểu theo nghĩa hiện nay lần đầu tiên xuất hiện Mỹ đầu thế
kỷ 19, và không phi trên cơ sở hiến pháp mà tán lệ. Chánh án Toà án Tối cao J.
Marshall phán quyết về vụ Marbury v. Madison (Marbury kiện Madison) m
1803: “Chtoà án mới quyền và nghĩa vụ tuyên bcái gì được gọi là
luật”, “một văn bản luật trái với Hiến pháp không phải là luật”[1]. Tiền lệ này đã
đặt nền tảng cho mô hình Mvề hoạt động bảo hiến với đặc điểm chính là xem xét
tính hp hiến của các đạo luật do các toà án bình thường thực hiện.
Sau đó, sau Đại chiến thế giới lần thI, châu Âu đã xuất hiện hình của
mình, một hình mới về nguyên tắc, do học giả người Áo Hans Kelsen sáng tạo
ra[2]. Khác biệt chủ yếu của hình này so với hình Mlà hoạt động bảo
hiến tách khỏi hệ thống tòa án nói chung do cơ quan chuyên trách thực hiện:
toà án hiến pháp. Mô hình này được gọi là mô hình châu Âu.
Đến nay, sau các giai đoạn phát triển, chế định này đã lan truyền rộng rãi, được
khẳng định các nước châu Âu, nhiều quốc gia mới thành lập sau Đại chiến thế
giới lần thứ II tại châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh, các nước Đông Âu cũ, các
nước đang phát triển trước đó chế định này hoặc bị huỷ bỏ hoặc không hề tồn
tại[3]. Đến năm 2008, trong số 191 nước được khảo sát, 158 nước có các quy định
liên quan đến chế bảo hiến. Trong đó, 79 nước có quy định trực tiếp trong Hiến
pháp vTòa án hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến; 60 nước quy định về cơ chế
bảo hiến của tòa án thường hoặc Tòa án tối cao; một số ít nước như Trung Quốc,
Việt Nam, Miến Điện quy định quan lập pháp thẩm quyền kiểm tra tính hợp
hiến[4]. Bên cạnh hai hình chính trên đây, còn có hình hỗn hợp, hình
Pháp với Hội đồng bảo hiến, và một số hình thức bảo hiến khác [5].
Chú dẫn
Toà án
Hiến pháp
Toà án
tối cao
Hội
đ
ồng bảo
hiến
Các
dạng
khác
Kiểu châu Âu
Kiểu Mỹ
Kiểu hỗn hợp Âu – M
Kiểu Pháp
Các hình thức khác
Không có giám sát Hiến pháp
Khối thịnh vượng chung mới
Không xác định
Bài viết này điểm lại các hình bảo hiến tiêu biểu trên thế giới theo trục các
vấn đề sau đây: thẩm quyền của quan bảo hiến; cấu tổ chức; bổ nhiệm thẩm
phán, nhất là chánh án; các chủ thể có quyền đưa vấn đề ra cơ quan bảo hiến; đánh
giá vtrí, vai trò của quan bảo hiến. Bên cạnh đó, bài viết cũng đưa ra một vài
nhận định ban đầu về khả năng lựa chọn của ViệtNam.
I- GIỚI THIỆU CHUNG
1- Các ớc tòa án thẩm quyền chung thực hiện bảo hiến
Tại khá nhiều nước, hoạt động bảo hiến không tách khỏi hệ thống tòa án bình
thường, mọi vụ việc về những vấn đề liên quan đến hiến pháp đều do các toà có
thẩm quyền chung xem xét.
Đến lượt mình hình thức này lại có hai dạng: ở một số nước hoạt động bảo hiến
(hiểu theo nghĩa rộng) do tất cả các toà thẩm quyền chung thực hiện (Mỹ, Nhật
Bản, Philippins, các nước Bắc Âu). Bất kỳ toà nào cũng có thể phán quyết về tính
hợp hiến của văn bản luật. Nhưng các quyết định của cấp toà cao nhất ưu thế
hơn vì chnhững quyết định đó mới có tính bắt buộc đối với mọi toà khác. Chsau
khi cấp toà cao nhất phủ nhận tính hợp hiến của văn bản luật thì văn bản đó s
thực chất mất hiệu lực. Hình thức giám sát bảo hiến do tất cả các toà thm
quyền chung thực hiện được gi là giám sát bảo hiến phi tập trung (decentralized
constitutional review)[6].
nhóm khác giám sát bảo hiến pháp cấp toà cao nhất thực hiện (Ghana,
Namibia, Papua New Ginea, Srilanca, Estonia). Hình thức này được gọi là giám
sát hiến pháp tập trung (centralized constitutional review).
một số nước liên bang, bên cnh cấp toà cao nhất của quốc gia, cấp toà cao
nhất của các chủ thể liên bang cũng quyền giám sát bảo hiến (nhưng thông
thường chỉ liên quan đến pháp luật của tiểu bang). dnhư ởCanada-các toà cao
nhất của các tỉnh, Ấn Độ các toà án tối cao của tiểu bang. Nhưng tại những
nước này toà án tối cao liên bang là cấp toà chung thm khi giải quyết một vấn đề
vtính hợp hiến của luật. Tuy nhiên th nói đó mức độ phi tập trung hoá
nhất định.
Nhưng cho đó sự giám sát tập trung hay phi tập trung thì vai trò quyết
định các nước nói trên đều thuộc về cấp toà cao nhất (gọi chung là toà án tối
cao) với cơ cấu tổ chức do hiến pháp quy định.
2 – Các nước có cơ quan bảo hiến chuyên trách
Những nước thuộc nhóm này các toà chuyên trách vhoạt động bảo hiến
gồm các toà án hiến pháp và những quan bán pháp (hội đồng bảo hiến, ban
hiến pháp của toà án cấp cao thẩm quyền chung). Đây cũng được coi là giám
sát bảo hiến tập trung.
a) Toà án hiến pháp: Tòa án hiến pháp hoạt động với những trình ttố tụng
gần giống với các toà thm quyền chung. Hiến pháp nhiều nước quy định về
những toà này tại chương về quyền lực pháp (Bồ Đào Nha, Nga, ThNhĩ Kỳ,
CH Séc, Slovakia, Armenia, Uzbekistan…). Như Garlicki nhận định, qua điều này
“nhà sáng lập hiến pháp muốn nhấn mạnh mối quan hệ giữa hoạt động bảo hiến
với hệ thống pháp truyền thống và công nhận toà án hiến pháp là một trong số
các toà, nhưng có thẩm quyền đặc biệt”[7].
Cũng theo lời Garlicki, trong hoạt động của toà án hiến pháp bộc lộ xu hướng
tiến gần với các toà án nói chung”[8] như trình txét xử dựa trên các nguyên tắc
tranh tụng và công khai (mặc dầu một số nước những nguyên tắc này được giới
hạn trong những vụ việc nhất định). Các nguyên tc chung trong xét xử được áp
dụng một cách đầy đủ nhất Toà án Hiến pháp LB Nga gồm tính độc lập, tính tập
thể, tính công khai, tính tranh tụng và sbình đẳng giữa các bên (Điều 5, Hiến
pháp LB Nga).
b) Các cơ quan bảo hiến khác
Các quan bảo hiến chuyên trách còn bao gm Hội đồng bảo hiến (Pháp,
Mozambic, Marocco, Kazakhstan), Ban hiến pháp thuộc Toà án tối cao (Costa-
Rica, Burkina Faso, Estonia), Hội đồng điều tra bảo hiến (Ethiopia). Những cơ
quan này không khác với toà án hiến pháp về trình tthành lập và thành phần.
Trong giới luận có hai quan điểm về bản chất của chúng. Một số cho rằng đó là
những cơ quan bán tư pháp, chủ yếu dựa trên lý lẽ về các thủ tục tố tụng – sthiếu
vắng tính tranh luận và tính công khai. Nhưng trong các công trình nghiên cứu của
mình hđặt những quan này cùng với các toà án hiến pháp. Các tác giả khác
không phân biệt sự khác nhau giữa hội đồng bảo hiến và toà án hiến pháp. dụ
như Favoreu khi nói về Hội đồng Bảo hiến Pháp đã nhấn mạnh rằng Hội đồng
“không khác với những toà án hiến pháp về thành phần, về thẩm quyền lẫn hoạt
động của mình” (ông cho rng những khác biệt về thủ tục tố tụng nói trên không
có ý nghĩa)[9].
3. Tóm tắt tình hình chung
Chế định bảo hiến hiện nay nhiều hình thc thể hiện, bởi vậy ngày càng khó
thđưa chúng vào một trong hai hình hình Mvà hình châu Âu.
Ngày càng nét hơn xu hướng xuất hiện các hình hỗn hợp, trong đó với
những mức độ khác nhau kết hợp những nét đặc trưng của mỗi hình cđiển.
Vẫn giữ những khác biệt tính nguyên tắc về mặt tổ chức (toà thm quyền
chung và toà chuyên trách), nhiều nước trên mọi phương diện còn lại có thể thấy
tính chất “pha trộn” trong chế định này (vthẩm quyền, về hình thức và thloại
giám sát bảo hiến…). Bên cạnh đó, tại một số nước đã thiết lập “mô hình hỗn hợp
thực sự” với đặc điểm là trong đó kết hợp cả những hình thức và thloại giám sát
bảo hiến khác nhau và các toà án khác nhau thực hiện sự giám sát đó như Hy
Lạp, Bồ Đào Nha, Nam Phi.
Xét đến tính tương đối của khái niệm, thể nói trong giai đoạn hiện nay
hình châu Âu đang chiếm ưu thế so với hình Mvì những nguyên nhân lịch
sử, chính trị, pháp lý khác nhau.dụ như nhiều nước châu Âu từ bỏ mô hình M
do những đặc điểm của hệ thống luật pháp châu Âu lục địa, vì s“tôn thờluật